Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Giáo trình nhập môn tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 12 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM
Khoa Tài chính nhà nước

Chủ biên
PGS.TS Sử Đình Thành - PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Nhập mơn
tài chính - tiền tệ


Mục lục
1 Đại cương về tài chính
1.1 Khái quát sự ra đời và phát triển của tài chính . . .
1.2 Bản chất của tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . .
1.2.1 Nguồn tài chính . . . . . . . . . . . . . . . .
1.2.2 Bản chất tài chính . . . . . . . . . . . . . . .
1.3 Chức năng của tài chính . . . . . . . . . . . . . . . .
1.3.1 Huy động nguồn tài chính . . . . . . . . . . .
1.3.2 Phân bổ nguồn tài chính . . . . . . . . . . .
1.3.3 Kiểm tra tài chính . . . . . . . . . . . . . . .
1.4 Hệ thống tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
1.4.1 Khái niệm và cơ cấu hệ thống tài chính . . .
1.4.2 Đặc điểm các bộ phận của hệ thống tài chính

1

.
.
.
.
.


.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.


.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.


.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.


.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.


.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.


.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.

.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

3
3
4
4
6
7
7
7
8
9
9

10


Danh sách hình vẽ
1.1
1.2
1.3

Vịng lẩn quẩn về sự thiếu hụt nguồn tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Quy trình chiến lược phân bổ nguồn lực tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Cấu trúc hệ thống tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2

5
8
9


Chương 1

Đại cương về tài chính
Tài chính có chức năng chu chuyển tiền từ nơi thừa đến nơi thiếu và do vậy tác động mạnh mẽ đến “sức khoẻ” nền
kinh tế. Ở chương này, trước hết, chúng ta cần phải tìm hiểu nguồn gốc ra đời của phạm trù tài chính; sau đó, đi
vào phân tích bản chất và chức năng của phạm trù tài chính, và cuối cùng, tập trung vào phân tích hệ thống tài
chính và các bộ phận cấu thành của nó.

1.1

Khái quát sự ra đời và phát triển của tài chính


Khi đề cập đến phạm trù tài chính, hiện có nhiều quan điểm khác nhau tranh luận về phạm trù này.
Dựa vào quan điểm của P.J.Drake1 , theo nghĩa hẹp, tài chính đơn thuần phản ánh hoạt động thu, chi tiền tệ
của chính phủ; cịn theo nghĩa rộng hơn, tài chính phản ánh các khoản vay và cho vay ảnh hưởng đến mức cung
tiền tệ trên thị trường.
Theo từ điển kinh tế học hiện đại2 , tài chính biểu thị vốn dưới các dạng tiền tệ, nghĩa là ở dạng các khoản có
thể vay mượn hay đóng góp vốn thơng qua thị trường tài chính hay các định chế tài chính. Nói khác đi, tài chính
phản ánh phương thức hoạt động của các cá nhân, công ty và tổ chức thông qua việc tạo lập, phân bổ và sử dụng
các quỹ tiền tệ để đáp ứng những nhu cầu của các chủ thể kinh tế - xã hội khác nhau.
Theo quan điểm của chúng tôi, phạm trù tài chính có đặc điểm là:
• Tài chính có đặc trưng không chỉ bao gồm các nguồn lực dưới dạng tiền mặt hay các khoản tiền gửi mà còn
dưới dạng các loại tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu hay các công cụ nợ . . . miễn là các loại tài sản
này được chấp nhận trên thị trường như là các công cụ trao đổi hay chuyển tải giá trị.
• Tài chính liên quan đến việc chu chuyển các nguồn tài chính giữa các chủ thể với nhau, từ các chủ thể có
nguồn vốn tiết kiệm đến các chủ thể cần vốn.
• Sự chu chuyển hay còn gọi là chuyển giao các nguồn lực của tài chính bao gồm tiến trình: tạo lập, phân phối
và sử dụng các nguồn lực tài chính.
Thật vậy, phạm trù tài chính ra đời và tồn tại trong điều kiện kinh tế - xã hội khi mà ở đó xuất hiện nền sản
xuất hàng hoá. Lịch sử phát triển của xã hội đã cho thấy, khi phân công lao động xã hội phát triển, chế độ tư hữu
xuất hiện, thì dẫn đến sự ra đời của một nền sản xuất dựa trên cơ sở trao đổi hàng hoá và tiền tệ trở thành một
phương tiện khơng thể thiếu được cho chính sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất đó. Sự xuất hiện tiền tệ đã
nhanh chóng thúc đẩy các hoạt động giao lưu kinh tế, đồng thời làm nên cuộc cách mạng trong công nghệ phân
phối: từ phân phối bằng hiện vật sang phân phối bằng giá trị. Trong nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, sản phẩm sản
xuất ra là để bán. Sản phẩm được xem là hàng hố khi nó một mặt, vừa có giá trị sử dụng, mặt khác, vừa có giá
trị trao đổi. Hàng hoá trao đổi trên thị trường cần phải biểu thị giá cả của nó. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng
tiền của giá trị. Khi hàng hoá thực hiện giá trị phải gắn liền với sự vận động của tiền tệ đồng thời phát sinh thu
nhập cho người cung cấp hàng hoá. Các khoản thu nhập này, trải qua q trình phân phối, tạo ra nguồn tài chính
1 Drake,
2 From


P.J (1980). Money, Finance and Development, Oxford: Martin Robertson. Trích lại từ Hossasin và Chowdhury (1996, p1).
Wikipedia, the free encyclopedia.

