Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

SKKN Nâng cao chất lượng môn luyện từ và câu lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.16 KB, 74 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lời nói đầu
Trong cuộc sống hàng ngày, ngôn ngữ của mỗi con người thực sự phong phú
đa dạng. Nói sao để người nghe hiểu được là cả một vấn đề cần thiết. Do đó, nhu cầu
ngôn ngữ là không thể thiếu, mà để ngôn ngữ tồn tại được trước hết phải nói đến đến
đơn vị cơ bản nhất, đó là đơn vị "Từ". Vì vậy, để dáp ứng nhu cầu này, chương trình
1
luyện từ và câu Tiếng Việt ở Tiểu học đã lấy việc dạy "Từ" làm đơn vị cơ bản, đơn
vị trung tâm để nâng cao chất lượng, làm giàu vốn từ, đáp ứng nhu cầu giao tiếp trên
mọi bình diện khác nhau của con người
Việc lấy từ làm đơn vị cơ bản được dạy từ lớp 2 đến lớp 5, từ nhận thức sơ
giản đến nhận thức phức tạp theo hướng đồng tâm. "Từ" là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa
và dùng để đặt câu. Nên việc lấy từ làm đơn vị cơ bản để tạo câu vừa tạo điều kiện
2
thuận lợi gắn việc giảng dạy với hoạt động giao tiếp của con người, vừa hướng việc
dạy- học tới mục tiêu rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh . Thông qua việc dạy
từ mà giúp học sinh về các kỹ năng nhận diện, phân loại từ, phân biệt danh giới từ,
đặc biệt là kỹ năng dùng từ đặt câu và rèn luyện các thao tác tư duy.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng:
3
Qua quá trình giảng dạy, thực tế cho thấy " Từ" trong ngữ pháp Tiếng Việt ở
lớp 4 thực sự là phức tạp. Bởi việc nắm chắc được các kiểu cấu tạo "Từ" ở lớp 4 sẽ
làm tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho việc nắm bắt, sử dụng từ rộng hơn nữa ở lớp
5.
4
Vào đầu năm học 2010 - 2011, tôi thấy học sinh trong lớp chất lượng chưa cao ở
môn Tiếng Việt. Tôi nhận thấy việc sử dụng "Từ" trong bài làm của học sinh còn rất
lộn xộn như xác định sai cấu tạo từ, dùng sai nghĩa
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên :
Từ thực tế học sinh trong lớp chủ yếu là con em xuất thân từ những gia đình


sản xuất nông nghiệp, một số gia đình có hoàn cảnh không bình thường: Bố mẹ ly
5
hôn, bố mất sớm cho nên việc sử dụng ngôn ngữ trong hoàn cảnh là hết sức khó
khăn
Sau khảo sát điều tra, phân loại đối tượng học sinh cụ thể cho thấy:
Môn đọc Số lượng Tỷ lệ %
- Đọc diễn cảm 2 6,6
- Đọc rõ ràng, mạch lạc từng cụm từ trong câu 10 33
- Đọc liền mạch chưa biết phân cắt cụm từ 7 23,1
6
- Đọc ngập ngừng ê, a từng tiếng một 5 16,5
- Đọc nhanh, ngắt nghỉ chưa đúng 6 19,8
Môn viết Số lượng Tỷ lệ %
- Viết sạch, đẹp đúng chính tả 3 10
- Viết nhanh, chưa đúng chính tả 8 26,4
- Chưa viết hoa danh từ riêng 5 16,5
- Viết hoa tuỳ tiện 5 16,5
7
- Viết chậm 9 29,7
Môn Kể chuyện Số lượng Tỷ lệ %
- Kể hay, truyền cảm 0 0
- Kể đúng, rõ ràng từng cụm 6 19,8
- Kể nhanh đều đều liền một mạch 7 23,1
- Kể chậm, ngắt nghỉ chưa hợp lý 7 23,1
- Kể chưa nhấn giọng ở từ gợi tả 10 33
8
Môn Tập làm văn Số lượng Tỷ lệ %
- Viết đủ ý, trọn câu 2 6,6
- Dùng từ trong cau chưa sát hợp 10 33
- Dùng từ tối nghĩa trong câu 5 16,5

