Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.65 KB, 72 trang )

Lời mở đầu
Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì hiện nay trên thế giới
có khoảng hơn 100 nớc đang áp dụng chế độ thuế giá trị gia tăng,một chế độ
thuế gián thu cơ bản và đặc biệt quan trọng trong việc huy động nguồn thu
cho Ngân sách nhà nớc, đem lại số thu chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số
thu Ngân sách nhà nớc.Do vậy,trong hệ thống pháp luật thuế,pháp luật về thuế
giá trị gia tăng có vị trí rất quan trọng.
Việc áp dụng chế độ thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam thay thế cho chế
độ thuế doanh thu trong thời gian qua có tác động nhiều mặt đến đời sống
kinh tế xã hội.Qua ba năm thực hiện,bên cạnh những thành công bớc đầu
và những giá trị kinh tế xã hội đáng ghi nhận của chế độ thuế giá trị gia
tăng đã chứng tỏ sự lựa chọn đúng đắn và sự cần thiết của việc áp dụng chế độ
thuế này. Mặt khác,thực tiễn áp dụng chế độ thuế GTGT bộc lộ những bất cập
trong các quy định của pháp luật đã gây ra những vớng mắc khi áp dụng,đặc
biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội cha cao,hoạt động của các
doanh nghiệp còn thấp,sự suy giảm kinh tế do những tác động và ảnh hởng hệ
quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới và khu vực,cùng với thiên
tai liên tiếp diễn ra đã càng tạo ra nhiều khó khăn hơn trong việc triển khai áp
dụng trên thực tế.Điều đó đặt ra nhiệm vụ phải nghiên cứu đánh giá những
quy định pháp luật hiện hành về thuế GTGT từ đó rút ra những gì đã đạt đợc
và những gì cha đạt đợc nhằm mục đích sửa đổi,bổ sung các văn bản pháp luật
về thuế GTGT để nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng,đáp ứng
những yêu cầu của đời sống kinh tế luôn luôn vận động và phát triển.
Tuy nhiên,bản thân pháp luật và chất lợng của nó không thể tự thể hiện
trong đời sống xã hội mà phải thông qua cơ chế bảo đảm thực hiện.Do đó,để
đảm bảo phát huy vai trò của chế độ thuế GTGT thì cùng với việc hoàn thiện
pháp luật cần thiết phải hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện.Mối liên hệ giữa
1
pháp luật về thuế GTGT và cơ chế bảo đảm thực hiện đặt ra yêu cầu là cần
nghiên cứu làm sáng tỏ những yếu tố ảnh hởng tới hiệu quả pháp luật thuế giá
trị gia tăng từ đó đa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật


thuế giá trị gia tăng.
Đến nay ở nớc ta,đã có rất nhiều công trình nghiên cứu,hội thảo,bàn
luận về thuế giá trị gia tăng,trong số các công trình nghiên cứu đó có các công
trình nghiên cứu điển hình là : Báo cáo khảo sát về thuế giá trị gia tăng ở các
nớc Pháp,Thuỵ Điển,Trung Quốc (Tổng cục thuế,Bộ tài chính,1993);Mô
hình áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ của Tổng cục thuế,Bộ tài chính năm 1993);Báo cáo tổng kết công tác triển
khai thực hiện các Luật thuế mới(Tổng cục thuế,Bộ tài chính,5/2000);Một số
bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành
Với mong muốn góp sức vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ thực trạng và
các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế GTGT,tác giả đã lựa chọn đề
tài: Các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng ở n-
ớc ta hiện nay .
Với đề tài trên,tác giả luận văn không mô tả lại toàn bộ những nội dung
điều chỉnh của pháp luật hiện hành về thuế giá trị gia tăng,mà việc nghiên cứu
nhằm đánh giá thực trạng pháp luật về thuế giá trị gia tăng ,hiệu quả pháp luật
thuế giá trị gia tăng và các nhân tố ảnh hởng tới hiệu quả pháp luật thuế giá trị
gia tăng.Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật và phát hiện những vớng
mắc trong áp dụng và nguyên nhân của nó từ đó kiến nghị những biện pháp
bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Phơng pháp nghiên cứu của đề tài là phơng pháp duy vật biện chứng kết
hợp với các phơng pháp phân tích tổng hợp,đối chiếu,so sánh.Phơng pháp
phân tích,so sánh,đối chiếu đợc sử dụng nhằm làm sáng tỏ các khái niệm,các
vấn đề đặt ra trong các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế giá trị gia
tăng .Phơng pháp phân tích tổng hợp đợc sử dụng chủ yếu để đa ra những
2
nhận xét mang tính chất khái quát hoá từ đó luận chứng cho những kiến nghị
thích hợp.
Về mặt bố cục,ngoài lời mở đầu,kết luận,danh mục tài liệu tham khảo
thì Luận văn đợc chia làm ba chơng :

Ch ơng I : Những vấn đề lý luận cơ bản về cấu trúc và hiệu quả pháp
luật của thuế giá trị gia tăng
Ch ơng II : Thực trạng pháp luật và thực tế áp dụng thuế giá trị gia tăng
ở Việt Nam
Ch ơng III : Các biện pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế
giá trị gia tăng
3
Chơng I
Những vấn đề lý luận cơ bản về cấu trúc và
hiệu quả pháp luật của thuế giá trị gia tăng
I./ Khái niệm, bản chất và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
1.Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Cùng với sự ra đời của nhà nớc,sự xuất hiện của thuế nh là một sự đảm
bảo cho hoạt động bình thờng của các cơ quan nhà nớc,bởi thuế là một nguồn
thu quan trọng nhất của nhà nớc,là cơ sở để đảm bảo chi cho ngân sách nhà n-
ớc.
Thuế đợc nghiên cứu dới rất nhiều giác độ khác nhau.ở giác độ KT
TC,thuế thờng đợc hiểu là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc của các
thể nhân và pháp nhân cho nhà nớc theo mức độ và thời hạn đợc pháp luật quy
định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
Còn dới giác độ pháp lý,thuế là nghĩa vụ pháp lý của các tổ chức và cá
nhân phải chuyển một phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình vào Ngân
sách nhà nớc khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành do luật thuế quy định.
Thực tiễn ở các nớc cho thấy,việc có áp dụng thuế GTGT hay không là
tuỳ thuộc vào điều kiện riêng của từng nớc.Đa số nớc áp dụng thuế GTGT là
do hệ thống thuế cũ không còn phù hợp nữa.Một số nớc có nền kinh tế phát
triển nhng cha áp dụng thuế GTGT nh Mỹ,úc.Các nớc này cha áp dụng thuế
GTGT lý do chính là họ đã có thuế doanh thu đánh vào khâu bán lẻ,là khâu
cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh,vì vậy không bị đánh trùng
thuế.Cách thu thuế này đợc thu theo từng bang đã có nề nếp và thói quen,đang

