Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TIểu luận Lịch Sử Đảng Quan điểm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của đảng qua các thời kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.86 KB, 32 trang )

Tiểu luận Lịch Sử Đảng

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG
Đề tài : Quan điểm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa của đảng ta qua các thời kì.
____________________________________________________________________________________
_
1
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

PH N IẦ
NH NG V N Đ CHUNG V CÔNG NGHI P HOÁ XÃ H I CH NGHĨAỮ Ấ Ề Ề Ệ Ộ Ủ
1. Khái ni m công nghi p hoá ệ ệ
► Cuối thế kỷ 18 cách mạng công nghiệp được tiến hành ở khu vực Tây Âu, công nghiệp hoá chính là
quá trình trang bị máy móc cho nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc.
► Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 10, công nghiệp hóa là quá trình chuyển
đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, quản lý xã hội từ dựa vào lao
động thủ công là chính sang dựa vào lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp, công nghệ,
kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao.
► Công nghiệp hoá ở Việt Nam là quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ dựa vào nông nghiệp
và thủ công sang máy móc công nghiệp là chính dựa trên sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công
nghệ cao. Công nghiệp hoá chính là ngưỡng cửa mà bất kỳ quốc gia muốn phát triển đều phải trải qua.
Công nghiệp hoá nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng hay một
nền kinh tế. Đó chính là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, …công nghiệp hoá là một phần của
quá trình hiện đại hoá, nó còn gắn liền với các hình thái triết học,hoặc sự thay đổi thái độ con người
trong nhận thức về tự nhiên,xã hội.
2. Th c ti n ự ễ
► Mỗi nước, mỗi quốc gia khác nhau với những đặc điểm riêng (điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, tài
nguyên thiên nhiên,…) của mình và có thời kỳ lịch sử phát triển đất nước khác nhau sẽ có cách thức
tiến hành công nghiệp hoá khác nhau. Do tính chất rất đa dạng của công nghiệp hoá, nó bao hàm cả về
các hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ quản lý kinh tế-xã hội,…nên có rất nhiều các phương


thức khác nhau để tiến đến công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
► Sơ lược về công nghiệp hoá Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam
- Trước kia : Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời phát triển công nghiệp
và công nghiệp nhẹ. Trong khi các nước tư bản lại phát triển công nghiệp nhẹ.
- Hiện nay : Nền công nghiệp cơ khí đã trở lên quá lạc hậu, nó nhường chỗ cho các ngành khác đa
dạng hơn, hiệu quả hơn như công nghiệp nhẹ (sản xuất hàng tiêu dùng,…), các ngành dịch vụ,…
Do yếu tố khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão cùng với sự thay đổi về nhận thức
thế giới quan, công nghiệp hóa chính là trang bị cho nền kinh tế bằng ngoại tệ, đồng nghĩa với
việc bằng mọi cách kiếm được càng nhiều ngoại tệ càng tốt, máy móc, dây chuyền công nghệ sẽ
được mua bằng ngoại tệ để tập trung vào ngành mũi nhọn nhất.
____________________________________________________________________________________
_
2
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

3. Đ c đi m công nghi p hóa xã h i ch nghĩa.ặ ể ệ ộ ủ
► Chủ nghĩa xã hội tồn tại và phát triển được thì cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại, cơ sở vật chất phải được xây dựng dựa trên những thành tựu mới nhất và
tiên tiến nhất của khoa học công nghệ để tạo ra năng suất lao động hiệu quả nhất.
► Trước kia công nghiệp hóa gắn liền với mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội.
► Ngày nay công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa đồng nghĩa với việc ứng dụng những thành tựu
mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học công nghệ để đưa đất nước Việt Nam thoát khỏi tình trạng là một
nước kém phát triển. Mục tiêu cơ bản của đảng và chính phủ đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp. Lúc đó sẽ có sự chuyển dịch cơ bản về cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành và cơ cấu
lao động.
► Công nghiệp hóa đang trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập và thương mại do đó mở cửa và gia
nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực hay là phát triển kinh tế đối ngoại là một điều tất yếu.
► Công nghiệp hóa đất nước cũng có nghĩa là tạo dựng được nền chính trị ổn định, giữ vững định
hướng chủ nghĩa xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.

____________________________________________________________________________________
_
3
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

PH N IIẦ
QUAN ĐI M V CÔNG NGHI P HÓA C A Đ NG QUA CÁC KỲ Đ I H IỂ Ề Ệ Ủ Ả Ạ Ộ
Qua các kỳ đại hội quan điểm về công nghiệp hóa của đảng ta có những thay đổi theo tình hình đất nước và tình
hình chung của thế giới, đảng đã đặt ra một số vấn đề về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa như sau:
1. Đ i h i ạ ộ III ( t ngày 5-12/9/1960 – t i Hà N i)ừ ạ ộ
► Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền, thực hiện hai chiến lược
cách mạng khác nhau: Miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam
tiếp tục đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
► Nội dung xuyên suốt đại hội III là xây dựng Chủ Nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III diễn ra giữa lúc công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa,
phát triển kinh tế ở miền Bắc đang giành được những kết quả to lớn và Cách mạng ở miền Nam đã tiến
lên một bước nhảy vọt.
► Ở miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế, coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
► Con đường công nghiệp hóa mà đại hội III đưa ra là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý đồng thời phát triển công nghiệp và công nghiệp nhẹ. Cho tới năm 1973 đảng ta đã nhận thức
lại điều này và thay chữ ‘’ đồng thời ‘’ bằng từ ‘’ trên cơ sở ‘’. Quan tâm và phát triển công nghiệp
nặng đúng mức, một số nhà máy, xí nghiệp được thành lập như nhà máy gang thép Thái Nguyên, nhà
máy cơ khí Trần Hưng Đạo là một trong những xí nghiệp được thành lập sớm nhất so với các đơn vị
của ngành Công nghiệp. Ngay những năm đầu thành lập,từ xưởng sản xuất này, đã có không biết bao
nhiêu các loại vỏ mìn, vỏ lựu đạn, máy khoan, máy tiện nhỏ, máy xay xát lúa gạo, máy in, dao phát
rừng… được làm ra và toả đi 4 phương phục vụ kháng chiến. Sau ngày thống nhất Bắc -Nam, Cơ khí
Trần Hưng Đạo phát triển mạnh mẽ với những dòng sản phẩm chủ lực phục vụ cho công nghiệp hoá
nông nghiệp, nông thôn. Những sản phẩm máy bơm nước, máy tuốt lúa, máy cày 2 lưỡi, hộp số thuỷ
D12… mang nhãn hiệu “Nhà máy Trần Hưng Đạo” đã chiếm lĩnh và có mặt trên đồng ruộng cả nước,

trên hàng vạn tàu thuyền vận tải sông, rạch và tàu thuyền đánh bắt cá xa bờ,…
2. Đ i h i IV ( t ngày 14-20/12/1976 –t i Hà N i)ạ ộ ừ ạ ộ
► Đất nước vừa thống nhất, đại hội đã thông qua báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ
yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980.
► ĐH xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc trong thời gian tới: Nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ; tiến hành dồng thời
3 cuộc cách mạng : cách mạng khoa học kỹ thuật (then chốt), cách mạng quan hệ sản xuất và cách
mạng tư tưởng - văn hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả
thời kỳ quá độ; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn chủ , xây
____________________________________________________________________________________
_
4
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo
nàn, lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên cuảng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội; xây dựng thành công đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất ; góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Đại hội xác định đường lối xây dựng kinh tế là đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đưa
Việt Nam trở thành một nước công – nông nghiệp hiện đại, văn hoá và Khoa học kỹ thuật tiên tiến,
quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
 Như vậy đại hội IV đã nhắc lại và nhấn mạnh quan điểm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xác
định đường lối đưa cả nước lên xã hội chủ nghĩa.
3. Đ i h i V (t ngày 27-31/3/1982 – t iạ ộ ừ ạ Hà N i )ộ
► Đại hội V đã đưa ra những sách lược cụ thể đường lối công nghiệp hóa từ đại hội IV và đã rất thành
công trong tìm hiểu và xây dựng lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đó dẫn đến việc
thay đổi một loạt những nhận thức. Đại hội V là đại hội của thời kỳ ‘’ những chặng đường đầu tiên ‘’ .
►Sách lược công nghiệp hóa : có 6 nội dung cơ bản :

- Tập trung phát triển nông nghiệp.
- Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu .
- Đưa nông nghiệp bước lên thành ngành sản xuất lớn.
- Ra sức phát triển hàng tiêu dùng hay chính là phát triển ngành công nghiệp nhẹ.
- Phát triển một số ngành công nghiệp nặng để phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp.
- Chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa giai đoạn sau.
4. Đ i h i VI ( t ngày 15-18/12/1986 t i Hà N i)ạ ộ ừ ạ ộ
( Đại hội VI hay còn gọi là đại hội ‘’ đổi mới ‘’ do các quan điểm đổi mới, mục tiêu đổi mới,…)
► Tình hình khủng hoảng kinh tế-xã hội diễn ra theo chiều hướng ngày càng nghiêm trọng và có phần
rất gay gắt. Khủng hoảng biểu hiện rõ nét nhất ở sự mất cân đối giữa sản xuất – tiêu dùng ; sản xuất –
tích lũy; thu-chi; xuất- nhập; …khủng hoảng về kinh tế dẫn đến đời sống xã hội xuống dốc, đạo đức xã
hội, truyền thống đạo đức của dân tộc bị xói mòn. Các bậc ông cha ta đã có câu :’’ đói ăn vụng, túng
làm càn ‘’ quả là không sai.Lương thực thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều tỉnh, lạm phát cao, các tệ nạn xã
hội tăng nhanh chóng, trên lĩnh vực tư tưởng chính trị đã xuất hiện sự dao động về con đường xã hội
chủ nghĩa chính vì vậy mà một vấn đề cấp bách được đặt ra trong đại hội VI là phải đổi mới đất nước,
đổi mới chính là cuộc cách mạng ‘’ phá cũ, xây mới ’’,để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị,…
► Như vậy vấn đề được đặt ra là :’ đổi mới cái gì trước ? ‘.
Trước hết, quan trọng hơn hết là đổi mới về tư duy, đúng ! Đó là tư duy, cách nhìn nhận lại vấn đề,
thực chất Chủ nghĩa xã hội thì vẫn chính là nó, cái mà chúng ta muốn nói ở đây đó là ‘’ nhận thức lại ‘’
chủ nghĩa xã hội mà thôi. Sự vật, hiện tượng vẫn chỉ có một, điều cốt yếu là ta nhìn nhận nó từ góc độ
nào, nghĩ về nó như thế nào thì nó như thế đó,…
► Mục tiêu cụ thể về kinh tế và xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là :
____________________________________________________________________________________
_
5
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
- Bước đầu tạo một cơ cấu kinh tế hợp lý, chú trọng 3 chương trình kinh tế lớn đó là :

Lương thực
Thực phẩm
Hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu
(*)
 Đây cũng được coi là sự cụ thể hoá nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ. Làm cho thành phần kinh tế - xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của
các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của các thành phần kinh tế xã
chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và
tăng thu nhập cho người lao động.
► Năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội :
- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư [ phải thực hiện cho được 3 chương trình mục
tiêu
(*)
] ;
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế ;
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ;
- Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học - kỹ thuật ;
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại .
5. Đ i h i VII ( t ngày 17-22/6/1991 - t i Hà N i )ạ ộ ừ ạ ộ
► Đại hội thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến
lược phát triển kinh tế đến năm 2000,…
► Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 : Mục tiêu phát triển là phát triển
kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá
trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái , có
văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh
phúc.
► Mục tiêu tổng quát của chiến lược đến năm 2000 là ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế -
xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng đói nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố

quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ XXI.
6. Đ i h i VIII ( t ngày 22/6 ạ ộ ừ  1/7/1996 t i Hà N i )ạ ộ
► Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt của đất nước ta sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng đất nước Việt Nam độc lập dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng văn
minh định hướng xã hội chủ nghĩa.
► Về cơ bản nước ta đã bước ra khỏi tình trạng khủng hoảng, công nghiệp hoá bước sang chặng
đường mới. Các định hướng cơ bản phát triển các lĩnh vực chủ yếu:
- Tiếp tục phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Đổi mới cơ cấu quản lý kinh tế.
- Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo. [ coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu
…bởi vì giáo dục và đào tạo góp phần rất lớn trong việc đào tạo các nguồn nhân lực cho quốc gia.
____________________________________________________________________________________
_
6
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

Một trong những nước rất chú trọng đến giáo dục đào tạo đó chính là Nhật Bản ( phần phụ lục ‘’
Giáo d c d y ngh Nh t B n:Chìa khóa đi vào hi n đ i hóa- H ng Lụ ạ ề ở ậ ả ệ ạ ồ ê Thọ)]
7. Đ i h i IX ( tháng 4/2001 t i Hà N i)ạ ộ ạ ộ
► Đất nước bước vào thế kỷ 21, thế kỷ của khoa học công nghệ và kỹ thuật.Nội dung xuyên suốt đại
hội vẫn là : Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
► Chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành 1 nước công nghiệp, ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, chủ động hội nhập quốc tế để
phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu thủ, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,
► Đường lối đại hội IX :
- Đưa ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010;

- Năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp;
- chuyển dịch các cơ cấu kinh tế, đại hội IX đưa ra 3 ngành : Dịch vụ, nông nghiệp , công nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu lao động sao cho cơ cấu lao động trong nông nghiệp còn ≈ 50%.
- mở rộng quan hệ quốc tế : chủ trương quan hệ với tất cả các nước, các tổ chức, hiệp hội ,…nhưng
phải đảm bảo độc lập chủ quyền.
8. Đ i h i X và đánh giá quá trình 20 năm đ i m i.ạ ộ ổ ớ
[ di n ra 18-25/4/2006 t i Hà N i ]ễ ạ ộ
► Chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển". Phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp
► Đại hội X của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới.
a) Đánh giá khái quát quá trình 20 năm đ i m iổ ớ
► Đất nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá , phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ
vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
► Từ thực tiễn đổi mới đảng và nhà nước rút ra một số bài học kinh nghiệm xương máu :
- Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa
xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu
quả hơn để đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo
____________________________________________________________________________________
_
7
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của

Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
- Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới
từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể
trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng
không làm đồng loạt, dàn đều, mà phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo
đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ : phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
- Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì
nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan
trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn
phong phú của nhân dân, thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra
quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên - đó là chìa khoá của thành công.
- Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát
triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế,
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp
để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Hội nhập và hợp tác quốc tế phải dựa trên các nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và
phát triển nền văn hoá dân tộc.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị,
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hoá và tổ
chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.

b) M c tiêu và phụ ươ ng h ư ng phát tri n đ t nớ ể ấ ư cớ
► Phát triển mạnh các thành phần kinh tế [ như đại hội IX đã nêu ra]
► Chủ trương xây dựng và thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp, xây dựng một
hệ thống doanh nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh cao, chủ lực là một số tập đoàn kinh tế và công ty
lớn dựa trên hình thức cổ phần. Theo đó, cần tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá; đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể; phát
triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân, đồng thời thu hút
mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài.
____________________________________________________________________________________
_
8
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

► Phát triển kinh tế tri thức, tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh
tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá
trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
► Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn; chủ trương phát triển kinh tế vùng thông qua các chính sách phù hợp tạo điều kiện
cho các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng; phát
triển kinh tế biển theo một chiến lược toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta thành một
quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
► Trong việc phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, khuyến khích phát triển các ngành công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế
cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở
và đặc khu kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh
các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng
theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác

dầu khí, lọc dầu và hoá dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng,
xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất
là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; đưa tốc độ tăng trưởng của các
ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
PH N IIIẦ
CÔNG NGHI P HOÁ & HI N Đ I HOÁ NÔNG NGHI P – NÔNG THÔN Ệ Ệ Ạ Ệ
1. Quan đi m và phể ươ ng h ư ng hành đ ng đ y m nh CNH-HĐH nông nghi p- nông thônớ ộ ẩ ạ ệ
► Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn,chuyển mạng sang
sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ
& chất lượng cao hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với việc chuyển giao công
nghệ sản xuất; bảo quản; chế biến và khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tự phát. Rà soát, bổ
sung, điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp theo 2 hướng :
+ phát huy lợi thế từng loại cây trồng, con gia súc, tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ.
____________________________________________________________________________________
_
9
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

+ hình thành vùng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường và công nghiệp chế biến, bảo đảm hiệu quả
bền vững và an ninh lương thực quốc gia,…
► Phát triển và mở rộng thị trường, coi trọng phát triển thị trường trong nước, tổ chức tốt việc tiêu thụ
nông lâm sản, thuỷ sản cho nông dân.
► Đưa nhanh khoa học công nghệ vô sản xuất, nhất là việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công
nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ
sau thu hoạch, ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và xây dựng các khu công nghiệp cao; nâng cao khả
năng phòng ngừa khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi…khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản chế biến nông, lâm
thuỷ sản,…
► Tăng đầu tư ngân sách nhà nước, đa dạng hoá các nguồn vốn để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn
cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp xây dựng mới các hệ thống thuỷ lợi đồng bộ,

đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để đảm bảo an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ, kè,
đập, kè ven sông, ven biển, …nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống bão lụt, giảm
nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Đầu tư phát triển giao thông nông thôn, đảm bảo các xã đều có
đường ôtô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ôtô tới thôn bản, bêtông hoá , đảm bảo hơn
90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt, hơn 75% sử dụng H
2
O sạch.
► Điều chỉnh, bổ sung các chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư,…hỗ trợ, tạo điều kiện cho
hình thành các khu công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cs sản xuất công nghiệp
kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông, lâm thuỷ sản,…
► Giải quyết việc làm đào tạo nghề cho nông dân và lao động ở nông thôn, đặc biệt quan tâm đến giải
quyết việc làm và thu nhập cho nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích phát triển khu
công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc
làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn. Có chính sách trợ giúp thiết thực và đẩy mạnh đào tạo nghề
cho nông dân và lao động ở nông thôn, tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn kể cả đi lao động nước
ngoài.
► Đầu tư nhiều hơn cho chương trình xoá đói giảm nghèo trợ giúp thiết thực cho các vùng và cộng
đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống khuyến
nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng bước vượt qua khó khăn thoát
nghèo nâng cao mức sống một cách bền vững…
► Tập trung đầu tư để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố hoá trường học thực hiện tốt hơn
chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, thực hiện ngày càng có nền nếp và chất lượng về quy chế
dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hoá, nâng cao chất lượng hoạt động
các thiết chế văn hoá ở cơ sở giữ gìn và phát triển truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta….

2. V n đ c a Vi t Nam – rút lao đ ng ra kh i nông nghi pấ ề ủ ệ ộ ỏ ệ
► Có thể nói đây là một vấn đề lớn trong chiến dịch chuyển dịch cơ cấu lao động. Đối với một nước
như Việt Nam, quá trình cơ bản là công nghiệp hoá để chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công
nghiệp. Trong tiến trình này, vai trò, tương tác giữa khu vực nông nghiệp, nông thôn với công nghiệp
đóng vai trò cơ bản. Sau 20 năm đổi mới, thách thức quan trọng nhất của nông nghiệp, nông thôn Việt

Nam đã chuyển từ an ninh lương thực, thiếu đói sang dư thừa lao động, chia cắt và tụt hậu với khu vực
công nghiệp và bộ toàn nền kinh tế. Đây là nguy cơ của một nền kinh tế có hai bộ mặt - “dualism”,
____________________________________________________________________________________
_
10
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

khác nhau về năng suất, thu nhập và trình độ phát triển. Vấn đề đặt ra là phải duy trì tăng trưởng nông
nghiệp, trong những giới hạn về vốn, đất đai, tài nguyên. Nếu công nghiệp tạo việc làm không rút lao
động ra khỏi nông thôn để tạo điều kiện cho nông nghiệp tăng năng suất lao động và thu nhập thì khu
vực nông nghiệp, nông thôn sẽ là gánh nặng và trở ngại cho tiến trình công nghiệp hoá.
► Vấn đề rút lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp là vấn đề cơ bản đối với công cuộc công nghiệp
hoá, chuyển đổi nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp. Kịch bản tương lai cho tăng trưởng
nông nghiệp và tiến trình công nghiệp hoá đất nước sẽ phụ thuộc vào việc triển khai một chiến lược
công nghiệp hoá như thế nào để vừa đẩy mạnh công nghiệp tăng trưởng, thúc đẩy năng suất và tăng
thu nhập, trong khi vẫn vực dậy và kết nối nông thôn vào tiến trình phát triển của cả nền kinh tế.
Hình I: Việt Nam và khu vực -
Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm chậm trong khi
tỷ trọng GDP nông nghiệp trong nền kinh tế giảm mạnh
-
Ghi chú: Xu hướng theo mốc thời gian 1981-1991-2002.
Nguồn: ADB các năm 1999 và 2004; Niên giám Thống kê các năm.
► So với những nền kinh tế ở trình độ công nghiệp cao như Đài Loan hay những nước có nền nông
nghiệp phát triển như Thái Lan thì mức độ rút lao động ra khỏi nông thôn của Việt Nam rất đáng lo
ngại. Ngay cả Trung Quốc, một nước đông dân có số lượng nông dân khổng lồ và chênh lệch thu nhập
nông thôn thành thị rất cao, cũng đang nỗ lực thu hút lao động vào công nghiệp. Triệu chứng tắc nghẽn
lao động ở Việt Nam thể hiện một tiến trình phát triển công nghiệp và đô thị không gắn kết với phát
triển nông thôn. Kinh tế nông thôn phải đảm nhiệm một nhiệm vụ khó khăn là tiếp tục tạo thêm việc
làm cho khối lượng lao động đang tăng nhanh hàng năm để duy trì sự ổn định xã hội và môi trường
cho đất nước trong một thời gian khá dài.

► Trong khi các nước đã qua thời điểm lao động trong nông nghiệp ngừng tăng về số lượng tuyệt đối
thì ở Việt Nam, lao động trong nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng lên. Thời điểm mà lao động trong nông
nghiệp giảm về mặt tuyệt đối được gọi là "điểm ngoặt"
[5]
, lúc đó khu vực nông nghiệp, nông thôn bắt
đầu giảm được sức ép tình trạng đất chật người đông, tạo điều kiện tăng năng suất lao động nông
nghiệp và tăng thu nhập. Đến đầu những năm 90, trừ Philippin, những nước trong khu vực như Thái
Lan, Malaisia, Inđônêxia đều đã giảm lao động về mặt tuyệt đối. Ngay cả trường hợp của Trung Quốc
____________________________________________________________________________________
_
11
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

có xuất phát điểm thấp cũng đã đạt tới điểm "ngoặt" kể từ năm 2000. Suốt những năm đầu thập kỷ 80
đến tận những năm 90 lao động của Trung Quốc luôn tăng, từ mức 300 triệu lên đến 333 triệu, nhưng
kể từ năm 2000 bắt đầu giảm xuống còn 320 triệu. Lưu ý rằng, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam có
cùng xuất phát điểm về tỷ lệ lao động nông nghiệp trong nền kinh tế những năm đầu thập kỷ 80. Nếu
lấy những năm 80 làm mốc thì Thái Lan mất một thập kỷ để đạt được điểm "bước ngoặt" lực lượng lao
động trong nông nghiệp giảm; trong khi sau hơn hai thập kỷ Việt Nam chưa làm được chuyện này.
Hình II:
Số lượng tuyệt đối lao động nông nghiệp
Việt Nam tiếp tục tăng lên, 1981-2003 (ngàn người)
-
Nguồn: ADB các năm 1999; 2004.
 Trong điều kiện của Việt Nam, nếu chỉ phát triển công nghiệp ở một vài đô thị lớn sẽ gây ra những
hậu quả nghiêm trọng về sự tụt hậu của nông thôn, và nếu cũng chỉ tập trung công nghiệp hoá
nông thôn cũng khó giải quyết được vấn đề của bản thân khu vực nông thôn mà cần phải có một
hướng đi mang tính toàn diện trên bình diện tổng thể nền kinh tế.
 Như vậy Việt Nam đã sẵn sàng :


