Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Tiểu luận CÁC VẪN ĐỀ VỀ GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.5 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
  
TIỂU LUẬN
CÁC VẪN ĐỀ VỀ GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Học viên: Nguyễn Đại Dương
Lê Thị Phương Thảo
Hoàng Thị Quyên
Đặng Thị Hải Hà
Vũ Đình Hải
Lớp Cao học Quản trị Kinh doanh K6B
Khoa Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Hải Phòng
Giáo viên hướng dẫn
TS. Nguyễn Thái Sơn
Tóm tắt
Nước ta đang trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, tình hình kinh tế có
nhiều biến động, việc thích nghi với nó để đứng vững trên thương trường là rất khó khăn
đối với các doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX) đặc biệt là DN Nhà nước (DNNN). Vì lẽ
những DN, HTX còn chưa quen với môi trường kinh doanh mới, bị cạnh tranh, nguồn vật
tư không ổn định, quản lý kinh doanh kém nên dẫn đến các DN, HTX lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn dẫn đến phá sản. Việc điều chỉnh những quan hệ
này vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính riêng biệt mà không thể sử dụng các văn bản
giải thể để xử lý được, do đó sự ra đời của luật phá sản là một tất yếu khách quan trong
nền kinh tế thị trường. Việc giải thể hay phá sản DN, HTX theo luật hiện hành là những
vấn đề phức tạp đòi hỏi phải được xem xét trên cơ sở thực tiễn và quan điểm lý luận tiến
bộ.
Cũng giống như các sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội, DN, HTX có “đời
sống” riêng của nó. DN, HTX ra đời, phát triển, thay đổi và cũng có thể sẽ mất đi ở một
thời điểm nhất định. DN, HTX có thể chấm dứt sự tồn tại dưới hai hình thức giải thể hoặc
phá sản. Việc chấm dứt sự tồn tại bằng hình thức nào được quyết định bởi khả năng thanh
toán nợ của chính DN, HTX. Nếu DN, HTX không có khả năng thanh toán nợ đến hạn thì


