Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Bách khoa toàn thư mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.77 KB, 92 trang )

.
Biển Đông là một biển rìa lục địa và là một phần
của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore tới eo
biển Đài Loan và bao phủ một diện tích khoảng
3.500.000 km². Đây là biển lớn thứ tư thế giới sau
biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập. Vùng
biển này và các quần đảo của nó là đối tượng tranh
chấp và xung đột giữa
Biển Đông nhìn từ Mũi Né
Tên gọi phổ biến nhất của biển này trong hầu hết
các ngôn ngữ thường mang ý nghĩa là vùng biển
nằm ở phía nam Trung Quốc.
Thời Hán và Nam Bắc triều, người Trung Quốc gọi
biển này là "Trướng Hải" (Hán văn phồn thể: 漲
海, Hán văn giản thể: 涨涨), "Phí Hải" (Hán văn: 沸
海), từ thời Đường dần dần đổi sang gọi là "Nam
Hải" (南海). Hiện tại "Nam Hải" là tên gọi quan
phương của biển này ở Trung Quốc. Từ thời cận
đại, do tên gọi của biển này trong nhiều ngôn ngữ
mang ý nghĩa là biển nằm ở phía nam Trung Quốc
nên khi dịch sang Trung văn đã làm phát sinh thêm
tên gọi "Nam Trung Quốc Hải" (Hán văn phồn
thể: 南中国海, Hán văn giản thể: 南中國海) và
"Trung Quốc Nam Hải" (Hán văn phồn thể: 中國
南海, Hán văn giản thể: 中国南海).
Philippines gọi là biển Luzon (theo tên hòn đảo
lớn Luzon của Philippines) hoặc biển Tây
Philippines
[1]
.
Tại Việt Nam biển này thường được gọi là biển


Đông, ý là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam.
Do tại Trung Quốc "biển Đông" (Đông hải) được
dùng để chỉ biển Hoa Đông nên cần chú ý phân biệt
để tránh lẫn lộn hai khái niệm "biển Đông" khác
nhau này.
Tên gọi quốc tế của biển Đông ra đời từ nhiều thế
kỷ trước, là biển Nam Trung Hoa vì thời bấy giờ
Trung Quốc là nước rộng lớn nhất, phát triển nhất,
nổi tiếng nhất trong khu vực và đã có giao thương
với phương Tây qua con đường tơ lụa. Tên gọi
nhiều biển, đại dương vốn căn cứ vào vị trí của
chúng so với các vùng đất gần đó cho dễ tra cứu,
không có ý nói về chủ quyền. Có thể kể ra các thí
dụ là Ấn Độ Dương, là đại dương ở phía nam Ấn
Độ, giáp nhiều nước ở châu Á và châu Phi, không
phải là của riêng nước Ấn Độ; hay biển Nhật Bản,
được bao quanh bởi Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn
Quốc và Nhật Bản.
Ở phía nam: giới hạn phía đông và phía nam của eo
biển Singapore và eo biển Malacca, phía tây đến
Tanjong Kedabu ( 1°06′B 102°58′Đ 1,1°B
102,967°Đ ), trải xuống bờ biển phía đông đảo
Sumatra tới mũi Lucipara ( 3°14′N
106°05′Đ 3,233°N 106,083°Đ ) rồi đến Tanjong
Nanka - cực tây của đảo Banka - băng qua đảo này
đến Tanjong Berikat ( 2°34′N 106°51′Đ 2,567°N
106,85°Đ ) rồi đến Tanjong Djemang ( 2°36′N
107°37′Đ 2,6°N 107,617°Đ ) trên đảo Billiton, sau
đó men theo bờ biển phía bắc đảo này đến Tanjong
Boeroeng Mandi ( 2°46′N 108°16′Đ 2,767°N