Ti n đ n chi n lế ế ế ư c công nghi p lan to .ợ ệ ả
 Trong điều kiện của Việt Nam, nếu chỉ phát triển công nghiệp ở một vài đô thị lớn sẽ gây ra
những hậu quả nghiêm trọng về sự tụt hậu của nông thôn, và nếu cũng chỉ tập trung công
nghiệp hoá nông thôn cũng khó giải quyết được vấn đề của bản thân khu vực nông thôn mà
cần phải có một hướng đi mang tính toàn diện trên bình diện tổng thể nền kinh tế. Theo như
các nghiên cứu của Phương Tây đối với các vùng ngoại vi của Thái Lan, Trung Quốc hay
Philipin thì vùng ngoại vi cách trung tâm ước chừng 100 đến 200 km, tuỳ theo mức độ lan toả
của các hoạt động công nghiệp và tiến trình đô thị hoá. Đối với Việt Nam mức độ công nghiệp
____________________________________________________________________________________
_
12
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

hoá và đô thị hoá còn chưa cao thì vùng ngoại vi không thể có khoảng cách xa như các nước
khác. Trong một vài năm gần đây, những khu vực vành đai của hai trung tâm kinh tế của đất
nước là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã mọc lên những khu công nghiệp, giúp thúc đẩy kinh tế
của các địa phương theo hướng công nghiệp hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tiến
trình đô thị hoá. Như vậy, nếu xét theo tiến trình của các nước Đông Á đi trước thì ở Việt
Nam cũng đang diễn ra những dấu hiệu manh nha cho một xu hướng công nghiệp hoá, đô thị
hoá vùng biên. Có một số vấn đề được xem xét và định hướng dựa trên những bài học của các
nước Đông Á như sau:
► Đối với Việt Nam, nếu quá trình công nghiệp hoá ngoại vi không tiến triển mạnh sẽ chuyển
sang nguy cơ về một xu thế công nghiệp hoá co cụm, và những tình trạng ùn tắc. Ùn tắc về vốn
đầu tư không chạy vào sản xuất kinh doanh mà vào các hoạt động đầu cơ, địa ốc, đẩy giá nhà đất
đô thị lên cao, trong khi ngoại vi có những cơ hội đầu tư lại không được khai thông để thu hút vốn.
Ùn tắc về lao động nông thôn không thoát ra khỏi sản xuất nông nghiệp. Ùn tắc về đất đai, khi đa
số dân cư chen chúc vào sống và làm việc ở nội đô chật hẹp, dẫn đến quá tải về giao thông, dịch
vụ, cơ sở hạ tầng …
► Ở những khu vực ngoại vi của Việt Nam đã hội tụ đủ các yếu tố "kéo" và "đẩy" để hình thành
nên tiến trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, nhưng rất cần những "cú huých" của Nhà nước trong

phát triển cơ sở hạ tầng để kéo dãn vốn đầu tư nước ngoài và dịch chuyển hoạt động sản xuất từ
trung tâm ra. Trường hợp của Philipin cho thấy tầm quan trọng của tư nhân trong việc phát triển
khu vực ngoại vi, đối với Trung Quốc các doanh nghiệp nông thôn-hương trấn trở thành nhân tố
hấp thụ đầu tư và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, trong khi ở Thái Lan thì Chính phủ đóng
vai trò quyết định trong định hướng phát triển
.
Đối với Việt Nam, trong hoàn cảnh khu vực tư nhân
còn yếu, không có các doanh nghiệp nông thôn mạnh như Trung Quốc thì vai trò của Nhà nước
trong việc tạo dựng những vành đai và thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá vùng biên có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng.
► Kinh nghiệm của Đông Á cho thấy sự thiếu kết nối và hợp tác khi triển khai các chương trình
phát triển các vùng vành đai làm chậm quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá. Những yếu kém
bao gồm: liên kết dọc giữa chính quyền trung ương, các Bộ ngành với địa phương và liên kết
ngang giữa các chính quyền địa phương với nhau. Một nguy cơ là khi các tỉnh đều mong muốn
đẩy nhanh công nghiệp hoá và dồn toàn lực vào xây dựng cơ sở hạ tầng, như sân bay, cầu cảng sẽ
dẫn đến hiện tượng mang tính "phong trào" và "mạnh ai nấy làm" không sử dụng đúng lợi thế của
mình và tận dụng điều kiện của địa phương lân cận cũng như phù hợp với chiến lược phát triển
chung của quốc gia trong dài hạn. Ví dụ như trường hợp các tỉnh cạnh nhau đều đầu tư xây dựng
sân bay và cảng biển sẽ là thiếu hiệu quả thay vì đầu tư vào các lợi thế của mình và sử dụng của
nhau.
► Trong trường hợp hội tụ đủ "yếu tố đẩy" từ trung tâm thành phố ra, thì vấn đề lại là liệu địa
phương có đủ năng lực nắm bắt cơ hội tiếp nhận luồng tài nguyên dịch chuyển hay không? Ở đây,
chính quyền địa phương đóng vai trò quyết định. Các nhà đầu tư thường nản lòng trước những rào
cản về mặt hành chính, sự chậm chễ chuẩn bị điều kiện đầu tư và tệ tham nhũng của địa phương.
Mặt khác, năng lực của chính quyền địa phương trong việc tạo lập môi trường kinh doanh thân
thiện có ý nghĩa quyết định thu hút vốn đầu tư. Cựu thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu đã nhận
xét các nước trong quá trình công nghiệp hoá thường quá chú trọng đến phần cứng (cơ sở hạ tầng)
mà quên mất yếu tố quan trọng nhất là tạo lập môi trường kinh doanh thân thiện cho các nhà đầu
tư.
____________________________________________________________________________________

_
13
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

► Một điểm quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá ngoại vi là việc thu hút vốn đầu tư chỉ là
phương tiện. Vấn đề chính nằm ở chỗ làm sao để "địa phương" có thể thụ hưởng tiến trình này để
tạo ra được thay đổi về cơ cấu kinh tế và lao động. Một số nơi của Thái Lan đã diễn ra tình trạng
nguy cơ "ốc đảo", đó là các khu công nghiệp không tạo được liên kết và thúc đẩy phát triển vùng,
không chuyển đổi cơ cấu kinh tế, những người kỹ sư và công nhân làm việc cho khu công nghiệp
là những người nơi khác đến làm chứ không phải dân địa phương. Trong tình trạng này, sẽ không
tạo nên chuyển biến cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hoá sẽ không dẫn đến đô thị hoá.
► Trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá ngoại vi, luồng vồn đầu tư thường tạo ra quá
trình chuyển đổi sản xuất từ nông nghiệp sang công nghiệp và đô thị hoá làm phá vỡ những "cấu
trúc" cũ của địa phương và phát sinh những thách thức mới về môi trường, và các vấn đề xã
hội Cho nên Chính quyền địa phương không chỉ quan tâm đến những khía cạnh kinh tế mà phải
chú ý cả các vấn đề xã hội và có định hướng đối phó với thách thức mới nảy sinh.
► Về chiến lược đầu tư, cần tránh chỉ chú trọng đầu tư xây dựng cơ bản mà không chú ý đến các
vấn đề con người, an sinh xã hội. Công tác đào tạo và dạy nghề, phát triển nguồn lao động có ý
nghĩa quyết định để địa phương có thể hưởng lợi thực sự từ quá trình công nghiệp hoá vùng biên,
giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế, và đô thị hoá địa bàn địa phương.
► Trong tiến trình công nghiệp hoá ngoại vi, tránh tình trạng cạnh tranh ngoại vi và "khoảng
trống" tại trung tâm đô thị do dịch chuyển công nghiệp ra ngoại vi. Các trung tâm đô thị cần phải
có những chiến lược phát triển chủ động, tạo ra những thay đổi nội tại, chuyển biến về chất để
phát triển lên tầng nấc cao hơnNhư vậy, thành phố cần lựa chọn ưu thế, các hướng phát triển mới,
xây dựng đội ngũ lao động tay nghề cao, các tầng lớp kinh doanh, dịch vụ phát triển và ứng dụng
khoa học công nghệ
K T LU NẾ Ậ
- Chính vì vai trò rất quan trọng của công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước trong việc phát triển nền
kinh tế quốc dân nên đảng và nhà nước rất chú trọng đến vấn đề này. Cụ thể qua các kỳ đại hội ta đều
nhận thấy được các định hướng và chủ trương của đảng ta đối với công nghiệp hoá và hiện đại hoá .

Trước mắt là chặng đường còn chông gai đối với Việt Nam , vẫn còn ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội công nghiệp hoá chủ nghĩa xã hội mục đích là đưa đất nước thành một nước công nghiệp, cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, nguồn nhân lực được đào
tạo và phát huy tối đa, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
- Nhìn lại chặng đường đã qua, ta cũng thấy được Việt Nam đã có những bước tiến rất đáng khích lệ.
Với đà này hy vọng một ngày không xa đất nước ta sẽ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa theo đúng
nghĩa của nó.
____________________________________________________________________________________
_
14
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

PH L CỤ Ụ
I. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình lịch sử Đảng - Chính trị Quốc Gia - 2004
2. Giáo trình kinh tế chính trị - Chính trị Quốc Gia - 2005
3. Văn kiện đại hội đảng lần thứ X.
4. Tạp chí THời Đại Mới [ nghiên cứu + thảo luận ]
5. Các đại hội Đảng ta (1930-1986)– Lê Mậu Hãn - 1991
6. N ông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá - Đặng
Thọ, Chính trị Quốc Gia – 1997.
7. Con đường CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn- Chu Hữu Quý, Nguyễn Kế Tuấn,Phan
Đại Doãn – CHính Trị Quốc Gia – 2001.
____________________________________________________________________________________
_
15
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

II. Tài li u đính kèm ệ

1. Giáo d c d y ngh Nh t B n – Chìa khóa đi vào hi n đ i hoá. Kinh ụ ạ ề ở ậ ả ệ ạ
nghi m đào t o k thu t c p giáo d c ph c p – H ng Lê Thệ ạ ỹ ậ ở ấ ụ ổ ậ ồ ọ
[Lê Hồng Thọ : TS.Sử Học – Đang làm việc và sinh sống tại Tokyo ]
(bài này đã được đăng trên các trang nghiên cứu và thảo luận uy tín tại Việt Nam và
nước ngoài như http:// www.vietsciences. org , tạp chí Thời Đại Mới)
thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN

Số 13 - Tháng 3/2008


Giáo dục dạy nghề ở Nhật Bản:
Chìa khóa đi vào hiện đại hóa
Kinh nghiệm đào tạo kỹ thuật
ở cấp giáo dục phổ cập
Hồng Lê Thọ

A. Bắt đầu từ Minh Trị Duy Tân…
Từ khi chiến hạm của Mỹ do đô đốc Commodore Perry dẫn đầu kéo đến cảng Uraga thuộc Edo (Tokyo) gây sức ép, Nhật bản buộc phải
mở cửa, bãi bỏ chính sách bế quan tỏa cảng kéo dài suốt 200 năm để giao thương. Ngày 31/3/1854 sau kí kết hoà ước với Mỹ, lịch sử nước
Nhật đã chuyển sang một thời kỳ mới, đó là công cuộc cải cách Minh trị Duy Tân bắt đầu vào năm 1868 sau khi Thiên hoàng Komei
(Mutsuhito) thâu tóm quyền lực nội trị về một mối. Với tư duy mới để cải cách toàn diện chính trị, xã hội, giáo dục… chính quyền Minh Trị ra
____________________________________________________________________________________
_
16
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

sức “hiện đại hóa” đất nước theo tư tưởng “thoát á nhập âu”—cách hội nhập vào trào lưu của giới thống trị trong đó tổ chức lại xã hội, cải
cách nền giáo dục khoa bảng từ chương theo lối Khổng-Mạnh sang nền giáo dục tiên tiến lấy kinh nghiệm của Hoa kỳ và các nước phát triển
Châu âu (Đức, Pháp, Hòa Lan…) để xây dựng một mô hình giáo dục quốc gia phù hợp với chủ trương “Khai hoá văn minh” (Bunmei Kaika):

Đối với chúng ta, những người sống ở phương Đông, trừ khi chúng ta có quyết tâm vững chắc muốn chống lại xu thế văn minh phương Tây.
Nhưng liệu chúng ta có thể chống đỡ được không, còn nếu không, tốt nhất là chúng ta hãy cùng chia sẻ chung số mệnh với nền văn minh ấy.
Nếu quan sát kĩ lưỡng tình hình thế giới hiện nay, sẽ nhận thấy được rằng chúng ta không tài nào kháng cự lại được sự tấn công dữ dội của
nền văn minh này. Vậy tại sao chúng ta không cùng nhau bơi trên mặt biển, cùng nhau tạo ra một làn sóng, ra sức xây dựng và hưởng thụ
những thành quả của nền văn minh ấy?” (Thoát Á Luận, 16/3/1885—Fukuzawa Yukichi)
Đến nay, Nhật Bản đã trải qua 2 lần cải cách giáo dục một cách qui mô, chịu ảnh hưởng rất lớn của Mỹ (cố vấn nổi tiếng là hai ông David
Muray và Marrion Mc Carell Scott thời Minh Trị Duy Tân và đoàn tham vấn về giáo dục của chính phủ Hoa Kỳ sau thế chiến thứ hai) trong
các chính sách và biện pháp cải cách cụ thể.
Chỉ 4 năm kể từ khi nắm quyền bính(1868), thống nhất đất nước, kết thúc nạn cát cứ phiên bang, năm 1872 Minh Trị thiên hoàng đã áp
dụng chính sách “hiện đại hóa” chế độ giáo dục và chính sự thành công của việc cải cách nầy đã tạo ra tiền đề to lớn để cải cách toàn xã hội,
hay nói khác đi Minh Trị đã dùng Giáo dục để nâng cao dân trí thông qua việc hoàn thiện hệ thống giáo dục mới, trong đó chủ yếu phổ cập hoá
cấp tiểu học trên toàn lãnh thổ đồng thời từng bước xây dựng giáo dục cấp 2 (trung học cơ sở) và 3 (trung học phổ thông) nhưng trọng tâm là
ưu tiên tổ chức trường chuyên tu, dạy nghề cho thanh thiếu niên và trung cấp chuyên nghiệp một cách có hiệu quả (xem bảng thống kê về số
trường và các loại trường từ năm 1873-1962), lấy đó làm đòn bẩy để xây dựng một xã hội “phương tây kiểu Nhật Bản” mới, phù hợp với xu
thế phát triển và trong lúc các cường quốc đang tranh nhau cấu xé Trung Hoa.
Hệ thống giáo dục Nhật Bản được sửa đổi liên tục nhằm thực hiện hai ưu tiên là cưỡng bách giáo dục nhằm phổ cập hóa hệ thống giáo
dục tiểu học (năm 1920 đạt 99% phổ cập tiểu học) và lập các loại trường dạy nghề cho thanh niên đồng thời tổ chức đào tạo qua các khoá
chuyên tu (nông, công, lâm, ngư nghiệp, thủy sản, dệt…) ở cấp trung học cơ sở. Hai ưu tiên này đã tạo ra những bước đi rất cơ bản trong việc
hình thành lực lượng công nhân là người gánh vác kế hoạch phát triển chắc chắn cho việc “hiện đại hoá” (tiếng Nhật sử dụng thuật ngữ “Cận
đại hoá”) nền kinh tế và xã hội trong suốt một thế kỷ. “Đây cũng là tiền đề của hệ thống giáo dục ngày nay, một hệ thống mà những nhân tố
cấu thành đều được đặt đúng vị trí của nó một cách minh bạch”[1] trong đó vai trò cơ bản của lao động có kỹ năng và kỷ luật đã được xác lập
trong suốt quá trình công nghiệp hoá.
Mặt khác chủ trương phát triển giáo dục cấp cao làm đầu tàu cũng đã được quan tâm,và hình thành rất sớm: đó là hệ thống đại học và sau
đại học với các “Trường Chuyên Môn”(không kể loại trường Cao đẳng Chuyên môn dành cho học sinh học hết cấp 2)[2] trong đó những đóng
góp hữu hiệu của các chuyên gia từ các nước tiên tiến được đánh giá rất cao, giữ vai trò trọng yếu trong chiến lược “hiện đại hoá” nền giáo dục
nói chung và công cuộc cách mạng kỹ nghệ nói riêng của Minh Trị Duy Tân.
Chính quyền Minh Trị quan tâm xây dựng từng bước hệ thống giáo dục đại học bắt đầu từ 6 trường đại học “hoàng gia” công lập, lần lượt
được thành lập từ năm 1877, trên cả nước (Tokyo, Kyoto, Kyushu, Tohoku, Hokkaido, Ôsaka) và cho phép thành lập đại học tư thục (Waseda,
Keio, Doshisha…) từ các “trường chuyên môn” (dạy nghề) khi bước vào thế kỷ 20. Nói tóm lại, trước nguy cơ đe doạ bị các cường quốc
phương tây “thuộc địa hóa” vào hậu bán thế kỷ 19, biện pháp “thông minh” của Minh Trị Thiên hoàng là chọn con đường “hội nhập” để ứng