sẽ chấm dứt theo hình thức phá sản. Ngược lại, nếu các khoản nợ đến hạn được DN, HTX
thanh toán đầy đủ thì DN sẽ chấm dứt sự tồn tại theo hình thức giải thể.
Luật Phá sản được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2004. Luật Phá sản ra đời đánh dấu một bước phát triển
mới trong hoạt động lập pháp nói chung và pháp luật về kinh doanh nói riêng. Luật Phá
sản là một trong những công cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong
việc tiếp tục thể chế hóa chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước ta; tạo điều kiện thuận lợi cho các DN, HTX đang trong
tình trạng sản xuất, kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một
cách có trật tự, góp phần tái phân phối tài sản; thúc đẩy sự lưu thông vốn trong nền kinh
tế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và các chủ nợ. Đồng
thời, Luật Phá sản cũng là cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Tòa án
nhân dân (TAND) giải quyết hậu quả pháp lý của các DN, HTX lâm vào tình trạng phá
sản.
Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề đã nêu, chúng em xin chọn đề tài tiểu luận
“CÁC VẤN ĐỀ VỀ GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DN” nhằm tìm hiểu, đánh giá những vấn đề
lý luận và thực tiễn của giải thể và phá sản DN, làm sáng tỏ một số nội dung và các vấn đề
vướng mắc, bất cập của Luật phá sản năm 2004.
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM GIẢI THỂ, PHÁ SẢN DN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI THỂ,
PHÁ SẢN
1.1 Tổng quan về giải thể, phá sản DN
1.1.1 Khái niệm về giải thể DN
Giải thể DN là việc DN chấm dứt hoạt động kinh doanh do đã đạt được những
mục tiêu đã đặt ra hoặc bị giải thể theo quy định của pháp luật. Có hai loại giải thể:
- Giải thể tự nguyện : là trường hợp chủ DN thực hiện quyền rút lui khỏi thương trường vì
những lý do riêng của họ hoặc trong điều lệ đã thỏa thuận.
- Giải thể bắt buộc : là cơ quan hành chính Nhà Nước có thẩm quyền buộc DN phải giải thể
khi DN không đủ điều kiện luật định nào đó hoặc vi phạm pháp luật và bị thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Việc giải thể DN phải qua các thủ tục cần thiết nhằm đảm bảo việc rút lui khỏi
thương trường một cách có trật tự và quyền lợi của các đối tác kinh doanh. Cho nên, DN
phải hoàn tất các nghĩa vụ tài chính để giải thể theo thủ tục hành chính của cơ quan hành
chính Nhà nước. Khi tiến hành giải thể DN phải thực hiện các nghĩa vụ về thuế, tài chính,
làm thủ tục xin giải thể tại cơ quan quản lí kinh doanh, tiến hành hủy con dấu, đóng mã số
thuế của công ty. Đăng bố cáo giải thể 03 số báo liên tiếp. Việc giải thể DN làm chấm dứt
tư cách pháp nhân của DN đó.
DN giải thể trong các trường hợp qui định tại khoản 1 Điều 157 Luật DN 2005, bị
thu hồi giấy chứng nhận đầu tư qui định tại Điều 68 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP của
Chính phủ hoặc Tòa án tuyên bố giải thể. Phần giải thể DN cũng được quy định cụ thể ở
Điều 40 Nghị định 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật DN
2005.
Cụ thể, theo khoản 1 Điều 157 Luật DN năm 2005, DN bị giải thể trong những
trường hợp sau:
- Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn;
- Theo quyết định của chủ DN đối với DN tư nhân; của tất cả thành viên hợp danh đối với
công ty hợp danh; của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn; của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;
- Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời
hạn sáu tháng liên tục;
- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Hơn nữa, DN chỉ được giải thể sau khi đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác theo khoản 2 Điều 157 Luật DN năm 2005.
1.1.2 Khái niệm về phá sản DN
Phá sản là một hiện tượng tất yếu và bình thường của nền kinh tế thị trường. Trong
quá trình cạnh tranh vô tận và khốc liệt của hoạt động kinh doanh, rủi ro không trảđược
nợ có thểđến với bất cứ chủthể nào. Vấn đề đặt ra là chúng ta nhìn nhận phá sản theo
quan điểm nào để có cách thức tác động nhằm giải quyết phá sản sao cho có lợi nhất đối
với chủnợ, người mắc nợ và đối với toàn bộ nền kinh tế. Có hai quan điểm chính liên
quan đến vấn đề phá sản:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, phá sản là do lãnh đạo DN hoặc do chủ thể kinh
doanh bất tài. Sự yếu kém trong quản lý DN và kinh doanh dẫn đến hệ quả là những chủ
thể này không thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn khiến cho DN phải phá sản. Khi
DN phá sản sẽ để lại những hậu quả như bạn hàng, đối tác không được nhận lại hoặc
được nhận lại nhưng không đủ tài sản đã cho vay. Hơn nữa, DN phá sản sẽ để lại một số
lượng nhất định người làm công bị thất nghiệp và tạo thành gánh nặng cho xã hội. Đổi lại
với những hậu quả này, xã hội cần có những biện pháp trừng phạt những người lãnh đạo
trong DN bị phá sản. Xuất phát từ lý do đó mà quan điểm này cho rằng luật phá sản được
ban hành nhằm hướng đến mục đích trừng phạt con nợ, loại bỏ con nợ ra khỏi cuộc chơi
của thị trường. Chính vì vậy, nếu con nợ không thanh toán những khoản nợ đến hạn sẽbị
tuyên bố phá sản ngay mà không cần quan tâm đến lý do của việc không trả được nợ. Khi
DN bị phá sản tức là DN sẽ mất đi và cơ hội kinh doanh đối với các chủ sở hữu DN cũng
không còn nữa.
Quan điểm thứ hai cho rằng, việc không trả nợ bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau
như tình hình kinh tế không thuận lợi, tác động của thiên tai, dịch bệnh, năng lực quản trị
yếu kém Chính vì vậy, pháp luật phá sản không nên chỉ nhằm vào việc trừng trị con nợ
mà nên thừa nhận thực tế phá sản là hệ quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Đây là
quan điểm được sử dụng rộng rãi trong pháp luật phá sản ở hầu hết các quốc gia hiện
nay.
Xuất phát từ quan điểm thứ hai này, việc xây dựng pháp luật phá sản cần đảm bảo
những yêu cầu sau: Trước hết, nếu coi phá sản là trường hợp DN “chết” thì khởi đầu của
quá trình đó là DN bị “ốm”, giống như quy luật vốn có của cuộc sống: “sinh, lão, bệnh,
tử”. Do đó, nếu DN không trả nợ đến hạn thì cần xác định xem lý do nào dẫn đến tình
trạng đó, cũng giống như một người có bệnh thì cần xác định nguyên nhân gây bệnh để có
biện pháp chữa trị phù hợp.
DN hoàn toàn có thể thoát ra khỏi tình trạng không thanh toán được nợ nếu có
những biện pháp tái cơ cấu phù hợp. Việc tái cơ cấu DN được ví như cho bệnh nhân uống
thuốc để điều trị bệnh. Thẩm phán chỉ quyết định tuyên bố thanh lý tài sản của DN và
tuyên bố phá sản chừng nào DN thực sự không còn khảnăng phục hồi. Như vậy, mục đích
của pháp luật phá sản không phải là để trừng phạt chủ sở hữu hoặc người quản lý, điều

hành DN lâm vào tình trạng phá sản mà là để tái cơ cấu DN nhằm giúp DN thoát khỏi rủi
ro trong kinh doanh.
Khi tình trạng mất khả năng thanh toán được khắc phục thì sẽ mang lại lợi ích cho
tất cả các bên, đó là chủ nợ của DN sẽ nhận được đầy đủ các khoản nợ, người lao động
không bị thất nghiệp, DN mắc nợ tiếp tục được kinh doanh để tạo ra của cải cho bản thân
họ và cho xã hội.
Theo ngôn ngữ chung trong luật phá sản của nhiều nước hiện nay: phá sản là tình
trạng DN (pháp nhân hoặc tư nhân) không có khả năng nộp thuế và thanh toán các khoản nợ trong
thời hạn quy định. Hầu hết pháp luật các nước đều coi tình trạng không có khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn là căn cứ để xác định một DN có thể bị tuyên bố phá sản hay
không.
Điều 3 Luật phá sản năm 2004 không đưa ra khái niệm phá sản một cách trực tiếp
mà chỉ đưa ra khái niệm DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản: “DN, HTX không có khả
năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá
sản”. Như vậy có thể hiểu ở đây là khái niệm dùng để chỉ DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản với dấu hiệu đặc trưng nhất là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên,
việc lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn là phá sản mà DN, HTX chỉ được coi là phá sản
khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản.
Luật Phá sản DN ngày 15/06/2004 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2004 có ghi
nhận thủ tục giải quyết việc phá sản DN là thủ tục thanh toán nợ đặc biệt. Tính đặc biệt
của thủ tục này được xác định bởi tính chất của quan hệ chủ nợ với DN lâm vào tình trạng
phá sản và biểu hiện ở chỗ:
- Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của DN, các chủ
nợ được xếp thứ tự ưu tiên theo quy định của pháp luật trong việc phân chia giá trị tài sản
còn lại của DN.
- Việc đòi nợ và thanh toán các khoản nợ được tiến hành thông qua một cơ quan đại diện có
thẩm quyền. Điều đó có nghĩa là khi cơ quan có thẩm quyền đã tiến hành thủ tục phá sản
thì mối quan hệ đòi nợ và thanh toán trực tiếp không được diễn ra, các chủ nợ không được
xé lẻ để đòi nợ hoặc thanh toán. Giữa chủ nợ và con nợ tồn tại một cơ quan đại diện (Toà
án kinh tế hoặc cơ quan Thi hành án), cơ quan này sẽ đại diện cho chủ nợ để đòi con nợ.