3


1.2. BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH

CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH

hay quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh tế. Sự liên tục của quá trình sản xuất hàng hố ln ln địi hỏi các quỹ tiền
tệ phải được tạo lập, phân phối, sử dụng và đây chính là cơ sở làm nảy sinh phạm trù tài chính.
Từ phân tích ta thấy, tài chính biểu hiện ra là các phương thức chu chuyển tiền tệ giữa các cá nhân, doanh
nhân và chính phủ với nhau. Vì tầm quan trọng của nó trong đời sống kinh tế, ngày nay tài chính trở thành một
ngày khoa học nghiên cứu và chỉ ra những cách thức mà qua đó các cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ thực hiện
huy động, phân phối và sử dụng nguồn tài chính theo thời gian, có chú trọng đến lợi ích và rủi ro nảy sinh trong
q trình sử dụng nguồn tài chính của mình. Tài chính được sử dụng bởi những cá nhân (gọi là tài chính cá nhân),
được sử dụng bởi chính phủ (gọi là tài chính cơng), được sử dụng bởi doanh nghiệp gọi là tài chính cơng ty cũng
như được sử dụng bởi các tổ chức khác nhau gồm các tổ chức phi lợi nhuận. Nói chung, mục tiêu của mỗi hoạt
động trên đạt được thông qua sử dụng những công cụ tài chính hay tài sản tài chính thích hợp. Khoa học tài chính
khơng tồn tại một cách độc lập mà nó có liên kết chặt chẽ với khoa học kinh tế và khoa học toán ứng dụng. Thật
vậy, để phục vụ cho việc sử dụng nguồn tài chính có hiệu quả (xét góc độ tối đa lợi ích và giảm thiểu chi phí, rủi
ro) khoa học tài chính cần được hỗ trợ nhiều từ khoa học tốn ứng dụng. Vì thế, trong khoa học tài chính hiện
đại ngày nay, tuỳ theo cấp bậc đào tạo mà sinh viên sẽ được tiếp cận đến các mơn khoa học như tốn tài chính và
kinh tế học tài chính3 . . .

1.2
1.2.1

Bản chất của tài chính

Nguồn tài chính

- Khái niệm nguồn tài chính
Tài chính phản ánh hoạt động chu chuyển tiền tệ giữa các chủ thể với nhau. Sự chu chuyển đó về cơ bản diễn
ra dựa theo quan hệ cung cầu. Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, xuất phát từ những nhu cầu nhất định mà
các chủ thể cần phải thực hiện sự chuyển giao với nhau một khối lượng tiền tệ tương ứng. Khối lượng tiền tệ để
thực hiện một giao dịch tài chính được gọi là một nguồn tài chính, hay cịn gọi là vốn kinh doanh, các quỹ tiền tệ
. . . Nguồn tài chính là một khái niệm hết sức cơ bản trong lĩnh vực tài chính. Nó là cơ sở và đối tượng của các hoạt
động phân phối trong nền kinh tế. Có nhiều cách tiếp cận phạm trù này trong các lý thuyết kinh tế:
- Theo nghĩa hẹp: Nguồn tài chính là khối lượng tiền tệ có tính lỏng cao được biểu hiện thơng qua các quỹ tiền
tệ như là:
• Quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước.
• Các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
• Các quỹ tiền tệ của các định chế tài chính.
• Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình và các tổ chức xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế, tuỳ theo đặc điểm hoạt động của mình, có cách thức tạo
lập nguồn tài chính khác nhau. Đối với cá nhân, nguồn tài chính chủ yếu được hình thành từ thu nhập lao động;
các doanh nghiệp hình thành từ kết quả kinh doanh; cịn đối với chính phủ: hình thành từ thuế. Trong trường hợp
khơng đủ nguồn tài trợ cho các nhu cầu phát triển, thì các chủ thể này có thể thực hiện chính sách đi vay và huy
động trên thị trường tài chính. Nhìn chung, khối tiền có tính lỏng cao là tiền để thực hiện phân phối và sử dụng
tổng sản phẩm quốc dân nhằm phục vụ cho mục đích đầu tư và tiêu dùng.
- Theo nghĩa hẹp: Ngồi khối tiền có tính lỏng cao, nguồn tài chính cịn bao gồm khối tiền có tính lỏng thấp
như:
• Các loại tài sản tài chính hay các loại chứng khốn. Các loại tài sản này khác với tiền ở tính lỏng. Khả năng
chuyển hố thành tiền của các tài sản này phụ thuộc vào mức độ rủi ro của chúng cũng như sự phát triển
của hệ thống tài chính.
• Ngồi ra, nguồn tài chính còn bao gồm các dạng tài sản như bất động sản, sở hữu trí tuệ và các loại tài sản
vơ hình khác có khả năng tiền tệ hố. Nghĩa là, khi có tác động của ngoại lực thì nó có thể trở thành nguồn
tiền tệ chảy vào các kênh tài chính trong chu trình tuần hồn kinh tế thị trường, làm bành trướng thêm các
tụ điểm tài chính.