phó, tách mình ra khỏi ảnh hưởng cũng như số phận như Trung Quốc và Triều Tiên, cướp thời cơ mở cửa với các liệt cường phương tây để
nhanh chóng đưa Nhật bản phát triển thành một cường quốc ngang ngửa trên vũ đài quốc tế như chúng ta đã thấy qua hai cuộc chiến tranh
Nhật – Thanh (1894) và chiến tranh Nhật – Nga (1905) trong chiến lược “Phú quốc Cường binh” kéo dài cho đến hai trận thế chiến I(1914-
1918) và II (1939-1945) bùng nổ sau nầy!
Với tư tưởng và chủ trương đầy tham vọng nêu trên, ngay từ đầu Nhà nước Minh Trị đã “quản lý” chặt chẽ, theo sát mọi chính sách và
biện pháp cải cách giáo dục (với mục đích nhanh chóng sản sinh ra một lớp công nhân có tay nghề thích hợp và cần thiết cho phát triển với một
tinh thần “trách nhiệm” trong thái độ lao động triệt để mà chúng ta đã thấy qua những thành công to lớn và cơ bản trong việc quản lý chất
lượng hàng hóa trong sản xuất sau này) đưa Nhật Bản từ vị trí một nước nông nghiệp, lạc hậu về kỹ thuật từ cuối thế kỷ 19 sang thành một
nước có nền công nghiệp phát triển rực rỡ từ những năm 60 của thế kỷ trước mặc dù là kẻ bại trận liên tiếp trong hai cuộc chiến tranh thế giới,
phải tháo bỏ chế độ quân phiệt và trả lại những “tô giới” ở Triều Tiên, Trung quốc, Đài loan và căn cứ quân sự và chế độ thực dân tại các nước
Đông nam Á.
Có người cho rằng hệ thống giáo dục của Nhật Bản thời Minh Trị mô phỏng theo hệ thống quản lý giáo dục của Pháp khi thiết lập
“Trường Chuyên Môn” (như là những Grandes Ecoles ở Pháp) tiền thân của hệ thống đại học sau này. Nhưng khi xét về phần “Tư thục” thì có
ý kiến mạnh mẽ kết luận rằng Nhật bản chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ khi nhìn vào sự thành công rực rỡ của quá trình hình thành hệ thống
Trường tư thục qua mô hình “Lan học” (1858) đầu tiên theo giáo dục phương tây (người Nhật gọi là “Lan học” tức học theo Hoà Lan thay vì
gọi là Tây học như ở VN) sau này phát triển thành Đại Học Keio (1920) do Fukuzawa Yukichi (1835-1901), một nhà tư tưởng và giáo dục nổi
tiếng khởi xướng và sáng lập với sự hợp tác chặt chẽ của Hoa Kỳ.
Thực tế cho thấy vào cuối hậu bán thế kỷ 19 đã có nhiều đoàn chuyên gia cấp cao của Nhật Bản, tổng cộng 48 người ( đặc biệt là Iwakura
Tomomi , đại sứ từng làm việc ở Mỹ 1860, Châu Âu lần 1 vào năm 1862 và lần 2 vào năm 1863) lặn lội đi các nước từ Mỹ sang Châu Âu từ
tháng 12/1871 đến tháng 9/1872 để tìm kiếm phương cách đổi mới qua việc học tập kinh nghiệm của Mỹ về y khoa, luật (tuy có phần lạc hậu
so với Châu âu), kỹ thuật quân sự; sang Châu âu để học công nghiệp và giáo dục kỹ thuật của nước Anh, y tế của Hòa Lan, tổ chức chính
quyền theo kiểu Đức… Trong số nầy có người đã trở thành thủ tướng, bộ trưởng quan trọng sau nầy của chính quyền Minh trị như Ito
Hirobumi, Okubo Toshimichi, Kido Takayoshi… cho nên kết luận rằng Nhật Bản hấp thu kinh nghiệm của nhiều nước Âu-Mỹ để xây dựng cho
mình một chế độ giáo dục hiện đại là điều không thể chối cãi (Wataru Hasegawa tlđd). Tuy nhiên cũng phải khách quan thừa nhận rằng Nhật
bản đã dần dà hình thành một nền giáo dục tiên tiến cho bản thân mình trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống kết hợp với những tư
tưởng tiên tiến của nước ngoài thời bấy giờ một cách hiệu quả, trong đó vai trò lãnh đạo tuyệt đối và cương quyết của chính quyền Minh Trị đã
trở thành nhân tố quyết định dẫn đến thành công trong công cuộc cải cách. Vì vậy hai chữ “thoát Á” của Fukuzawa Yukichi hàm ý nghĩa là
Nhật bản phải rời bỏ tư tưởng hủ lậu và lỗi thời của triết học phương đông, mặc cho mình chiếc áo mới tây phương phù hợp với thời đại của
cuộc cách mạng kỹ nghệ, rằng “chúng ta không những có thể thoát ra khỏi sự trì trệ lạc hậu cũ kĩ của nước Nhật Bản mà còn có thể đặt lại
được một trật tự mới trên toàn Châu Á” (Fukuzawa Yukichi), mà vẫn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, tôn thờ nhà vua, lễ giáo phong

kiến… thể hiện qua cách ứng phó nhạy bén và mềm dẻo của người Nhật, thí dụ việc “đón” tết theo lịch tây phương nhưng “ăn” tết theo kiểu
đông phương là một điển hình cho thấy sự thức thời này, hay sự tồn tại và phát triển của những lễ hội truyền thống, không mang màu sắc lai
____________________________________________________________________________________
_
17
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

căng.
Điều đáng lưu ý là trước khi “Chế độ Giáo dục” chính thức được ban hành vào năm 1872 thì ngay từ khi bắt tay soạn thảo những năm
trước đó, Chính phủ đã lập ra một hội đồng gồm 7 học giả “tây học”, 2 người theo Hán học và Quốc học, 3 cán bộ hành chính(cũng là nhà giáo
theo Tây học) trong đó Ủy viên xuất thân học từ Pháp chiếm vị trí quan trọng hơn cả (ngoài ra còn có các vị học từ Đức, Anh, Hòa Lan cũng có
ảnh hưởng không nhỏ). Thực tế này chứng tỏ ngay từ đầu Nhà nước Minh trị đã vận dụng mọi khả năng để tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến
của các nước một cách cương quyết, buộc các tầng lớp trong xã hội, sĩ nông công thương, nam nữ đều phải đi học (tiểu học), hủy bỏ chế độ ưu
tiên cho tầng lớp quí tộc.[3] Như vậy, có thể nói sự bình đẳng trong giáo dục ở Nhật Bản đã được xác lập rất sớm, mặc dù chính quyền đương
thời qui định là phụ huynh phải thanh toán học phí, và nhà nước chỉ chịu phần chi phí cho những chương trình giáo dục dạy nghề trong học
trình. Mặt khác, đây cũng là lần đầu tiên khái niệm về “trường chuyên môn” (dạy nghề) xuất hiện khi bộ luật nầy được bổ sung vào năm sau
(1873).

B. Cải cách giáo dục lần thứ nhất
Ngày 11 tháng 2 năm 1889 “Hiến Pháp Đế chế Đại Nhật Bản” đầu tiên được ban hành (năm Minh Trị thứ 22) xác nhận quyền “tham
chính” (được quyền tham gia vào quốc hội, bầu cử, ứng cử…) của nhân dân trong chế độ tam quyền phân lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp)
mặc dù đặt Thiên Hoàng Minh Trị ở vị trí tuyệt đối, mang tư cách của “thần” trong Thần đạo, có quyền ban bố những sắc lệnh hay mệnh lệnh
bất chấp luật pháp hiện hành, bắt đầu cho những chính sách độc đoán đưa đến chủ nghĩa phát xít cực đoan sau nầy.
Mặt khác, với chính sách “Gầy dựng công nghiệp” thực hiện trong 20 năm kể từ khi “duy tân”, Nhật bản đã hội đủ điều kiện để nhảy vào
cuộc cách mạng kỹ nghệ vào năm 1890. Bộ trưởng Giáo dục Inoue Kowashi đã đẩy mạnh giáo dục-dạy nghề công nghiệp, đưa ra chương trình
giáo dục “Thực nghiệp-kỹ thuật và khoa học kết hợp” với sự tham gia giảng dạy của nhiều chuyên gia nước ngoài, thích ứng với phát triển của
cuộc cách mạng đang xảy ra như vũ bão không những ở Nhật Bản mà trên toàn thế giới vào những năm cuối thế kỷ 19. Hàng loạt trường
chuyên môn, trường giáo dục thực nghiệp (là những loại trường dạy nghề sau khi tốt nghiệp tiểu học) ra đời. Ngoài ra còn có trường Thanh
niên (đào tạo nghề ngắn hạn) ra đời năm 1899, từ con số trăm trong những năm 1870 đã vọt lên con số hàng chục nghìn khắp cả nước trong
suốt một thời kỳ dài từ 1903-1947 theo lệnh lập “trường chuyên môn” ban hành năm 1903; lệnh này cho phép địa phương linh hoạt xây dựng

trường đào tạo ngành nghề phù hợp với điều kiện và nhu cầu của mình. Trường dạy nghề tư thục cũng có điều kiện phát triển không kém, thậm
chí có nơi trường dạy nghề do người nước ngoài xây dựng cũng đã trở nên phổ biến, lấn át cả hệ thống đào tạo nghề công lập với tỷ lệ công-tư
4/6 hay 3/7.