Đồng thời đại diện cho con nợ để thanh toán cho các chủ nợ.
- Việc thanh toán chỉ được tiến hành sau khi có quyết định của Toà án. Điều này hoàn toàn
khác so với đòi nợ trong dân sự. Trong dân sự việc thanh toán được diễn ra bất cứ lúc nào
kể cả vụ việc đó được đưa ra xét xử trước phiên toà. Còn trong phá sản, kể từ khi toà án
mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, con nợ và chủ nợ không được tiến hành
thanh toán cho nhau. Họ chỉ được thanh toán các khoản nợ sau khi có quyết định của toà
án. Cơ quan thi hành án thực hiện việc thanh toán theo quyết định tuyên bố phá sản đó.
Như vậy, hậu quả pháp lý mà DN phải gánh chịu sau khi tuyên bố phá sản là xoá
tên DN trong sổ đăng ký kinh doanh.
1.1.3 Phân biệt giải thể và phá sản DN
Giải thể và phá sản là một sự kiện đánh dấu sự kết thúc một quá trình hoạt động
kinh doanh, là hệ quả của rất nhiều nguyên nhân khác nhau: rủi ro môi trường kinh
doanh, rủi ro thị trường của sản phẩm, thay đổi nhanh chóng của công nghệ, năng lực vốn
giới hạn, hoặc đơn thuần là do chiến lược đầu tư của nhà đầu tư dẫn đến việc lựa chọn
chiến lược giải thể hoạt động hiện tại để đầu tư vào một hoạt động mới.
Do vậy mặc dù giải thể, phá sản cũng có thể đến từ những nguyên nhân chủ quan
khác như năng lực của nhà quản lý, gian lận trong kinh doanh, nhưng việc áp đặt rằng
giải thể và phá sản đồng nghĩa với một hiện tượng đáng xấu hổ thì hoàn toàn không đúng
đắn.
Tương tự, việc cho rằng nó là một hoạt động kết thúc một quá trình kinh doanh nên
không cần gấp rút thực hiện thì lại càng sai. Việc cho phép một DN sớm được giải thể, phá
sản, sẽ cho phép tài sản của DN nhanh chóng được bán lại trên thị trường để tiếp tục đưa
vào một quá trình kinh doanh khác; nhân công sớm có lời giải về việc chi trả lương, đền
bù nghỉ việc, và có điều kiện tìm một công việc mới, tái sử dụng sức lao động; các khoản
nợ sớm được thanh toán cho các chủ nợ, đưa vốn trở vào lại chu kỳ xoay vòng vốn của hệ
thống tài chính.
Ta có thể thấy rõ những điểm khác nhau giữa phá sản và giải thể ở một số điểm
sau:
a. Lý do dẫn đến:
- Giải thể vì hết thời hạn hoạt động mà không gia hạn thêm,vì bị thu hồi giấy chứng nhận

đăng kí kinh doanh hay đơn giản là do quyết định của chủ DN.
- Phá sản khi DN không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có
yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản.
b. Thẩm quyền:
- Việc giải thể do DN tự quyết định; Cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập quyết
định; Người quyết định cho phép thành lập DN nhà nước quyết định.
- Việc phá sản thuộc thẩm quyền của Toà kinh tế - Toà án nhân dân Tỉnh, Toà án nhân dân
tối cao.
c. Thủ tục pháp lý:
- Thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp có tính tố tụng cao.
- Thủ tục giải thể là một thủ tục hành chính.
- Thời gian giải quyết phá sản dài hơn rất nhiều so với giải thể.
d. Cách thức thanh toán tài sản:
- Khi giải thể chủ DN hoặc DN, HTX trực tiếp thanh toán tài sản, giải quyết mối quan hệ nợ
nần với chủ nợ.
- Còn khi phá sản, việc thanh toán tài sản, phân chia giá trị tài sản còn lại của DN, HTX
được thực hiện thông qua một cơ quan trung gian là tổ chức thanh toán tài sản sau khi có
quyết định tuyên bố phá sản.
e. Hậu quả:
- DN giải thể sẽ chấm dứt sự tồn tại vĩnh viễn.
- DN bị phá sản có thể được mua lại (đổi chủ sở hữu) và vẫn có thể tiếp tục hoạt động.
f. Thái độ của Nhà nước:
- Chủ DN sau khi phá sản hầu như không có quyền gì liên quan đến tài sản của DN.
- DN giải thể sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ tài sản vẫn có thể chuyển sang một ngành
nghề kinh doanh khác nếu có thể.
- Giám đốc DN giải thể có thể đứng ra thành lập, điều hành công ty mới.
- Giám đốc, chủ tịch Hội đồng Quản trị, thành viên hội đồng quản trị của Công ty bị phá
sản bị hạn chế quyền tự do kinh doanh thể hiện ở chỗ bị cấm giữ chức vụ đó từ 1 đến 3
năm ở bất kỳ DN nào.
1.1.4 Phân loại phá sản DN

