Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Nâng cao hiệu quả tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ ở Hà Tây - Các phương hướng và giải pháp.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.27 KB, 70 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngành nghề truyền thống Việt Nam nói chung, của Hà Tây nói riêng rất đa
dạng và phong phú, có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời, tạo ra nhiều
sản phẩm phục vụ đời sống con người, đồng thời chứa đựng những giá trị văn
hoá nghệ thuật dân tộc phong phú. Mặc dù trải qua những trình độ phát triển
kinh tế khác nhau song các ngành nghề truyền thống ấy luôn luôn tồn tại trong
cuộc sống của mọi dân tộc Việt Nam.
Hà Tây bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH với
những thuận lợi là tỉnh có vị trí kinh tế đặc biệt, liền kề với thủ đô. Diện tích
2.193km
2
, gồm 3 vùng đồng bằng, trung du và miền núi, có tài nguyên khoáng
sản, nhiều danh lam thắng cảnh như: Chùa Thầy, chùa Hương,... dân số trên 2,4
triệu người, trong đó lực lượng lao động hơn 1 triệu người ở 322 xã, phường với
tổng số 1460 thôn (làng) là tỉnh có nhiều tiềm năng về nguồn nhân lực, đất đai
và tài nguyên để phát triển ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và những
ngành kinh tế khác.
Hà Tây cũng là đất có nhiều nghề và làng nghề thủ công cổ truyền nổi tiếng
đã được giao lưu giới thiệu rộng khắp trong và ngoài nước. Từ năm 1997 đến
nay, đi theo đường lối của Đảng và Nhà nước tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng
thủ công mỹ nghệ đã phát triển vượt bậc góp phần không nhỏ trong sự đi lên của
ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh. Từ đó thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng bình quân hàng năm giai đoạn
1997-2001 là 7,3%.
Tuy nhiên tình hình tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt là về thị trường tiêu thụ, cần phải có một hệ thống quản lý về tiêu
thụ loại hàng hoá này. Từ đó đề ra các chiến lược, sách lược để sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ thực sự là một ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của
tỉnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đi lên.
Với những khó khăn về mặt hàng thủ công mỹ nghệ như vậy, trong Luận
văn tốt nghiệp này em xin trình bày đề tài: "Nâng cao hiệu quả tiêu thụ hàng


thủ công mỹ nghệ ở Hà Tây - Các phương hướng và giải pháp" để góp một
phần công sức nhỏ bé của mình trong việc phát triển các mặt hàng truyền thống
và ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh.
Mục tiêu của Luận văn tốt nghiệp này là đưa ra tình hình tiêu thụ sản phẩm
mỹ nghệ của tỉnh, đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu. Phân tích các nhân tố ảnh
1
hưởng đến sự phát triển của mặt hàng này để có phương hướng lựa chọn hay
thay đổi sao cho phù hợp với tình hình kinh tế của tỉnh cũng như phù hợp với xu
thế phát triển của đất nước.
Ở đây tuy chỉ nghiên cứu một nhóm mặt hàng song nó phân bố ở toàn tỉnh
hơn nữa thời gian nghiên cứu không nhiều và trình độ nhận thức cũng như kiến
thức thực tế của em còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự hướng dẫn của các giáo viên hướng dẫn trong ngành.
Nội dung đề tài:
Lời mở đầu
Phần I: Giới thiệu chung về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Hà Tây.
Phần II: Phân tích thống kê tình hình tiêu thụ hàng mỹ nghệ của
tỉnh từ 1997-2001
Phần III: Các phương hướng và giải pháp
Kết luận và kiến nghị.
2
PHẦN I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG
THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Ở HÀ TÂY
I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG
MỸ NGHỆ
1. Khái niệm hàng thủ công mỹ nghệ
Hàng thủ công mỹ nghệ là các mặt hàng thuộc ngành nghề truyền thống,
được sản xuất ra bởi các nghệ nhân và thợ thủ công, được truyền từ đời này qua
đời khác. Các sản phẩm này thường rất tinh xảo và độc đáo.

Từ những nguyên liệu như: gỗ, vỏ trai, vỏ ốc,... được những nghệ nhân
khéo léo tạo ra sản phẩm mỹ nghệ mang đậm bản sắc dân tộc. Các sản phẩm mỹ
nghệ như: tủ thờ, tủ đứng, sập gụ, bộ bàn ghế, tất cả đều có kiểu rất cổ trên đó có
những đường nét hoa văn mềm mại, uyển chuyển. Hàng thủ công mỹ nghệ chứa
đựng các yếu tố văn hoá một cách đậm nét vì chúng là sản phẩm truyền thống
của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá riêng và có cách thể hiện riêng
qua hình thái, sắc thái sản phẩm. Chính điểm này đã tạo nên sự độc đáo, khác
biệt giữa các sản phẩm có cùng chất liệu ở các quốc gia khác nhau.
Nhìn chung các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều thể hiện mảng đời sống
hiện thực, văn hoá tinh thần với sắc màu đa dạng hoà quyện, mang tính nghệ
thuật đặc sắc. Do đó chúng không chỉ là những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử
dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn là những sản phẩm phục vụ đời sống
tinh thần đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của các dân tộc.
3
Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được tạo ra nhờ sự khéo léo của các thợ
thủ công, sản xuất bằng tay là chủ yếu nên các sản phẩm có chất lượng không
đều, khó tiêu chuẩn hoá.
- Với sự phát triển của cuộc sống, nhu cầu về sản phẩm thủ công mỹ nghệ
ngày càng cao. Mặc dù khoa học công nghệ cho phép sản xuất ra nhiều sản
phẩm đa dạng, phong phú và đẹp nhưng các sản phẩm này thường được sản xuất
hàng loạt, mang tính đồng nhất, chính xác đến từng chi tiết nên biểu cảm tính
nghệ thuật cao. Bởi vậy các sản phẩm thủ công mỹ nghệ dù tinh xảo hay mộc
mạc đều khẳng định được chỗ đứng trong đời sống con người.
- Ở Việt Nam, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ gần đây đang khởi sắc do
nhu cầu tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu đều tăng lên. Cùng với sự mở
rộng giao lưu văn hoá, kinh tế giữa các nước trên thế giới, hàng thủ công mỹ
nghệ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường nhiều nước Châu Âu, Đông Á, Mỹ
và Nam Mỹ. Do vậy, quan tâm và có chính sách thoả đáng phát triển các ngành
nghề này, mở rộng thị trường xuất khẩu là thiết thực bảo tồn và phát triển một
trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc Việt Nam ta. Bên cạnh ý nghĩa