hoạt động tốt.Nếu ban hành thêm thuế GTGT áp dụng trên toàn liên bang thì
phải thay đổi lại hệ thống thuế của các bang,điều này sẽ rất phức tạp cho nên
họ cha áp dụng.
4
Cũng theo kinh nghiệm của các nớc áp dụng thuế GTGT thì thuế doanh
thu có nhợc điểm cơ bản là thu thuế trùng lặp qua mỗi lần bán hàng;đối với
cùng một mặt hàng nếu tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau,thì số thuế
phải nộp khác nhau(do một cơ sở sản xuất thuế phải nộp một lần;do nhiều cơ
sở sản xuất thì qua mỗi cơ sở đều phải nộp làm số thuế nộp tăng)không phù
hợp với cơ chế thị trờng,cha khuyến khích đầy đủ cho sản xuất hàng xuất
khẩu;nhiều thuế suất nhng tiêu thức sắp xếp các mặt hàng,dịch vụ vào từng
thuế suất cụ thể rất khó xác định rõ ràng,chính xác,dễ dẫn đến việc thắc mắc
về thuế và lợi dụng để trốn thuế,lách thuế.Do đó,nhằm khắc phục những nhợc
điểm trên của thuế doanh thu,các nớc đã chuyển sang áp dụng thuế GTGT
(theo tiếng Anh viết là Value Added Tax và viết tắt là VAT).
Thuế GTGT là thuế gián thu đợc thu trên giá trị tăng thêm ở từng khâu
của quá trình kinh doanh(đối tợng nộp thuế sẽ tính số thuế giá trị gia tăng phát
sinh khi bán hàng, và đợc khấu trừ số thuế giá trị gia tăng đã nộp khi mua
hàng hoá vật t,chỉ phải nộp phần chênh lệch vào ngân sách nhà nớc).Thuế
GTGT đã đợc áp dụng thống nhất đối với các loại hàng hoá nhập khẩu và hàng
hoá sản xuất trong nớc nhằm đảm bảo tính nhất quán của thuế GTGT.
Đối tợng tính thuế GTGT là giá trị gia tăng của hàng hoá,dịch vụ.Giá
trị gia tăng là giá trị mà ngời sản xuất kinh doanh làm tăng thêm vào giá
nguyên vật liệu hay hàng hoá mua vào trớc khi bán ra sản phẩm hay dịch vụ
mới.Về bản chất kinh tế,đó là chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào do
đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình sản xuất,lu thông.
Về mặt nguyên tắc,nhà nớc chỉ đánh thuế vào phần giá trị tăng thêm
của hàng hoá,dịch vụ.Tuy vậy,cách hiểu thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị tăng
thêmchỉ đúng khi xét trên góc độ mỗi công đoạn sản xuất hay lu thông.Trên
thực tế,thuế GTGT đợc tính theo một tỷ lệ nhất định trên toàn bộ giá hàng hoá

dịch vụ cuối cùng đến ngời tiêu dùng.Nh vậy tên gọi thuế GTGT hoàn toàn
không phải với ý nghĩa là loại thuế chỉ đánh khi phát sinh giá trị tăng thêm mà
5
nó thể hiện phơng pháp thu thuế theo phần trên giá trị gia tăng của hàng
hoá,dịch vụ ở từng công đoạn sản xuất hoặc lu thông(điều này cũng giải thích
cho việc ở khâu nhập khẩu,thuế GTGT đánh trên toàn bộ giá trị hàng chứ
không xác định trên giá trị tăng thêm).Thuế GTGT do tổ chức hay cá nhân
kinh doanh phải nộp đợc xác định trên giá trị phát sinh thêm qua mỗi khâu
từ sản xuất,lu thông đến tiêu dùng.Giá trị tăng thêm đó đợc xác định bằng
hiệu số giữa giá trị bán ra ở cuối mỗi khâu với giá trị mua vào ở đầu mỗi
khâu.Tuy nhiên tổng số thuế GTGT mà tổ chức hay cá nhân kinh doanh phải
nộp cho các công đoạn từ sản xuất đến chu kỳ lu thông cuối cùng đúng bằng
số thuế tính trên giá bán cho ngời tiêu dùng cuối cùng.
2.Bản chất
Về bản chất,thuế GTGT là một loại thuế gián thu,là loại thuế mà nhà n-
ớc sử dụng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của ngời tiêu dùng hàng
hoá,dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với ngời sản xuất,kinh doanh hàng
hoá,dịch vụ.Tính gián thu của thuế GTGT thể hiện ở chỗ ngời nộp thuế và ng-
ời chịu thuế không đồng nhất.Ngời nộp thuế là tổ chức hay cá nhân sản
xuất,kinh doanh hàng hoá,dịch vụ thuộc diện đối tợng chịu thuế,còn ngời chịu
thuế chính là ngời tiêu dùng nên ngời nộp thuế chỉ là ngời nộp thay cho ngời
chịu thuế.
Khi nói thuế GTGT do ngời tiêu dùng chịu,có nghĩa là tiền thuế mà trên
danh nghĩa đợc trả bởi tổ chức hay cá nhân kinh doanh bán hàng hoá,cung
ứng dịch vụ sẽ đợc chuyển qua cho ngời tiêu dùng chịu dới dạng cộng thêm
vào giá bán hàng hoá,dịch vụ đó.
Với bản chất thuế GTGT là thuế đánh vào tiêu dùng nên dễ điều chỉnh
vì ngời chịu thuế thờng không cảm nhận đợc đầy đủ gánh nặng của thuế.
Hơn nữa,thuế GTGT còn góp phần khuyến khích đầu t vốn,và kích thích
phát triển kinh tế.Bởi vì việc thu thuế của nhà nớc không ảnh hởng tới thu

nhập của nhà đầu t.
6
3.Đặc điểm
Thứ nhất,đối với thuế doanh thu,Nhà nớc đánh thuế đối với toàn bộ
doanh thu phát sinh của mỗi khâu sản xuất lu thông.Do đó,nếu các sản phẩm
chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nớc thu cũng tăng thêm qua
các khâu.Còn đối với thuế GTGT,nhà nớc chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm
của sản phẩm ở từng khâu sản xuất lu thông,nh vậy tổng số thuế GTGT mà
nhà nớc thu đợc không tăng thêm qua các khâu sản xuất,lu thông.
Thứ hai,thuế GTGT có tính trung lập,có nghĩa là về mặt lý thuyết thuế
GTGT không phải là một yếu tố trong chi phí của doanh nghiệp.Nó không làm
ảnh hởng tới giá cả hàng hoá,vì khi nó phải nộp bởi doanh nghiệp này thì nó
cũng đợc khấu trừ ở doanh nghiệp khác,chỉ có ngời tiêu dùng cuối cùng mới
không đợc khấu trừ.
Thứ ba,hiệu quả của thuế GTGT không phụ thuộc vào sự tổ chức và
phân chia các chu trình kinh tế.Các khâu sản xuất kinh doanh của một sản
phẩm dù đợc tập trung tại một doanh nghiệp hoặc phân chia cho nhiều doanh
nghiệp khác nhau thì tổng số thuế Nhà nớc thu đợc luôn bằng với số thuế tính
trên giá bán cho ngời tiêu dùng cuối cùng.
Thứ t,thuế GTGT có khấu trừ số thuế nộp ở giai đoạn trớc.Về cơ
bản,các khâu sản xuất kinh doanh hàng hoá,dịch vụ trung gian không tạo ra số
thu thuế GTGT cho nhà nớc,vì số thuế nộp ở những giai đoạn này sẽ đợc khấu
trừ hoặc hoàn lại,cho đến khi sản phẩm cuối cùng đợc tiêu dùng.
Nh vậy,thuế GTGT vẫn đảm bảo đợc số thu kịp thời và thờng xuyên cho
Ngân sách nhà nớc do đợc thu qua từng công đoạn của quá trình từ sản xuất
đến lu thông,và lại khắc phục đợc sự đánh trùng thuế của thuế doanh thu.
Thứ năm,áp dụng thuế GTGT tạo ra sự kiểm soát chặt chẽ hơn về
thuế,góp phần chống trốn lậu thuế có hiệu quả.Do việc khấu trừ thuế đầu vào
phải dựa trên cơ sở hoá đơn chứng từ nên buộc doanh nghiệp phải lu giữ sổ
sách kế toán đầy đủ,hoạt động mua bán phải có hoá đơn thì mới đợc khấu trừ