a. Dựa vào nguyên nhân gây phá sản:
- Phá sản trung thực: là hiện tượng phá sản do những nguyên nhân khách quan hay những
rủi ro trong kinh doanh gây ra.
- Phá sản gian trá: là hiện tượng phá sản do con nợ có những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt
trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
b. Dựa vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý:
- Phá sản tự nguyện: là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy mình lâm vào tình trạng
phá sản.
- Phá sản bắt buộc: là phá sản được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ hoặc của đại diện chủ
sở hữu ở một số loại hình DN (DN nhà nước, công ty cổ phần, công ty hợp danh).
Dựa vào đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản:
- Phá sản DN.
- Phá sản HTX.
- Phá sản cá nhân.
Căn cứ vào đối tượng đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
- Phá sản tự nguyện: Là do phía DN tự đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản khi thấy mình mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn và không còn cách nào để khắc phục tình trạng mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn đó.
- Phá sản bắt buộc: Là do chủ nợ đệ đơn yêu cầu toà án tuyên bố phá sản đối với DN mắc
nợ, bản thân DN không muốn bị tuyên bố phá sản.
1.2 Pháp luật về phá sản DN
Pháp luật phá sản là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX.
Trong pháp luật thương mại, pháp luật phá sản là một chế định đặc thù, thể hiện ở
chỗ, trong chế định này vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật nội dung vừa chứa
đựng các quy phạm của pháp luật hình thức (pháp luật tố tụng). Với tư cách là pháp luật
nội dung, pháp luật phá sản điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ, ghi
nhận đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ tài sản đó. Còn với tư
cách là pháp luật hình thức, pháp luật phá sản điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quy định quyền

và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX.
Ở Việt Nam, kể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xuất hiện nhiều loại hình DN
khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế như DN nhà nước, HTX, DN tư nhân, các công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các DN có vốn đầu tư nước ngoài Chúng cùng
tồn tại, hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng trước pháp luật và cạnh tranh với nhau
trong khuôn khổ pháp luật.
Bên cạnh việc các DN hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mang lại những
lợi ích kinh tế, tạo sự ổn định và phát triển cho nền kinh tế đất nước, thì cũng không tránh
khỏi việc các DN do quản lý làm ăn kém, cơ chế lỏng lẻo hoặc do những lý do khác nhau
mà làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất dẫn đến không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn
và lâm vào tình trạng phá sản. Điều này được pháp luật nước ta phản ánh thông qua các
văn bản quy phạm pháp luật (Văn bản luật và dưới luật).
Trước khi có Luật phá sản DN năm 2004, cùng với việc thừa nhận quan niệm DN
và HTX, quan niệm phá sản DN cũng được ghi nhận trong Luật phá sản năm ban hành
ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/1994. Tuy nhiên, văn bản này cũng
mới dừng lại ở sự ghi nhận phá sản là một hiện tượng tất yếu của kinh tế thị trường - nêu
ra định nghĩa chung thế nào là DN lâm vào tình trạng phá sản. Pháp luật cũng chưa có
những văn bản cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Vì thế gặp nhiều khó khăn trong khi xử lý
những DN lâm vào tình trạng phá sản.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, DN mắc nợ và những người
có liên quan, xác định trách nhiệm của DN mắc nợ khi giải quyết việc phá sản DN, góp
phần thúc đẩy DN hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo trật tự, kỷ cương xã hội,
ngày 15/06/2004 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật
phá sản DN - đáp ứng đòi hỏi bức xúc của nền kinh tế thị trường. Luật gồm 9 chương 95
điều, trên cơ sở vừa áp dụng những nguyên tắc quốc tế về phá sản vừa kết hợp tính thời
đại và tính dân tộc nó thực sự là cơ sở pháp lý cần thiết cho các DN đang hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam, kể cả Nhà nước, các DN có vốn đầu tư nước ngoài, nhắc nhở các DN
thận trọng và kinh doanh có hiệu quả hơn.
1.2.1 Phạm vi điều chỉnh Luật Phá sản DN

Điều 1 Luật Phá sản quy định: “Luật này quy định điều kiện và việc nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản; xác định nghĩa vụ về tài sản và các biện pháp bảo toàn tài sản
trong thủ tục phá sản; điều kiện, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, thủ tục thanh lý
tài sản và tuyên bố phá sản; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản, của DN, HTX bị yêu cầu tuyên bố phá sản và của người tham gia giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.”
1.2.2 Đối tượng áp dụng Luật Phá sản DN
Điều 2 Luật Phá sản quy định đối tượng áp dụng Luật Phá sản DN là các DN, HTX,
liên hiệp HTX (HTX, liên hiệp HTX gọi chung là HTX) được thành lập và hoạt động theo
quy định của pháp luật. Đồng thời, Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng
Luật này đối với DN đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; DN, HTX hoạt động
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên,
trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã quy định cụ thể các đối tượng DN, HTX, liên hiệp HTX
(HTX, liên hiệp HTX gọi chung là HTX) được thành lập và hoạt động theo quy định của
pháp luật áp dụng Luật phá sản như sau:
- Công ty nhà nước;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên;
- Công ty cổ phần;
- Công ty hợp danh;
- DN tư nhân;
- DN của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội;
- HTX;
- Liên hiệp HTX;
- DN liên doanh;
- DN 100% vốn đầu tư nước ngoài;
- Các loại hình DN, HTX khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
DN thông qua quyết định giải thể