3 Tốn tài chính là một nhánh của tốn ứng dụng, nghiên cứu dữ liệu tài chính với các cơng cụ tốn học, chủ yếu là thống kê. Những
dữ liệu đó có thể là những thay đổi về cổ phiếu, trái phiếu và mối liên hệ giữa chúng.

4


1.2. BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH

CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH

Quan niệm nguồn tài chính rộng như vậy sẽ giúp chúng ta tìm kiếm các biện pháp để khai thác, động viên các
nguồn tài chính đang ở dạng tiềm năng của đất nước tham gia chu trình tuần hồn của kinh tế thị trường.
- Nguồn tài chính trong nước và nguồn tài chính nước ngồi
Đối với một quốc gia, nguồn tài chính được hình thành từ trong nước và nước ngồi. Nguồn tài chính trong
nước thể hiện sức mạnh nội lực của một quốc gia. Nguồn vốn này có ưu điểm là ổn định, bền vững, chi phí thấp,
giảm thiểu được rủi ro và hậu quả xấu đối với nền kinh tế do những tác động từ bên ngoài. Nguồn vốn trong nước
chủ yếu được hình thành từ tiết kiệm trong nền kinh tế. Mặc dù trong thời đại ngày nay, các dịng vốn nước ngồi
ngày càng trở nên không thể thiếu được đối với các nước đang phát triển, nhưng nguồn vốn từ tiết kiệm trong nước
vẫn giữa vị trí quyết định. Trong một thời gian dài của tiến trình tăng trưởng kinh tế, các nước Ấn Độ, Trung
Quốc, Bangladesh, Pakistan. . . đã có nhiều nỗ lực trong việc gia tăng tiết kiệm. Những năm 60 của thế kỷ 20 tỷ lệ
tiết kiệm bình quân so với tổng sản phẩm quốc nội của các nước này là 18% thì đến năm 1983 đạt 24%. Các nước
Đơng Á trong những năm 1960 có mức tiết kiệm đạt được chỉ 10% hoặc ít hơn và đã vay nhiều thị trường quốc
tế, thế nhưng đến những năm 90 tiết kiệm của các nước này cao hơn đáng kể so với tiêu chuẩn quốc tế. Tuy rằng,
hiện tại cho có kết luận dứt khoát về mối quan hệ nhân quả giữa tiết kiệm và tăng trưởng song phải thừa nhận,
tiết kiệm ln ảnh hưởng tích cực đối với tăng trưởng, nhất là ở những nước đang phát triển, vì làm tăng vốn đầu
tư. Hơn nữa, tiết kiệm là điều kiện cần thiết để hấp thụ vốn nước ngồi có hiệu quả, đồng thời giảm sức ép về phía
ngân hàng trung ương trong việc hàng năm phải cung ứng thêm tiền để tiêu hố ngoại tệ.
So với nguồn tài chính trong nước, nguồn tài chính nớc ngồi có ưu thế là mang lại ngoại tệ cho nền kinh tế.
Tuy vậy, nguồn tài chính nước ngồi trong nó lại ln ẩn chứa những nhân tố tiềm tàng gây bất lợi cho nền kinh
tế, đó là sự lệ thuộc, nguy cơ khủng hoảng nợ, sự tháo chạy đầu tư, sự gia tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm trong

nước. . . Như vậy, vấn đề huy động vốn nước ngoài đặt ra những thử thách khơng nhỏ trong chính sách huy động
vốn của các nền kinh tế đang chuyển đổi, đó là: một mặt, phải ra sức huy động vốn nước ngoài để đáp ứng tối đa
nhu cầu vốn cho cơng nghiệp hố; mặt khác, phải kiểm soát chặt chẽ sự vận động vốn nước ngoài để ngăn chặn
khủng hoảng. Để vượt qua những thử thách đó, nhà nước phải thành cơng trong việc ổn định hố kinh tế vĩ mơ,
tạo lập mơi trờng đầu tư thuận lợi cho sự vận động vốn nước ngồi, điều chỉnh và lựa chọn các hình thức thu hút
vốn sao cho có lợi cho nền kinh tế. Theo quan điểm của Samuelson, các nền kinh tế kém phát triển do thiếu nguồn
tài chính nên rơi vào vịng lẩn quẩn của sự nghèo đói. Để phát triển phải có cú hch từ bên ngồi nhằm phá vỡ
vịng lẩn quẩn. Điều này cũng có nghĩa là các nước kém phát triển phải tích cực cải thiện mơi trường đầu tư của
các nhà tư bản nước ngồi.