C. Cải cách giáo dục lần 2
Nhật Bản thực hiện cải cách giáo dục lần thứ hai dưới dự kiếm soát của G.H.Q (Tổng hành dinh chỉ huy quân đội đồng minh, do tướng
Mac Arthur của Mỹ làm tư lệnh) sau khi Hiến pháp “dân chủ” mới, loại bỏ quyền lực tuyệt đối của Thiên Hoàng, được ban hành vào ngày
3/11/1946.
Cải cách lần này qui định áp dụng chế độ giáo dục cưỡng bách 9 năm tại Nhật bản, nâng cấp khả năng đào tạo của những cơ sở dạy nghề
cũng như hoàn thiện hệ thống giáo dục đại học theo khuyến cáo của phía Hoa kỳ. Từ thời điểm nầy, chúng ta thấy con số thống kê về trường
trung học cơ sở (cấp 2) hay trung học phổ thông (cấp 3) tăng nhanh một cách đáng kể. Các “trường chuyên môn” thời quân phiệt trước đây bị
huỷ bỏ thay thế bằng “trường dạy nghề” hoặc được nâng cấp trở thành những trường đại học mới lập.
Năm 1961, Nhật Bản thay đổi qui định hệ thống giáo dục dạy nghề trong Luật giáo dục, cho phép lập “trường cao đẳng chuyên nghiệp”
với học trình 5 năm (gồm 3 năm trung học phổ thông và 2 năm chuyên tu) cùng tồn tại song song với trường dạy nghề đã có. Năm 1975, để
đáp ứng yêu cầu nhân lực, Bộ Giáo dục Nhật Bản cho phép thành lập trường “chuyên tu kỹ thuật” gọn nhẹ và tập trung đào tạo cán sự kỹ thuật
nhằm bổ sung cho hệ thống “đại học ngắn hạn”(2-3 năm) hay hệ thống đại học chính qui với học trình 4 năm. Mục đích là để giảm bớt sức ép
tranh nhau thi vào cửa hẹp của đại học do nhân khẩu trưởng thành tăng đột biến (“baby boom” sau thế chiến thứ hai), và tạo cơ hội cho những
học sinh bị rớt trong các kỳ thi tuyển vào đại học vào trường dạy nghề với thời gian học ngắn hơn.
Như vậy, có thể hiểu, trước khi nền kinh tế tri thức được xác lập vào những năm cuối thập kỷ 1990, học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở
(cưỡng bách) có thể vào đi vào học trường “cao đẳng kỹ thuật ”(5 năm), trong khi học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (cấp 3) có thể theo
học trường “chuyên tu ”(1-2 năm) hay liên thông, chuyển qua học 2 năm cuối cùng của “Cao đẳng kỹ thuật” hay đi vào “Cao đẳng chuyên
nghiệp”(2-3 năm) với khả năng tìm được việc làm dễ dàng hơn vì có nghề và kỹ năng hơn người có trình độ 4 năm ở đại học hay đại học “ngắn
hạn” 2, 3 năm (Tanki Daigaku với giáo trình chung chung không hiệu quả, chủ yếu là lớp học ban đêm hay lớp dành cho phụ nữ với môn nữ
công gia chánh, giáo viên tiểu học, máy móc cơ khí đơn giản…).
Tỷ lệ học sinh phổ thông và học sinh học nghề (1937-1952)
Năm Phổ thông Tỷ lệ(%) Thực Nghiệp(học nghề) Tỷ lệ
(%)
Tổng cộng
1937 780.053 65,2 416.949 34,8 1.197.002
1938 818.796 64,8 443.947 35,2 1.262.743

1939 866.979 64,1 486.141 35,9 1.353.120
1940 938.601 59,5 638.901 40,5 1.577.502
1941 1.037.729 61,5 649.940 38,5 1.687.669
1942 1.146.153 61,7 712.116 38,3 1.858.269
1943 1.352.770 63,4 782.096 36,6 2.134.866
1944 1.428.820 63,6 816.245 36,4 2.245.065
1945 1.432.335 63,5 823.413 36,5 2.256.248
____________________________________________________________________________________
_
18
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

1946 1.636.646 68,0 770.664 32,0 2.407.290
1947 620.622 69,9 307.605 33,1 928.227
1948 788.631 66,1 404.067 33,9 1.192.698
1949 1.035.001 64,7 563.631 35,3 1.598.632
1950 1.249.001 65,4 662.034 34,6 1.911.035
1951 1.393.898 64,3 774.339 35,7 2.168.237
1952 1.455.370 62,8 862.559 37,2 2.317.929
Nhận xét: Sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở tỷ lệ học sinh học nghề chiếm 33-40% trong khi phổ thông chiếm 61-70% và khuynh hướng tỷ lệ
học nghề trên 30% kéo dài cho đến 1980 mới bắt đầu giảm dần.
Điểm đáng tham khảo là không phải tốt nghiệp đại học là tìm ngay được việc làm, trừ một số ngành đặc biệt, khan hiếm như dịch thuật,
thương mại, công nghệ thông tin, Ngân hàng…là những ngành nghề có mức tăng trưởng cao trong thời kỳ kinh tế phát triển. Báo cáo năm
2006 của OECD về Giáo dục nhận xét Nhật Bản là nước đứng đầu trong các nước nhóm nầy về đào tạo cấp giáo dục phổ cập cả về số lượng
lẫn chất lượng. 89% học sinh Nam (bình quân của OECD là 82%) và 60% nữ (OECD là 65%) tốt nghiệp trung học phổ thông đều có việc làm,
trong khi số nam học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (cưỡng bách) thì 79% có việc làm ngay và nữ là 53% (vẫn cao hơn bình quân của OECD)
trong trường hợp không đi học tiếp lên cấp 3.[4]
Hiện tượng nầy khá giống với tình hình khan hiếm lao động có kỹ năng hiện nay ở Việt Nam, khi nhiều em sinh viên khoa cơ khí, hoá
chất, vật liệu… tốt nghiệp trường Đại học Bách Khoa nổi tiếng nhưng không kiếm được việc làm nên phải chuyển nghề, đi học lại hay thất
nghiệp kéo dài vì thiếu kỹ năng cụ thể. Thậm chí có em học một lúc hai ba ngành tại các đại học khác nhau nhưng chỉ có những mảnh bằng

trên giấy!

D. Khái quát về hệ thống giáo dục hiện nay tại Nhật Bản
Trong những năm gần đây, những thành tựu rực rỡ về công nghiệp và phát triển kinh tế của Nhật Bản đã gây được nhiều sự chú ý trên thế
giới. Mặc dù có nhiều sự quan tâm dành cho nền công nghiệp và giáo dục, nhưng vẫn còn rất ít những nghiên cứu có liên quan về việc đào tạo
kỹ thuật cấp giáo dục phổ cập tại Nhật Bản. Vì vậy ngoài phần miêu tả lịch sử dạy nghề hình thành trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân, phần tiếp
theo sẽ nêu rõ tình trạng hiện nay và những thách thức trong tương lai của việc đào tạo kỹ thuật ở Nhật Bản. Sở dĩ như vậy là vì có mối quan hệ
rất khắng khít giữa các vấn đề đào tạo kỹ thuật ở trường cấp 2 cơ sở với các môn Kỹ thuật và đào tạo kỹ năng (lý thuyết) ở trường trung học
phổ thông và sự liên thông với Cao đẳng chuyên nghiệp sau khi tốt nghiệp ở cấp phổ thông.
Chú thích bổ sung bảng 1:
Trong mục các loại trường kỹ thuật, có loại đào tạo sau:
 Loại chỉ đào tạo trong 3 năm cho các em tốt nghiệp Trung học cơ sở (gọi
là Trung học Kỹ thuật hay Trung học Chuyên nghiệp, kết hợp giữa
giáo dục phổ cập và dạy nghề) và
 Loại 5 năm (THKT + 2 năm) gọi là Cao đẳng kỹ thuật), khác với trường
Cao Đẳng ở Việt Nam, chỉ mở cho học sinh sau THPT mà thôi.
 Trường đào tạo chuyên ngành như y tế cộng đồng, y tá, dược tá, chăm
sóc người già…của nhà nước (2-3 năm theo yêu cầu của bộ môn)
 Trường chuyên tu (tư nhân) là những cơ sở dạy nghề cụ thể như Hớt tóc,
Cắm hoa, dạy tiếng nước ngoài, thư đạo, văn hóa đời sống, đầu bếp…
____________________________________________________________________________________
_
19
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

Thường là 1-2 năm , nằm ngoài hệ thống đào tạo của giáo dục của
nhà nước.
 Ngoài ra còn có Trung tâm Huấn luyện Nghề (của quận huyện thành
phố…) công lập là cơ sở đào tạo nghề mới(hoàn toàn miễn phí) cho
những người muốn đổi nghề, về hưu…không giới hạn tuổi tác để giải

quyết tình trạng thất nghiệp (xóa đói giảm nghèo như ở Việt nam)

Như trên đã nói, cấu trúc của hệ thống giáo dục công tại Nhật Bản sau Thế Chiến II dựa theo mô hình của hệ thống giáo dục Hoa Kỳ.
Bảng 1 cho thấy phân loại các loại trường chủ yếu trong mô hình giáo dục Nhật Bản. Cơ sở của hệ thống giáo dục của Nhật Bản hiện đại là
giáo dục phổ cập 9 năm, mang tính cưỡng bách. Chế độ cưỡng bách giáo dục với 9 năm này gồm 6 năm tại trường tiểu học và 3 năm tại
trường trung học cơ sở (cấp 2). Trên thực tế, tất cả (gần 100%) học sinh Nhật Bản hoàn tất chương trình giáo dục phổ cập (cưỡng bách) này.
Sau khi tốt nghiệp cấp 2, khoảng 95% học sinh tiếp tục lên cấp 3 phổ thông hoặc chọn vào một trường trung học kỹ thuật, hay trương chuyên
tu để học nghề cụ thể. Trong số đó, có khoảng dưới 2% học sinh bỏ học trước khi tốt nghiệp vì lý do tật bệnh, tìm cách ra đời sớm… (Sách
Trắng của Bộ giáo dục, khoa học và văn hoá, niên khóa 1991).
Tỷ lệ người biết chữ cao nhất trên thế giới có thể xem là một thành tựu đáng nể của nền giáo dục Nhật Bản từ sau Thế Chiến II, số người
Nhật trẻ tuổi gia nhập vào lực lượng lao động với trình độ văn hoá cao hơn nhiều so với trước đây. Vào năm 1950, 45.2% học sinh Nhật tốt
nghiệp cấp 2, tức là sau khi hoàn tất chương trình giáo dục cưỡng bách, bắt đầu đi làm việc ở độ tuổi 15, còn 43% học sinh vào trung học phổ
thông để tiếp tục học. Hiện nay tỷ lệ học tiếp ở trung học phổ thông đã đến mức 95-97%. Cũng bởi lý do đó, lực lượng lao động Nhật Bản
trong ba thập kỷ 1960-1980 là một sự pha trộn giữa những người lao động lớn tuổi với trình độ văn hoá thấp nhưng tay nghề cao, ngày càng
giảm dần và những người lao động trẻ tuổi có trình độ văn hóa cao hơn nhưng ngược lại tay nghề kém phải “đào tạo lại” sau khi được thu nhận
vào xí nghiệp.
1. Chương trình giảng dạy trong thời kỳ chuyển tiếp
Không giống như Hoa Kỳ, hệ thống giáo dục công lập Nhật Bản chiếm đa số tuyệt đối, hơn 95%-98% ở cấp tiểu học và phổ thông cơ sở,
và lại do nhà nước quản lý tập trung. Mọi chương trình giảng dạy cho bậc tiểu học, cấp 2 cơ sở và phổ thông trung học được ban hành và quản
lý chặt chẽ bởi Bộ giáo dục. Cứ khoảng 10 năm, Bộ giáo dục lại ban hành giáo trình và sách giáo khoa theo tiêu chuẩn mới, với nội dung chi
tiết hướng dẫn được viết ra cụ thể cho mỗi môn học tại trường tiểu học và các trường cấp 2 để hướng dẫn cho giáo viên. Những đề nghị cho
việc chỉnh sửa các chương trình giảng dạy và sách giáo khoa được đề ra bởi các hội đồng chuyên môn khác nhau bao gồm các chuyên gia về
giáo trình, giáo sư tại các trường đại học, giáo viên, thành viên của các ban ngành giáo dục tại địa phương và những bậc thức giả có kinh
nghiệm khác trong xã hội.
Tương tự như vậy, những cải tiến chương trình đào tạo kỹ thuật tại Nhật Bản sau Thế Chiến II có thể được xem xét dưới bối cảnh của 5
giai đoạn theo lộ trình phát triển kinh tế:
1-Thời kỳ tái thiết (1950-1960)
2-Thời kỳ phát triển tốc độ cao (1960-1974)
3-Thời kỳ kinh tế ổn định (1975-1979)
4-Thời kỳ quốc tế hoá nền kinh tế (1980-1995)

5-Thời kỳ “Kinh tế tri thức” (1995-thế kỷ 21)
Bảng 2 dưới đây cho thấy các điều kiện kinh tế-xã hội với đặc tính của từng thời kỳ, và tỷ lệ phần trăm tốt nghiệp phổ thông trung học và
số người đi học cấp cao hơn.
Bảng 2. Phát triển kinh tế xã hội và đào tạo dạy nghề
(1950-1990)
Thời kỳ Các điều kiện kinh tế xã hội Số học sinh lên
cấp 3
Vào caođẳng chuyên nghiệp /đại học
Tái thiết
kinh tế (1)
Thiếu thốn về nhà ở và thức ăn 43.0%(1950)
51.5%(1955)
10.1%(1955)
Phát triển
cao về kinh
tế (2)
Tăng trưởng về khoa học và kỹ thuật
Tăng trưởng nhanh về kinh tế
(khoảng 10%).
57.7%(1960)
70.7%(1965)
82.1%(1970)
10.3%(1960)
17.1%(1965)
24.0%(1970)
Kinh tế ổn
định (3)
Khủng hoảng dầu (1971 & 74).
Kinh tế phát triển chậm và ổn định (3-5%).
91.9%(1975)

