Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN và bài KIỂM TRA GIỮA kỳ môn ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.46 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TIỂU LUẬN VÀ BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ
MÔN ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC
Giảng viên hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Đức Chính
Học viên: Lưu Đức Anh
HÀ NỘI
1
Hạn nộp bài theo qui định: ngày tháng năm
Thời gian nộp bài: ngày tháng năm
Nhận xét của giảng viên chấm bài:










Điểm: Giảng viên (kí tên):
2
ĐỀ BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ:
Chứng minh đánh giá là một khoa học. Mô tả việc sử dụng
một trong những thành tựu của khoa học đánh giá để quản lý.
Bình luận.
BÀI LÀM
Đánh giá giáo dục vừa là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học
quản lý giáo dục, vừa là công cụ quản lý hữu hiệu của quản lý giáo
dục nhằm phán đoán giá trị của sự nghiệp giáo dục để điều chỉnh,


kiểm nghiệm trình độ phát triển của sự nghiệp giáo dục và cải tiến để
giáo dục ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của cộng đồng xã hội.
Đánh giá vừa là một lĩnh vực của khoa học quản lí giáo dục, vừa là
một công cụ của quản lý giáo dục. Nhận định này được thể hiện qua
những dấu hiệu cụ thể sau:
- Đánh giá là một khoa học là nhờ nó có các hệ thống khái niệm,
phạm trù gắn liền với nó.
+ Đánh giá và giá trị: Khái niệm đánh giá luôn gắn liền với khái
niệm giá trị vì thực chất của đánh giá là sự phán đoán giá trị của hiện
tượng. Quan điểm về giá trị đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
quá trình đánh giá, phải thống nhất được cách hiểu khái niệm này
mới có thể có được sự đồng thuận trong đánh giá, trong nhận định
kết quả đánh giá…
+ Đánh giá và nhận thức: Đánh giá nói chung là một hoạt động của
nhận thức. Thông qua đánh giá con người nhận thức được bản chất
của thế giới khách quan, xác định được thái độ của con người với thế
3
giới khách quan đó, để rồi chấp nhận hoặc cải tạo nó phục vụ cho lợi
ích của con người.
Chỉ khi có một nhận thức luận đúng đắn, một luận điểm khoa học
lịch sử khách quan trong đánh giá mới có thể đảm bảo xác định được
tính chỉnh thể của giá trị sự vật, mới có được những kết luận đánh
giá có giá trị, có tác dụng đổi mới, cải tạo hoặc thích ứng với các sự
vật, hiện tượng.
+ Đánh giá và thực tiễn: Quá trình nhận thức bắt đầu từ thực tiễn và
rồi quay trở lại kiểm nghiệm qua thực tiễn. Hoạt động đánh giá phải
trải qua việc nghiên cứu, nhận thức đối tượng đánh giá và kết quả
của quá trình nhận thức đó phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
+ Mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và khách thể của đánh giá:Việc
xác định rõ mối quan hệ này là việc làm cần thiết để nâng cao chất

lượng, hiệu quả và sự công bằng trong đánh giá. Trong đánh giá sự
nghiệp giáo dục chủ thể và khách thể đánh giá là tương đối và có thể
hoán đổi vị trí cho nhau tùy mục đích đánh giá.
+ Chức năng đánh giá trong giáo dục: là sự tác động của quá trình
đánh giá lên đối tượng đánh giá, được phát huy trước, trong và sau
đánh giá theo chiều hướng mà chủ thể đánh giá mong muốn.
+ Các loại hình đánh giá trong giáo dục: có nhiều loại hình đánh giá
trong giáo dục. Mỗi loại nhằm tới một đối tượng đánh giá, mục đích
đánh giá nhất định. Một vài cách phân loại; Phân loại theo phạm vi
đối tượng đánh giá, phân loại theo tiêu chuẩn đánh giá, phân loại
theo chức năng đánh giá, phân loại theo nội dung đánh giá….
- Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu đánh giá giáo dục
4
+ Đối tượng nghiên cứu của đánh giá giáo dục: là loại hình hoạt
động giáo dục, mối quan hệ giữa chúng, các chức năng của hoạt
động giáo dục và nhu cầu thực thi của chức năng ấy trong hệ thống
giáo dục.
+ Nội dung nghiên cứu của đánh giá trong giáo dục: Nghiên cứu cơ
sở lí luận và thực tiễn của hoạt động đánh giá; nghiên cứu tcác
phương pháp thực thi cụ thể; nghiên cứu các loại hình đánh giá cụ
thể…
- Các phương pháp nghiên cứu trong đánh giá giáo dục: những
phương pháp thường dùng đánh giá hoạt động giáo dục bao gồm:
Phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra, phương pháp thực
nghiệm, phương pháp quan sát, phương pháp thống kê.
- Thành tựu của khoa học đánh giá: Các bộ chuẩn về tiêu chí đánh
giá, quy trình đánh giá (chuẩn cơ sở giáo dục, chuẩn chức danh,
chuẩn kiến thức, kĩ năng…); các mô hình đánh giá trong giáo dục.
- Những vấn đề đang tồn tại của khoa học đánh giá: Nhiều tiêu chí
đánh giá chưa rõ ràng, một số kết quả của công tác đánh giá còn