Hình 1.1: Vịng lẩn quẩn về sự thiếu hụt nguồn tài chính

Theo mơ hình lý thuyết hai khoảng cách của nhà kinh tế người Mỹ Hollis B.Chenery, đối với các nền kinh tế
thường xuyên mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư cũng như giữa xuất khẩu và nhập khẩu, thì phải tìm đến nguồn
tài chính nước ngồi để bù đắp cho những thiếu hụt này. Thật vậy, trong nền kinh tế mở, ta có phương trình:
Y = (C + G) + (Ig + Ip) + (X − M )
Trong đó:
• Y : Tổng thu nhập.
• (C + G): Tiêu dùng của khu vực tư nhân (C) và chi tiêu của chính phủ (G).
• Ig + Ip: Đầu tư của chính phủ (Ig) và đầu tư của tư nhân (Ip).
• X: Giá trị hàng hoá xuất khẩu.

5

(1.1)


1.2. BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH

CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH


• M : Giá trị hàng hố nhập khẩu.
Nếu phân tích tổng thu nhập của nền kinh tế theo yếu tố thu nhập của từng khu vực, ta có:
Y = T g + (C + Sp)

(1.2)

Với T g là thu nhập của chính phủ và Sp là tiết kiệm của khu vực tư nhân.
Từ 1.1 và 1.2 ta có:
(X − M ) = (T g − G − Ig) + (Sp − Ip)
Thay T g − G = Sg (tiết kiệm của chính phủ):
Ig − Sg) + (Ip − Sp) = (M − X)

(1.3)

Hai khoảng cách đó là đầu tư vượt quá tiết kiệm và nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu. Nếu có sự gia tăng nhu
cầu đầu tư (Ig, Ip) vượt quá mức tiết kiệm trong nước (Sg, Sp) và cán cân thương mại thâm hụt, thì để cân bằng
cán cân kinh tế vĩ mô cần thực hiện chính sách gia tăng thu hút nguồn tài chính nước ngồi để lấp vào lỗ hổng
thiếu hụt.

1.2.2

Bản chất tài chính

Bản chất tài chính phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể với nhau trong quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng các nguồn tài chính. Thật vậy, tài chính, xét về hiện tượng, biểu hiện ra là những phương thức
hoạt động phát sinh liên quan đến sự chuyển giao tiền tệ giữa các chủ thể kinh tế, cụ thể:
• Các doanh nghiệp nộp thuế cho chính phủ.
• Chính phủ phát hành trái phiếu huy động vốn.
• Các cá nhân gởi tiền vào các định chế tài chính.

• Các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cần chú ý rằng, mỗi hành động trên phản ánh một quyết định phân phối (i) hoặc tạo lập quỹ tiền tệ (ii) hoặc
là đầu tư/sử dụng các quỹ tiền tệ như nào. Động lực cho việc thực hiện quyết định đó chính là lợi ích mà mỗi chủ
thể nhận được từ sự phân phối tài chính với chi phí bỏ ra thấp nhất. Lợi ích và chi phí là hai khái niệm có tính
chuẩn tắc. Lợi ích phản ánh mức thoả dụng của mỗi người. Tuỳ quan điểm của mỗi người, mức thoả dụng sẽ được
xác định giá thích hợp và khái niệm chi phí cũng vậy. Chẳng hạn, khi chính phủ ban hành một sắc thuế để gia tăng
nguồn thu nhập cho ngân sách, thì phải xem xét sắc thuế đó tạo ra chi phí là bao nhiêu, bao gồm chi phí quản lý
thuế, mức độ thiêt hại về kinh tế do thuế làm thay đổi hành vi của khu vực tư. . . ; một công ty khi vay vốn ngân
hàng để mở rộng dây chuyền cơng nghệ phải tính tốn đến lợi ích mang lại của dự án so với chi phí đầu tư, trong
đó gồm có chi phí lãi vay ngân hàng. . . Hay nói khác đi, do có sự giới hạn về nguồn tài chính trong khi nhu cầu cho
sự phát triển thì vơ hạn, nên ẩn chứa đằng sau mỗi hành động phân phối là các chủ thể luôn phải giải bài toán về
hiệu quả kinh tế để đánh đổi, lựa chọn trong số các nhu cầu thực tế trên cơ sở tối đa hố lợi ích và giảm thiểu các
chi phí.
Từ phân tích trên chúng ta thấy, sự tạo lập hay đầu tư/sử dụng các quỹ tiền tệ phản ánh kết quả của một quá
trình cân đối giữa quy mơ nguồn lực tài chính và nhu cầu thơng qua phân tích lợi ích và chi phí. Đây là những nội
dung cơ bản thuộc về phạm trù kinh tế. Chỉ khi nào lợi ích được đảm bảo (nghĩa là lợi ích lớn hơn chi phí thì các
chủ thể mới đi đến quyết định thực hiện các giao dịch tài chính hay phân phối nguồn tài chính. Đến đây có thể
kết luận rằng, bản chất tài chính phản ánh ràng buộc về quan hệ kinh tế giữa các chủ thể với nhau trong quá trình
phân phối và sử dụng các nguồn tài chính.
Từ việc xác định bản chất phạm trù tài chính, cần phân biệt giữa phạm trừ tài chính và phạm trù tiền tệ. Tiền
tệ xuất hiện trong trao đổi hàng hoá tồn tại với tư cách là vật trung gian để thực hiện trao đổi theo nguyên tác
ngang giá. Vận động của tiền ở đây luôn gắn liền với vận động của hàng hố. Trong phạm trù tài chính, tiền xuất
hiện với tư cách là phương tiện để thực hiện phân phối vốn hoặc thu nhập của các chủ thể kinh tế xã hội dưới hình
thức giá trị. Vận động của tiền trong tài chính có sự độc lập với vận động hàng hố. Trong tài chính, có các phương
thức phân phối sau:
• Phân phối theo ngun tắc hồn trả (tín dụng).
• Phân phối hồn trả có điều kiện và khơng tương xứng (bảo hiểm, đầu tư).
• Phân phối khơng hồn trả (thuế, chi tiêu ngân sách).
6