- Viết không biết ngắt nghỉ từ, cụm từ trong câu 6 19,8
- Viết sai chính tả nhiều 7 23,1
9
Từ thực trạng trên , tôi đã cố gắng, kiên trì suy nghĩ và học hỏi ở đồng nghiệp rút ra
một vài kinh nghiệm dạy- học để : Nâng cao chất lượng thực hành "Từ" cho học
sinh trong lớp
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Các giải pháp thực hiện:
10
1. Làm cho học sinh nắm chắc khái niệm"Từ", ý nghĩa của "Từ" trong câu
2. Giúp học sinh nắm được cấu tạo "Từ", về nghĩa , về sự kết hợp của "Từ"
3. Giáo viên cần nắm được cách phát âm của từng địa phương, dơn vị để lựa chọn
phương pháp dạy học.
4. Khích động, khơi dậy sự hưng phấn cho học sinh trong học tập
5. Giáo viên phải có sự rèn luyện thực hiện phát âm đúng phổ thông, đúng âm chuẩn
11
II. Các biện pháp tổ chức thực hiện:
Qua quá trình khảo sát, cụ thể với từng môn học nói trên tôi đã cố gắng kiên
trì suy nghĩ, học hỏi nhiều ở các đồng nghiệp đi trước và qua những năm làm công
tác giảng dạy, tôi đã đúc rút ra những biện pháp sau đây để đạt tới có học sinh giỏi
Tiếng Việt và nâng cao chất lượng cho mọi đối tượng học sinh trong lớp.
12
- Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, giáo dục thực hiện kiểu dạy
học “Hướng tập trung vào học sinh” -Người học là chủ thể của hoạt động học, lĩnh
hội được đầy đủ những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, năng lực của các em. Vì
vậy, việc học sinh sử dụng “Từ” để đặt câu trong giao tiếp, trong thảo luận sao cho
chính xác là rất quan trọng. Nhưng vai trò của người giáo viên vẫn không bị phai
13
mờ. Có thể nói, dấu ấn của người giáo viên phải hết mực thương yêu học trò, có
nghệ thuật Sư phạm sâu sắc:

“Điều giáo viên nói là chân lí, điều giáo viên làm là chuẩn mực”.
- Thường xuyên tiếp xúc với học sinh để biết được phương ngữ ở từng địa
phương, có cơ hội hiểu biết hết được đầy đủ đặc điểm tâm sinh lý cũng như sự phát
triển của từng em để có biện pháp giáo dục phù hợp.
14
- Trong quá trình dạy học, giáo viên phải chú ý đến tính “đồng tâm” của
chương trình ở cả cấp học. Khơi dậy những kiến thức đã học ở lớp dưới để mở rộng
kiến thức hơn nữa ở lớp trên.
- Thực tế nói năng của học sinh vô cùng sinh động, nên khi dạy thực hành về
“Từ”, giáo viên cần đặt nó vào những văn cảnh cụ thể, có thể khác nhau để học sinh
15
so sánh đối với đối tượng này thì dùng từ đó được, còn đối tượng khác lại không thể
dùng được do nghĩa của từ qui định.
Chẳng hạn: đưa ra 3 trường hợp có dùng từ “săn sóc”, yêu cầu học sinh đánh
dấu X vào ô trống trước câu sử dụng đúng từ “săn sóc”.
Ông tôi săn sóc vườn tược rất cẩn thận.
Mẹ tôi săn sóc tôi từ bữa ăn đến giấc ngủ.
16
Bà trông nom việc nhà và săn sóc gà lợn.
Lúc này giáo viên cần hướng cho học sinh thấy muốn hiểu đúng được thì
trước hết em cần hiểu nghĩa của từ “săn sóc ”: có nghĩa là sự chăm nom rất chu đáo
tận tình. Sự chăm nom ấy thường dùng cho người. Từ đây học sinh dễ dàng điền
đúng được câu có sử dụng từ “săn sóc ” hợp lý:
Mẹ tôi săn sóc tôi từ bữa ăn đến giấc ngủ.
17
- Khi dạy thực hành về dùng từ đặt câu, giáo viên phải lưu ý tới việc dùng từ
của học sinh. Do không nắm được nghĩa của từ đặt nó vào trong giao tiếp không phù
hợp với đối tượng, với phong cách nên có nhiều học sinh đã dùng từ như sau:
Ví dụ: Mẹ em vừa xinh đẹp lại dịu dàng, nết na . (1)
Hôm nay, nhân ngày lễ, em lia mấy dòng hỏi thăm cô.