mang nặng tính hình thức, …
5
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
Học phần Đánh giá trong giáo dục
ĐỀ BÀI
Câu 1: Hãy xây dựng kế hoạch kiểm tra - đánh giá trong dạy học môn
học…?
Câu 2: Kèm theo bài kiểm tra 45’ (giữa kỳ) theo đúng kế hoạch trên.
1.1. Mục đích, vị trí, vai trò của kiểm tra đánh giá trong dạy học
Theo quan điểm truyền thống, KTĐG là một quá trình tách rời quá
trình dạy - học và
được
thực hiện sau khi kết thúc quá trình dạy - học.
Quan điểm mới cho rằng KTĐG là một phần không thể tách rời quá trình dạy
- học,
được
thực hiện liên tục, đan xen trong quá trình dạy - học, KTĐG cũng
là một hình thức dạy - học và các
phương
pháp KTĐG cũng là
phương
pháp
dạy - học. Có thể nói, KTĐG kết quả học tập đã thay đổi trọng tâm từ kết quả
học tập sang quá trình dạy - học.
Xét trên quan điểm hệ thống, Qui trình đào tạo (QTĐT) được xem như
một hệ thống bao gồm các yếu tố: mục tiêu (MT), nội dung (ND), hình thức tổ
chức dạy – học (HTTCDH), phương pháp dạy (PPD) của thày, phương pháp
học (PPH) của trò và cuối cùng là kiểm tra đánh giá (KTĐG) kết quả của
người học.
Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau theo một sơ đồ cấu trúc nhất

định. Đó là từ phân tích nhu cầu của xã hội, trên cơ sở triết lí của nền giáo dục
và các cơ sở khác (hệ) mục tiêu của một cấp học, bậc học, ngành học được xác
định. Đây là cái mốc cơ bản để thiết kế chương trình, lựa chọn và sắp xếp nội
dung đào tạo. Hệ mục tiêu còn định hướng cho việc tìm ra các hình thức tổ
6
chức dạy – học phù hợp trong đó người dạy và người học tìm được các
phương pháp dạy – học tương ứng để đạt mục tiêu.
Trong sơ đồ trên kiểm tra - đánh giá là khâu cuối cùng và cũng là khâu
quan trọng nhất bởi lẽ nó không chỉ cho ta biết quá trình đào tạo có đạt mục
tiêu hay không, mà còn cung cấp các thông tin hữu ích để điều chỉnh toàn bộ
các hoạt động xảy ra trước đó.
Kiểm tra - đánh giá là một trong những hoạt động quan trọng nhất của
quá trình dạy học.
Bản chất của kiểm tra - đánh giá là thu thập các thông tin định tính và
định lượng, xử lý các thông tin đó và xác định xem mục tiêu của chương trình
đào tạo, của môn học có đạt được hay không và nếu đạt được thì ở mức độ nào.
Kiểm tra - đánh giá là định hướng tới đích cuối cùng để người dạy
hướng dẫn người học cùng vươn tới và cũng là để người học tuỳ theo năng lực
của bản thân tìm cách riêng cho mình hướng tới. Với nghĩa này, kiểm tra –
đánh giá sẽ định hướng cách dạy của thầy và cách học của trò sao cho hiệu quả
nhất, nghĩa là cùng hướng tới việc đạt mục tiêu.
Ngoài ra, các thông tin khai thác được từ kết quả kiểm tra - đánh giá sẽ
rất hữu ích cho việc điều chỉnh phương pháp dạy của thầy và phương pháp học
của trò, đồng thời giúp các nhà quản lí có những thay đổi cần thiết trong việc
tổ chức quá trình đào tạo (như điều chỉnh chương trình đào tạo, nội dung đào
tạo, hình thức tổ chức dạy – học).
Nếu xem chất lượng của quá trình dạy – học là sự “trùng khớp với mục
tiêu” thì kiểm tra - đánh giá là cách tốt nhất để đánh giá chất lượng của qui
trình đào tạo.
Kiểm tra đánh giá là khâu then chốt cuối cùng của qúa trình dạy học.