DN gửi quyết định giải thể đến Phòng Đăng ký Kinh doanh, chủ nợ, người lao động, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan + Niêm yết công khai + Đăng báo
DN tiến hành thanh lý tài sản + Thanh toán hết nợ (nợ thuế …)DN gửi Hồ sơ giải thể đến Phòng Đăng ký Kinh doanhPhòng Đăng ký Kinh doanh thực hiện xóa tên DN trong sổ đăng ký kinh doanh
CHƯƠNG II: TRÌNH TỰ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ GIẢI THỂ,
PHÁ SẢN DN
2.1 Trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố giải thể DN
Dù là giải thể tự nguyện hay bắt buộc thì DN cũng phải tuân theo thủ tục như luật
định. Theo pháp luật hiện hành thủ tục giải thể DN được quy định tại Điều 158 Luật DN
2005, khoản 2 Điều 40 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010.
2.1.1 Thủ tục giải thể DN
Việc giải thể DN được thực hiện theo Điều 158 Luật DN 2005:
a. Thông qua quyết định giải thể DN. Quyết định giải thể DN phải có các nội dung chủ yếu
sau đây:
- Tên, địa chỉ trụ sở chính của DN;
- Lý do giải thể;
- Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của DN; thời hạn thanh
toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt quá sáu tháng, kể từ ngày thông qua quyết
định giải thể;
- Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động;
- Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của DN.
b. Chủ DN tư nhân, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty, Hội đồng quản trị trực
tiếp tổ chức thanh lý tài sản DN, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ
chức thanh lý riêng.
c. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể phải được gửi
đến cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích
liên quan, người lao động trong DN và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và
chi nhánh của DN.
Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải thể DN
phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp.
Quyết định giải thể phải được gửi cho các chủ nợ kèm theo thông báo về phương
án giải quyết nợ. Thông báo phải có tên, địa chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và

phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ.
d. Các khoản nợ của DN được thanh toán theo thứ tự sau đây:
- Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các
quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động
đã ký kết;
- Nợ thuế và các khoản nợ khác.
Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể DN, phần còn lại thuộc
về chủ DN tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty.
e. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của DN, người
đại diện theo pháp luật của DN phải gửi hồ sơ giải thể DN đến cơ quan đăng ký kinh
doanh. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng
ký kinh doanh xoá tên DN trong sổ đăng ký kinh doanh.
f. Trường hợp DN bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, DN phải giải thể trong
thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trình tự
và thủ tục giải thể được thực hiện theo quy định tại Điều này.
Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà cơ quan đăng ký kinh doanh
không nhận được hồ sơ giải thể DN thì DN đó coi như đã được giải thể và cơ quan đăng
ký kinh doanh xoá tên DN trong sổ đăng ký kinh doanh. Trong trường hợp này, người đại
diện theo pháp luật, các thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công
ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên Hội đồng quản trị
đối với công ty cổ phần, các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh liên đới chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán.
2.1.2 Các hoạt động bị cấm kể từ khi có quyết định giải thể DN
Theo Điều 159 Luật DN 2005, các hoạt động sau sẽ bị nghiêm cấm sau khi có quyết
định giải thể DN:
- Cất giấu, tẩu tán tài sản;
- Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
- Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản của
DN;
- Ký kết hợp đồng mới không phải là hợp đồng nhằm thực hiện giải thể DN;

- Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản;
- Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
- Huy động vốn dưới mọi hình thức khác.
2.2 Trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN
Theo Điều 5 Luật Phá sản năm 2004, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
DN được thực hiện theo trình tự sau:
- Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;
- Phục hồi hoạt động kinh doanh;
- Thanh lý tài sản, các khoản nợ;
- Tuyên bố DN, HTX bị phá sản.
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản (Điều 3 Luật PS)

Trả lại đơn
(Điều 24 Luật PS)

Thụ lý đơn kể từ ngày nộp lệ phí phá sản
(Điều 22 Luật PS)

Tuyên bố DN, HTX bị phá sản trong trường hợp đặc biệt (Điều 87 Luật PS)

Hội nghị chủ nợ
(Điều 61 Luật PS)

Mở thủ tục thanh lý trong trường hợp đặc biệt (Điều 78 Luật PS)

Thông báo quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 29 Luật PS)

30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn, Tòa án quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản (Điều 28 Luật PS)

Kiểm kê tài sản (Điều 50 Luật PS), Lập danh sách chủ nợ (Điều 51 và Điều 52 Luật PS). Lập danh sách người mắc nợ (Điều 53 Luật PS)


Thủ tục thanh lý (Điều 79; khoản 1 và khoản 2 Điều 80 Luật PS)

Tuyên bố DN, HTX bị phá sản (Điều 85, Điều 86 Luật PS)

Tuyên bố DN, HTX bị
phá sản (Điều 85, Điều 86 Luật PS)

Thanh lý
(khoản 3, Điều 80 Luật PS)

Đình chỉ phục hồi (Điều 76 Luật PS)