18
Giáo viên phải giải thích cụ thể cho học sinh hiểu rằng dùng từ cần sát hợp
với đối tượng. Từ “nết na ” ở ví dụ (1) là từ của người trên nhận xét về người vai
dưới nêm con nói với mẹ thiếu tôn trọng. Còn từ “lia ” ở ví dụ (?) đã sử dụng sai vì
không phù hợp vơi đối tượng nói năng, viết cho thầy, cô giáo.
19
- Khi dạy cho học sinh về khái niệm “Từ ” , giáo viên tránh tình trạng đưa sẵn
các đơn vị từ mà phải hướng cho học sinh các thao tác phân cắt đơn vị từ trong câu,
từ đó mà định nghĩa nên “Từ.
Ví dụ: Giáo viên đưa ra câu: Trời nắng chang chang.
Yêu cầu học sinh tách thành các phần có nghĩa và được nhiều phần nhất.
Có thể học sinh sẽ có tới 3 cách tách.
20
Trời/nắng/chang chang (1)
Trời nắng/chang chang (2)
Trời/nắng chang/chang (3) (Trời/nắng/chang/chang).
Để có được một cách tách đúng nhất, giáo viên phải hướng dẫn học sinh: Tách
câu thành từng phần có nghĩa sao cho được nhiều phần nhất. Trường hợp (3) trên
thực tế, không gặp cách chia này vì nói “nắng chang” thì không thể hiểu được,
21
không thể nói được “trời nắng chang”, vì thế mỗi tiếng chang không đúng được một
mình mà phải đứng với nhau để tạo thành chang chang. Với những học sinh chia
theo trường hợp (2), chúng ta phải chỉ ra cách chia đó thoả mãn được yêu cầu “chia
ra thành các phần có nghĩa” nhưng chưa thoả mãn được yêu cầu “chia được nhiều
phần nhất” tức là chưa triệt để. Để làm rõ khả năng vận dụng độc lập của trời và
nắng, cũng là tính có nghĩa của chúng, giáo viên cần phải dùng thao tác lược bỏ
22
(tỉnh lược) và đặt vấn đề: giáo viên hỏi: nói “trời chang chang” các em có hiểu
không ? (nếu hiểu được thì trời có khả năng đứng độc lập không cần có nắng, có
nghĩa là trời có nghĩa), (học sinh: có). Giáo viên kết luận: vậy trời có nghĩa vì có thể

nói trời chang chang. Tương tự giáo viên đặt cấn đề với từ nắng để có kết luận: nắng
cũng có nghĩa vì có thể nói nắng chang chang. Như vậy, trời nắng gồm 2 từ trời và
23
nắng. Do đó trường hợp (1) là cách tách đúng nhất theo yêu cầu của đầu bài. Từ đây,
học sinh dễ dàng định nghĩa được “Từ ” là gì.
- Khi dạy về “Từ” cho học sinh trong lớp, giáo viên cần lưu ý cho học sinh cả
về nội dung ý nghĩa lẫn dấu hiệu hình thức để khỏi xảy ra những điều không đáng
có.
24
- Giáo viên phải khơi dậy tính tò mò cũng như các năng lực sẵn có của học
sinh qua các hoạt động học cụ thể, như tìm ra ý câu văn hay, sử dụng từ trong ngôn
ngữ đúng
- Người giáo viên phải là người tổ chức và hướng dẫn từng học sinh, sao cho
mọi học sinh đều học tập và được phát triển cao nhất. Ngoài việc cung cấp kiến thức
kỹ năng, còn phải dạy cho học sinh biết cách học tập có năng lực linh hoạt sáng tạo.
25

×