Đây cũng là khâu quan trọng tác động lớn đến quá trình nâng cao chất lượng
đào tạo. Việc kiểm tra đánh giá khách quan, nghiêm túc, đúng cách, đúng
hướng sẽ là động lực mạnh mẽ khích lệ sự vươn lên trong học tập của sinh
viên, thúc đẩy sự tìm tòi sáng tạo không ngừng của sinh viên.
7
ĐÁNH GIÁ TRONG HỌC TẬP CHỦ ĐỘNG Ở THCS
I. BẢN CHẤT HỌC TẬP CHỦ ĐỘNG
Trong lí luận dạy học có những quan niệm khác nhau về vai trò của giáo
viên và vai trò của học sinh nhưng tựu chung có hai hướng: hoặc tập trung
vào vai trò hoạt động của giáo viên (lấy GV làm trung tâm) hoặc tập trung
vào vai trò hoạt động của học sinh (lấy HS làm trung tâm).
Tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực chủ động của người học, xem người
học là chủ thể của quá trình học tập đã có từ lâu, ở thế kỉ XVII, A.Kômenski
đã viết: “Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán,
phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít
hơn, học sinh học nhiều hơn”.
Trong “thuật ngữ giáo dục người lớn” do Unesco xuất bản năm 1979 đã
dùng thuật ngữ “giáo dục căn cứ vào người học”, “giáo dục tập trung vào
người học” với định nghĩa là “ Quá trình giáo dục mà nội dung quá trình học
tập và giảng dạy được xác định bởi nhu cầu, mong muốn của người học,
người học tham gia tích cực vào việc hình thành, kiểm soát quá trình này,
và trong quá trình đó nguồn lực, kinh nghiệm của người học được phát
huy…
R.R.Singh (1991) cho rằng tư tưởng này đặc biệt nhấn mạnh vai trò của
người học, hoạt động học. Người học được đặt ở vị trí trung tâm của hệ giáo
dục, vừa là mục đích lại vừa là chủ thể của quá trình học tập. Tác giả đã viết:
“Làm thế nào để cá thể hóa quá trình học tập để cho tiềm năng của mỗi cá
nhân được phát triển đầy đủ đang là một thách thức chủ yếu đối với giáo
8
dục”.