Thủ tục phục hồi
(từ Điều 68 đến Điều 74 Luật PS)
Trình tự chi tiết thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN
Nộp đơn (các điều 13, 14, 15,
17 và 18 Luật PS)
Tòa án nhận đơn, xem xét
2.2.1 Thủ tục nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN
Giải quyết vấn đề thanh toán trong khi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, pháp
luật quy định một “Trình tự thủ tục thanh toán nợ đặc biệt ” - trình tự thủ tục tố tụng phá
sản DN, HTX. Để làm căn cứ cho việc giải quyết vấn đề phá sản DN khi có những lý do
chứng tỏ DN lâm vào tình trạng phá sản, việc làm đầu tiên là nộp đơn lên Toà án nhân
dân cấp huyện hoặc cấp tỉnh, nơi có trụ sở chính của DN, HTX yêu cầu tuyên bố phá sản
DN.
a. Đối tượng có nghĩa vụ và được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
Cũng như pháp luật phá sản nhiều nước trên thế giới, Luật phá sản năm 2004 quy
định có ba loại chủ thể sau đây được quyền này:
Đối với các chủ nợ, theo khoản 1 Điều 13 có quy định:

- Chủ nợ có bảo đảm: là chủ nợ có khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của DN mắc nợ.
Đây là chủ nợ mà quyền đòi nợ của họ được đảm bảo bằng tài sản, đến hạn trả mà DN
mắc nợ không thanh toán thì chủ nợ này có quyền yêu cầu bán tài sản bảo đảm đó theo sự
thoả thuận trước để trang trải nợ. Loại chủ nợ này không có quyền đệ đơn yêu cầu tuyên
bố phá sản DN. Nói chung các chủ nợ có bảo đảm là người chịu rủi ro ít hơn so với chủ nợ
khác trong mọi trường hợp. Việc Luật phá sản không quy định quyền nộp đơn của họ
không có nghĩa là họ không được tham gia việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Tuy
nhiên quyền tham gia của họ bị hạn chế bởi sự thoả thuận về việc xử lý giá trị tài sản đem
ra bảo đảm giữa họ và con nợ.
- Chủ nợ có bảo đảm một phần, mặc dù khoản nợ của họ được bảo đảm bằng tài sản của
DN mắc nợ nhưng quyền đòi nợ của họ vẫn bị hạn chế do giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn
giá trị khoản nợ. Họ là người chịu rủi ro nhiều hơn so với các chủ nợ có bảo đảm nếu DN
bị phá sản. Vì vậy quyền lợi của họ cần được pháp luật phá sản bảo vệ.
- Chủ nợ không có bảo đảm, họ là người chịu nhiều rủi ro hơn cả vì các khoản nợ không
được bảo đảm bằng tài sản của DN. Nếu như DN bị tuyên bố phá sản thì khoản nợ của họ
còn có thể bị mất trằng bởi DN không đủ tài sản để trang trải nợ không có bảo đảm.
Đối với người lao động làm công ăn lương trong DN.
Đây là loạt chủ nợ đặc biệt mà luật quy định cũng có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên
bố phá sản. Khác với các dạng chủ nợ khác, quan hệ chủ nợ- con nợ, giữa họ và DN mắc
nợ phát sinh không phải từ quan hệ mua bán thông thường mà trong quá trình các bên
tham gia quan hệ lao động. Khoản nợ của DN đối với họ chính là tiền lương hoặc tiền
công lao động.
Pháp luật lao động nước ta quy định: Công đoàn là người đại diện đứng ra bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động. Trong thủ tục tố tụng phá sản thì quyền và
lợi ích hợp pháp cho người lao động. Trong thủ tục tố tụng phá sản thì quyền nộp đơn của
người lao động được thực hiện thông qua đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao
động nơi chưa có tổ chức công đoàn, và như vậy việc tham gia quá trình giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản của người lao động cũng được thực hiện thông qua những người đại
diện này.
Đối với bản thân DN mắc nợ:

Trong trường hợp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính để
thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà DN vẫn không thoát khỏi tình trạng
mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, thì chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của
DN phải nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của DN yêu cầu giải quyết việc tuyên bố
phá sản DN theo khoản 1 Điều 14 Luật Phá sản.
Việc làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN này giúp cho chính bản thân con nợ
thoát ra được tình trạng nợ nần kéo dài gây ảnh hưởng tới sự phát triển chung trong giới
kinh doanh. Trường hợp này được coi là phá sản tự nguyện.
Đối với chủ sở hữu DN nhà nước, khoản 1 Điều 16 quy định:
Khi nhận thấy DN nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà DN không thực hiện
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại diện chủ sở hữu của DN có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN đó.
Đối với các cổ đông của công ty cổ phần, khoản 1 Điều 17 quy định:
Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ đông hoặc nhóm
cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty;
nếu điều lệ công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của
đại hội cổ đông. Trường hợp điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành được
đại hội cổ đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông
trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối
với công ty cổ phần đó.
Đối với các thành viên hợp danh, khoản 1 Điều 18 quy định:
Khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì thành viên hợp
danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh đó.
2.2.2 Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản DN
Khoản 1 Điều 13 có quy định khi nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản
thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX đó. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các
nội dung chính sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn;
- Tên, địa chỉ của người làm đơn;