góp phần truyền bá, giới thiệu văn hoá truyền thống ra thế giới, việc đẩy mạnh
xuất khẩu mặt hàng này còn góp phần tạo ra một lượng lớn công ăn viẹc làm,
giải quyết tình trạng dư thừa lao động, nhất là ở nông thôn trong thời gian nông
nhàn, giúp họ có thêm thu nhập góp phần xoá đói giảm nghèo.
- Đối với tỉnh Hà Tây, việc phát triển thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ không chỉ mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho các lao động
trong nghề mà còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội to lớn cho tỉnh đó là giải quyết
công ăn việc làm, tăng ngân sách tỉnh,...
- Tuy nhiên với sản phẩm ngày càng nhiều, nhu cầu của khách hàng đòi hỏi
ngày càng cao thì việc thay đổi mẫu mã, chất lượng là việc làm cực kỳ quan
trọng để sản phẩm có được chỗ đứng trên thị trường.
4
2. Các hình thức tổ chức sản xuất.
2.1. Hộ gia đình.
Có 2 loại hộ gia đình sản xuất.
- Hộ chuyên làm ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.
- Hộ gia đình kiêm nghiệp (tức là còn một nghề khác, thường là nghề nông).
Hình thức này tận dụng được mọi lao động trong gia đình từ cụ già đến trẻ
em đều có thể làm được, để tổ chức sản xuất và quản lý cho phù hợp với trình độ
của người thợ thủ công hiện nay. Nó làm cho người thợ dễ nhận ra kết quả và có
thể tính toán được hiệu quả của sản xuất hàng ngày. Vì là sản phẩm của gia đình
mình, nó ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế của gia đình nên những người thợ bao
giờ cũng cố gắng để có nhiều sản phẩm và chất lượng cao. Hình thức này còn
huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân (qua hình thức đi vay), tận
dụng được mặt bằng sản xuất.
Tuy nhiên, sản xuất theo hộ gia đình cũng có những hạn chế của nó. Mỗi
gia đình không đủ sức để nhận những hợp đồng lớn, không đủ mạnh để cải tiến
mẫu mã sản phẩm, không đủ vốn cho đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và
không đủ tầm nhìn để định hướng phát triển nghề nghiệp ở tầm xa hơn. Lối đào
tạo theo nghề truyền thống ở hình thức này cũng có giới hạn ở người học việc,

không đủ kiến thức văn hoá, kỹ thuật và xã hội để tiếp cận với khoa học kỹ thuật
tiên tiến, không đủ khả năng tính toán trước thị trường tiêu thụ.
Ngày nay hộ gia đình là hình thức sản xuất phát triển nhanh với số lượng
đông đảo và đa dạng có xu hướng phát triển cả về chất lượng và số lượng.
2.2. Doanh nghiệp tư nhân.
Đây là một dạng hộ ngành nghề phát triển trở thành tiểu thủ, do chủ gia
đình có một trong những điều kiện: có tay nghề cao, có vốn, có năng lực kinh
doanh bỏ vốn mua nguyên vật liệu, thuê nhân công sản xuất tập trung hoặc làm
5
gia công phần lớn ở từng hộ gia đình, sau đó tập trung sản phẩm tìm mối hàng
tiêu thụ.
2.3. Tổ hợp sản xuất
- Đây là tổ chức của 1 số hộ gia đình cùng nghề tập hợp lại, hùn vốn để
mua nguyên liệu đưa về từng hộ tự sản xuất hoặc sản xuất tập trung. Sau khi kết
thúc quá trình sản xuất sản phẩm được gom về và cử người đi bán.
- Hình thức này làm tăng thêm sức mạnh cho từng thành viên để phát triển
sản xuất, phát triển khả năng kinh doanh, khắc phục được phần nào những hạn
chế về vốn mà hình thức hộ gia đình gặp phải. Hiện nay, hình thức này cũng
đang phát triển và rất thịnh hành trong làng nghề truyền thống.
- Tuy nhiên nó cũng có giới hạn riêng đó là trong tổ sản xuất thì hộ gia đình
vẫn là hình thức cơ bản, họ vẫn phải tự chịu trách nhiệm toàn bộ công việc sản
xuất kinh doanh của mình trước những biến động của thị trường.
2.4. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Là công ty do các cổ đông góp vốn cổ phần sản xuất kinh doanh một hoặc
nhiều mặt hàng tiểu thủ công nghiệp.
- Hình thức này là hạt nhân mà các vệ tinh xung quanh nó là các hình thức
khác. Nó là động lực mạnh thúc đẩy làng nghề truyền thống thành các "phố
làng", tạo điều kiện cho các thị trấn, thị tứ ra đời. Tuy nhiên nó có hạn chế về
vốn đối với các hộ muốn tham gia.
2.5. Hợp tác xã

- Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, cơ khí, xây dựng, vận tải, dịch vụ kinh tế
kỹ thuật.
- Thời kế hoạch hoá tập trung, hợp tác xã là hình thức phổ biến trong các
làng nghề.
- Trước hết, hợp tác xã tập hợp được năng lực của cả làng nghề, đứng ra
nhận những hợp đồng gia công lớn, đem lại việc làm cho các gia đình trong
6
làng. Bằng nguồn vốn góp và vốn vay, hợp tác xã có khả năng trang bị kỹ thuật
mới; cải tiến công nghệ.
- Nhiều nơi hợp tác xã đứng ra tổ chức đào tạo thợ, trong đó có nhiều người
được cử đi học thành cán bộ kỹ thuật cao, điều mà từng hộ gia đình không thể
làm được.
- Một số hợp tác xã sử dụng quĩ chung để đãi ngộ nghệ nhân, lập phòng
truyền thống, sưu tầm tư liệu góp phần trực tiếp giữ gìn và phát triển nghề
truyền thống.
- Bên cạnh những mặt được nêu trên, hợp tác xã cũng có những nhược
điểm của nó. Chẳng hạn như vai trò của nghệ nhân, thợ giỏi vốn là người chủ
sản xuất của gia đình, là hạt nhân để duy trì nghề nghiệp và gìn giữ truyền thống
lại không được coi trọng trong hợp tác xã. Ban quản trị hiếm khi là người giỏi
nghề, do đó nhiều làng nghề không giữ được các kỹ thuật truyền thống, chất
lượng sản phẩm không tương xứng với truyền thống.
- Khi chuyển sang kinh tế thị trường, mô hình HTX chỉ còn lại rất ít trong
các làng nghề. Những HTX còn tồn tại được là do biết chuyển đổi phương thức
hoạt động phù hợp với cơ chế mới thì hoạt động rất tốt, hiệu quả rất cao. Hình
thức HTX mới này lấy hộ sản xuất là chính, do đó hoạt động của các làng nghề
truyền thống có hiệu quả hơn. Như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, mối
hình thức tổ chức kinh doanh trong các làng nghề đều có những mặt tích cực và
hạn chế nhất định với hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề.
3. Tình hình tiêu thụ sản phẩm.
Trong những năm qua cùng với sự đi lên của các làng nghề, nhiều sản