Hiện nay, ngành giáo dục nước ta, vấn đề phát huy tích cực chủ động sáng
tạo của người học được mọi người nhất trí nhưng vấn đề học tập tích cực
(HTTC) chưa phải là đã được mọi người chấp nhận và được quan niệm một
cách thống nhất. Có người phản đối vì cho rằng cách dịch thuật ngữ này sang
tiếng Việt không thành công, có thể gây ra sự hiểu lầm. Có người không
chấp nhận vị trí trung tâm của người học trong hoạt động dạy học vì e rằng
sẽ hạ thấp vai trò của giáo viên, tạo ra sự “đổi ngôi” trong nhà trường. Cũng
có người cho rằng học tập chủ động là một lý thuyết giáo dục đã lỗi thời,
thậm chí đã bị bác bỏ tại chính nơi sản sinh ra nó…
Thực hiện học tập chủ động không những không hạ thấp vai trò của giáo
viên mà trái lại đòi hỏi giáo viên phải có trình độ cao hơn nhiều về phẩm
chất và năng lực nghề nghiệp. S.Rassekh (1987) viết: “Với sự tham gia tích
cực của người học vào
9
quá trình học tập chủ động, với sự đề cao nhất trí sáng tạo của mỗi học sinh,
thì sẽ không còn mối quan hệ đơn phương và độc đoán giữa thầy và trò.
Quyền lực của giáo viên không còn ngự trị trên sự thụ động và kém tri thức
của học sinh. Giá trị của người giáo viên được tôn trọng bằng chính năng
lực của giáo viên góp phần tối đa vào sự phát triển của học sinh… Một
giáo viên sáng tạo là một giáo viên biết giúp học sinh tiến bộ nhanh chóng
bằng con đường tự học. Giáo viên phải là người hướng dẫn, người cố vấn,
hơn là chỉ đóng vai trò công cụ truyền đạt tri thức.”
Đặt người học vào vị trí trung tâm của hoạt động dạy - học, xem cá nhân
người học - với những phẩm chất và năng lực riêng của mỗi người - vừa là
chủ thể vừa là mục đích của quá trình đó, phấn đấu tiến tới cá thể hóa quá
trình học tập với sự trợ giúp của các phương tiện thiết bị hiện đại, để cho
tiềm năng của mỗi học sinh được phát triển tối ưu, góp phần có hiệu quả
vào việc xây dựng cuộc sống có chất lượng cho cá nhân, gia đình và xã hội,
đó chính là cốt lõi tinh thần nhân văn trong dạy học HTCĐ.
II. YÊU CẨU CỦA ĐÁNH GIÁ HỌC TẬP CỦA GIÁO DỤC

CHỦ ĐỘNG
Trong một phúc trình của Ủy ban Quốc tế về Giáo dục cho thế kỷ
21 của UNESCO có xác định bốn trụ cột của một nền giáo dục là: Học để
biết, Học để làm, Học để làm người, và Học để cùng chung sống (Singh,
1998).
10
Bốn trụ cột nói trên là định hướng cho hoạt động giáo dục ở mọi cấp, trong
đó có hoạt động đánh giá. Có thể xem đây là những định hướng của đánh giá
học tập chủ động vì chúng hướng đến sự phát triển toàn diện của con
người. Lâu nay, hoạt động đánh giá ở phổ thông thường tập trung chủ yếu
vào mục tiêu “học để biết”, rất ít cho “học để làm”, và hầu như là không với
“học để làm người” và “học để cùng chung sống”.
Để đánh giá được 4 mục tiêu trên, cần phải có các phương pháp giáo dục
thích hợp. Chúng ta không thể đánh giá về những điều mà người học không
được trang bị.
Từ những năm đầu của thập niên 90, ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu và
những bài báo cáo của các giáo sư, tiến sĩ, những chuyên gia đầu ngành về
đánh giá đề cập đến vấn đề đổi mới và hòan thiện cách kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của học sinh và sinh viên ở tất cả các bậc học từ phổ thông đến
đại học và thậm chí là sau đại học đó là GS. TS. Dương Thiệu Tống, GS.
TSKH. Lâm Quang Thiệp, TS. Nguyễn Phụng Hòang… Theo GS. TS.
Lê Đức Ngọc thì kiểm tra đánh giá
11
là công đoạn quyết định chất lượng của quá trình giảng dạy và học tập.
Đối với giáo viên, kiểm tra đánh giá giúp giáo viên biết được hiệu quả và
chất lượng giảng dạy. Đối với người học, kiểm tra đánh giá giúp cho học
viên biết được chất lượng học tập. Đối với nhà quản lý, kiểm tra đánh giá
giúp cho họ điều chỉnh chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy và học tập
cũng như ra những quyết định về đánh giá kết quả học tập của người học
được chính xác và đáng tin cậy.