- Tên, địa chỉ của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản;
- Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đến hạn mà không được DN,
HTX thanh toán;
- Quá trình đòi nợ;
- Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho Tòa án phúc có thẩm quyền quy
định tại Điều 7 Luật Phá sản:
- Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án
nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với HTX đã đăng ký
kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện đó.
- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án nhân
dân cấp tỉnh) có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với DN, HTX đã đăng ký kinh
doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó. Trong trường hợp cần thiết Toà án
nhân dân cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với HTX thuộc thẩm quyền của
Toà án nhân dân cấp huyện.
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính của DN có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với DN có vốn đầu tư nước ngoài đó.
Ngoài ra, đối với từng loại chủ thể khác nhau, pháp luật phá sản còn quy định
trong hồ sơ kèm theo đơn là những văn bản giấy tờ cần thiết khác.
a. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động được quy định tại khoản 2 Điều 14
Luật Phá sản gồm những thông tin sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn;
- Tên, địa chỉ của người làm đơn;
- Tên, địa chỉ của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản;
- Số tháng nợ tiền lương, tổng số tiền lương và các khoản nợ khác mà DN, HTX không trả
được cho người lao động;
- Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
b. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của bản thân DN, HTX lầm vào tình trạng phá sản được
quy định tại khoản 4 Điều 15 Luật Phá sản bao gồm những nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn;

- Tên, địa chỉ của DN, HTX;
- Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Ngoài ra DN, HTX phải nộp thêm các giấy tờ, tài liệu sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn;
- Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của DN, HTX, trong đó giải trình nguyên nhân và
hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu DN là công ty cổ phần
mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm
toán độc lập xác nhận;
- Báo cáo về các biện pháp mà DN, HTX đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được
tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn;
- Bảng kê chi tiết tài sản của DN, HTX và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được;
- Danh sách các chủ nợ của DN, HTX trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng
mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các
khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm;
- Danh sách những người mắc nợ của DN, HTX trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân
hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các
khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm;
- Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu DN mắc nợ là một công ty có các
thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của DN;
- Những tài liệu khác mà Toà án yêu cầu DN, HTX phải cung cấp theo quy định của pháp
luật.
c. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu DN nhà nước, các cổ đông của công ty
cổ phần, thành viên hợp danh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản được quy định
tại khoản 4 Điều 15 Luật Phá sản.
2.2.3 Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN
Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu thấy cần sửa đổi đơn, bổ
sung tài liệu thì Tòa án yêu cầu người nộp đơn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung trong thời
gian 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Tòa án thụ lý đơn yêu cầu thủ tục phá sản, kể từ ngày nộp đơn xuất trình biên lai
nộp tiền tạm ứng phí phá sản. Trong trường hợp người nộp đơn không phải nộp tiền tạm

ứng phí phá sản thì ngày thụ lý đơn là ngày Tòa án nhận được đơn. Tòa án cấp cho người
nộp đơn giấy báo đã thụ lý đơn.
Trường hợp người nộp đơn không phải là chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN,
HTX lâm vào tình trạng phá sản thì trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Tòa án
thông báo cho DN, HTX biết. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo
của Tòa án, DN, HTX phải xuất trình cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu như trường hợp DN
xin tuyên bố phá sản. Nếu DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là người bảo lãnh cho
người khác thì trong thời gian 5 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, DN,
HTX phải thông báo việc mình bị yêu cầu mở thủ tục phá sản cho những người có liên
quan biết.
Nếu Tòa án thấy DN, HTX không đủ điều kiện để giải quyết phá sản thì Toàn án sẽ
ra Quyết định trả lại đơn yêu cầu thủ tục giải quyết phá sản. Trong trường hợp này, ngườ
làm đơn (yêu cầu giải quyết phá sản DN, HTX có quyền khiếu nại đến Chánh án Toàn án
đó trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định và Chánh án phải giải quyết
trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
2.2.4 Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án
phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
Toàn án quyết định không mở thủ tục phá sản nếu xét thấy DN, HTX chưa lâm vào
tình trạng phá sản. Trong trường hợp này, người làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có
quyền khiếu nại như trường hợp Tòa án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản.
Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có các căn cứ chứng minh DN, HTX
lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định mở thủ
tục phá sản, Tòa án có thể triệu tập phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản, chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN, HTX bị yêu cầu mở thủ tục
phá sản, cá nhân, tổ chức có liên quan để xem xét, kiểm tra các căn cứ chứng minh DN,
HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Quyết định mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm ra quyết định;

- Tên của Toà án; họ và tên Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản;
- Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; tên, địa chỉ của người làm đơn
yêu cầu;
- Tên, địa chỉ của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản;
- Thời gian, địa điểm khai báo của các chủ nợ và hậu quả pháp lý của việc không
khai báo.
Quyết định của Toà án về mở thủ tục phá sản được gửi cho DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản, Viện kiểm sát cùng cấp và đăng trên báo địa phương nơi DN, HTX lâm vào
tình trạng phá sản có địa chỉ chính, báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp.
Trong trường hợp xét thấy người quản lý của DN, HTX không có khả năng điều
hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn
tài sản của DN, HTX thì theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán ra quyết định cử
người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của DN, HTX.
Đồng thời với việc ra Quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán quyết định thành
lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản được quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Phá sản bao gồm:
- Một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng;
- Một cán bộ của Toà án;
- Một đại diện chủ nợ;
- Đại diện hợp pháp của DN, HTX bị mở thủ tục phá sản;
- Trường hợp cần thiết có đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan
chuyên môn tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản thì Thẩm phán xem xét, quyết định.
Theo khoản 1 Điều 10 Luật Phá sản, tổ quản lý, thanh lý tài sản có các nhiệm vụ và
quyền hạn sau:
- Lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của DN, HTX;
- Giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của DN, HTX;
- Đề nghị Thẩm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài
sản của DN, HTX trong trường hợp cần thiết;
- Lập danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ; những người mắc nợ và số
nợ phải đòi của DN, HTX;
- Thu hồi và quản lý tài sản, tài liệu, sổ kế toán và con dấu của DN, HTX bị áp dụng thủ tục