94.0%(1980)
34.2%(1975)
31.9%(1980)
Quốc tế hoá
(4)
Sự phát triển của vi điện tử và công nghiệp dịch vụ
Sự quốc tế hoá nền kinh tế
94.1%(1985)
94.7%(1989)
30.5%(1985)
30.6%(1989)
2. Việc xây dựng môn giáo dục dạy nghề kỹ thuật như là một môn bắt buộc
Chính sách tích cực đối với giáo dục đào tạo nghề tại Nhật Bản có một quá trình lịch sử lâu dài. Trong bài diễn văn ở Hạ viện vào năm
1894, Inoue Kowashi, Bộ trưởng bộ Giáo dục Nhật Bản phát biểu:
“Chúng ta có thể thấy rất rõ ràng là cuộc chạy đua trên thế giới chủ yếu là phát triển công nghiệp chứ không phải là quân sự. Nền khoa học
của chúng ta đã phát triển một cách thoả đáng, thế nhưng việc đào tạo về kỹ thuật thì vẫn còn ở mức độ thấp. Tình trạng này cũng giống như
____________________________________________________________________________________
_
20
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

quân đội có đầy đủ các chiến thuật tốt nhưng lại không đủ binh lực chiến đấu. (Passin,1982) .
Việc Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản gợi lên hình ảnh của quân đội dựa trên bối cảnh của cuộc chiến tranh Nhật-Thanh (1894-1895) với
hàm ý rằng Nhật Bản phải có sức mạnh về kỹ thuật mới có thể thực hiện được chiến lược “Phú quốc cường binh”. Tư duy nầy đã thể hiện rõ
rệt trong cuộc chiến tranh Nhật-Nga bùng nổ vào 10 năm sau đó với thắng lợi của một nước Nhật hùng mạnh.
Trong thời gian nầy, luật giáo dục dạy nghề quốc gia đầu tiên ra đời, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong vấn đề đạo tạo nguồn lao
động có kỹ năng như đã đề cập ở trên. Từ năm 1899, các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, rừng và các chương trình công nghiệp được chính thức
đưa vào chương trình trung học cấp 2. Tuy có thay đổi về chủ trương giáo dục sau thế chiến với những khuyến cáo của phía Mỹ nhưng việc
dạy nghề trong nhà trường vẫn được tiếp tục xác lập trở lại từ năm 1958. Giáo dục hướng nghiệp ở cấp phổ cập với nội dung được tóm tắt như
sau:

• Từ năm 1958, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề đã được đưa vào cả những trường phổ thông trung học phổ thông và lẫn trường cấp
2. Mặc dù khái niệm hướng nghiệp trong trường trung học phổ cập hỗn hợp (vừa dạy chữ vừa dạy nghề) là một trong những mục
tiêu của cải cách giáo dục dạy nghề ở Hoa Kỳ, nhưng nó chưa bao giờ trở thành mẫu hình chiếm ưu thế tại Nhật Bản.
• Khoảng hơn phân nửa các trường phổ thông trung học tại Nhật Bản chỉ cung cấp các chương trình lý thuyết, những trường còn lại
chia đều ra 2 loại: trường hỗn hợp (vừa dạy chữ vừa dạy nghề) và trường dạy nghề (phỏng theo mô hành của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ,
1987). Nói một cách khác, hầu hết các trường phổ thông trung học tại Nhật Bản cung cấp các chương trình lý thuyết nhằm chuẩn bị
cho học sinh bước lên bậc học cao hơn mà không có các khoá học hướng nghiệp hay dạy nghề cụ thể. Vì thế, hầu hết các học sinh
Nhật Bản tham gia vào các khoá học hướng nghiệp dạy nghề cụ thể đều không đủ trình độ nghề nghiệp nên phải theo học tiếp một
số môn ở các trường dạy nghề như cao đẳng chuyên nghiệp kỹ thuật hay trường chuyên tu kỹ thuật. Thí dụ trong năm học 1990, có
khoảng 26% học sinh trung học phổ thông tham gia vào các lớp học hướng nghiệp, dạy nghề tức khoảng ¼ số học sinh rời ghế nhà
trường phổ thông để đi vào trường cao đẳng chuyên nghiệp kỹ thuật (hoặc chuyên tu kỹ thuật) và tỷ lệ nầy có khuynh hướng tăng
lên 30% vào những năm kế tiếp.
• Theo Bảng 2, trong suốt thời kỳ tái thiết kinh tế sau thế chiến thứ hai, khoảng phân nửa học sinh cấp 2 (phổ thông cơ sở) bắt đầu ra
xã hội làm việc ngay sau khi tốt nghiệp. Ở giai đoạn nầy, môn học giáo dục hướng nghiệp-dạy nghề là một trong những môn học
bắt buộc đối với tất cả học sinh nam và học sinh nữ tại các trường cấp 2 cơ sở, bao gồm các môn học liên quan đến nông nghiệp,
công nghiệp, thương mại và kinh tế gia đình. Chương trình giảng dạy đa dạng tuỳ theo qui mô của trường và phụ thuộc vào từng địa
phương. Một trong những mục tiêu của giáo dục hướng nghiệp dạy nghề là đào tạo tay nghề thông qua học tập (lý thuyết) từ những
kinh nghiệm thực tế.
3. Việc đưa vào các môn đào tạo kỹ thuật
Sự kiện Liên Xô phóng thành công vệ tinh “Sputnik” vào quỹ đạo, đánh dấu bước ngoặt về khoa học-kỹ thuật của loài người trong việc
chinh phục không gian, cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, Nhật Bản đã ý thức được tầm quan trọng của việc đẩy mạnh sự phát
triển các chương trình giáo dục khoa học và kỹ thuật. Một trong những chính sách được chính phủ Nhật Bản áp dụng vào cuối năm 1957 là
việc đưa các môn kỹ thuật thành môn bắt buộc tại tất cả các trường cấp 2 cơ sở bắt đầu vào năm 1958.[5] Với việc đưa chương trình đào tạo kỹ
thuật vào các trường cấp 2 cơ sở, môn giáo dục hướng nghiệp dạy nghề đã có trước đây được chuyển sang các trường phổ thông trung học (cấp
3) như là một môn học tự chọn.
Vào năm 1958, mục tiêu chủ yếu của môn đào tạo kỹ thuật ở trường cấp 2 cơ sở là nhằm giúp học sinh nắm các kỹ năng cơ bản thông
qua kinh nghiệm sáng tạo/sản xuất, am hiểu công nghệ hiện đại, và thúc đẩy những hiểu biết và thái độ cần thiết để ứng dụng:
• thông qua kinh nghiệm về thiết kế và thực hành, nuôi dưỡng các kỹ năng thuyết trình, sáng tạo, và những thái độ hợp lý trong khi
giải quyết sự việc.
• thông qua kinh nghiệm sản xuất/điều hành máy móc/thiết bị, giúp học sinh hiểu mối quan hệ mật thiết giữa công nghệ và cuộc sống,

và nuôi dưỡng mối quan tâm phát triển công nghệ và ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nội dung chủ yếu bao gồm thiết kế và
đồ hoạ; chế biến gỗ và nghề kim loại; máy móc, điện tử, và chăn nuôi trồng trọt… Chương trình đào tạo công nghệ được phân phối
với tổng số 105 giờ trong mỗi cấp lớp ở trường cấp 2 cơ sở.
Vào năm 1960, chính phủ Nhật Bản bắt đầu nhân đôi số lượng các trường trung học kỹ thuật. . Trong suốt thời kỳ này, các trường kỹ
thuật 5 năm gọi là trường Cao đẳng chuyên nghiệp dành cho học sinh tốt nghiệp cấp THCS được thành lập bởi Bộ Giáo dục[6]. Nhằm đáp ứng
tình trạng thiếu hụt giáo viên môn kỹ thuật có tay nghề, các trường cao đẳng sư phạm kỹ thuật 3 năm cũng đã được thành lập để bổ sung.
Tất cả các chính sách này đều liên quan đến “Chương trình nhân đôi thu nhập quốc gia” nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của Nhật
Bản. Vào khoảng đầu thời kỳ này, Bộ Giáo dục đã gửi chuyên gia phụ trách chương trình đào tạo và giảng dạy trong lĩnh vực giáo dục kỹ
thuật đến Hoa Kỳ thu thập thông tin và kinh nghiệm về các môn học liên quan đến kỹ thuật[7] để xây dựng chương trình đào tạo giáo viên dạy
nghề, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu thiếu hụt trầm trọng giáo viên dạy ở những trường cao đẳng chuyên nghiệp.
Các trường cao đẳng này được liên kết với khoa kỹ thuật công nghệ tại các trường đại học công lập Nhật Bản. Trong suốt những năm
1960, mỗi trường cao đẳng đào tạo nghề này thu nhận khoảng 900 sinh viên/ năm và chỉ sau 3 năm đào tạo bổ sung, lực lượng giáo viên dạy
nghề sẽ tăng thêm một cách nhanh chóng từ 15.000-20.000 người nếu nhìn trên qui mô cả nước với hàng trăm cơ sở đào tạo sư phạm dạy nghề
liên thông.
4. Đưa vào các môn học cơ sở và cơ hội bình đẳng trong giáo dục
Trong suốt thời kỳ phát triển tăng tốc về kinh tế, tỷ lệ phần trăm học sinh Nhật Bản tiếp tục vào trường trung học phổ thông và các cấp
học cao hơn tiếp tục tăng mạnh. Tuy nhiên, kiến thức và kỹ năng cần có tại nơi làm việc lại thay đổi một cách sâu sắc. Trong các lĩnh vực liên
quan đến kỹ thuật, các nhà tuyển dụng mong muốn nhân viên của họ có khả năng linh hoạt và khả năng có thể tiếp tục đào tạo cao hơn. Trong
suốt thời kỳ này, Bộ Giáo dục đưa các môn học cơ sở như cơ học, đồ họa, toán trung cấp… vào các khoá học dạy nghề kỹ thuật và đồng thời
cũng đưa vào các khoá học tổng quát về kỹ năng và kinh nghiệm làm việc như quản lý chất lượng, kế hoạch, kỹ thuật thống kê kho tàng…vào
trường cao đẳng chuyên nghiệp.
Mặt khác, các vấn đề liên quan đến cơ hội bình đẳng “giới” trong giáo dục trung học trở nên cấp thiết. Trong thời kì này, tất cả học sinh
nam tham gia vào các lớp đào tạo kỹ thuật, trong khi tất cả học sinh nữ tham gia vào các lớp kinh tế gia đình. Nhằm mang đến cơ hội học tập
công bằng như nhau, đầu năm 1977, Bộ Giáo dục yêu cầu tất cả học sinh nam tham gia vào ít nhất 1 lớp kinh tế gia đình và tất cả học sinh nữ
____________________________________________________________________________________
_
21
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

tham gia vào ít nhất 1 lớp đào tạo kỹ thuật. Ở các trường phổ thông trung học, học sinh theo học chương trình hướng nghiệp dạy nghề kỹ thuật

bắt buộc phải học các môn cơ sở như “cơ sở kỹ thuật”, “toán kỹ thuật”, và “thực hành”. Mục đích của những môn học này là nhằm tăng cường
kiến thức và kỹ năng cơ bản của học sinh, cũng như sử dụng tài liệu và phương pháp giảng dạy mới và cập nhật trong giáo trình.[8] Đồng thời
môn học về các kỹ năng và kinh nghiệm làm việc được đưa vào các khoá học tổng quát cho tất cả học sinh các cấp phổ cập.
5. Việc đưa môn “Cơ bản của công nghệ thông tin” vào trường cấp 2 và “Dự án nghiên cứu độc lập” vào trường phổ thông trung học
Để đáp ứng những sự thay đổi tại nơi làm việc và ngoài xã hội, Bộ Giáo dục đã khởi xướng một vài thay đổi vào cuối những năm 1980.
Một trong những thay đổi chủ yếu là đưa một môn học lý thuyết máy tính mới vào chương trình giáo dục kỹ thuật tại trường cấp 2 (không phải
cấp 1 như ở VN). Mục tiêu chính của môn học mới này là nhằm giúp học sinh hiểu được vai trò và chức năng của máy tính, và phát triển năng
lực sử dụng máy tính và thông tin. Nội dung chủ yếu bao gồm máy tính và xã hội, phần cứng máy tính, và các ứng dụng phần mềm máy tính.
Dù môn tin học không phải là một trong bốn môn học bắt buộc (chế biến gỗ, điện tử, thực phẩm, đời sống gia đình) nhưng nó là một
trong những môn được các em chọn nhiều nhất. Theo kết quả một nghiên cứu của Bộ Giáo dục Nhật bản (1991), có 76% sinh viên muốn học
lớp tin học mới này.
Đối với cấp phổ thông trung học, Bộ Giáo dục đã điều chỉnh lại các lớp kỹ thuật để khuyến khích phát triển các kỹ năng cơ bản và sự linh
động trong ứng dụng. Trong các môn học cơ bản, Bộ Giáo dục khuyến khích sử dụng máy vi tính cho bộ môn khoa học và toán học. Tất cả các
sinh viên học nghề đều phải học một môn công nghệ thông tin có liên quan đến chuyên ngành của họ như xử lý thông tin nông nghiệp và xử lý
thông tin kinh tế gia đình. Một trong những nội dung chấn chỉnh quan trọng nhất của các lớp kỹ thuật ở cấp phổ thông trung học là phần giới
thiệu các lớp giải quyết vấn đề phức hợp như “cơ điện tử”, “ứng dụng cơ điện tử” và nghiên cứu dự án độc lập/ bắt buộc.
Mục tiêu chính yếu của lớp cơ điện tử mới là để nâng cao hiểu biết về các kiến thức và kỹ năng cơ bản về cơ điện tử (cơ học và điện tử).
Bảng 2 trình bày các công cụ và máy móc cơ bản, máy cảm biến, máy chuyển A/D, mạch logic, thiết bị truyền động, cơ học và dụng cụ dẫn
lực.
Mục tiêu Nội dung
Cơ học: đạt được các kiến thức và kỹ năng cơ
bản về cơ học, đào tạo kỹ năng ứng dụng vào
thực tiễn.
1) Sự kết hợp cơ học và điện tử trong các máy móc và dụng cụ.
2) Các nguyên lý và đặc điểm của thiết bị cảm biến 3) Thiết bị cảm biến và máy
vi tính; đổi tương tự; mạch logic, tín hiệu.
4) Đặc điểm và các dạng cơ cấu truyền động.
5) Điều khiển cơ cấu truyền động.
6) Cơ học và dụng cụ dẫn lực.
Nói chung, tại Nhật đã có xu hướng ngày càng nghiêng về đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề. Tuy nhiên, do phương pháp rộng và kém