Đánh giá - Mối tương tác quan trọng nhất giữa dạy và học
Trong phạm trù giáo dục (GD), hoạt động dạy luôn gắn với việc học và hỗ
trợ cho việc học. Mối tương tác quan trọng nhất giữa dạy và học là đánh giá.
Như vậy, phương pháp (PP) đánh giá cũng là một trong những vấn đề hàng
đầu mà hệ thống GD phải quan tâm, bên cạnh PP học, PP dạy và nội dung
chương trình.
Việc đánh giá cho phép chúng ta xác
định:
- Mục tiêu GD được đặt ra có phù hợp hay không và có đạt được hay
không,
- Việc giảng dạy có thành công hay không, người học có tiến bộ hay
không.
- Việc đánh giá để kết luận người học có tiến bộ hay không liên quan
đến
đánh giá kết quả học tập.
12
Đánh giá học sinh là sự xác nhận của giáo viên đối với mức độ đạt được của
học sinh theo những chuẩn mực giá trị của mục tiêu đào tạo nhà trường
hay của từng bài học, môn học. Những chuẩn mực giá trị ấy có thể qui ra
thành điểm số để chấm điểm gọi là đánh giá định lượng; không qui thành
điểm số mà chỉ nhận xét căn cứ vào các tiêu chí chuẩn mực gọi là đánh giá
định tính.
Như vậy đánh giá, nhất là đánh giá kết quả học tập phải được xem là một bộ
phận quan trọng, không thể thiếu trong việc cải cách chương trình dạy và
học ở các trường THCS ở nước ta.
III. THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TRONG NHÀ
TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY
Những bất cập ở cấp cơ
sở
Về giảng

dạy
Chủ trương nhằm cải tiến phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung
tâm không thực hiện được vì phần lớn giáo viên không biết dạy thế nào
cho phù hợp với mục tiêu đã đề ra, thế nào là có chất lượng và có hiệu quả
cao, không biết cải tiến việc giảng dạy của mình như thế nào. Việc dạy theo
cách tiếp cận nội dung: dạy học sinh ở các bậc nhận thức và tư duy bậc thấp
13
vẫn là chủ yếu. Ngoài ra, một thực tế phổ biến đã tồn tại ở các trường phổ
thông từ rất lâu là: Không có chuẩn
14
kiến thức của môn học, nên cùng một môn học, được dạy bởi những
giáo viên khác nhau cho kết quả tiếp thu kiến thức khác nhau, dẫn đến chất
lượng môn học không đồng đều.
Về học
tập
Một khi toàn bộ hệ thống giáo dục phổ thông cùng chung sức thực hiện đúng
chủ trương cải cách phương pháp dạy và học theo hướng lấy người học làm
trung tâm (learner-centered approach) thì phải dạy phương pháp học cho
học sinh. Vì đa số học sinh trung học chưa biết phương pháp học, nên hiệu
quả học tập trong nhà trường (chất lượng thật) là rất thấp. Kỹ năng ghi
chép và nhớ còn “ngự trị”, “lấn át” những kỹ năng khác như: tự đọc, tự suy
nghĩ, tìm tòi, tự tóm lược… Điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc học ở
những bậc học cao hơn
Về đánh
giá
Do không nắm vững khoa học đo lường và đánh giá kết quả học tập nên
phần lớn các đề thi cuối môn học chỉ nhằm đánh giá học sinh thuộc bài của
giáo viên đến mức nào. Học sinh chỉ học theo bài giảng; không tham khảo
15
tài liệu, không học theo lối tư duy sáng tạo, không biết phê phán, không biết

“nêu vấn đề” để có năng lực giải quyết vấn đề. Từ đó, chất lượng sản phẩm
đào tạo về năng lực ở phổ thông trung học là không đáp ứng được yêu cầu
của đào tạo và của xã hội thông tin tri thức.
Những bất cập với hệ thống đánh giá ở nhà trường phổ
thông
Hệ thống đánh giá học sinh trong nhà trường bao gồm việc xác định
chuẩn mực
đánh giá, người đánh giá và phương thức đánh
giá
1. Chuẩn đánh giá học
sinh
Mục tiêu đào tạo nhà trường đề ra là giáo dục toàn diện thể hiện qua các tiêu
chí Đức, Trí, Thể, Mỹ, Lao động. Học sinh trong nhà trường phổ thông được
đánh giá “theo những chuẩn” sau:
- Về Đức, học sinh được đánh giá thông qua giáo viên chủ nhiệm có
tham khảo giáo viên bộ môn và tổ chức Đoàn, Đội định kỳ hàng năm
và học kỳ.
- Về Trí, học sinh được giáo viên bộ môn đánh giá qua điểm số đạt
được ở các môn học. Đây là nội dung đánh giá được nhà trường, gia
đình và xã hội quan tâm nhiều nhất với hệ thống đánh giá qui mô nhất
16
trong các tiêu chí.
- Về Thể chất, học sinh chỉ mới được giáo viên thể dục đánh giá qua
giờ học
bộ môn, chưa được đánh giá thể chất học sinh một cách toàn diện.
17
- Về Mỹ học, học sinh hầu như chưa được đánh giá, hay nói đúng hơn
là chỉ được đánh giá qua hai môn Nhạc, Họa ở trường Tiểu học và
Trung học cơ sở (nếu có giáo viên giảng dạy).
- Về Lao động hướng nghiệp, đây là nội dung quan trọng trong quá