thanh lý;
- Thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định của Thẩm phán;
- Phát hiện và đề nghị Thẩm phán ra quyết định thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản hay phần
chênh lệch giá trị tài sản của DN, HTX bị áp dụng thủ tục thanh lý đã bán hoặc chuyển
giao bất hợp pháp trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này;
- Thi hành quyết định của Thẩm phán về việc bán đấu giá tài sản của DN, HTX bị áp dụng
thủ tục thanh lý theo đúng quy định của pháp luật về bán đấu giá;
- Gửi các khoản tiền thu được từ những người mắc nợ và từ việc bán đấu giá tài sản của
DN, HTX vào tài khoản mở tại ngân hàng;
- Thi hành các quyết định khác của Thẩm phán trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản.
Khi có quyết định mở thủ tục phá sản, mọi hoạt động kinh doanh của DN, HTX
vẫn tiến hành bình thường, nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và Tổ
quản lý, thanh lý tài sản. Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt
động của DN, HTX bị cấm theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Phá sản:
- Cất giấu, tẩu tán tài sản;
- Thanh toán nợ không có bảo đảm;
- Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
- Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của DN.
Sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt động sau đây của DN,
HTX phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện:
- Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản;
- Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;
- Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
- Vay tiền;
- Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;
- Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của DN, HTX và trả
lương cho người lao động trong DN, HTX.
2.2.5 Kiểm kê tài sản của DN, HTX, lập danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ
a. Kiểm kê tài sản của DN, HTX
Theo điều 50, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục

phá sản, DN, HTX phải kiểm kê và xác định giá trị toàn bộ tài sản. Nếu thấy cần có thời
gian dài hơn thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn thời gian, nhưng không quá 2
lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Bảng kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi
ngay cho Tòa án tiến hành thủ tục phá sản. Trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá
trị tài sản của DN, HTX không chính xác, Tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ tiến hành kiểm kê,
xác định giá trị của một phần hoặc toàn bộ tài sản. Giá trị tái ản sẽ được xác định theo giá
thị trường tại thời điểm kiểm kê.
Theo Điều 49 Luật Phá sản, tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản bao
gồm:
- Tài sản và quyền về tài sản mà DN, HTX có tại thời điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản;
- Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà DN, HTX sẽ có do việc thực
hiện các giao dịch được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
- Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của DN, HTX. Trường hợp thanh toán tài sản là
vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo đảm, nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá
khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì phần vượt quá đó là tài sản của DN, HTX;
- Giá trị quyền sử dụng đất của DN, HTX được xác định theo quy định của pháp luật về đất
đai.
Đối với DN tư nhân, công ty hợp danh thì tính thêm tài sản của chủ DN tư nhân,
thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh.
b. Lập danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ
Đối với các chủ nợ, trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết
định mở thủ tục phá sản, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ cho Tòa án, nêu cụ thể các khoản
nợ, số nợ đến hạn và chưa đến hạn, số nợ có bảo đảm và không có bảo đảm mà DN, HTX
phải trả. Kèm theo giấy đòi nợ là các tài liệu chứng minh. Hết thời hạn này các chủ nợ
không gửi giấy đòi nợ đến Tòa án thì được coi là từ bỏ quyền đòi nợ. Trường hợp gặp sự
kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn 60 ngày này.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi nợ, Tổ quản lý, thanh lý tài
sản phải lập xong danh sách chủ nợ và số nợ, ghi rõ số nợ của mỗi chủ nợ, số nợ đến hạn
và chưa đến hạn, số nợ có bảo đảm và không có bảo đảm.

Danh sách chủ nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở của Tòa án và trụ sở của
chính DN, HTX trong thời hạn 10 ngày. Trong thời hạn này, các chủ nợ và DN, HTX lâm
vào tình trạng phá sản, có quyền khiếu nại với Tòa án về danh sách chủ nợ. Trường hợp
gặp sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì không tín vào thời hạn 10 ngày
quy định.
Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Tòa án phải xem xét, giải
quyết khiếu nại. Nếu thấy khiếu nại có căn cứ thì sửa đổi, bổ sung vào danh sách chủ nợ.
Đối với người mắc nợ DN, HTX, Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng phải lập danh
sách và niêm yết như trong trường hợp đối với các chủ nợ.
2.2.6 Tổ chức hội nghị chủ nợ
Theo điều 61, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hoàn tất việc kiểm kê tài sản và lập
danh sách chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ. Giấy triệu tập Hội nghị chủ
nợ cũng như chương trình, nội dung của Hội nghị và các tài liệu khác phải được gửi cho
người có quyền, những người có nghĩ vụ tham gia Hội nghị chủ nợ chậm nhất là 15 ngày
trước ngày khai mạc Hội nghị.
Các Hội nghị tiếp theo có thể được Thẩm phán triệu tập vào bất kỳ ngày làm việc
nào trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo đề nghị của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
hoặc của các chủ nợ đại diện cho ít nhất một phần ba tổng số nợ không có bảo đảm.
a. Thành phần tham dự
Những người có quyền tham gia:
- Các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ hoặc người được ủy quyền.
- Đai diện cho người lao động, đại diện công đoàn.
- Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho DN, HTX.
Người có nghĩa vụ tham gia:
- Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

×