phẩm mỹ nghệ được sản xuất ra, cùng với sự mở rộng của các thị trường tiêu
thụ, tình hình tiêu thụ sản phẩm mỹ nghệ của tỉnh đã phát triển đáng kể.
7
Sản phẩm chủ yếu được tiêu thụ ngay địa phương và rộng hơn là các thành
phố trong nước, đặc biệt là ở Hà Nội. Một số có chất lượng cao được đưa đi xuất
khẩu sang các nước trên thế giới.
Nhìn chung thị trường trong nước cũng như xuất khẩu chưa ổn định. Trong
các sản phẩm rất ít mặt hàng tạo ra được ưu thế cạnh tranh với nước ngoài. Giá
hàng xuất khẩu chưa cao và thu nhập do người lao động trực tiếp ở ngành nghề
thu được còn thấp trong khi lưu thông hưởng tỷ lệ cao nên chưa khuyến khích
người lao động trực tiếp sản xuất.
Từ năm 1997 đến nay giá trị sản xuất của mặt hàng thủ công mỹ nghệ ngày
một tăng qua các năm, cụ thể qua bảng sau:
Bảng 1:
Năm 1997 1998 1999 2000 2001
Giá trị sản xuất
(triệu đồng)
10.070 22.118 38.210 77.024 91.565,25
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay đời sống người dân nhất là ở
các thành thị sẽ tăng nhanh, yêu cầu chất lượng, cùng với sức ép cạnh tranh của
hàng hoá công nghiệp thành thị làm ra và hàng ngoại nhập, nhập lậu thì các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ của tỉnh có nguy cơ bị thu hẹp thị trường. Vì vậy cần
phải có chiến lược thị trường và chiến lược sản phẩm cho các làng nghề, cơ sở
sản xuất, doanh nghiệp sản xuất tồn tại và phát triển. Đây không phải là vấn đề
đặt ra cho các đơn vị sản xuất mà là vấn đề chung của các ngành, các cấp, các tổ
chức của tỉnh Hà Tây nói riêng và cả nước nói chung trong sự nghiệp CNH-
HĐH nông thôn.
8
II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC NÂNG CAO XUẤT KHẨU
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ.

1. Các yếu tố khách quan.
Các yếu tố khách quan là các yếu tố bên ngoài cơ sở sản xuất như khách
hàng, đối thủ cạnh tranh, luật pháp, chính trị,... và cơ sở không thể điều khiển
chúng theo ý của mình. Cơ sở chỉ có thể cố gắng thích ứng một cách tốt nhất với
xu hướng vận động của chúng. Nếu không đơn vị sản xuất không những không
phát triển được thị trường, nâng cao vị thế của mình mà còn có thể bị mất thị
phần hiện tại hoặc bị đào thải khỏi thị trường.
1.1. Khách hàng và các yếu tố thuộc về văn hoá - xã hội
- Đây là yếu tố đầu tiên và cũng là yếu tố quyết định đến khả năng tiêu thụ
hàng hoá nói chung và mặt hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng.
- Như ta đã biết các sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là những sản
phẩm phục vụ cho tiêu dùng thông thường mà còn có tính nghệ thuật, đáp ứng
nhu cầu thẩm mỹ của người tiêu dùng. Chính vì vậy đời sống được nâng cao lên
kéo theo sự tăng nhu cầu về các sản phẩm này. Ở những nơi có nền kinh tế phát
triển như: Châu Âu, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc,... nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ
khá lớn.
Khả năng tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn tăng lên nhất là khi
người tiêu dùng đang có xu hướng bảo vệ thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên
thông qua việc sử dụng các sản phẩm được làm từ chất liệu tự nhiên như các đồ
dùng mây, tre, cói, đang thay cho các sản phẩm từ plastic, thuỷ tinh, sợi nhân
tạo.
Nhu cầu nói chung về các mặt hàng này có xu hướng tăng lên, tuy nhiên
khi dự định đẩy mạnh tiêu thụ ở thị trường nào cần phải xem xét các yếu tố văn
hoá - xã hội của thị trường đó.
9
Trước hết cần xem xét đến yếu tố truyền thống, tập quán sử dụng hàng hoá
của thị trường đó. Chính những tập quán sử dụng này sẽ là gợi ý nên kinh doanh
mặt hàng nào ở thị trường nào.
Ngoài ra cũng cần chú ý đến qui mô dân số của thị trường tiêu thụ vì nó sẽ
ảnh hưởng đến số lượng sản phẩm có thể tiêu thụ được. Thông thường quy mô