7
thuế.Doanh thu hay giá bán ra của ngời bán phải là giá mua vào hay chi phí
của ngời mua nên các đơn vị mua và bán không thể thông đồng trốn thuế vì
quyền lợi mâu thuẫn nhau.
Thứ sáu,ngoài những đặc điểm trên,việc quản lý thu thuế GTGT khá
phức tạp. Để thu thuế đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất và chặt chẽ hoạt
động sản xuất kinh doanh và trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế
phải đợc tăng cờng.Yêu cầu cơ bản là các doanh nghiệp phải ghi chép sổ sách
chứng từ kế toán đầy đủ,minh bạch.Công việc kiểm soát tờ khai thuế của đối
tợng nộp thuế chi phí rất lớn và đòi hỏi phải đợc điện toán hoá.Quản lý không
chặt chẽ có thể dẫn đến tình trạng số thuế khấu trừ và hoàn thuế cao hơn so
với số thu đợc của Nhà nớc.
II./ Mô hình pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.Cấu trúc pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.1.Phạm vi áp dụng thuế GTGT
Với bản chất là thuế gián thu,thuế GTGT không trực tiếp đánh vào thu
nhập và tài sản của ngời nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá
cả hàng hoá và dịch vụ,điều đó có nghĩa là ba khái niệm đối tợng chịu thuế ,
đối tợng nộp thuế và ngời chịu thuế không đồng nhất với nhau.Do
vậy,việc phân biệt ba khái niệm trên là rất quan trọng về phơng diện pháp lý.
Ngời chịu thuế GTGT là ngời tiêu dùng cuối cùng hàng hoá,dịch vụ
thuộc diện chịu thuế GTGT.Ngời tiêu dùng cuối cùng là ngời sử dụng hàng
hoá,dịch vụ không vì mục đích tạo ra hàng hoá,dịch vụ khác và làm cho hàng
hoá,dịch vụ đó thoát ra khỏi chu trình lu thông.Vì vậy,ngời chịu thuế GTGT
không bị ràng buộc bởi những điều kiện pháp lý nh ngời nộp thuế GTGT và
theo thông lệ ngời chịu thuế thờng không đợc quy định trong luật thuế,mặc dù
họ là ngời đã phải chuyển một phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình vào
Ngân sách nhà nớc khi thực hiện hành vi tiêu dùng hàng hoá,dịch vụ chịu thuế
GTGT.
8

Đối tợng nộp thuế GTGT là những cá nhân,tổ chức có hoạt động sản
xuất,kinh doanh hay nhập khẩu hàng hoá,kinh doanh dịch vụ thuộc đối tợng
chịu thuế.Nh vậy,đối tợng nộp thuế bao trùm lên hầu hết mọi đối tợng sản
xuất kinh doanh và không chỉ bao gồm các cơ sở sản xuất kinh doanh trong n-
ớc mà còn bao gồm cả các tổ chức,cá nhân nớc ngoài có hoạt động sản
xuất,kinh doanh hay nhập khẩu hàng hoá thuộc diện chịu thuế tại nớc đánh
thuế.
Tuy nhiên,ở nhiều nớc,để đảm bảo hiệu quả công tác quản lý thu thuế
GTGT,đối với đại bộ phận các cá nhân,tổ chức sản xuất,kinh doanh ở quy mô
nhỏ không áp dụng thuế GTGT mà áp dụng chế độ thuế khoán.Diện miễn thuế
GTGT áp dụng cho những đối tợng kinh doanh nhỏ có doanh thu hàng năm d-
ới mức quy định (ví dụ : 200.000 pê xô ở Philipines; 200.000 Sek ở Thuỵ
Điển; 30.000 Đô la Canada ở Canada; 100.000 DKK ở Đan Mạch; 1000.000
Đô la Singapore ở Singapore; 600.000 bạt ở Thái Lan .).Quy định không áp
dụng thuế GTGT mà áp dụng chế độ thuế khoán với một số đối tợng trên có
tác dụng làm giảm gánh nặng quản lý thu thuế đối với các đối tợng kinh
doanh nhỏ.Vì các đối tợng này trong kinh doanh,việc thực hiện chế độ sổ sách
kế toán thờng không đảm bảo và chi phí quản lý thu thuế GTGT thờng không
hiệu quả so với số thu đợc.
Trong giai đoạn chuyển đổi từ thuế doanh thu sang áp dụng thuế
GTGT,các nớc thờng có ba hình thức triển khai áp dụng thuế GTGT :
Thứ nhất,áp dụng thuế GTGT toàn bộ,có nghĩa là áp dụng đối với các
đối tợng nộp thuế hoạt động ở tất cả các lĩnh vực sản xuất,kinh doanh,bán
buôn và bán lẻ.Điển hình áp dụng hình thức này là các nớc : Thuỵ
Điển,Pháp,Thái Lan,Hungari.
Thứ hai,áp dụng thuế GTGT từng phần,tức là áp dụng đến từng khâu
của quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá.Ví dụ nh Inđônêxia,Nhà nớc
ban hành đạo luật từ năm 1983,nhng do trình độ quản lý của cán bộ ngành
9
thuế và nhận thức của ngời nộp thuế nên đến 1985,đạo luật thuế mới đợc thi

hành và thực hiện theo từng bớc nh sau :
Năm 1985 : Đối tợng nộp thuế là những ngời sản xuất
Năm 1989 : Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán buôn
Năm 1993 : Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán lẻ.
Thứ ba,thực hiện thí điểm thuế GTGT đối với một số ngành,điển hình
áp dụng hình thức này là Trung Quốc : Bớc thí điểm chỉ áp dụng đối với các
sản phẩm : Xe ô tô,tàu biển,năm 1984 mở rộng diện áp dụng đối với các sản
phẩm xe đạp,quạt điện,kim khí,máy móc thiết bị,phụ tùng,động cơ,thép.Năm
1986 mở rộng diện đối với các sản phẩm công nghiệp nhẹ,vật liệu xây
dựng,khoáng sản,kim loại.
Qua tổng kết đánh giá của các nớc,trong ba hình thức tiến hành thuế
GTGT thì hình thức áp dụng mang tính đồng loạt là hiệu quả nhất.Tuy
nhiên,hình thức này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị đầy đủ về luật,các văn bản h-
ớng dẫn dới luật,trình độ hiểu biết của ngời nộp thuế,trình độ quản lý của cơ
quan thuế,chứng từ hoá đơn,ý thức chấp hành pháp luật Hình thức áp dụng
thuế GTGT ở từng khâu kết quả bị hạn chế,còn hình thức áp dụng thí điểm ở
phạm vi hẹp,ở một số ngành là không đem lại kết quả.
Theo thông lệ chung của các nớc áp dụng thuế giá trị gia tăng thì đối t-
ợng chịu thuế giá trị gia tăng là hàng hoá,dịch vụ tiêu dùng nội địa bao gồm
cả hàng hoá nhập khẩu.Về đối tợng không chịu thuế giá trị gia tăng ,các nớc
có quy định khác nhau,thờng là những hàng hoá,dịch vụ tiêu dùng phục vụ
thiết yếu cho con ngời và phục vụ cho lợi ích công cộng xã hội và an ninh
quốc phòng không nhằm mục đích kinh doanh vì lợi nhuận.Số lợng nhóm
hàng hoá,dịch vụ không chịu thuế tuỳ theo luật của từng nớc quy định.Ví dụ :
ở Đài Loan quy định 30 nhóm hàng hoá,dịch vụ không chịu thuế;ở Inđônêxia
quy định có 15 nhóm hàng hoá,dịch vụ không chịu thuế;ở Hungari quy định
có 5 nhóm hàng hoá dịch vụ không chịu thuế.
10
1.2.Căn cứ tính thuế GTGT
Về giá tính thuế GTGT có hai cách xác định nh sau :