trình đào tạo của nhà trường mới. Việc đánh giá học sinh ở lãnh vực
này, chỉ được giáo viên phụ trách ghi nhận thông qua môn Kỹ thuật ở
Trung học.
Với chuẩn đánh giá vừa nêu, ta thấy phần nào sự thiếu hoàn chỉnh của hệ
thống tiêu chí đánh giá quá trình đào tạo so với mục tiêu giáo dục toàn diện
của nhà trường.
Đánh giá kết quả quá trình dạy và học chủ yếu bằng các môn thi, bằng điểm
số (cách học từ chương, khoa bảng). Những khía cạnh khác như: nhân văn,
thẩm mỹ và thể lực trong nhà trường chưa có những tiêu chí đánh giá
chuẩn mực (chủ yếu là đánh giá định tính).
2. Người đánh giá học sinh trong nhà trường hiện nay là giáo viên chủ
nhiệm và giáo viên bộ môn
Trong công tác đánh giá học sinh, hầu hết giáo viên đã làm việc hết sức trách
nhiệm, tương đối đảm bảo các yêu cầu đề ra của nhà trường. Tuy vậy,
giáo viên vẫn còn những bất cập rất cơ bản như sau:
- Nhận thức về hoạt động đánh giá còn khá đơn giản cả về mục tiêu
18
yêu cầu cũng như về qui trình, điều kiện và kỹ năng đánh giá
- Kỹ năng đánh giá của giáo viên thường dựa vào thói quen kinh
nghiệm, dễ bị cảm tính chủ quan chi phối qua các mặt đạo đức, thể
dục, âm nhạc, mỹ thuật, lao động …
3. Phương thức đánh giá học sinh trong nhà trường hiện nay được thiết lập
qua hai hoạt động cơ bản là đánh giá thường xuyên hàng ngày, ghi nhận ở
hệ thống sổ bộ như sổ điểm, sổ điểm danh, sổ chủ nhiệm và đánh giá định kỳ
qua bài kiểm tra học kỳ, cuối năm và thi tốt nghiệp cuối khóa
Đánh giá thường xuyên thường thực hiện qua kiểm tra bài cũ bằng cách phát
vấn hay kiểm tra viết 15 phút, 1 tiết. Ở đây, có giáo viên sử dụng các hình
thức thảo luận, thuyết trình hoặc giao việc, tổ chức thực hành cho học sinh,
có điểm thưởng cho những học sinh tham gia thực hiện tốt.
Định kỳ, nhà trường phổ thông hiện nay phổ biến vẫn còn áp dụng hình thức

đánh giá 2 lần mỗi năm, được gọi là kiểm tra học kỳ. Điểm kiểm tra học
kỳ được tính
19
chung với điểm đánh giá thường xuyên trong năm để công nhận việc
hoàn tất chương trình của học sinh, quyết định học sinh được lên lớp hay
không
Cuối mỗi bậc học, cấp học, thông qua kỳ thi để công nhận tốt nghiệp cho học
sinh. Phương thức đánh giá phổ biến qua các kỳ thi và kiểm tra nói trên là
làm bài viết
dưới hình thức tự luận. Một số cấp học, bậc học bắt đầu đưa hình thức trắc
nghiệm
khách quan vào kiểm tra và thi cử từ khi bắt đầu thực hiện đổi mới nội
dung chương trình giáo dục phổ thông theo tinh thần NQ 40/2000/QH10 của
Quốc hội.
IV. MỘT SỐ NHẬN XÉT
Hệ thống đánh giá học sinh trong nhà trường phổ thông như đã trình bày
trên đây, nhìn chung có những ưu khuyết điểm như sau:
- Thúc đẩy và công nhận quá trình học tập của học sinh, từ đó thúc đẩy
hoạt
động dạy - học của nhà trường, của thầy cô giáo
- Đã đề cập đến các mặt giáo dục toàn diện trong nhà trường phổ thông
thông qua các môn học (trí dục) và quan tâm đặc biệt đến vấn đề hạnh
kiểm của học sinh (đức dục), phần nào tới mỹ dục và thể chất của học
sinh.
- Với hệ thống văn bản hướng dẫn thi cử, đánh giá và sự đầu tư về
khảo thí của ngành đã cho thấy sự quan tâm khá đặc biệt đến hoạt
20
động đánh giá học sinh của nhà trường đối với kết quả học tập của học
sinh.
- Hệ thống chuẩn mực đánh giá chưa hoàn chỉnh và toàn diện. Cần