dân số càng lớn thì khả năng tiêu thụ càng lớn và ngược lại. Khả năng tiêu thụ
hàng thủ công mỹ nghệ cũng phụ thuộc vào thu nhập, mức sống và địa vị xã hội
của người tiêu dùng. Tuỳ theo khả năng tài chính, vị trí xã hội của mình mà
người tiêu dùng lựa chọn loại sản phẩm với chất lượng, giá cả hợp với mình.
Những người có thu nhập cao, có địa vị thường chọn những sản phẩm quý, thật
độc đáo.
Như vậy, tiềm năng để phát triển thị trường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ
là không nhỏ tuy nhiên để khai thác được tiềm năng đó, các doanh nghiệp
thương mại, doanh nghiệp sản xuất,... còn phải chú ý đến nhiều khía cạnh khác.
1.2. Môi trường cạnh tranh.
- Sự cạnh tranh diễn ra với các sản phẩm công nghiệp có cùng công dụng:
đó là sự cạnh tranh giữa các sản phẩm với nhau để cùng thoả mãn một mong
muốn. Các sản phẩm công nghiệp do được sản xuất bằng máy móc, thiết bị sản
xuất hàng loạt nên có chất lượng đồng đều, tốt, giá thành lại rẻ, kiểm dáng cũng
đa dạng. Do đó cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp, các sản phẩm thủ công
thường lấy các truyền thống để cạnh tranh với các hiện đại. Hầu hết các quốc gia
đều có những ngành nghề thủ công truyền thống, trong đó phổ biến là nghề
gốm, đan lát, dệt, đúc tạc,... Tuy nhiên các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các
quốc gia có sự khác biệt dù chúng cũng thuộc một ngành. Sự khác biệt này xuất
phát từ các quan niệm nhân sinh quan, các tư tưởng, phong tục tập quán khác
nhau giữa các dân tộc. Vì vậy trên thị trường quốc tế sự cạnh tranh giữa các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ đến từ các quốc gia khác nhau là sự cạnh tranh về sự
độc đáo, về văn hoá biểu hiện qua sản phẩm.
10
- Ngoài ra khi xuất khẩu sang một thị trường, sản phẩm cần phải cạnh tranh
với chính sản phẩm cùng một nước xuất sang và sản phẩm của một số nước
cũng xuất sang. Khi đó, sự cạnh tranh diễn ra ở cấp độ gay gắt hơn và các cơ sở
sản xuất phải sử dụng các biện pháp cạnh tranh bằng chất lượng, giá cả.
Tuỳ theo số lượng đối thủ trên thị trường mà người ta xác định mức độ
khốc liệt của cạnh tranh. Cạnh tranh ngày càng gay gắt, khả năng chiếm lĩnh

phát triển thị trường càng trở nên khó khăn. Cho nên cần xác định trang thái
cạnh tranh trên thị trường là cạnh tranh tuần tuý, hỗn hợp hay cạnh tranh độc
quyền để xác định vị thế của mình và của các đối thủ. Từ đó tính chất, độ đa
dạng, giá cả của sản phẩm cũng như quy mô khối lượng cung ứng ra thị trường
sẽ được quyết định.
1.3. Môi trường chính trị luật pháp, kinh tế, địa lý.
Yếu tố chính trị có ảnh hưởng ngày càng lớn đến việc xuất nhập khẩu bất
kỳ một loại hàng hoá nào. Môi trường chính trị trong nước cũng như thị trường
xuất khẩu ổn định là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tiến
hành các hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó yếu tố luật pháp cũng
như các quy định của Chính phủ là yếu tố mà các đơn vị phải tuân theo nên nó
chi phối nhiều tới khả năng mở rộng thị trường. Chẳng hạn việc quy định hạn
chế khai thác gỗ sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh cũng như xuất khẩu các mặt hàng làm từ gỗ, cụ thể một số sản phẩm
của ngành thủ công mỹ nghệ.
1.4. Môi trường kinh tế.
Các yếu tố tốc độ phát triển kinh tế, tình hình lạm phát, sự ổn định tỷ giá,
hệ thống thuế thuộc môi trường kinh tế là các yếu tố chủ yếu tác động đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Nền kinh tế của quốc gia đó
tăng trưởng hay giảm sút sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân, thể hiện
ở thu nhập lao động, điểm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tiêu thụ sản
phẩm.
11
2. Các yếu tố chủ quan.
Đây là các yếu tố thuộc về tiềm lực của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất mà có
thể kiểm soát ở mức độ nào đó như: yếu tố tài chính (vốn đầu tư), con người (lao
động), trình độ khoa học kỹ thuật,... Việc khai thác các tiềm lực này thành công
hay không phụ thuộc rất lớn vào các tiềm lực này ở thời điểm hiện tại và trong
tương lai.
- Ý chí tư tưởng của Ban lãnh đạo.

Trước hết là ý tưởng sản xuất đó là mục tiêu của Ban lãnh đạo tỉnh và sự
kiên định theo đuổi các mục tiêu về sản phẩm mỹ nghệ. Sau đó là sự lựa chọn
các thị trường tiêu thụ. Khả năng kinh doanh ở mỗi thị trường có độ may rủi
cao, thấp khác nhau và mỗi nhà lãnh đạo có thể chấp nhận may rủi ở những mức
độ khác nhau và điều này ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn cơ hội.
- Yếu tố tài chính: là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến khả năng phát
triển của các mặt hàng thủ công. Tuy nhiên không phải ở đâu cũng có đầy đủ
vốn để đầu tư. Vì vậy cần tận dụng tối đa khả năng của đồng vốn, biết cách huy
động vốn nhàn rỗi để nâng cao khả năng sử dụng vốn ở tất cả các đơn vị sản
xuất kinh doanh trong tỉnh.
Ngoài những yếu tố trên thì chất lượng của sản phẩm là yếu tố hàng đầu, vì
đây là đối tượng được trực tiếp tiêu dùng. Để mở rộng được thị trường của
mình, các sản phẩm trước hết phải có chất lượng, kiểu dáng phù hợp với thị hiếu
nhu cầu của khách hàng, phải luôn không ngừng cải tiến các sản phẩm của
mình, cạnh tranh với các đối thủ bằng chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm.
Trên thị trường thế giới do số lượng người cung ứng nhiều trong khi cầu về
mặt hàng này lại có phần hạn chế nên cạnh tranh bằng giá cả diễn ra khá gay
gắt. Để duy trì và tiếp tục phát triển thị trường thì cơ sở sản xuất, doanh nghiệp
phải tìm cách giảm các chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm hay liên kết giữa
các doanh nghiệp, cơ sở để có sự cạnh tranh mạnh hơn.
12
Bên cạnh đó yếu tố con người (tiềm lực vô hình) có vai trò hết sức quan
trọng. Các "tiềm lực vô hình" ở đây là nói đến những người lãnh đạo, quản lý
trong cơ sở, doanh nghiệp. Là con người nhạy bén, hiểu biết sâu rộng, có kinh
nghiệm sẽ có những kế hoạch, lựa chọn thị trường tiêu thụ đúng đắn, và họ cũng
là những người trực tiếp tìm ra những đầu mối tiêu thụ cho sản phẩm.
III. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LÀ TẤT YẾU KHÁCH
QUAN.
1. Sự cần thiết của việc phát triển thị trường xuất khẩu.
1.1. Khái niệm phát triển thị trường:

Trong cơ chế thị trường có biết bao doanh nghiệp, cơ sở có cùng hướng
phục vụ một nhóm khách hàng về một số sản phẩm của mình. Sản phẩm của
tỉnh thường chiếm một thị phần nhất định trong thị trường tương ứng với lượng
khách hàng và thị phần này luôn luôn biến đổi. Để đảm bảo cho việc phát triển
vững chắc cần quan tâm đến việc mở rộng thị trường tức là giữ được thị phần đã
có và xâm nhập, phát triển thị trường mới.
Phát triển thị trường là việc khai thác tốt thị trường hiện tại, đưa những sản
phẩm hiện tại vào tiêu thụ ở những thị trường mới và nghiên cứu, dự đoán thị
trường rồi đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng được cả nhu cầu của cả thị
trường hiện tại lẫn thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp, cơ sở sản xuất muốn
xâm nhập.
1.2. Sự cần thiết của việc phát triển thị trường
Nền kinh tế thị trường hết sức năng động và khốc liệt. Các doanh nghiệp bị
cuốn trong vòng quay không ngừng của sự phát triển, nơi ở đó bất cứ một doanh
nghiệp nào không theo kịp sự thay đổi của thị trường đều có thể bị đào thải. Vì
vậy các doanh nghiệp không thể dừng lại hay bằng lòng với thành quả hiện tại.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, doanh nghiệp để có thể tồn tại
được thì phải cố gắng tiết kiệm các yếu tố đầu vào, khai thác triệt để các nguồn
thu, tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh hấp dẫn mà thị trường đem lại. Và
13
việc phát triển thị trường là một yếu tố quan trọng để đáp ứng được đòi hỏi vươn
lên trong cạnh tranh.
Trong nhiều trường hợp như cạnh tranh trong nước quá gay gắt hoặc nhu
cầu nội địa quá nhỏ bé thì việc cung ứng các sản phẩm ra thị trường quốc tế có
thể thu được hiệu quả hơn. Phát triển thị trường xuất khẩu sẽ đem lại những khả
năng khai thác lợi thế so sánh, lợi dụng các cơ hội hấp dẫn trên thị trường.
Phần thị trường có ảnh hưởng tích cực đến mức lợi nhuận, thị trường càng
lớn thì khả năng tiêu thụ càng cao và lợi nhuận sẽ tăng lên. Do vậy việc phát
triển thị trường sẽ tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận cho các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất.

Trong thực tế, tiềm năng của mỗi thị trường không phải là vô hạn ngay cả
khi qui mô dân số là rất lớn vì nhu cầu luôn thay đổi. Bởi vậy sau một thời gian
cung ứng sản phẩm nếu doanh nghiệp không có thay đổi gì về sản phẩm, giá cả,
phân phối, xúc tiến,... thì thị phần của họ chắc chắn sẽ giảm xuống, cho nên phát
triển thị trường sẽ tạo ra vị thế ngày càng ổn định hơn, tạo điều kiện cho sự phát
triển lâu bền trong tương lai.
Phát triển là quy luật của mọi hiện tượng kinh tế - xã hội. Chỉ có phát triển
thì doanh nghiệp mới tồn tại vững chắc, phù hợp với xu thế chung của thời đại
và phát triển thị trường chính là mục tiêu, chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự phát
triển của các doanh nghiệp cơ sở sản xuất.
Đối với Hà Tây, việc phát triển các làng nghề truyền thống đã tạo ra một số
lượng sản phẩm mỹ nghệ ngày càng lớn, mà thị trường tiêu thụ trong nước
không cao và cũng không ổn định. Vì vậy việc phát triển thị trường hàng thủ
công mỹ nghệ của tỉnh là tất yếu khách quan và đã được UBND tỉnh rất quan
tâm trong những cuộc họp về phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
14
2. Nội dung phát triển thị trường xuất khẩu:
2.1. Phát triển thị trường theo chiều rộng:
Phát triển thị trường theo chiều rộng tức là cố gắng mở rộng phạm vi thị
trường, tạo ra được những khách hàng mới.
Xét về mặt địa lý: Phát triển thị trường theo chiều rộng chính là tăng cường
sự hiện diện của sản phẩm tại các địa bàn mới. Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
đưa các sản phẩm của mình sang các quốc gia khác, châu lục khác để tăng thêm
lượng khách hàng mới và tăng giá trị xuất khẩu.
- Xét về mặt sản phẩm. Đây là hình thức tìm ra những tác dụng phụ của sản
phẩm nhằm mở rộng thêm lượng khách tiêu thụ.
- Xét về mặt khách hàng. Đó là việc khuyến khích, thu hút các khách hàng
mới có nhu cầu mong muốn được thoả mãn bằng những sản phẩm giống như sản
phẩm đã cung ứng. Việc khách hàng mới có tiếp tục quan hệ với mình hay
không phụ thuộc rất nhiều vào mức độ thoả mãn những lô hàng đầu tiên. Cho

nên phải tạo một ấn tượng tốt về lô sản phẩm đầu tiên này.
2.2. Phát triển theo chiều sâu.
Là việc cố gắng bán thêm những sản phẩm của mình vào thị trường hiện
tại. Sử dụng hường này là để nhằm nâng cao vị thế của sản phẩm trên thị trường
hiện tại trong khi tiềm năng của thị trường vẫn còn rộng lớn, nhu cầu tiêu dùng
sản phẩm có thể tăng cao.
Xét dưới góc độ sản phẩm. Phát triển thị trường theo chiều sâu là việc khai
thác tối đa khả năng tiêu thụ sản phẩm hiện tại. Tuy nhiên để tăng thị phần của
mình cần phải cải tiến sản phẩm, đưa ra những sản phẩm mới dựa trên sản phẩm
hiện có. Việc nâng cao chất lượng hàng hoá sẽ làm tăng độ tin cậy của khách
hàng đối với sản phẩm, khi đó sẽ thu hút được khách hàng mới. Việc cải tiến
kiểu dáng, thay đổi màu sắc, hình dáng sản phẩm hoặc phát triển thêm mẫu mã,
kích thước sản phẩm khác nhau cũng sẽ giúp cho khách hàng có thêm cơ hội lựa
chọn và vừa ý hơn với sự lựa chọn của mình.
15
2.3. Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Đa dạng hoá xuất khẩu là việc cung ứng thêm những sản phẩm mới hoàn
toàn khác hoặc có liên quan đến các sản phẩm hiện tại về mặt công nghệ cho
những khách hàng, mục tiêu mới.
Đa dạng hoá xuất khẩu là để tăng vị thế của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
và cũng là để tăng lượng cầu hướng về sản phẩm của mình.
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MỸ NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH.
1. Hình thành loại hoạt động sản xuất có tính chất công nghệ tại
nông thôn.
Bất kể hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều nhằm mục đích lợi
nhuận và hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề thủ công cũng không
nằm ngoài mục đích đó. Để đạt được mục đích thì khi hoạt động sản xuất kinh
doanh các cơ sở sản xuất phải:
+ Áp dụng việc tổ chức sản xuất một cách có khoa học dựa trên sự phân