Cách thứ nhất,giá tính thuế là giá đã bao gồm thuế GTGT.Ví dụ nh ở
Pháp, thuế GTGT đợc tính vào giá bán và là yếu tố cấu thành giá bán sản
phẩm hàng hoá.Có nghĩa là thuế đợc tính trên giá bán đã bao gồm thuế.
Cách thứ hai,giá tính thuế là giá cha bao gồm thuế.Cách tính này áp
dụng ở hầu hết các nớc.Cách tính này làm cho bên mua và bên bán thấy rõ
ràng hơn giá cha có thuế và số thuế GTGT.
Trong trờng giá thực và giá ghi trên hoá đơn,chứng từ có sự khác biệt
thì xét về phơng diện pháp lý chừng nào cha chứng minh đợc giá ghi trên hoá
đơn chứng từ là không phù hợp với giá thực thì vẫn phải dựa vào giá ghi trên
hoá đơn chứng từ để xác định phạm vi mức độ nghĩa vụ thuế GTGT.Còn ngợc
lại, nếu chứng minh đợc thì phải dựa vào giá thực để xác định mức độ nghĩa
vụ thuế GTGT đồng thời chủ thể vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý
về hành vi gian lận của mình.
Thời điểm tính thuế thông thờng đợc xác định khi một trong các yếu tố
sau phát sinh : giao hàng,chuyển giao quyền sở hữu,nhận thanh toán,phát hành
hoá đơn GTGT,sử dụng hàng hoá,dịch vụ.Nhng thông thờng đối với hàng hoá
là khi hàng hoá đợc bán,còn đối với dịch vụ là khi ngời cung cấp dịch vụ nhận
đợc tiền trả cho dịch vụ.
Thuế suất là đại lợng xác định mức độ,phạm vi nghĩa vụ nộp thuế trên
một đơn vị của đối tợng chịu thuế.Hay nói cách khác thuế suất là định mức
thu thuế(mức thuế phải thu)trên một đơn vị của đối tợng chịu thuế.Đây chính
là mối quan tâm hàng đầu của ngời nộp thuế.Vì vậy, việc xác định thuế suất
phải quán triệt đợc quan điểm vừa coi trọng lợi ích chung của quốc gia vừa
phải chú ý đến lợi ích của ngời nộp thuế.
Mỗi nớc tuỳ vào đặc điểm kinh tế xã hội và chế độ thu thuế doanh
thu trớc đó mà có các quy định về thuế suất thuế GTGT cho phù hợp.Hầu hết
11
các nớc đều áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu.Đối tợng áp
dụng thuế suất 0% đợc thoái trả lại số thuế GTGT đã chịu trên hàng hoá đầu
vào.Biện pháp này đợc đánh giá là hữu hiệu nhất đối với việc khuyến khích

xuất khẩu.Cũng có một số nớc áp dụng thuế suất 0% đối với các mặt hàng và
dịch vụ khác nh Thuỵ Điển(đối với báo chí xuất bản hàng ngày,xăng máy bay
phản lực),Canada(đối với lơng thực,thực phẩm,các dịch vụ tài chính quốc
tế).Bên cạnh đó,cũng có nớc không áp dụng thuế suất 0% nh Đan Mạch và
Trung Quốc.
Hiện nay ở các nớc hai loại cơ cấu thuế suất thuế GTGT :
Thứ nhất,loại hình áp dụng một thuế suất(không kể thuế suất 0% áp
dụng với xuất khẩu và một số mặt hàng thiết yếu) : Theo thống kê thì trong số
100 nớc thì có 44 nớc áp dụng thuế GTGT với cơ chế một thuế suất,trong đó
Đan Mạch là một nớc có mức thuế suất cao nhất(32%);Nhật,Singapore là nớc
có mức thuế suất thấp nhất(3%).
Thứ hai,loại hình áp dụng nhiều thuế suất(không kể thuế suất 0%) :
Ngoài các nớc áp dụng một thuế suất,các nớc còn lại áp dụng thuế GTGT với
nhiều mức thuế suất và số lợng thuế suất khoảng từ 2 đến 5 thuế suất(trờng
hợp Côlômbia 5 thuế suất);thuế suất thấp nhất là 1% (Bỉ,Thổ Nhĩ Kỳ),2%(Hàn
Quốc) và thuế suất cao nhất là 50%(Senegal),45% (Trung Quốc),38%(ý) và
36%(Hy Lạp).Phần lớn các nớc áp dụng cơ chế 3 thuế suất,chỉ một số nớc áp
dụng cơ chế 5 thuế suất(Bỉ và Côlômbia),cơ chế 4 thuế suất(ý),cơ chế 2 thuế
suất(Đức và Nhật).Với các nớc áp dụng cơ chế nhiều thuế suất,thì mức thuế
suất tiêu chuẩn đợc áp dụng cho hầu hết các hàng hoá,dịch vụ.Mức thuế suất
thấp nhất đợc áp dụng cho các hàng hoá dịch vụ thiết yếu,cần khuyến
khích.Còn mức thuế suất cao nhất đợc áp dụng cho hàng hoá,dịch vụ cần hạn
chế.
Trong hai dạng cơ chế trên thì cơ chế một thuế suất đợc coi là cơ chế lý
tởng,nhiều u điểm.Theo nh ý kiến không chính thức của Phòng thơng mại Đức
12
trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT đã cho rằng khoảng 80% sự phức tạp
tạo ra đối với doanh nghiệp là do áp dụng cơ cấu nhiều thuế suất
1
.Các nớc đều

cố gắng giảm số lợng thuế suất áp dụng,nh nớc Anh ban đầu chuyển từ cơ chế
một thuế suất sang hai thuế suất rồi lại phải quay trở lại áp dụng cơ chế một
thuế suất thống nhất.
Cơ chế nhiều thuế suất chỉ đạt đợc hiệu quả ở giai đoạn đầu khi chuyển
từ chế độ thuế doanh thu(nhiều mức thuế suất)sang áp dụng chế độ thuế
GTGT, nhng cơ chế này có nhợc điểm,đó là không đảm bảo sự bình
đẳng,công bằng giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành nghề
khác nhau,bởi vì cùng một giá trị tăng thêm nhng ở mỗi ngành nghề khác
nhau lại áp dụng mức thuế suất khác nhau do đó số thuế phải nộp cao thấp
khác nhau.
Ngoài việc phản ánh đúng chính sách thuế trong việc xác định số lợng
thuế suất và mức thuế suất thì pháp luật thuế GTGT cần xác định thật rõ ràng
các tiêu chí để phân định danh mục hàng hoá,dịch vụ trong biểu thuế, làm thế
nào để một mặt hàng hay dịch vụ chỉ có thể áp dụng vào một loại thuế suất
chứ không thể là hai hoặc ba mức.Đây là nội dung hết sức quan trọng về ph-
ơng diện pháp lý để xác định đúng phạm vi mức độ của nghĩa vụ thuế GTGT.
1.3.Phơng pháp tính thuế GTGT
Phơng pháp tính thuế GTGT là những cách thức tính toán số thuế
GTGT phải nộp của các đối tợng nộp thuế vào Ngân sách nhà nớc.
Để tính số thuế GTGT mà tổ chức hay cá nhân kinh doanh phải nộp đợc
xác định trên cơ sở căn cứ tính thuế(thu nhập,doanh thu,giá trị tài sản,vốn .)
và áp dụng thuế suất đối với giá trị đó.Giá trị gia tăng có thể đợc tính bằng hai
cách :
Giá trị gia tăng = Tiền công + Lợi nhuận
hay Giá trị gia tăng = Giá đầu ra Giá đầu vào
1
TheoThe Value Added Tax,the UK position and the European experience,trang 9,David Stout
13
Nh vậy nếu gọi t% là thuế suất thì ta có thể có bốn cách tính thuế GTGT
nh sau