1.3. CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH

1.3
1.3.1

CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH

Chức năng của tài chính
Huy động nguồn tài chính

Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, các chủ thể cần phải có nguồn lực tài chính nhất định.
Chức năng huy động nguồn tài chính, hay còn gọi là chức năng huy động vốn, thể hiện khả năng tổ chức khai thác
các nguồn tài chính nhằm tạo lập nguồn lực đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Chức năng huy động vốn được thực hiện trên cơ sở tương tác giữa các yếu tố:
• Chủ thể cần vốn.
• Các nhà đầu tư.
• Hệ thống tài chính gồm thị trường tài chính và các định chế tài chính.
• Mơi trường tài chính và kinh tế.
Cần thấy rằng, sự huy động nguồn lực chỉ đặt ra khi các chủ thể không đủ khả năng tài trợ, và do vậy họ cần
phải huy động các nguồn lực được cung cấp từ hệ thống tài chính. Huy động vốn phải tuân thủ cơ chế thị trường,
quan hệ cung cầu và giá cả của vốn. Thực hiện chức năng này yêu cầu các chủ thể phải thiết lập chính sách huy
động vốn có hiệu quả trên cơ sở phân tích các yếu tố như là tính tốn nhu cầu và quy mô vốn cần huy động, lựa
chọn các công cụ tài chính và địn bẩy kinh tế trong huy động vốn. Các yêu cầu đặt ra cho chính sách huy động
vốn là:
• Về thời gian: Sự huy động vốn phải đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn để giảm thiểu các tổn thất nảy sinh do
thiếu hụt vốn.
• Về kinh tế: Chi phí chập nhận được và có tính cạnh tranh.
• Về mặt pháp lý: Mỗi chủ thể phải biết vận dụng các phương thức huy động vốn sao cho thích hợp với khn
khổ luật pháp cho phép. Chẳng hạn, trong khu vực công, thuế là phương thức huy động nguồn thu cơ bản để

cân đối ngân sách. Trong trường hợp ngân sách bị mất cân đối, chính phủ phải thực hiện chính sách vay nợ
trong và ngồi nước với mức giới hạn cho phép để sao cho giữ kỷ luật tài khoá. Đối với khu vực tư, tuỳ theo
loại hình tổ chức doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, trái
phiếu hay vay nợ từ các định chế tài chính. Cịn các cá nhân, hộ gia đình khi cần vốn có thể thực hiện cơ chế
vay nợ từ các định chế ngân hàng. . .
Nhìn chung, tính hiệu quả huy động vốn phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của hệ thống tài chính và khn
khổ pháp lý ràng buộc cơ chế vận hành của hệ thống tài chính.

1.3.2

Phân bổ nguồn tài chính

Chức năng phân bổ hay cịn gọi là chức năng phân phối nguồn tài chính biểu hiện thông qua thiết lập kế hoạch
sử dựng nguồn lực sẵn có để đạt được các mục tiêu phát triển trong ngắn hạn và dài hạn của các chủ thể kinh tế xã hội. Qua chức năng phân bổ nguồn lực, các quỹ tiền tệ chuyên dùng được hình thành với những quy mô nhất
định tương ứng với nhu cầu chi tiêu của các chủ thể.
Trong phân bổ nguồn lực, bài toán đặt ra mà các chủ thể cần phải giải quyết là nguồn lực bị giới hạn trong khi
nhu cầu đặt ra cho phát triển thì vơ hạn. Do vậy, khi thực hiện phân bổ nguồn lực các chủ thể cần xây dựng chiến
lược phân bổ hiệu quả. Và trọng tâm của chiến lược là các chủ thể quyết định như thế nào để đạt được mục tiêu
đặt ra. Về khía cạnh kỹ thuật, phân bổ nguồn lực tài chính phải dựa trên nền tảng của chiến lược quản lý theo
mục tiêu. Có thể tóm tắt quy trình chiến lược như sau:
• Vị trí ở hiện tại : tức là phải tiến hành xem xét và đánh giá môi trường kinh tế - xã hội, như đánh giá thực
trạng nguồn lực sẵn có, mơi trường, cơ hội và thách thức, điểm mạnh và điểm yếu của đơn vị.
• Mục tiêu phát triển: với thực trạng nguồn lực hiện tại, việc thiết lập các mục tiêu chiến lược phát triển cần
xét trên các khía cạnh: quản lý tốt, thể chế lành mạnh, tăng trưởng bền vững, nguồn nhân lực. Trong đó, cần
xác định các mục tiêu chiến lược ưu tiên, lựa chọn và đánh đổi các mục tiêu trong sự so sánh với nguồn lực
sẵn có.
• Cách thức để đạt mục tiêu chiến lược: tức là từ chiến lược chuyển thành hành động kế hoạch và lập ngân
sách, tổ chức thực hiện chiến lược để đạt mục tiêu. Điều này liên quan đến việc thiết lập các yếu tố đầu ra,
quy trình tổ chứ thực hiện.
7