108,267°Đ ) rồi từ đó đến Tanjong Sambar (
3°00′N 110°19′Đ 3°N 110,317°Đ ) - cực tây nam
của đảo Borneo.
Ở phía đông: xuất phát từ Tanjong Sambar, đi qua
bờ phía tây đảo Borneo đến điểm phía bắc Tanjong
Sampanmangio, rồi theo một đường thẳng đến các
điểm phía tây của đảo Balabac và cụm rạn đá
Secam, hướng đến điểm phía tây của đảo Bancalan
và đến mũi Buliluyan (điểm tây nam của đảo
Palawan), băng qua đảo này đến điểm phía bắc mũi
Cabuli, rồi từ đây đến điểm tây bắc của đảo Lubang
và đến mũi Fuego (14°08'B) thuộc đảo Luzon,
băng qua đảo này đến mũi Engaño (tức điểm đông
bắc của đảo Luzon), rồi sau đó đi dọc theo một
đường thẳng nối mũi này với điểm phía đông của
đảo Balintang (20°B) và điểm phía đông của đảo
Y'Ami (21°05'B), rồi từ đây hướng đến Garan Bi
(mũi phía nam của đảo Đài Loan (Formosa), băng
qua đảo này đến điểm đông bắc của Santyo (25°B).
Ở phía bắc: từ Fuki Kaku - điểm phía bắc của đảo
Đài Loan - đến đảo Ngưu Sơn, rồi sau đó đến điểm
phía nam của đảo Bình Đàm (25°25'B) rồi hướng
về phía tây dọc theo vĩ tuyến 25°24'B tới bờ biển
Phúc Kiến.
Ở phía tây: đất liền châu Á, giới hạn phía nam của
vịnh Thái Lan và bờ biển phía đông bán đảo Mã
Lai.
Biển nằm trên một thềm lục địa ngầm; trong những
kỷ băng hà gần đây nước biển đã hạ thấp xuống
hàng trăm mét, và Borneo từng là một phần của lục

địa Châu Á.
Các nước và lãnh thổ có biên giới với vùng biển
này (theo chiều kim đồng hồ từ phía bắc) gồm: đại
lục Trung Quốc, Ma Cao, Hồng Kông, Đài Loan,
Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia,
Singapore, Thái Lan, Campuchia, và Việt Nam.
Nhiều con sông lớn chảy vào biển Đông gồm các
sông Châu Giang, Mân Giang, sông Cửu Long
(Phúc Kiến), sông Hồng, sông Mê Kông, sông
Rajang, sông Pahang, và sông Pasig.
Địa danh trong biển Đông[sửa | sửa mã nguồn]
Vịnh Hạ Long thuộc vịnh Bắc Bộ
Vịnh Bắc Bộ là phần biển Đông giữa miền Bắc
Việt Nam với Đảo Hải Nam miền Nam Trung
Quốc. Bờ phía tây là bờ biển Việt Nam từ Thanh
Hóa đến Móng Cái. phía bắc từ Móng Cái trở sang
phía đông là 2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông của
Trung Quốc với bán đảo Lôi Châu. Bờ đông là đảo
Hải Nam của Trung Quốc. Trong vịnh có hàng
nghìn đảo nhỏ, nổi tiếng nhất là các đảo trong vịnh
Hạ Long được UNESCO xếp loại là di sản thiên
nhiên thế giới. Đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam
ở giữa vịnh, có diện tích khoảng 2,5 km².
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa biển
Đông đã được nhiều chính quyền Việt Nam liên tục
thực hiện chủ quyền từ nhiều thế kỷ qua. Quần đảo
Hoàng Sa do Trung Quốc dùng vũ lực chiếm giữ
một phần từ năm 1956 và hoàn toàn từ năm 1974.
Tranh chấp chủ quyền, một phần hay toàn bộ, cũng
đã diễn ra tại quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam,

Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Indonesia,
Brunei và Đài Loan.
Những lý do chính để các nước tranh chấp chủ
quyền hai quần đảo trên là:
• Diện tích lãnh hải với đặc quyền kinh tế và
việc triển khai quốc phòng.
• Biển Đông nằm trên một trong những đường
giao thông hàng hải lớn trên thế giới, có nguồn
thủy sản và tiềm năng dầu khí.
Hiện nay sự tranh chấp đang được các bên thương
lượng đàm phán vì sự hòa bình và ổn định trong
khu vực để phát triển kinh tế.
Các đảo và đá ngầm[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Các đảo ở Biển Đông và Danh
sách các đảo ở Biển Đông
phía đông bắc biển Đông có quần đảo Đông Sa
(Pratas Islands) hiện do Đài Loan quản lí nhưng
Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền.
phía tây bắc biển Đông cách đảo Lý Sơn, Quảng
Ngãi, Việt Nam khoảng 200 km, cách đảo Hải
Nam, Trung Quốc 235 km có quần đảo Hoàng Sa
với 18 đảo, cồn cát và 22 đá, bãi (theo giáo sư Sơn
Hồng Đức, thì có đến 230 đảo, cồn, đá, bãi). Phú
Lâm là đảo lớn nhất. Độ cao tuyệt đối lớn nhất là
14 m, đo được tại một điểm trên đảo Đá. Quần đảo
này hiện đang nằm dưới sự kiểm soát của Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa nhưng Việt Nam và Đài Loan
cũng tuyên bố chủ quyền.
Bên trong vùng biển, có hơn 200 đảo và bãi đá
ngầm đã được đặt tên, đa số chúng thuộc Quần đảo

Trường Sa. Quần đảo Trường Sa trải dài trên một
vùng rộng 810 km, dài 900 km với khoảng 175
thực thể địa lí đã được xác định; hòn đảo lớn nhất
là đảo Ba Bình với chỉ hơn 1,36 km chiều dài và
điểm cao nhất là 3,8 mét.
Có một núi ngầm rộng 100 km được gọi là bãi Cỏ
Rong ở đông bắc quần đảo Trường Sa-cách biệt
khỏi đảo Palawan của Philippines bởi rãnh
Palawan-hiện đang nằm sâu 20 m dưới mực nước
biển nhưng trước kia nó từng là một hòn đảo trước
khi bị mực nước biển dâng lên ở thời băng hà cuối
cùng làm chìm ngập.
phía đông quần đảo Hoàng Sa có các bãi và núi
ngầm như bãi Macclesfield, núi ngầm Stewart, bãi
ngầm/cạn Truro và bãi cạn Scarborough.
• Bãi cạn Scarborough
o Vị trí: nằm về phía đông của bãi
Macclesfield, gần bờ biển Philippines.
o Hình thể: là một bãi khá lớn bên dưới là
đá ngầm. Bãi này sâu khoảng 15 m.
• Bãi Truro: nằm bên cạnh Scarborough Shoal,
sâu 18,2 m.
• Núi ngầm Stewart: sâu tối thiểu 447 m, nằm
rất gần đảo Luzon của Philippines.
Địa chất[sửa | sửa mã nguồn]
Biển Đông được hình thành từ Oligocen muộn đến
Miocen sớm (32-17 tr. năm) bằng cơ chế giãn đáy
đại dương, tiếp tục phát triển như một biển rìa
trong suốt Kainozoi muộn. Hiện có nhiều quan
điểm khác nhau về cơ chế thành tạo Biển Đông.

[3]
Tài nguyên thiên nhiên[sửa | sửa mã nguồn]
Đây là một vùng biển có ý nghĩa địa chính trị vô
cùng quan trọng. Nó là đường hàng hải đông đúc
thứ hai trên thế giới, trong khi nếu tính theo tổng
lượng hàng hoá thương mại chuyển qua hàng năm,
hơn 50% đi qua eo biển Malacca, eo biển Sunda, và
eo biển Lombok. Hơn 1,6 triệu m³ (10 triệu thùng)
dầu thô được chuyển qua eo biển Malacca hàng
ngày, nơi thường xảy ra các vụ hải tặc, nhưng hiện
đã giảm nhiều so với giữa thế kỷ 20.
Vùng này đã được xác định có trữ lượng dầu mỏ
khoảng 1,2 km³ (7,7 tỷ thùng), với ước tính tổng
khối lượng là 4.5 km³ (28 tỷ thùng). Trữ lượng khí
tự nhiên được ước tính khoảng 7.500 km³.
Theo những nghiên cứu do Sở môi trường và các
nguồn lợi tự nhiên Philippines, vùng biển này
chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển
thế giới, vì vậy nó là vùng rất quan trọng đối với hệ
sinh thái.
Tranh chấp biển[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Tranh chấp chủ quyền Biển Đông
Biển Đông, các khu vực và tài nguyên tranh chấp
giữa các nước.
Có rất nhiều tranh cãi về lãnh hải trên vùng Biển
Đông và các nguồn tài nguyên của nó. Bởi Luật
biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc cho phép các
nước có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng
200 hải lí (370,6 km) từ lãnh hải của họ, tất cả các
nước quanh vùng biển có thể đưa ra tuyên bố chủ