1
:
1)Thuế GTGT = t x(tiền công + lợi nhuận) (phơng pháp cộng trực tiếp)
2)Thuế GTGT = t x(tiền công) + t x(lợi nhuận) (phơng pháp cộng gián
tiếp)
3)Thuế GTGT = t x(Giá đầu ra Giá đầu vào) (phơng pháp trừ trực tiếp)
4)Thuế GTGT = t x(Giá đầu ra) t x(Giá đầu vào) (phơng pháp trừ gián
tiếp)
Trong bốn phơng pháp trên thì phơng pháp 1 và 3 là các phơng pháp kế
toán,vì vậy cần phải xác định đợc lợi nhuận,giá đầu ra và đầu vào của từng kỳ
nộp thuế.Trên thực tế,điều này là rất phức tạp,nhất là đối với trờng hợp nhiều
nguyên vật liệu đầu vào khác nhau,mức tiêu hao khác nhau và còn phải chia
doanh thu bán hàng của từng loại sản phẩm có thuế suất áp dụng khác
nhau.Các cách tính này không áp dụng đợc nếu sử dụng thuế GTGT có nhiều
thuế suất.Vì vậy,các phơng pháp này chỉ tồn tại về mặt lý thuyết.Phơng pháp 2
cũng là phơng pháp lý thuyết vì việc phải xác định lợi nhuận kịp thời là không
khả thi.
Thực tế áp dụng thuế GTGT ở các nớc cho thấy chỉ có phơng pháp thứ
t là mang tính thực tế hơn cả.Bởi vì,chỉ cần xác định tổng số thuế nộp trên
doanh thu bán ra và tổng số thuế nộp trên hàng hoá dịch vụ mua vào(bất kể
thuế suất áp dụng là bao nhiêu),chênh lệch giữa hai tổng trên chính là số thuế
phải nộp vào cuối kỳ.Phơng pháp này còn gọi là phơng pháp khấu trừ hay ph-
ơng pháp hoá đơn,nhờ đó có thể dễ dàng tính đợc nghĩa vụ thuế một cách kịp
thời theo từng tháng,từng quý hoặc từng năm,và cho phép áp dụng nhiều loại
thuế suất.
1
Xem Thuế giá trị gia tăng,Tài liệu tham khảo,Bộ Tài Chính,1993.Tr3 Tr5
14
ở các nớc đã thực hiện thuế GTGT hiện nay áp dụng một trong hai ph-
ơng pháp tính thuế GTGT là phơng pháp khấu trừ theo hoá đơn và phơng pháp

tính chênh lệch theo báo cáo kế toán.
Theo phơng pháp khấu trừ theo hoá đơn thì số thuế phải nộp bằng số
thuế đầu ra trừ đi số thuế đầu vào.Nếu kết quả là một số dơng thì đó là số thuế
GTGT phải nộp vào Ngân sách nhà nớc trong tháng đó,nếu kết quả là một số
âm thì đợc chuyển bù trừ vào số thuế GTGT phải nộp của tháng sau hoặc đề
nghị cơ quan thuế hoàn lại theo quy định của pháp luật.
Trong phơng pháp khấu trừ,số thuế đầu ra bằng giá tính thuế của hàng
hoá bán ra nhân với thuế suất(đợc ghi trên hoá đơn GTGT đầu ra),còn số thuế
đầu vào đợc tính bằng giá tính thuế của hàng hoá mua vào nhân với thuế suất
(cũng đợc ghi trên hoá đơn).
Việc xác định nghĩa vụ thuế GTGT theo phơng pháp khấu trừ hoàn toàn
loại trừ khả năng tính thuế chồng lên thuế, vì vậy hầu hết các nớc đều áp dụng
phơng pháp này.Sở dĩ vậy, bởi vì :
Thứ nhất,tính thuế dựa vào hoá đơn đảm bảo xác định thuế có cơ sở và
có căn cứ để kiểm tra thuế bởi giá tính thuế,thuế suất cũng nh số thuế phải nộp
đợc ghi rất rõ ràng trên hoá đơn.
Thứ hai,có thể áp dụng chính sách thuế với nhiều thuế suất(nếu thu thuế
theo phơng pháp tính chênh lệch theo báo cáo kế toán chỉ có thể áp dụng 1
thuế suất)
Thứ ba,có thể tính thuế GTGT thu thuế theo thời gian ấn định một
tháng,một quý thậm chí là một năm.
Phơng pháp thu thuế GTGT trên chênh lệch theo báo cáo kế toán :
Phơng pháp này xác định thuế phải dựa vào số liệu báo cáo kế toán của đơn vị.
áp dụng phơng pháp này sẽ nảy sinh những vấn đề sau :
15
Thứ nhất,các xí nghiệp coi thuế GTGT chỉ là thuế bổ sung đánh vào lợi
nhuận,còn các nhân viên của họ thì coi đó là lại thêm một thứ thuế nữa đánh
vào quỹ tiền lơng.
Thứ hai,báo cáo chỉ kết thúc một lần trong năm,vậy là tất cả các khoản
thanh toán thuế GTGT phải dựa vào số quyết toán năm.

Thứ ba,khó kiểm tra thuế phải nộp từng kỳ so với phơng pháp sử dụng
hoá đơn và không có cơ sở để tiến hành các cuộc kiểm tra chéo thuế giữa đơn
vị mua và bán.
Mô hình thuế GTGT Nhật Bản đợc sử dụng theo phơng pháp này
1/4/1989 : Thu thuế GTGT trên cơ sở báo cáo kế toán với một thuế suất là 3%
và đã quyết định điều chỉnh lên 5% để thi hành từ tháng 4/1997.Nhật Bản
không phát hành hoá đơn áp dụng riêng đối với thuế GTGT vì các doanh
nghiệp phản ứng,theo phơng pháp tính thuế hiện hành các doanh nghiệp tự
tính và nộp thuế.Các doanh nghiệp nhỏ không phải nộp thuế GTGT.
Trong thực tế vận hành thuế GTGT tại các nớc phát triển,luật chỉ quy
định duy nhất một phơng pháp tính thuế GTGT là : Thuế GTGT phải nộp bằng
thuế GTGT thu khi bán hàng trừ đi thuế GTGT phải trả khi mua hàng theo
từng kỳ hạch toán.Về bản chất đây chính là phơng pháp khấu trừ.
1.4.Vấn đề quản lý thu,nộp thuế GTGT
1.4.1.Về đăng ký thuế
Sự kiện làm phát sinh nghĩa vụ đăng ký thuế GTGT là sự ra đời,thay đổi
hoặc chấm dứt của chủ thể kinh doanh.Thời điểm phát sinh nghĩa vụ này đợc
xác định kể từ ngày đối tợng nộp thuế đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.Khoảng thời gian mà đối tợng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký
thuế,đợc gọi là thời hạn thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế,khoảng thời gian này
tuỳ vào sự quy định pháp luật của mỗi nớc,song đều lấy thời điểm cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh để tính thời hạn thực hiện nghĩa vụ đăng ký
16
thuế.Kết quả của đăng ký thuế là mỗi một đối tợng nộp thuế đợc cấp một mã
số thuế.
Việc đăng ký thuế phải tuân theo quy trình sau : Các đối tợng nộp thuế
phải thực hiện nghĩa vụ đầu tiên là đăng ký thuế tại các cơ quan thuế địa ph-
ơng nơi đặt trụ sở hoặc nơi c trú của mình theo mẫu thống nhất do cơ quan
thuế cung cấp.Cơ quan thuế cấp giấy chứng nhận đăng ký nộp thuế cho đối t-
ợng nộp thuế.Trong giấy chứng nhận có số đăng ký thuế GTGT quy định