1.3. CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH

CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH

Hình 1.2: Quy trình chiến lược phân bổ nguồn lực tài chính

1.3.3

Kiểm tra tài chính

Kiểm tra tài chính là một thuộc tính vốn có của phạm trù tài chính bắt nguồn từ bản chất của tài chính và có
quan hệ biện chứng với chức năng huy động và phân bổ nguồn tài chính. Kiểm tra tài chính phản ánh hoạt động
thu thập và đánh giá những bằng chứng về thơng tin liên quan đến q trình huy động và phân bổ các nguồn tài
chính với mục đích đảm bảo tính đúng đắn, tính hiệu quả và hiệu lực của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Tính đúng đắn của kiểm tra tài chính thể hiện ở chỗ kiểm tra việc tạo lập các quỹ tiền tệ có cần thiết hay
khơng, có hợp pháp hay khơng. Tính hiệu quả biểu hiện kiểm tra việc sử dụng các quỹ tiền tệ có tiết kiệm, có sinh
lời hay khơng, và tính hiệu lực thể hiện kiểm tra việc sử dụng các quỹ tiền tệ có đạt được các mục tiêu dự kiến
của chủ thể đặt ra hay khơng. Chính ba khía cạnh kiểm tra này làm cho kiểm tra tài chính trở thành cơng cụ quan
trọng trong quản lý kinh tế. Nó góp phần trực tiếp giải quyết mâu thuẫn cố hữu trong sự phát triển là: Sự giới hạn
về quy mơ nguồn lực tài chính so với nhu cầu vô hạn đạt ra của sự phát triển; và xa hơn nữa, nó góp phần cân
bằng lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội.
Kiểm tra tài chính thể hiện dưới các loại hình sau:
• Thanh tra tài chính.
• Kiểm tốn nội bộ.
• Kiểm tốn độc lập.
• Kiểm tốn nhà nước.
Kiểm tra tài chính được thực hiện dựa trên sự kết hợp các yếu tố sau:
• Chủ thể kiểm tra: Là những chủ thể có quyền sở hữu hay quyền sử dụng các nguồn tài chính.

• Đối tượng kiểm tra: Là quá trình huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính.
• Cơ sở kiểm tra: Các chuẩn mực làm cơ sở để thực hiện kiểm tra tài chính như là chế độ kế tốn, hệ thống
pháp luật tài chính. . .
• Phương pháp kiểm tra: Là những cách thức mà các chủ thể kiểm tra sử dụng để tiến hành kiểm tra.
• Báo cáo và đánh giá kết quả kiểm tra.
Đặc điểm kiểm tra tài chính:
8


1.4. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH

• Kiểm tra tài chính được thực hiện thơng qua các chỉ tiêu tài chính.
Các chỉ tiêu tài chính là các chỉ tiêu phản ánh quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính. Chỉ tiêu tài chính có thể là: (i) chỉ tiêu tuyệt đối biểu hiện dưới hình thức tiền tệ; (ii) chỉ tiêu tương
đối biểu hiện dưới hình thức tỷ lệ phần trăm hay hệ số so sánh. . .
Chỉ tiêu tài chính là cơ sở quan trọng để tiến hành kiểm tra các hoạt động tài chính, qua đó giúp cho chủ
thể kiểm tra tổng hợp và đánh giá toàn diện hoạt động của đơn vị. Tuỳ theo đặc điểm hoạt động của từng
khâu tài chính, mà các chủ thể kiểm tra thiết lập hệ thống các chỉ tiêu tài chính thích hợp để phục vụ cho
mục đích kiểm tra. Ở khâu tài chính doanh nghiệp, kiểm tra tài chính thơng qua các chỉ tiêu tài chính như:
chi phí, giá thành sản phẩm, hệ số nợ, vòng quay vốn, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận. Ở khâu tài chính cơng,
các chỉ tiêu tài chính như là: tổng thu ngân sách, tổng chi ngân sách, chi đầu tư, chi thường xuyên. . .
• Kiểm tra tài chính được thực hiện thường xuyên.
Tính thường xuyên của kiểm tra tài chính bắt nguồn từ sự vận động liên tục của nguồn tài chính theo chu
trình: tạo lập, phân bổ và sử dụng. Kiểm tra tài chính phải thực hiện xuyên suốt trong từng giai đoạn của
chu trình. Ở đâu có sự vận động của nguồn lực tài chính thì phải tiến hành kiểm tra tài chính. Tuỳ theo từng
lĩnh vực, mỗi hoạt động phải áp dụng những phương pháp và chỉ tiêu tài chính khác nhau.