“tập trung vào một môn cụ thể”, kết quả đem lại chỉ có thể là kinh nghiệm giáo dục dàn trải nông cạn. Mục đích cơ bản của nghiên cứu dự án
độc lập là làm cho sinh viên hiểu sâu hơn và kết hợp các kiến thức và kỹ năng, thông qua việc làm quen với nghiên cứu các phương pháp giải
quyết vấn đề và các dự án công nghiệp. Các nội dung chính bao gồm thiết kế, sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm, nghiên cứu thực tiễn nơi làm
việc, các chứng chỉ nghề hoặc bằng cấp chuyên ngành. Những ví dụ về các dự án bao gồm thiết kế và sản xuất robot và các mô hình điều khiển
từ xa.[9]
6. Các phương pháp đào tạo kỹ thuật
Ngay từ đầu, phương pháp giảng dạy kỹ thuật của Nhật theo thực nghiệm, dựa trên phương pháp luận của việc lập trình. Các lớp kỹ thuật
thường được chia ra thành lớp lý thuyết và lớp thực hành. Các lớp thực hành (thí nghiệm) thường có ít sinh viên hơn các lớp lý thuyết. Trung
bình mỗi lớp học gồm 40 học viên. Gần đây, các hoạt động mới của lập trình đang cố gắng kết hợp các lĩnh vực kỹ thuật khác nhau với nội
dung lý thuyết tương ứng phù hợp.
7. Hỗ trợ cho đào tạo kỹ thuật
Luật “Khuyến khích đào tạo nghề” được ban hành vào năm 1951. Qua đó, thông qua Bộ Giáo dục, Chính phủ xúc tiến các chương trình
đào tạo công nghệ, và khuyến khích chính quyền địa phương hỗ trợ cho công tác này. Sau khi hoàn thiện từng chương trình giảng dạy chuẩn,
Bộ Giáo dục ban hành các tiêu chuẩn về trang thiết bị đào tạo kỹ thuật và đào tạo dạy nghề kỹ thuật tương ứng. Chính phủ trợ cấp các trường
trung học phổ thông (trường tư) gần một phần ba ngân sách dành cho đào tạo dạy nghề kỹ thuật và các trang thiết bị. Giáo viên dạy nghề tại
các trường trung học phổ thông quốc gia và trường công được lĩnh thêm trợ cấp hàng tháng bằng 10% lương theo Luật trợ cấp đào tạo nghề
năm 1957, tức là cao hơn mức lương của công chức cùng ngạch ở ngành nghề khác.
Đào tạo giáo viên mới hoặc giáo viên đang giảng dạy
Việc đào tạo giáo viên mới giảng dạy công nghệ và đào tạo nghề kỹ thuật chủ yếu là ở các trường Đại học kỹ thuật hoặc ở khoa công nghệ của
các trường đại học quốc gia. Do công nghệ luôn thay đổi nhanh chóng nên việc tổ chức tập huấn cho các giáo viên kỹ thuật và đào tạo dạy
nghề kỹ thuật là rất cần thiết. Sau mỗi lần chỉnh sửa chương trình giảng dạy (thường có chu kỳ 10 năm), Bộ Giáo dục sẽ lên kế hoạch và thực
hiện với ngân sách nhà nước các chương trình tập huấn các giáo viên đang giảng dạy.
Một ví dụ điển hình là nỗ lực chuẩn bị một lực lượng 16.000 giáo viên kỹ thuật để giảng dạy các khóa vi tính mới. Trong giai đoạn đầu
của chương trình, có khoảng 160 giáo viên kỹ thuật được tập huấn 2 tuần trong chương trình đào tạo toàn phần. Sau khoảng thời gian hơn 3
năm, mỗi cở sở đào tạo được 480 giáo viên đầu đàn, đáp ứng được nhu cầu về giáo viên giảng dạy kỹ thuật ở các trường phổ cập . Ngoài 2
tuần được đào tạo chuyên sâu, các giáo viên này có nghĩa vụ tự nghiên cứu về vi tính. Mỗi gíao viên đã được tập huấn sẽ về địa phương mình
và đào tạo lại các giáo viên kỹ thuật khác của địa phương. Chương trình đào tạo giáo viên đang giảng dạy cấp địa phương được tiếp tục thực
hiện trong 4 năm (từ 1988 đến 1992) đã đáp ứng được một cách hoàn hảo mọi yêu cầu về giáo viên kỹ thuật của Nhật.[10]
Các trung tâm đào tạo kỹ thuật
Trong 47 tỉnh, thành phố của Nhật, mỗi nơi đều có ít nhất một trung tâm đào tạo gồm một khoa đào tạo công nghệ/công nghiệp (cả công

nghệ thông tin). Đây là không kể loại trường chuyên tu/chuyên môn dạy nghề của tư nhân chiếm tỷ lệ 80%-90% trong tổng số trường dạy nghề
trên cả nước, trong đó ngành công nghệ thông tin chiếm đa số tuyệt đối. Ở một vài tỉnh lớn có các trung tâm đào tạo công nghệ thông tin và kỹ
thuật hoạt động độc lập. Các trung tâm này có chức năng đào tạo giáo viên đang giảng dạy, hoàn thiện tài liệu giảng dạy và nghiên cứu phương
____________________________________________________________________________________
_
22
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

pháp giảng dạy. Để sử dụng hiệu quả các nguồn ngân sách của nhà nước, các trung tâm đào tạo các tỉnh được trang bị các trang thíêt bị đắt tiền
như các hệ thống máy vi tính quy mô lớn và các trung tâm cơ khí hiện đại.
Duyệt sách và những trợ cấp cho sách giáo khoa bắt buộc
Các loại sách giáo khoa sử dụng trong các trường giáo dục bắt buộc và các trường phổ thông trung học đều được các công ty xuất bản tư
nhân biên soạn và phát hành theo sự kiểm định và chấp thuận của Bộ Giáo dục. Tất cả các sách giáo khoa bắt buộc, cả sách giảng dạy kỹ thuật,
đều được phát miễn phí cho học sinh. Ví dụ như một văn bản về cơ khí đã được duyệt phải có nội dung liên quan trực tiếp tới nội dung Bảng 3.
8. Những thách thức của đào tạo công nghệ tại Nhật hiện nay
GS Musuda (Nhật) và GS Sterm (Mỹ) cho rằng Nhật Bản hiện đang đứng trước 4 thách thức lớn trong việc đào tạo công nghệ, khả năng
giải quyết được những thách thức đó sẽ là nhân tố quyết định bản chất và hiệu quả của việc đào tạo công nghệ trong tương lai.[11] Đó là:
(a) Áp lực kiểm tra đầu vào
Tại Nhật bản, các kỳ thi kiểm tra đầu vào gắt gao có ý nghĩa rất quan trọng trong nền giáo dục, nhất là các kỳ thi tuyển sinh vào học tại
các trường đại học có uy tín. Chính vì việc thi đậu vào các trường đại học có uy tín sẽ đem lại nhiều thuận lợi sau này mà các bậc cha mẹ đều
khuyến khích con em mình chuẩn bị học tập tốt từ khi còn rất nhỏ. Các kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia có 5 môn chính: toán, tiếng Anh,
tiếng Nhật, khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn, không có nội dung về công nghệ, kinh tế gia đình, mỹ thuật hoặc giáo dục y tế. Vì vậy, các
bậc cha mẹ có khuynh hướng xem đấy là những môn phụ so với các môn có trong nội dung thi của các kỳ thi tuyển sinh. Điều nầy vô hình
trung phủ nhận giá trị của việc học môn kỹ thuật hay môn mỹ thuật…ở bậc trung học cơ sở, dẫn đến việc các em học sinh xem nhẹ những môn
học này trong giáo trình.
(b) Khó khăn trong thay đổi chương trình
Quãng thời gian 10 năm để thay đổi chương trình cho phù hợp với những thay đổi trong kỹ thuật và môi trường làm việc là quá dài. Đây
là một thách thức đặc biệt quan trọng trong đào tạo kỹ thuật do nội dung đào tạo kỹ thuật luôn có quan hệ mật thiết với thế giới kỹ thuật và môi
trường (kỹ thuật) nơi làm việc. Bắt được nhịp tăng trưởng trong cải tiến và phát minh trong công nghệ thông tin, trong các ngành sản xuất chế
biến hay phương thức quản lý là một thách đố, buộc các nhà giáo dục phải có chính sách ứng phó linh hoạt hơn, nhất là khi nền kinh tế tri thức

đã bắt đầu hình thành trong một thế giới phẳng như nhiều nhà khoa học đã lên tiếng trong những năm cuối thế kỷ 20. Cơ chế cứng nhắc trong
chương trình đào tạo cũng như sách giáo khoa không cập nhật sẽ trở thành rào cản vô hình cho những cập nhật, nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế
sau khi ra trường.
(c) Đào tạo kỹ thuật và cơ hội bình đẳng trong đào tạo
Vào thập niên 1990, Nhật Bản bắt đầu một cuộc thí nghiệm về một tuần làm việc 5 ngày thay vì 6 ngày. Chính vì thế một tuần học tập
của học sinh các cấp cũng rút ngắn hơn. Trong suốt năm học 1992-1993, các trường của Nhật đã cho nghỉ học một ngày thứ bảy trong tháng.
Điều này đồng nghĩa với việc giảng dạy sẽ ít đi. Tháng 4/2002, Bộ Giáo dục đưa ra đề cương cải cách chương trình mới, cắt giảm 30% nội
dung giảng dạy phù hợp với thời gian học tập được rút ngắn, với 5 ngày trong tuần, nhằm tạo ra một sự thoải mái (yutori) hơn trong học tập sau
khi nhiều tệ nạn học đường bùng nổ từ giữa thập niên 80 (nạn bỏ học, chọc phá, bỏ lớp, bạo lực…).
Đây được một số người xem là cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba. Người ta lo ngại rằng do áp lực nặng nề của kỳ thi tuyển sinh vào đại
học, sinh viên sẽ phải học nhiều lớp luyện thi hơn nữa (juku). Việc giảm thời gian học ở trường đã đặt ra một thách thức quan trọng cho việc
đào tạo kỹ thuật và kinh tế gia đình. Để đảm bảo tính công bằng cho nam và nữ, Bộ Giáo dục đã cho giảm 50% thời lượng giảng dạy môn kỹ
thuật và kinh tế gia đình. Mặc dù ngày càng có nhiều sinh viên cả nam và nữ học môn kỹ thuật và kinh tế gia đình nhưng thời gian dành cho
chúng ít hơn. Điều nầy nói lên một thực tế là phải nâng cao khả năng “tự học” của mỗi em sau giờ lên lớp tại trường, trong đó sự vênh nhau về
học lực trong cùng cấp học hiện rõ vì nỗ lực cá nhân của mỗi em khác nhau, đây cũng là một điểm nan giải trong chủ trương “công bằng” trong
học tập và đào tạo nếu không có biện pháp khắc phục.
(d) Thiếu nguồn cho đào tạo kỹ thuật
Tương tự như các nước khác, việc đào tạo kỹ thuật tại Nhật Bản gặp khó khăn vì thiếu nguồn, cả tài chính lẫn nhân lực trước thực tế
ngành nghề ngày càng đa dạng, phong phú do phát triển kinh tế và quốc tế hoá giao thương. Đào tạo kỹ thuật yêu cầu phải có đầu tư tài chính
vào các trang thiết bị và tài liệu giảng dạy nhưng quan trọng hơn là việc tuyển chọn giáo viên kỹ thuật giảng dạy phù hợp với tình hình mới
ngày càng trở nên khó khăn hơn, nhất là nền kinh tế đang bước vào thời kỳ đa quốc tịch và đa phương hoá. Mối liên kết chặt chẽ về kỹ thuật
cũng như kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng khắng khít đồng thời sự cọ xát về sức mạnh kỹ thuật lẫn tài chính giữa các xí nghiệp
đa quốc gia ngày càng trở nên nóng bỏng do đó nguồn nhân lực đào tạo nghề có trình độ quốc tế, biết giảng dạy bằng tiêng Anh trở nên khan
hiếm.
9. Tình hình hiện nay
Nhìn chung lượng học sinh cấp 3 chọn học ở đại học (4 năm) chiếm tỷ lệ cao nhất (41,8%); kế đến là các trường chuyên tu / cao đẳng
chuyên nghiệp (18,2%) trong số đó tỷ lệ chọn học chuyên tu (chỉ học một nghề) là 88,9%. Điều này cho thấy khuynh hướng chọn học nghề cụ
thể (chuyên tu) chiếm đa số tuyệt đối trong những em tốt nghiệp trung học phổ thông mà không đi vào đại học(18,2%):
Số học sinh tốt nghiệp cấp 3 vào:
Trường Cao đẳng/Chuyên tu 213.075 (18,2 %)