công lao động phù hợp với từng công đoạn trong cả quá trình.
+ Từng bước trang bị thiết bị mới hiện đại thay thế một phần lao động thủ
công với qui trình công nghệ mới (dùng các loại máy để tạo dáng cho sản
phẩm).
Như vậy sự phát triển của các làng nghề thủ công cũng là sự phát triển
công nghiệp trên địa bàn nông thôn, làm cho nông thôn phát triển theo hướng
CNH-HĐH, phù hợp với mục tiêu phát triển của Đảng và Nhà nước.
2. Giải quyết việc làm tại chỗ.
Hà Tây là một tỉnh nông nghiệp với 90,5% dân số sống ở nông thôn đồng
thời cũng là tỉnh có dân số khá đông bởi vậy bình quân diện tích đất canh tác
trên đầu người thấp, công việc nhà nông lại mang tính thời vụ cho nên có nhiều
lao động dư thừa.
16
Việc phát triển xuất khẩu hàng mỹ nghệ sẽ có nhu cầu về sản phẩm tăng
lên, từ đó nhu cầu về lao động cũng tăng và thu hút được số lao động dư thừa
này, tạo công ăn việc làm cho họ trong lúc nông nhàn.
Bên cạnh đó nhiều nơi còn hình thành chợ lao động, là nơi cung cấp lao
động cho đầu vào và đầu ra trong quá trình sản xuất đó là: khai thác, vận chuyển
cung cấp nguyên vật liệu, vật tư, lưu thông tiêu thụ sản phẩm,...
Số lao động trong nghề từ năm 1997 đến nay tăng lên như sau:
Bảng 2:
Năm
Chỉ tiêu
1997 1998 1999 2000 2001
Lao động (người) 14.050 14.103 14.305 15.680 16.050
Như vậy từ năm 1997 đến năm 2001 đã thu hút được 2.000 lao động vào làm nghề
(đây là ngành có sản phẩm ở trình độ cao nên con số 2.000 lao động là không nhỏ).
Tóm lại: Các làng nghề mỹ nghệ phát triển đóng vai trò tích cực, nổi bật
trong quá trình trấn hưng nền kinh tế, như một quá trình chính trong việc CNH-
HĐH nông thôn. Ở đâu có các cơ sở sản xuất thì ở đó giải quyết tốt việc làm cho

lao động nông nhàn và còn thu hút được lao động ở các vùng khác tới; đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông thôn
theo hướng tỷ trọng giá trị CN-TCN và dịch vụ tăng lên (ngành thủ công mỹ
nghệ nằm trong ngành CN-TCN). Biểu hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Tỷ trọng Giá trị sản xuất các ngành trong các làng nghề thủ công
17
Năm
Chỉ tiêu
1998 1999 2000 2001
CN-TCN 60,48 62,6 62,31 62,5
NN 27,7 24,82 24,2 24
Dịch vụ 11,82 12,58 13,49 13,5
Biểu đồ 1: Biểu đồ tỷ trọng giá trị sản xuất trong các làng nghề thủ công
62.6
62.31
62.5
60.48
24
24.2
24.82
27.7
12.58
11.82
13.49
13.5
0
10
20
30
40

50
60
70
1998 1999 2000 2001
CN-TCN
NN
DÞch vô
3. Tăng thu nhập cho người lao động
Thực tế cho thấy việc tăng cường xuất khẩu hàng mỹ nghệ đã làm cho kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tăng lên từ đó thu
nhập của lao động cũng tăng lên. Việc tiêu thụ sản phẩm ngày càng được quan
tâm, phát triển thị trường xuất khẩu sẽ làm cho sản phẩm không bị ứ đọng, tức
đồng vốn được quay nhanh hơn sẽ là nhân tố không những làm cho giá trị sản
xuất tăng lên mà còn làm cho thị trường tiêu thụ được ổn định, đó là cơ sở để có
chiến lược lâu dài cho sản phẩm.
So với các nghề thủ công khác thì thủ công mỹ nghệ là nghề đem lại thu
nhập rất cao (có thời kỳ phát triển, làng nghề điêu khắc Thanh Tùng - Thanh Oai
18
thu nhập của thợ lên tới 800.000đ/tháng). Tổng thu nhập của lao động có nghề
mỹ nghệ năm 1997 là 7,769 triệu/năm/lao động và năm 2001 là 9,560 triệu/năm/
lao động (tổng thu nhập ở đây là tính cả thu nhập của nghề và các thu nhập khác
như: nông nghiệp, buôn bán, dịch vụ,...).
Với thu nhập cao các làng nghề thủ công đã hình thành các trung tâm tiêu
thụ sản phẩm tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất và thị trường sức lao động.
4. Phát triển thị trường xuất khẩu hàng mỹ nghệ là huy động được nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân, tận dụng được mặt hàng sản xuất.
Hoạt động của các làng nghề truyền thống góp phần huy động tối đa và đẩy
nhanh vòng quay của vốn nhàn rỗi trong dân. Vốn trong dân chủ yếu dưới hình
thức tiền mặt, vàng bạc và đá quý. Lượng vốn nhàn rỗi này rất kho huy động bởi
các hình thức thu hút vốn quy mô lớn từ phía Nhà nước. Tuy nhiên vấn đề này