1.4

1.4.1

Hệ thống tài chính
Khái niệm và cơ cấu hệ thống tài chính

Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các chủ thể diễn ra rất đa
dạng, phong phú, đan xen lẫn nhau, tác động lẫn nhau trong một hệ thống thống nhất, đó là hệ thống tài chính.
Hệ thống tài chính là một hệ thống gồm có thị trường và các chủ thể tài chính thực hiện chức năng gắn kết cung cầu về vốn lại với nhau. Cơ cấu hệ thống tài chính gồm:
• Thị trường tài chính.
• Các chủ thể tài chính - tham gia và kiến tạo thị trường.
• Cơ sở hạ tầng tài chính của hệ thống tài chính.

Hình 1.3: Cấu trúc hệ thống tài chính
Chức năng cơ bản của hệ thống tài chính là tạo ra kênh chuyển tải vốn từ người thừa vốn đến người cần vốn.
Khi hệ thống vấn hành có hiệu quả, nó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và gia tăng phúc lợi xã hội. Qua hệ
9


1.4. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH

thống tài chính, những chủ thể thừa vốn có nhiều cơ hội để đầu tư và gia tăng khả năng sinh lời của đồng vốn; còn
những chủ thể thiếu vốn có nhiều cơ hội tiếp cận các nguồn vốn để thoả mãn tối đa nhu cầu phát triển. Ngoài ra
hệ thống tài chính cịn cung cấp các dịch vụ tài chính như: chia sẻ rủi ro, tính lỏng và thơng tin các giao dịch tài
chính.

1.4.2

Đặc điểm các bộ phận của hệ thống tài chính


Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về vốn, diễn ra dưới hình thức vay mượn, mua bán
về vốn, tiền tệ và các chứng từ có giá nhằm chuyển dịch từ nơi cung cấp đến nơi có nhu cầu về vốn cho các hoạt
động kinh tế. Một hệ thống thị trường tài chính hồn chỉnh phải bao gồm hệ thống thị trường tiền tệ hoạt động
chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng, kho bạc nhà nước, các cơng ty tài chính và thị trường vốn, trong đó thị
trường chứng khốn giữ vai trị quan trọng.
Thị trường tiền tệ: Là nơi các công cụ nợ ngắn hạn được mua bán với số lượng lớn. Các công cụ nợ ngắn hạn
lưu hành trên thị trường tiền tệ do nhà nước, các ngân hàng, các công ty lớn phát hành, có đặc điểm là tính thanh
khoản cao và rủi ro khơng thanh tốn thấp. Các cơng cụ nợ của thị trường tiền tệ bao gồm các giấy cam kết mua
lại, các loại chứng chỉ gửi tiền có thể chuyển nhượng. . .
Thị trường vốn: Là nơi các công cụ vốn, cơng cụ nợ trung và dài hạn (do các chính quyền trung ương, chính
quyền địa phương, các cơng ty cổ phần, doanh nghiệp phát hành) được trao đổi mua bán, chuyển nhượng theo quy
định của pháp luật. Thị trường vốn chủ yếu giao dịch các loại trái phiếu dài hạn và cổ phiếu.
Việc phân định các bộ phận của thị trường tài chính chỉ là biện pháp để thuận lợi cho quá trình nghiên cứu
từng loại thị trường. Trên thực tế, rất khó có thể xác định đâu là ranh giới của khu vực thị trường tiền tệ, và đâu
là phạm vi hoạt động của thị trường vốn. Hai thị trường này lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, điều này cũng có
nghĩa là các định chế tài chính có mối quan hệ hữu cơ, chặt chẽ, mật thiết với nhau và với thị trường chứng khoán.
Các biến đổi về giá cả, lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn,
mà cụ thể là thị trường chứng khoán. Ngược lại, những biến động trên thị trường chứng khoán như chỉ số chứng
khoán, thị giá cổ phiếu cũng ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ.
Các chủ thể tài chính
Các chủ thể tài chính bao gồm các thể nhân và pháp nhân tài chính ở khu vực cơng và khu vực tư hoạt động
theo những nguyên tắc hay cơ chế nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, cấu thành các chủ thể tài chính tương
ứng với từng khu vực hình thành nên các khu tài chính như: tài chính cơng (Public finance), tài chính doanh nghiệp
(Business/Corporate finance), định chế tài chính (Financial institutions) và tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình
(Personal or Household finance).
a. Tài chính cơng
Tài chính công được đặc trung bằng các quỹ tiền tệ của các định chế thuộc khu vực công gắn liền với việc thực
hiện các chức năng của nhà nước. Các tổ chức tài chính cơng bao gồm các đơn vị thuộc hệ thống cơ quan công