quyền với những phần rộng lớn của nó. Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố chủ quyền hầu
như toàn bộ vùng biển. Những báo cáo gần đây cho
thấy CHND Trung Hoa đang phát triển một nhóm
tàu sân bay để bảo vệ những đường vận chuyển
nhiên liệu ở Biển Đông. Những vùng có nguy cơ
tranh chấp gồm:
• Indonesia và CHND Trung Hoa về vùng biển
phía đông bắc quần đảo Natuna.
• Philippines và CHND Trung Hoa về những
khu khai thác khí gas Malampaya và Camago.
• Philippines và CHND Trung Hoa về bãi cát
ngầm Scarborough.
• Việt Nam và CHND Trung Hoa về vùng biển
phía tây Quần đảo Trường Sa. Một số hay toàn
bộ quần đảo Trường Sa đang bị tranh chấp bởi
Việt Nam, CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân
quốc (Đài Loan), Philippines, và một số nước
khác.
• Quần đảo Hoàng Sa đang bị tranh chấp bởi
Việt Nam và CHND Trung Hoa; CHND Trung
Hoa quản lý một phần quần đảo từ năm 1956
và toàn bộ quần đảo từ năm 1974 đến nay.
• Malaysia, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam
về những vùng ở Vịnh Thái Lan.
• Singapore và Malaysia dọc theo Eo biển
Johore và Eo biển Singapore.
Cả Trung Hoa và Việt Nam đều theo đuổi các
tuyên bố chủ quyền một cách mạnh mẽ. Quần đảo
Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm được 6 đảo năm

1974 và 18 binh sĩ đã thiệt mạng. Quần đảo Trường
Sa là nơi đã xảy ra xung đột hải quân khiến hơn
bảy mươi lính thủy Việt Nam đã bị giết hại ở phía
nam đá Gạc Ma vào tháng 3 năm 1988. Các nước
tranh chấp thường xuyên thông báo về các vụ va
chạm giữa các tàu hải quân.
ASEAN nói chung, và Trung Quốc nói riêng luôn
muốn đảm bảo rằng những tranh chấp bên trong
Biển Đông sẽ không leo thang trở thành xung đột
quân sự. Vì vậy, các cơ cấu phát triển chung (Joint
Development Authorities) đã được lập ra tại các
vùng tranh chấp chồng lấn để cùng phát triển vùng
và phân chia quyền lợi công bằng tuy nhiên không
giải quyết vấn đề chủ quyền của vùng đó. Điều này
đã trở thành sự thực, đặc biệt là ở Vịnh Thái Lan.
Tuy nhiên, gần đây Trung Quốc đã tuyên bố sẽ
không ngại dùng vũ lực để chiếm đoạt quần đảo
Trường Sa.
Những tuyên bố lãnh thổ chồng lần ở Pulau Pedra
Branca hay Pulau Batu Putih của cả Singapore và
Malaysia đã được đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế.
Tòa án phán quyết theo chiều hướng có lợi cho
Singapore.
Biển Đông
Quốc gia và vùng lãnh
BienDong.Net: Việt Nam là một quốc gia ven biển
nằm bên bờ Tây của Biển Đông, giữ vị trí chiến
lược về địa - chính trị và địa - kinh tế. Với bờ biển
dài hơn 3.260 km trải dài từ Bắc tới Nam, từ lâu hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã là của người