riêng cho đối tợng nộp thuế đó.Ngoài cách thông thờng là quy định số đăng
ký mới(mã số thuế mới) cho từng đối tợng nộp thuế, một số nớc sử dụng mã
số đăng ký thuế cũ(thuế doanh thu) và thêm vào đuôi của dãy số đăng ký một
số bổ sung để chỉ rõ là số đăng ký thuế GTGT. Riêng Nhật Bản không sử
dụng hệ thống mã hoá và số đăng ký trong công tác quản lý thuế GTGT.
Về nguyên tắc cơ quan thuế chỉ cấp một mã số thuế duy nhất cho đối t-
ợng nộp thuế và khi đối tợng này không còn hoạt động nữa thì mã số thuế đã
đợc cấp sẽ không đợc sử dụng và không đợc dùng lại để cấp cho đối tợng nộp
thuế khác.Các đối tợng sau khi đã chấm dứt hoạt động mà hoạt động trở lại thì
phải thực hiện lại việc đăng ký thuế và đợc cấp mã số thuế mới.
1.4.2.Về vấn đề nộp thuế
Nộp thuế GTGT là việc ngời cung cấp hàng hoá,dịch vụ chuyển số thuế
đã thu hộ nhà nớc do ngời tiêu dùng trả thông qua cơ chế giá khi mua hàng
hoá,dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT vào Kho bạc nhà nớc.
Có hai hình thức nộp thuế :
Thứ nhất,đối tợng nộp thuế nộp trực tiếp cho cơ quan thuế,hình thức
này có u điểm là cơ quan thuế dễ kiểm tra giữa số thực nộp và số phải
nộp.Song hình thức này biểu lộ nhiều nhợc điểm nh bộ máy hành chính thuế
cồng kềnh, hiện tợng xâm tiêu thuế dễ phát sinh.
Thứ hai,đối tợng nộp thuế nộp gián tiếp thông qua ngân hàng hoặc kho
bạc nhà nớc.Hình thức này khắc phục đợc nhợc điểm của hình thức trên nhng
17
nó lại có một nhợc điểm đó là khó kiểm soát đợc số thuế thực nộp và số thuế
phải nộp, nếu mối quan hệ giữa cơ quan thuế với ngân hàng,kho bạc thiếu sự
chặt chẽ.
Có hai cơ chế nộp thuế :
Thứ nhất,các đối tợng nộp thuế tự tính thuế và nộp thuế.Cơ chế này có
nhiều u điểm: 1. Nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trớc pháp luật của đối tợng
nộp thuế; 2. Giảm khối lợng công việc cho cơ quan thuế cũng nh chi phí quản
lý hành chính thuế; 3. Phân định rạch ròi trách nhiệm của cơ quan thuế,của

đối tợng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế GTGT.
Thứ hai,các đối tợng nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế.Cơ chế
này chỉ phù hợp với cơ chế quản lý hành chính bao cấp, còn trong cơ chế thị
trờng thì việc nộp thuế theo thông báo bộc lộ rõ sự thiếu phù hợp.Do vậy, cơ
chế này chỉ đợc áp dụng khi các đối tợng có gian lận trong quá trình tự kê
khai nộp thuế hoặc các đối tợng không thể nào tự tính đúng số thuế phải nộp
của mình.
Đa số các nớc áp dụng thuế GTGT thực hiện nộp thuế theo cơ chế tự kê
khai,tính và nộp thuế theo mẫu in sẵn do cơ quan thuế cung cấp,các đối tợng
nộp thuế phải nộp tờ khai và thanh toán thuế theo định kỳ tháng,quý(tuỳ theo
chế độ nộp thuế quy định cho từng loại đối tợng).Thuỵ Điển là nớc thực hiện
có hiệu quả cơ chế tự kê khai nộp thuế GTGT
1
1.4.3.Về vấn đề hoàn thuế và khấu trừ thuế
Việc hoàn thuế(thoái thuế) đợc giao cho cơ quan thu thuế,trong trờng
hợp số thuế đợc khấu trừ lớn(xuất khẩu hàng hoá hoặc mua sắm tài sản giá trị
lớn)đối tợng kinh doanh có quyền kê khai đề nghị cơ quan thuế thoái trả tiền
thuế đã trả khâu trớc.Cơ quan thuế kiểm tra và thoái trả thuế cho cơ sở ngay
một lần hoặc thoái trả dần trong một thời gian tuỳ theo quy định của từng nớc
và khả năng ngân sách của mỗi nớc.Theo cách này cơ quan thuế thờng có một
1
Theo báo cáo khảo sát của Tổng cục thuế năm 1993
18
tài khoản thu thuế GTGT và sử dụng nguồn thu để thoái thuế,khoản còn lại
nộp vào Ngân sách nhà nớc.
Tính chất của hoàn thuế :
Thứ nhất,hoàn thuế là quyền pháp lý của đối tợng nộp thuế đợc xuất
hiện trên cơ sở yếu tố luật định một cách khách quan.
Đối tợng nộp thuế chỉ là ngời trung gian trong quan hệ nộp thuế,lợi ích
của họ sẽ không bị ảnh hởng gì nếu số thuế đúng,nếu số thuế sai thì họ sẽ phải