Đại học 4 năm 489.848 (41,8 %)
Đại học ngắn hạn (2-3 năm) 83.217 (7,1 %)
(Thống kê năm 1989, Niên giám Giáo dục, Bộ GD NB)
Mặt khác trong tổng số 3.441 trường cao đẳng/chuyên tu thì 93,9% thuộc hệ dân lập trong khi trường của nhà nước chỉ có 11 trường
(0,3%) và số trường công lập (của tỉnh, thành, quận huyện) cũng chỉ có 199 trường (0,58%). Đây là con số phản ánh xu hướng học nghề,
chuyên tu ngày càng được tư nhân hoá rất cao đáp ứng sự đa dạng của việc đào tạo nghề cho thanh niên. Số học sinh trung học cơ sở (cấp 2)
tiến thẳng lên cấp 3 phổ thông rồi mới học nghề thay vì chuyển hướng học nghề từ trung học cơ sở (cấp 2) như những năm 1960. Hơn thế nữa
nếu nhìn vào ngành nghề cụ thể thì các ngành công nghiệp và văn hoá-giáo dưỡng là những bộ môn chiểm tý lệ cao hơn cả, từ 15-17% không
kể ngành y tế chiếm tỷ lệ vượt trội 31-34%, ngoài ra ngành vệ sinh công cộng cũng đạt 12-14% trong khi ngành nông nghiệp chỉ còn 0,5 %,
phản ánh khuynh hướng “ly nông” rất rõ rệt.
Điểm đáng chú ý là lượng học sinh vào học các trường đại học ngắn hạn (2-3 năm) đã giảm sút so với số học sinh lên chuyên tu/cao
____________________________________________________________________________________
_
23
Tiểu luận Lịch Sử Đảng

đẳng chuyên nghiệp. Ở đại học ngắn hạn,học sinh nữ chiếm 70% vì các môn học như nữ công gia chính, kế toán, quản lý nghiệp vụ văn phòng,
sinh ngữ…là môn học chủ yếu. Dù có sự thay đổi này, nhưng chúng ta vẫn có thể kết luận được rằng việc đào tạo nghề qua các trường chuyên
tu hay cao đẳng vẫn còn chiếm một tỷ lệ khá lớn 18-19%. Nếu so với những năm 1975-85, với tỷ lệ là 30-32%, thì tỷ lệ này có sụt giảm
nhưng việc giảm này chủ yếu là do nền kinh tế Nhật Bản đã chuyển sang sản xuất ở nước ngoài, đặc biệt các dây chuyền công nghệ lắp ráp kim
khí điện máy, cơ khí, hoá chất…, qua con đường xuất khẩu kỹ thuật hay đầu tư ra nước ngoài,tăng nhanh trong hơn 20 năm qua (xem bảng
thống kê 2006).
Tổng cộng Nhà nước (BGD) Công lập (địa phương) Dân lập
Số trường* 3.441
100%
11
0,3%
199
0,58%
3.231

93,9%
Số học sinh 749.996
100%
918
0,1%
28.230
3,8%
720.848
96,1%
Trong đó:
Số trường
(% ) là tỷ lệ trên tổng số trường CT*
Số học sinh
(% ) là tỷ lệ trên tổng số trường CT*
Khoa Cao đẳng
552
(16.7%)
42.466
(5.7%)
Khoa chuyên môn
2.996
(87,1%)
667.070
(88,9%)
Khoa tổng quát
222
(6,5%)
40.460
(5,4%)
E. Lời kết

Qua phân tích khái quát trên, chúng ta có thể nhận thức được mối quan tâm của các nhà xây dựng chính sách giáo dục ở Nhật Bản. Họ
tìm cách đẩy mạnh việc hướng nghiệp-đào tạo dạy nghề cho lứa tuổi trung học cơ sở lẫn trung học phổ thông với nhiều phương cách linh hoạt
nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội Nhật Bản một cách hợp lý nhất trong đường lối chiến lược “Kỹ thuật Lập quốc”, nghĩa
là dùng khoa học kỹ thuật để vươn tới, xây dựng một đất nước Nhật bản hùng mạnh về Kỹ thuật thay vì đường lối “Phú quốc Cường Binh” như
thời “công nghiệp hoá” của Minh Trị Duy Tân.
Tất nhiên, việc cải cách giáo dục là một lộ trình không có điểm dừng chân, phát triển từng nấc theo yêu cầu và đặc điểm phát triển của
từng giai đoạn vì vậy khả năng “tự làm mới” nền giáo dục chính là chìa khoá mở ra những khả năng phát triển cho tương lai, vực dậy những
tiềm năng sáng tạo của con người—thế hệ mới—không những ngăn chận khả năng tụt hậu của quốc gia như chúng ta thấy kinh nghiệm đau
đớn và chua xót của các nước Tây âu đã thua kém Nhật Bản, Đức hay Hoa Kỳ… như thế nào trong hơn hai thập kỷ qua khi nền giáo dục-phát
triển kỹ thuật của những nước này không bắt kịp thời đại “vi tính hoá”(IT) và “rô bô hoá” trong khoa học kỹ thuật. Lối giáo dục “nhân văn” cũ
xưa đã trở thành lạc hậu trước những bước tiến đột phá trong công nghệ về mọi mặt trên thế giới, đòi hỏi phải xây dựng hệ thống giáo dục theo
một nền văn hoá-nhân văn mới phù hợp với “thế giới phẳng” ngày nay. Nhịp bước “10 năm cải tiến giáo dục” một lần của Nhật bản (có nghĩa
là sách giáo khoa có giá trị sử dụng 10 năm mới thay đổi nhằm bắt kịp tốc độ phát triển, định hướng và dự báo nguồn nhân lực của xã hội
trong tương lai) đã bị các nhà nghiên cứu trong nước phê phán phát xuất từ tấm gương thất bại nầy của Châu âu, luôn đòi hỏi chính phủ, cụ thể
là Bộ Giáo dục-Văn hoá-Khoa học ngày nay phải dốc sức duyệt lại với một chu kỳ ngắn hơn cho phù hợp và cập nhật. Trong khi đó ở VN,
sách giáo khoa thay đổi xoành xoạch bị phê phán là dường như chỉ nhằm mục đích tăng nguồn thu bán sách của nhà xuất bản độc quyền nhà
nước chứ không vì mục đích cải tiến chương trình.
Thế giới đã có nhiều thay đổi khi bước vào thế kỷ 21, mối quan hệ quốc tế ngày nay cũng đang trong một trật tự và hệ thống mới trong
đó Việt nam đã là thành viên của nhiều tổ chức và cơ cấu quốc tế. Thiết nghĩ những ý kiến và kinh nghiệm của Nhật bản trong việc đào tạo một
tầng lớp công nhân có kỹ năng thích ứng được với tốc độ phát triển nêu trên hi vọng sẽ đem lại một cách nhìn mới cho nền giáo dục của nước
ta ở giai đoạn hội nhập và cạnh tranh gay gắt. Một thời kỳ mà nhu cầu lao động có kỹ năng và kỹ thuật cao đang trở thành một đòi hỏi bức
thiết, mang tính sống còn đối với một nước có nền kinh tế vốn không được bền vững (nhập siêu liên tục trong những năm vừa qua là một thí
dụ), chưa bắt kịp nhịp điệu tăng tốc của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước khi Việt nam đang có cơ hội để ra biển lớn.

2/2008



Phụ lục thống kê
Bảng 1. Số lượng và chủng loại trường học, 1873 – 1962

Thống kê về các loại trường học từ Minh Trị đến năm 1962
(Number of Schools by Type of School, 1873-1962)
____________________________________________________________________________________
_
24
Tiểu luận Lịch Sử Đảng



Niên
khóa
Mẫu
giáo
Tiểu học
Trường
dạy nghề
sau tiểu
học
Trung
học cơ
sở
Trung
học phổ
thông Nữ
Trường
trung học
chuyên
nghiêp
Trường sư
phạm

Trung
học cấp
1
Trung
học cấp
2
Trung
học cấp
3
Cao
đẳng
dạy
nghề
Đại học
(theo hệ
thống
cũ)
Cao
đẳng sư
phạm
Trường
đào tạo
giáo viên
Đại học
(hệ
thống
mới)
Đại học
ngắn kỳ
Trường

đặc biệt
Trường
chuyên tu
1873 - 13.597 - 50 - - - - - - 26 - 3 - - - - -
1874 - 20.017 - 52 - - 45 - - - 91 - 7 - - - - -
1875 - 24.803 - 116 - 1 82 - - - 110 - 8 - - - - -
1876 - 24.947 - 201 - 2 95 - - - 105 - 9 - - - 1 116
1877 1 25.459 - 389 - 10 93 - - - 70 1 6 - - - - 241

1878 1 26.584 - 679 - 12 101 - - - 84 1 2 - - - 1 297
1879 4 28.025 - 784 - 14 87 - - - 105 1 2 1 - - 2 328
1880 5 25.410 - 187 - 15 74 - - - 74 1 2 1 - - 3 2.016
1881 7 28.742 - 173 - 14 68 - - - 73 1 2 1 - - 3 1.799
1882 7 29.081 - 173 5 16 76 - - - 71 1 2 1 - - 3 1.217

1883 12 30.156 - 173 7 22 78 - - - 64 1 2 3 - - 3 1.275
1884 17 29.233 - 133 9 23 63 - - - 85 1 2 2 - - 3 1.323
1885 30 28.283 - 104 9 26 66 - - 1 75 2 1 - - - 3 1.448
1886 35 28.556 - 55 7 25 46 - - 2 66 1 1 - - - 3 1.603
1887 67 20.530 - 48 18 25 45 - - 6 64 1 1 - - - 3 1.788

1888 91 25.163 - 49 19 26 46 - - 7 43 1 1 - - - 3 1.776
1889 112 26.103 - 63 25 23 47 - - 7 45 1 1 - - - 4 1.783
1890 135 26 017 - 65 31 23 47 - - 7 58 1 3 - - - 4 1.647
1891 147 20 374 - 66 29 23 47 - - 7 47 1 3 - - - 3 1.697
1892 177 23 327 - 62 37 37 47 - - 7 20 1 2 - - - 2 1.536

Bảng 1. Số lượng và chủng loại trường học, 1873 - 1962 (tiếp tục 1)



Niên
khóa


Mẫu
giáo


Tiểu
học(gi
áo dục
thường
xuyên)
Trườn
g dạy
nghề
sau
tiểu
học
Trung
học cơ
sở
Trung
học
phổ
thông
Nữ
Trườn
g trung
học

chuyên
nghiêp
Trườn
g sư
phạm
Trung
học
cấp 1
Trung
học
cấp 2
Trung
học
cấp 3
Cao
đẳng
dạy
nghề
Đại
học
(theo
hệ
thống
cũ)
Cao
đẳng

phạm
Trườn
g đào

tạo
giáo
viên
Đại
học
(hệ
thống
mới)

Đại
học
ngắn
kỳ

Trườn
g đặc
biệt

Trườn
g
chuyên
tu
1893 186 23.960 - 74 28 37 47 - - 7 41 1 2 - 2 1.406
1894 197 24.548 19 82 14 33 47 - - 7 35 1 2 1- - 2 1.360
1895 219 26.631 55 96 15 56 47 - - 7 52 1 2 1- - 4 1.220
1896 223 26.835 56 121 19 77 47 - - 6 50 1 2 1- - 4 1.181
1897 222 26.860 103 157 26 90 47 - - 6 51 2 2 1- - 4 1.083

1898 229 26.824 113 169 34 109 47 - - 6 48 2 2 1- - 7 1.064
1899 229 25.597 108 190 37 121 49 - - 6 49 2 1 3- - 7 1.143

____________________________________________________________________________________
_
25

×