thiết phải có tiêu chí cụ thể để đánh giá các mặt thể chất, thẩm mỹ và
lao động hướng
nghiệp như các mặt trí dục và đức dục.
V. KIẾN NGHỊ
1. Để việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá ở các trường phổ
thông theo hướng giảng dạy tích cực, chúng ta cần thực hiện theo
những tiêu chí sau
a. Về nội dung kiểm tra đánh giá phải kiểm tra, đánh giá theo
- Mục tiêu đào tạo của từng môn học
- Kiểm tra, đánh giá theo các bậc nhận thức, các bậc kỹ năng, kỹ xảo
và các bậc của năng lực tư duy mà môn học mà học sinh phải đạt
được.
b. Về phương pháp kiểm tra đánh giá
- Áp dụng nhiều phương pháp kiểm tra đánh giá khác nhau (viết, vấn
đáp, trắc nghiệm khách quan, bài tập lớn, tiểu luận, tổng quan …)
21
- Thực hiện kiểm tra đánh giá thường xuyên để có thể sửa lỗi, điều
chỉnh, bổ
sung những sai sót về kiến thức cho học sinh kịp
thời. c. Kết quả kiểm tra đánh giá
- Được sử dụng để đánh giá chất lượng giảng dạy, chất lượng học tập
và chất lượng đào tạo (chương trình nội dung và tổ chức đào tạo)
2. Thay đổi nhận thức của giáo viên và học sinh trong việc đánh giá kết
quả học tập
Học sinh tự giác chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình, được tham
gia tự đánh giá và tự đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt các mục tiêu của từng
phần trong chương trình học tập, từ đó học sinh tự bổ khuyết những mặt
chưa đạt được so với mục tiêu trước khi bước vào một phần mới của chương
trình.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc

nghiệm khách quan cho tất cả các môn học và quy định dùng chung cho
toàn hệ thống giáo dục trung học phổ thông
Các câu hỏi trong ngân hàng này được xây dựng và thống nhất giữa các
chuyên gia, giáo viên cùng dạy môn học, cùng với chương trình chi tiết
soạn kỹ. Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan là chuẩn kiến thức của
môn học vì đã có đáp án xác định. Một số câu hỏi mẫu được cung cấp cho
22
học sinh trước khoá học và có trong hồ sơ tổ chức đào tạo mỗi khoá học
xác định của các nhà quản lý Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm có số câu
hỏi càng nhiều thì hiệu quả những điều sau đây càng cao.
a. Đối với giáo
viên
Căn cứ vào ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm môn
học để
- Sử dụng một số câu hỏi để giao bài chuẩn bị ở nhà cho học sinh.
- Đối thoại và thảo luận tại lớp; để dạy nhận thức và tư duy bậc cao.
- Ra đề kiểm tra đánh giá tiếp thu các môn học đảm bảo chất lượng theo
mục tiêu môn học đã đề ra.
b. Đối với học
sinh
Căn cứ vào ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm môn
học để
- Lập kế hoạch tự học và tổ chức học nhóm
23
- Nắm vững nội dung chuẩn xác và đạt mục tiêu
môn học đã đề ra c. Đối với các nhà quản lý
Căn cứ vào ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm môn học để
- Đa dạng hóa các loại hình đào tạo (tại chức, từ xa, e-
learning….)
- Mở rộng quy mô đào tạo mà vẫn giữ vững được chất lượng

đào tạo
- Để thẩm tra – thanh tra chất lượng giảng dạy của giáo viên
và chất lượng học tập của học sinh
24

×