nộp lại số thuế còn thiếu hoặc đợc nhận lại số thuế đã nộp thừa do nhà nớc trả
theo chế độ hoàn thuế.Vấn đề này đợc pháp luật đa số các nớc thừa nhận và
coi đó là một quyền pháp lý của đối tợng nộp thuế.
Thứ hai,hoàn thuế GTGT mang tính chất u đãi,tài trợ của Nhà nớc.
Không phải bất cứ chủ thể nào cũng có quyền đợc hoàn thuế mà chỉ
những chủ thể nào mà Nhà nớc cần khuyến khích mới đợc hoàn thuế.
Với tính chất u đãi,tài trợ của Nhà nớc,hoàn thuế cũng là một khoản chi
của Ngân sách nhà nớc.Do vậy,quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế đợc coi
nh một lệnh chi.Kho bạc nhà nớc căn cứ vào quyết định hoàn thuế của cơ
quan thuế thực hiện chi hoàn thuế.
Phạm vi hoàn thuế và điều kiện hoàn thuế tuỳ thuộc vào điều kiện kinh
tế và khả năng quản lý thuế của từng nớc.Nói chung,các nớc thờng áp dụng
hoàn thuế cho các đối tợng là hàng hoá,dịch vụ xuất khẩu nhằm khuyến khích
xuất khẩu.
Trên thực tế vấn đề hoàn thuế GTGT cũng đợc quy định khác nhau ở
mỗi nớc,nh theo quy định của Luật thuế GTGT của Thái Lan,bất kỳ tháng nào
mà thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra thì đều đợc quyền xin hoàn thuế,hoặc
từng lần đối với kinh doanh xuất khẩu.Đối tợng nộp thuế đợc lựa chọn xin
hoàn thuế hoặc khấu trừ vào kỳ sau.Thuế đầu vào phát sinh trong tháng mà
cha khấu trừ có thể đợc khấu trừ vào số thuế đầu ra trong vòng 3 năm tiếp
theo,với điều kiện đợc phép của giám đốc Sở thuế.
19
Theo Luật thuế GTGT ở Pháp thì nếu nh trong tháng số thuế phải nộp
nhỏ hơn số thuế đợc khấu trừ thì số thuế không đợc khấu trừ sẽ đợc chuyển
dần sang các tháng sau.Việc hoàn thuế có thể đợc thực hiện vào đầu năm sau
cho số thuế nộp quá của năm trớc,hoặc đợc hoàn theo quý,nếu số tiền cha đợc
khấu trừ lớn hơn một mức nhất định.
Khấu trừ thuế GTGT có thể đợc tổng quát nh sau : Để sản xuất một
loại hàng hoá hay cung ứng một dịch vụ thì cần phải có các chi phí đầu
vào,đối với những chi phí đầu vào trực tiếp cấu thành lên giá thành của hàng

hoá thì khi tính số thuế phải nộp,đối tợng nộp thuế đợc quyền trừ khoản thuế
này từ số thuế mà họ thu đợc ghi trên hoá đơn cho khách hàng,có nghĩa là đối
tợng nộp thuế chỉ phải nộp phần chênh lệch giữa số thuế đã thể hiện trên hoá
đơn và số thuế đợc khấu trừ.
Phạm vi áp dụng khấu trừ thuế GTGT : Khấu trừ thuế GTGT chỉ áp
dụng đối với những chi phí đầu vào trực tiếp phục vụ cho quá trình hình thành
nên sản phẩm chịu thuế GTGT.Đối với các chi phí là tài sản cố định thì tỷ lệ
khấu trừ theo phần áp dụng cho mọi tài sản cố định đợc xác định bằng cách
so sánh giữa khoản tiền doanh thu hàng năm và tổng doanh thu đạt đợc.
Đối với tài sản khổng thuộc tài sản cố định và các hoạt động dịch vụ thì
khi khấu trừ phải áp dụng nguyên tắc phân bổ thờng phân bổ theo thực tế
(theo mức tiêu hao vật chất cho các nghiệp vụ chịu thuế)
Tỷ lệ khấu trừ đợc tính theo năm dơng lịch,căn cứ vào doanh thu của
năm dơng lịch trớc đó hoặc căn cứ vào doanh thu dự toán của năm đang thực
hiện.
Điều kiện để đợc khấu trừ : đó là những tài liệu chứng minh về số thuế
đợc khấu trừ.Nhìn chung thuế GTGT phải đợc thể hiện trên hoá đơn,vì vậy về
nguyên tắc ngời nộp thuế có quyền khấu trừ số thuế thể hiện trên hoá đơn mua
do ngời cung cấp viết với điều kiện những nhà cung cấp này về mặt pháp lý có
quyền đợc thể hiện số thuế trên hoá đơn.
20
Quyền khấu trừ chỉ đợc thực hiện nếu ngời nộp thuế nắm giữ hoá đơn t-
ơng ứng với thời điểm mà họ thực hiện quyền khấu trừ.
Những tài liệu gốc chứng minh các nghiệp vụ có quyền khấu trừ phải đ-
ợc bảo quản trong một thời gian nhất định,điều này tuỳ thuộc sự quy định của
pháp luật từng nớc,nh Thuỵ Điển quy định là 10 năm,Pháp quy định là 6
năm
Cơ sở để quản lý vấn đề hoàn thuế và khấu trừ thuế là hoá đơn thuế.Các
nớc đều quy định cụ thể các yếu tố cơ bản phải có của một hoá đơn thuế hợp
lệ.Mọi đối tợng có hoạt động bán hàng hoá dịch vụ chịu thuế đều phải cấp hoá

đơn khi bán hàng hoá,cung cấp dịch vụ cho ngời mua.Hoá đơn phải thể hiện
rõ ràng hàng hoá dịch vụ cha có thuế,và số thuế GTGT tính trên giá hàng.
Chế độ kế toán cùng là yếu tố bắt buộc để các doanh nghiệp thực hiện
luật thuế GTGT nh : các đối tợng nộp thuế phải ghi sổ đầy đủ doanh số từng
lần bán hàng, và phân biệt theo từng loại hàng chịu thuế và không chịu
thuế(nếu có), và mọi chi phí mua nguyên vật liệu,hàng hoá,dịch vụ đầu
vào;các hoá đơn chứng từ liên quan đến các hoạt động có thể đợc khấu trừ
phải là chứng từ gốc và hợp lệ;sổ sách và hoá đơn chứng từ phải đợc lu giữ
theo thời hạn quy định của pháp luật.
2.Hiệu quả pháp luật thuế GTGT
2.1.Định nghĩa hiệu quả pháp luật
Pháp luật là một hiện tợng xã hội quan trọng và vô cùng phức tạp,do
vậy có thể xem xét nó dới nhiều góc độ và phơng diện với những biểu hiện cụ
thể khác nhau.Dới góc độ hiệu quả pháp luật thì có rất nhiều quan niệm khác
nhau :
Một số tác giả cho rằng hiệu quả pháp luật thể hiện ở sự đúng đắn,sự
phù hợp của pháp luật.Theo các tác giả này thì pháp luật càng phù hợp với các
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội,các định hớng chính trị và các
yếu tố khác bao nhiêu thì càng có hiệu quả cao bấy nhiêu.Tuy nhiên đây mới
21
chỉ là tiền đề,là điều kiện chứ cha phải hoàn toàn là hiệu quả pháp luật đợc.Bởi
lẽ có rất nhiều quy phạm pháp luật đợc ban hành rất chính xác,phù hợp nhng
do nhiều nguyên nhân khác nhau chúng không đợc thực hiện trên thực tế.Nh
vậy, không thể đánh giá đợc hiệu quả của chúng nếu chỉ dựa vào sự phù hợp
của quy phạm pháp luật.
Một số tác giả khác lại cho rằng hiệu quả pháp luật xuất phát từ hiệu
quả của từng bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật .Trên thực tế hiệu quả
pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào chất lợng,sự đầy đủ,sự thích hợp của từng bộ
phận cấu thành quy phạm pháp luật.Tuy nhiên từng bộ phận của một quy
phạm pháp luật lại không thể tồn tại và tự tác động riêng rẽ.Chúng chỉ phát