bây giờ không ảnh hưởng nhiều bởi vì lãi suất tiền gửi cả đồng nội tệ và ngoại tệ
đều giảm mạnh trong thời gian qua. Nhưng do hoạt động tự phát của làng nghề,
mạnh ai nấy làm, ai có vốn lớn thì có thu nhập cao và hoạt động kinh doanh mở
rộng hơn. Bởi vậy, các cơ sở sản xuất sẵn sàng đưa hết nguồn vốn nhàn rỗi của
mình vào phục vụ sản xuất khi có thuận lợi.
Mặt khác, bình quân đất thổ cư của mỗi gia đình ở nông thôn còn tương đối
cao so với các làng nghề truyền thống chủ yếu mang tính gia truyền và gia đình
do đó có thể tận dụng được mặt bằng sản xuất nhà ở, sân, vườn, đất trống,... Nhờ
thế vốn cố định ban đầu có thể được giảm nhẹ, thuận lợi cho phát triển.
V. PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU.
1. Căn cứ vào mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với khách hàng.
- Thị trường xuất khẩu trực tiếp: là thị trường mà tại đó cơ sở sản xuấ,
doanh nghiệp trực tiếp tiến hành hoạt động xuất khẩu vào thị trường mà không
phải qua các trung gian xuất nhập khẩu.
19
- Thị trường xuất khẩu gián tiếp: xuất khẩu thông qua các trung gian như
hàng xuất khẩu trong nước đại lý, hiệp hội xuất khẩu,... lúc này bên xuất phải trả
một khoản tiền cho trung gian gọi là phí uỷ thác.
Ở Hà Tây, với mặt hàng mỹ nghệ chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp.
2. Căn cứ vào thời gian thiết lập mối quan hệ với khách hàng.
- Thị trường xuất khẩu truyền thống.
- Thị trường xuất khẩu mới.
3. Căn cứ hình thức xuất
- Thị trường xuất khẩu hàng gia công.
- Thị trường xuất khẩu hàng tự doanh.
4. Căn cứ mức độ hạn chế xuất khẩu
- Thị trường có hạn ngạch.
- Thị trường phi hạn ngạch.
5. Căn cứ mức độ quan trọng của thị trường
- Thị trường xuất khẩu chính: là thị trường có tỷ trọng xuất khẩu chủ yếu.

- Thị trường xuất khẩu phụ.
6. Căn cứ vào vị trí địa lý thị trường gồm có:
Thị trường EU, thị trường Trung Quốc, thị trường Đông Nam Á,...
VI. CÁC THỊ TRƯỜNG CHỦ YẾU CỦA SẢN PHẨM MỸ NGHỆ HÀ TÂY.
- Hà Tây, là một tỉnh ở Bắc Bộ, có nhiều làng nghề thủ công truyền thống,
tuy nhiên sản phẩm mỹ nghệ của tỉnh không phải là đã nhiều.
- Trong mấy năm qua sản phẩm mỹ nghệ được tiêu thụ chủ yếu ở các vùng
lân cận và các nước xung quanh.
20
- Hầu hết các sản phẩm mỹ nghệ được xuất khẩu qua phương thức uỷ thác,
đó là các doanh nghiệp lớn ở Hà Nội là trung gian để sản phẩm của Hà Tây
được xuất đi các nước trên thế giới.
Sau đây ta đi phân tích một số thị trường chủ yếu:
1. Thị trường trong nước
Trong những năm qua Hà Tây đã có mối quan hệ thương mại mật thiết với
một số vùng trong nước nhằm khai thác nguồn nguyên liệu sản xuất tại các vùng
và cung cấp cho các vùng sản phẩm sản xuất trên địa bàn tỉnh, trong đó có hàng
thủ công mỹ nghệ. Trong giai đoạn 2001-2010 để góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội, Hà Tây cần triệt để khai thác thị trường các khu vực nói trên thúc
đẩy mối quan hệ bạn hàng sẵn có, nâng cao năng lực sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
1.1. Thị trường vùng Tây Bắc.
- Vùng Tây Bắc gồm 3 tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình với tổng số diện
tích tự nhiên là 35.955 km
2
bằng 10,86% diện tích cả nước. Dân số năm 1997 là
2134,6 nghìn người chiếm 2,83% dân số cả nước. Dân số nông thôn chiếm 86%
tổng dân số của vùng.
- Thị trường vùng Tây Bắc còn kém phát triển, sản xuất hàng hoá, nhất là
sản xuất nông nghiệp chưa phát triển, sức mua của vùng thấp. Hiện nay các tỉnh

vùng Tây Bắc rất nghèo và chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách của Nhà nước
nên với sản phẩm thủ công mỹ nghệ có giá cao sẽ khó tồn tại ở thị trường vùng
này trong thời gian gần.
1.2. Thị trường Hà Nội.
Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 21/1/1983 đã xác định vị trí, vai trò của
Hà Nội.
21
"Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá, khoa học kỹ
thuật, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế, một trung tâm giao dịch quốc tế của
cả nước".
Trên địa bàn Hà Nội có nhiều tiềm năng lớn để phát triển kinh tế - văn hoá
- xã hội nói chung và phát triển thương mại nói riêng.
- Hà Nội là trung tâm thương mại - dịch vụ vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ, đầu mối thương mại của Bắc Bộ và cả nước. Hà Nội là nơi tập trung đầu
mối giao thông đi khắp Bắc Bộ, trong nước và quốc tế bằng cả đường ô tô, sắt,
thuỷ và hàng không.
- Theo niên giám thống kê 1997 diện tích tự nhiên của Hà Nội là 927,39
km
2
chiếm 0,28 diện tích cả nước. Dân số năm 1997 là 2397 nghìn người bằng
3,18% dân số cả nước. Mật độ dân số Hà Nội là 258 người/km
2
gấp hơn 10 lần
mật độ dân số cả nước, bằng 3,5 lần mật độ dân số vùng Đồng bằng sông Hồng.
Hàng năm, Hà Nội phải tiếp nhận một khối lượng khách vãng lai rất lớn kể
cả khách du lịch trong và ngoài nước có nhu cầu hàng hoá chất lượng cao. Mặc
dù mật độ dân số cao nhưng thu nhập bình quân của dân cư Hà Nội vẫn cao do ở
đây có nhiều khu công nghiệp lớn, cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao dễ hơn.
Từ thu nhập cao nên sức mua sản phẩm vật chất cũng cao. Do đó hàng thủ công
mỹ nghệ được tiêu thụ ở thị trường này chiếm tỷ trọng lớn. Chiếm tới hơn 40%