quyền, các đơn vị cung cấp dịch vụ cơng.
Tài chính cơng tác động đến sự hoạt động và phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội, một mặt khắc phục
thất bại thị trường, mặt khác thực hiện tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Điều này được thể
hiện bằng quá trình phân phối và phân phối lại của quỹ ngân sách nhà nước. Tài chính cơng thực hiện huy động
và tập trung một bộ phận nguồn tài chính từ các định chế tài chính khác chủ yếu qua thuế và các khoản thu mang
tính chất thuế. Trong trường hợp ngân sách bị thiếu hụt, thì chính phủ tham gia trên thị trường tài chính bằng
việc phát hành trái phiếu để vay nợ. . . Trên cơ sở nguồn lực huy động được, chính phủ sử dụng quỹ ngân sách để
tiến hành cấp phát kinh phí, tài trợ vốn cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị thuộc các khu vực kinh tế nhằm thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
b. Tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp được đặc trưng bằng các loại vốn hay các quỹ tiền tệ phục vụ cho hoạt động đầu tư
của các công ty, các đơn vị kinh tế trong việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ.
Trên cơ sở chiến lược đầu tư, tài chính doanh nghiệp tiến hành lập ngân sách vốn để thực hiện huy động và
cung cấp vốn cho các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Trong q trình đó, nói chung, nó liên quan đến việc
cân bằng rủi ro và lợi nhuận. Vốn dài hạn được cung cấp bởi các cổ đông và tín dụng dài hạn thường được tài trợ
qua phát hành trái phiếu. Quyết định lựa chọn nguồn tài trợ như vậy dẫn đến hình thành cấu trúc vốn của doanh
nghiệp. Còn vốn ngắn hạn chủ yếu được cung cấp bởi các ngân hàng thơng qua các khoản tín dụng. Khía cạnh
khác của tài chính doanh nghiệp là phân bổ vốn cho đầu tư phát triển. Điều này liên quan đến công tác quản lý

10


1.4. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH

quỹ hay lựa chọn danh mục đầu tư. Xây dựng danh mục đầu tư yêu cầu doanh nghiệp phải trả lời câu hỏi: đầu tư
cái gì, đầu tư bao nhiêu, đầu tư khi nào. Để trả lời các câu hỏi đó doanh nghiệp cần phải:
• Xác định tính hợp lý của mục tiêu và giới hạn của nguồn lực.
• Xác định tính thích hợp của chiến lược phân bổ vốn.

• Đo lường sự thực hiện danh mục đầu tư.
c. Các định chế tài chính
Các định chế tài chính là những định chế thực hiện chức năng cơ bản chu chuyển nguồn vốn từ các chủ thể tiết
kiệm (thừa vốn) đến các chủ thể cần vốn4 . Khi nhấn mạnh chức năng trung gian chu chuyển vốn, các nhà kinh
tế thường gọi các định chế tài chính là các trung gian tài chính (Financial Intermediaries). Các định chế tài chính
gồm: các ngân hàng, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, cơng ty tài chính. . .
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường các định chế tài chính ngày càng hồn thiện và
đa dạng các công cụ huy động vốn và tài trợ vốn. Ngoài nguồn vốn điều lệ, cơ cấu nguồn vốn huy động của các
định chế tài chính cịn có vốn huy động từ các loại tiền gửi, cung cấp hợp đồng bảo hiểm, phát hành các loại chứng
khoán. Kèm theo đó các định chế tài chính áp dụng nhiều biện pháp phịng chống rủi ro và cung cấp nhiều tiện
ích để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, các định chế tài chính tiến hành
xây dựng danh mục đầu tư, phát triển theo mơ hình kinh doanh đa năng trên nhiều lĩnh vực, qua đó đáp ứng tối
đa nhiều nhu cầu vốn và dịch vụ tài chính cho xã hội.
d. Tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình
Theo nghĩa rộng, tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình là một định chế tài chính vốn quan trọng trong hệ thống
tài chính. Đặc trưng cho bộ phận hoạt động tài chính này là sự tồn tại của các quỹ tiền tệ được sở hữu bởi cá
nhân hoặc hộ gia đình. Nguồn hình thành quỹ tiền tệ của cá nhân hoặc hộ gia đình bao gồm thu nhập từ lao động,
thu nhập từ góp vốn đầu tư cho kinh doanh và từ đầu tư tài chính, thu nhập từ tài sản thừa kế và quà tặng. . . Với
nguồn thu nhập có được, các cá nhân hoặc hộ gia đình thực hiện các quyết định tài chính: (i) lập kế hoạch chi tiêu
(phân chia giữa tiêu dùng và tiết kiệm); (ii) lựa chọn danh mục đầu tư cho phần tiết kiệm trên cơ sở phân bổ mức
tài trợ cho chi tiêu đối với các hoạt động như giáo dục, y tế, mua sắm các loại hàng hố có tính bền lâu (đất đai,
nhà cửa. . . ), mua bảo hiểm và các hoạt động đầu tư tài chính khác. Việc xây dựng danh mục chi tiêu của các cá
nhân hoặc hộ gia đình lệ thuộc nhiều vào chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng cao thì thu nhập dành cho
tiêu dùng của cá nhân hoặc hộ gia đình cũng tăng theo và ngược lại. Mức độ phát triển hệ thống tài chính có tác
động rất lớn đến việc phát triển các hoạt động đầu tư tài chính của cá nhân hoặc hộ gia đình; (iii) quản lý rủi ro
gắn liền với các hoạt động tài chính trên cơ sở tiếp cận các dịch vụ được cung cấp trên thị trường tài chính.

4 Trong

cuốn sách này, chúng tơi đồng nghĩa giữa thuật ngữ các định chế tài chính và trung gian tài chính.


11



×