huy đợc tác dụng của mình khi liên kết với các bộ phận khác tạo nên quy
phạm pháp luật.Do vậy,chỉ có thể nói tới hiệu quả của quy phạm pháp luật nói
chung chứ không thể nói tới hiệu quả của từng bộ phận của quy phạm pháp
luật đợc.
Một số tác giả khác lại tiếp cận hiệu quả pháp luật từ lĩnh vực áp dụng
pháp luật .Theo họ hiệu quả pháp luật là mức độ thực tế đạt đợc những mục
đích xã hội có ích mà vì chúng pháp luật đã đợc ban hành.Cách xác định hiệu
quả pháp luật nh vậy cũng sẽ không bao quát hết đợc tính hiệu quả của bản
thân pháp luật bởi cách tiếp cận này chỉ có thể sử dụng đối với những luật
đang có hiệu lực thực tế và khi luật có những khiếm khuyết,sai sót nhất định
mà không đợc khắc phục thì sẽ làm giảm đi tính hiệu quả của hoạt động áp
dụng pháp luật .
Ngoài ra,còn có quan điểm cho rằng hiệu quả pháp luật là sự đạt đợc
mục đích đề ra khi ban hành quy phạm pháp luật với những chi phí ít nhất hay
hiệu quả pháp luật là khả năng pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội theo
những hớng đã đợc xác định.Nhng tất cả các quan điểm trên không phản ánh
đúng nhất về hiệu quả pháp luật.
22
Tổng hợp tất cả các cách tiếp cận trên,chúng ta có thể rút ra định nghĩa
về hiệu quả pháp luật nh sau :
Hiệu quả pháp luật là kết quả cụ thể đạt đợc trong quá trình pháp luật
tác động vào các quan hệ xã hội nhằm đạt đợc những mục đích và yêu cầu đặt
ra.
2.2.Hiệu quả pháp luật thuế GTGT
Từ định nghĩa trên chúng ta có thể đa ra định nghĩa về hiệu quả pháp
luật thuế GTGT nh sau :
Hiệu quả pháp luật thuế GTGT là kết quả cụ thể đạt đợc trong quá
trình pháp luật GTGT tác động vào các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật thuế GTGT nhằm đạt đợc những mục đích và yêu cầu đặt ra.
Nh vậy,để đánh giá một cách chính xác hiệu quả pháp luật thuế GTGT

ở nớc ta hiện nay,đòi hỏi phải nghiên cứu đánh giá kỹ càng các quy định của
chế độ thuế GTGT hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định đó làm phát
sinh những vấn đề gì để có thể kết luận chính xác rằng chúng ta đã đạt mục
đích mà khi ban hành luật thuế GTGT đã đặt ra hay cha.Và từ đó mới có thể
kết luận rằng hiệu quả pháp luật thuế GTGT hiện hành đã cao hay cha.
2.3.Những yếu tố ảnh hởng tới hiệu quả pháp luật thuế GTGT
Những yếu tố và điều kiện có ảnh hởng trực tiếp tới hiệu quả pháp luật
nói chung là những yếu tố có liên quan tới cơ chế điều chỉnh pháp luật và các
giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật.Đó là :
- Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
- Sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật.
- ý thức pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của
công dân.
2.3.1.Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thuế GTGT
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thuế GTGT có ảnh hởng rất lớn tới
hiệu quả pháp luật thuế GTGT.Hệ thống pháp luật thuế GTGT có hoàn chỉnh,
23
đồng bộ,sát với thực tế,phù hợp với các quy luật khách quan của sự phát triển
của xã hội,phù hợp với các điều kiện kinh tế chính trị,văn hoá xã hội đáp
ứng nhu cầu đòi hỏi của đất nớc ở mỗi thời kỳ phát triển thì hiệu quả pháp luật
thuế GTGT mới cao.Ngợc lại,một hệ thống pháp luật còn thiếu,còn nhiều bất
cập thì không thể có hiệu quả pháp luật cao đợc mà nó còn làm phát sinh
nhiều vớng mắc trong quá trình áp dụng làm giảm hiệu quả của hệ thống
pháp luật đó.
2.3.2.Sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật thuế GTGT
Để góp phần nâng cao hiệu quả tác động của pháp luật thuế GTGT
trong đời sống xã hội thì vấn đề quan trọng là thực hiện đúng đắn,nghiêm
minh các quy định của luật thuế.Trong đó,áp dụng pháp luật là một hình thức
thực hiện pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì trong đó có sự hiện
diện của chủ thể nhân danh quyền lực Nhà nớc.

Mục đích trực tiếp của áp dụng pháp luật là đảm bảo cho các quy phạm
pháp luật đợc thực hiện đầy đủ,chính xác,nghiêm minh trong cuộc sống.Nếu
thiếu sự đảm bảo này thì trong nhiều trờng hợp các quy phạm pháp luật sẽ
không đợc thực hiện,hoặc đợc thực hiện không chính xác,không đúng và nh
vậy chúng sẽ không phát huy đợc hiệu quả trong đời sống thực tế.
Hoạt động áp dụng pháp luật có liên quan rất chặt chẽ tới hoạt động xây
dựng pháp luật.Để thực hiện và áp dụng pháp luật có hiệu quả trớc hết phải có
pháp luật tốt hay nói cách khác hệ thống pháp luật thuế GTGT phải đợc hoàn
thiện ở mức độ cao.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật thuế GTGT thì bản lĩnh chính
trị,trình độ pháp lý cũng nh ý thức pháp luật của cán bộ thuế có ảnh hởng rất
lớn tới hiệu quả pháp luật thuế GTGT,bởi vì ngời cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng,có sự hiểu biết về pháp luật,có ý thức pháp luật cao,có phẩm chất
đạo đức tố thì mới có thể độc lập áp dụng pháp luật,áp dụng có hiệu quả.
24
Sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật còn thể hiện ở những
điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp
luật đợc tiến hành bình thờng.Đặc biệt trong tình hình hiện nay,với sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế,sự tiến bộ vợt bậc của khoa học và công
nghệ,đòi hỏi phải quản lý thuế theo một quy trình mới,ứng dụng khoa học kỹ
thuật hiện đại mà đặc biệt là công nghệ thông tin vào quản lý thuế,do đó,phải
tăng cờng trang thiết bị hiện đại vào quản lý thuế thì áp dụng luật thuế mới
hiệu quả đợc.Bên cạnh đó,kinh phí cho hoạt động áp dụng pháp luật thuế cũng
là một trong những điều kiện cần thiết,quan trọng để việc áp dụng luật thuế có
hiệu quả.Ngoài ra còn phải quan tâm tới đời sống vật chất và tinh thần của ng-
ời cán bộ và gia đình họ,giúp họ giảm bớt những khó khăn về vật chất,để có
thể tận tâm dồn hết thời gian,sức lực và trí tuệ cho công việc,không bị mua
chuộc về vật chất,giữ đợc thái độ vô t khách quan trong công việc.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật,thì hoạt động xử lý vi phạm pháp
luật thuế GTGT cũng chiếm một vị trí quan trọng và có ảnh hởng rất lớn tới

hiệu quả pháp luật.Bởi vì,việc xử lý nghiêm minh,dứt điểm,kịp thời các trờng
hợp vi phạm luật thuế có thể ngăn chặn đợc tình trang vi phạm xảy ra trên quy
mô rộng,giáo dục đợc những đối tợng vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và
tái phạm,ngăn ngừa đợc những đối tợng khác vi phạm luật thuế.
Bên cạnh đó, sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chức năng nh cơ
quan thuế,hải quan,viện kiểm sát,công an cũng có ảnh h ởng rất lớn tới hiệu
quả pháp luật thuế GTGT,bởi vì giữa các cơ quan trên có sự phối hợp chặt chẽ
thì việc áp dụng pháp luật mới đợc diễn ra một cách thuận lợi,liên tục,đúng
trình tự thủ tục,và đảm bảo các quy định của pháp luật đợc thực hiện đúng và
đầy đủ.
Tóm lại,sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật chiếm một vị trí
quan trọng và ảnh hởng rất lớn tới hiệu quả tác động của pháp luật thuế
GTGT, hoạt động áp dụng đợc thực hiện tốt thì hiệu quả pháp luật mới đợc
25

×