giá trị sản xuất.
- Hà Nội có khả năng khai thác thị trường của vùng và cả nước để tiêu thụ
hàng hoá nhập và là đầu mối thu gom, thu mua hàng thủ công mỹ nghệ từ các
địa phương để xuất khẩu đi các nước khác.
1.3. Thị trường vùng Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng và các vùng khác.
Ngoài thị trường Hà Nội đầy sôi động, Hà Tây còn phải tiếp tục khai thác
những thị trường khác, khai thác ở đây chú ý cả về kinh tế và sở thích tâm lý.
Hàng thủ công mỹ nghệ có thể là sản phẩm mang đậm bản sắc của vùng Bắc Bộ
22
nên có thể tận dụng sở thích tâm lý của các vùng khác để mở rộng thị trường.
Tuy nhiên nhiệm vụ hàng đầu là chú ý đến một số thành phố lớn, đó là trung tâm
kinh tế xã hội của từng khu vực như: Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh,...
2. Thị trường nước ngoài.
Hiện nay Việt Nam đã gia nhập ASEAN, AFTA, đã ký Hiệp định thương
mại với trên 60 nước, có Hiệp định chung và Hiệp định hàng dệt may với EU, đã
ký Hiệp định thương mại với Mỹ và chuẩn bị đàm phán, gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO, tham gia APEC. Sự hội nhập vào thị trường quốc tế
và khu vực sẽ thúc đẩy phát triển buôn bán với các nước.
2.1. Thị trường Châu á - Thái Bình Dương.
Trong đó chủ yếu là thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
ASEAN.
- Nhật Bản là nước đất chật, người đông, tài nguyên khoáng sản rất nghèo
nàn, nên rất cần tài nguyên nhiên liệu. Nhật Bản là một cường quốc kinh tế hàng
đầu thế giới, là một trong 3 trung tâm công nghệ thế giới; quan hệ thương mại
giữa Việt Nam và Nhật Bản giữ vị trí quan trọng.
- Trung Quốc nằm ở phía Bắc Việt Nam, có nhiều cửa khẩu thông thương
giữa 2 nước. Việt Nam - Trung Quốc có quan hệ buôn bán từ lâu đời nhưng chỉ
phát triển mạnh trong một số năm gần đây sau khi 2 nước bình thường hoá quan
hệ. Hiện nay Trung Quốc là nước có nhịp độ phát triển kinh tế nhanh đứng đầu
thế giới (năm 2000 là 8,1%). Với tiềm năng kinh tế mạnh, dân số đông (khoảng

1,3 tỷ người năm 2001) Trung Quốc sẽ là thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá
lớn đối với Việt Nam.
- Trong các nước ASEAN, Việt Nam có quan hệ thương mại với một số thị
trường chủ yếu là Thái Lan, Singapore, hai nước này đang phát triển kinh tế với
tốc độ cao, có vai trò thương cảng quốc tế, trung tâm thương mại, tài chính và
23
dịch vụ quốc tế. Các nước này rất chuộng sản phẩm mang tính chất bản sắc dân
tộc như thủ công mỹ nghệ trình độ cao, đặc biệt là Thái Lan.
2.2. Thị trường Đông Âu.
Chủ yếu là Nga và các nước SNG là thị trường truyền thống của Việt Nam
và có vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm
1960-1990. Hiện nay các nước này đang chuyển sang nền kinh tế thị trường. Từ
nay trở đi khả năng kinh tế của các nước này đang có sự chuyển biến nhanh.
Với các nước này Việt Nam đang gắn xuất khẩu với việc trả nợ đồng thời
tăng nguồn hàng, tăng chất lượng hàng xuất khẩu để thâm nhập sâu vào chiếm
lĩnh thị trường.
2.3. Thị trường Tây Âu.
Hiện nay quan hệ thương mại Âu - Á bắt đầu có sự chuyển biến về chất thể
hiện ở các hướng hợp tác được hình thành qua Hội nghị thượng đỉnh 15 quốc gia
Châu Âu và 10 nước Châu Á trên cơ sở nguyên tắc cơ bản về tự do hoá thương
mại của WTO.
Các thị trường Pháp, Đức, Anh đều là cơ hội để chúng ta xuất khẩu được
một số sản phẩm công nghiệp nhẹ. Đặc biệt là thị trường Pháp đánh giá rất cao
sản phẩm thủ công mỹ nghệ của nước ta. Trong tương lai có thể xuất khẩu sản
phẩm này từ 5-7 triệu USD/năm.
2.4. Thị trường Mỹ
- Mỹ là thị trường lớn nhất tiêu thụ các hàng thành phẩm của các nước
đang phát triển (30% hàng thành phẩm của các nước đang phát triển được tiêu
thụ sang thị trường Mỹ).
- Buôn bán giữa Mỹ và Việt Nam bắt đầu phát triển kể từ khi quan hệ ngoại

giao giữa 2 nước được bình thường hoá. Và nó lại càng phát triển hơn khi Hiệp
định thương mại giữa 2 nước đã được ký kết. Trong tương lai chắc chắn kim
ngạch ngoại thương giữa 2 nước sẽ ngày càng phát triển.
24
PHẦN II
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Ở HÀ TÂY
Từ báo cáo tổng kết hoạt động của các làng nghề CN-TTCN ở Hà Tây thời
kỳ 1997-2001 ta có một số chỉ tiêu về nghề thủ công mỹ nghệ như sau:
Bảng 4:
Chỉ tiêu
Năm
Ký hiệu
1997 1998 1999 2000 2001
Lao động (người) T 14.050 14.103 14.305 15.680 16.050
Giá trị sản xuất
(tỷ đồng)
GO 10,07 22,118 38,21 77,024 91,56525
TN bình quân
(triệu đồng/năm)
W 0,7167 1,5683 2,6711 4,9122 5,705
(Số liệu của Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Tây)
I. PHÂN TÍCH VỀ LAO ĐỘNG (T)
Theo báo cáo hoạt động chung của toàn ngành CN-TTCN thì lao động tăng
rất nhanh, năm 1997 toàn ngành có 76.463 lao động đến năm 2001 đã là 107.178
lao động. Như vậy chỉ trong 5 năm số lao động đã tăng lên 30.715 người hay
tăng 40,17%. Lao động toàn ngành CN-TTCN tăng dần đều lao động trong
ngành thủ công mỹ nghệ cũng tăng từ 14.050 lao động lên đến 16.050 tức tăng
2.000 lao động hay tăng 14,235%. Tuy nhiên tỷ trọng của nó trong toàn ngành
CN-TTCN lại giảm từ 18,375% xuống còn 14,975%. Điều này chứng tỏ trong

thời kỳ 1997-2001 việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chưa thực sự thu hút
25

×