Việt. Lịch sử các triều đại cùng hoạt động liên tục
của người Việt hàng trăm năm trước đến nay trên
hai quần đảo này cũng như theo tập quán và luật
pháp quốc tế là những cơ sở để khẳng định điều đó.
Vùng biển VN có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ và hai
quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa được
phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển của đất
nước.
Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử
dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết
lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác
định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ
sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các
vùng biển.
Biển Đông là vùng biển nhộn nhịp thứ hai trên thế
giới (sau Địa Trung Hải), chiếm khoảng ¼ lưu
lượng tàu hoạt động trên các vùng biển toàn cầu.
Là tuyến hàng hải huyết mạch mang tính chiến
lược của nhiều nước trên thế giới và khu vực, nối
liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Âu,
Trung Đông với châu Á và giữa các nước châu Á
với nhau. Cùng với đất liền, vùng biển VN là một
khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, là ngư trường
giàu có nuôi sống hàng triệu ngư dân và gia đình từ
bao đời qua, là một vùng kinh tế nhiều thập kỷ phát
triển năng động.
Bên cạnh nhiều đảo lớn nhỏ khác, hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc về lãnh thổ
Việt Nam. Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo,

đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm ở khu vực biển giữa
vĩ độ 15
o
45'00''Bắc - 17
o
độ15'00''Bắc và kinh độ
111
o
00'00''Đông - 113
o
00'00''Đông trên vùng biển
có diện tích khoảng 30.000km2, cách đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi - Việt Nam) khoảng 120 hải lý. Đoạn
biển từ Quảng Trị chạy tới Quảng Ngãi đối mặt với
quần đảo Hoàng Sa luôn hứng gió mùa Tây Nam
hay Đông Bắc nên thường có nhiều thuyền bị hư
hại khi ngang qua đây vào mùa này. Các vua chúa
Việt Nam thời xưa hay chu cấp cho các tàu thuyền
bị nạn về nước, nên họ thường bảo nhau tìm cách
tạt vào bờ biển Việt Nam để nhờ cứu giúp khi gặp
nạn. Chính vì thế, Hoàng Sa từ rất sớm đã được
người Việt biết tới và xác lập chủ quyền của mình.
Quần đảo Hoàng Sa chia làm hai nhóm An Vĩnh và
Trăng Khuyết (hay còn gọi là Lưỡi Liềm). An Vĩnh
nguyên là tên một xã thuộc Quảng Ngãi, theo Đại
Nam Thực lục Tiền biên quyển 10: "Ngoài biển xã
An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn
100 cồn cát chiều dài kéo dài không biết tới mấy
ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu. Hồi
quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70

người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ
đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới
nơi ”.
Quần đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông về phía
Đông Nam nước ta, phía Nam quần đảo Hoàng Sa,
cách Cam Ranh (Khánh Hoà - Việt Nam) 243 hải
lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 585 hải lý và
đến đảo Đài Loan khoảng 810 hải lý. Quần đảo
Trường Sa gồm trên 100 đảo lớn nhỏ và bãi san hô
với diện tích vùng biển rộng khoảng 410.000 km2,
từ vĩ độ 6
o
00'00'' Bắc - 12
o
00'00'' Bắc và kinh độ
111
o
00'00'' Đông - 117
o
00'00'' Đông. Diện tích
phần nổi của đảo khoảng 3km2, chia làm 8 cụm
(Song Tử, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Yết, Sinh Tồn,
Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên). Với vị trí
giữa Biền Đông, quần đảo Trường Sa có lợi thế về
dịch vụ hàng hải, hậu cần nghề cá trong khu vực,
đồng thời cũng là một địa chỉ du lịch hấp dẫn.
Điều kiện thiên nhiên trên thực tế đã gắn liền với
những hoạt động xác lập chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo
các nhà nghiên cứu, nếu mực nước biển hạ xuống

chừng 600m-700m thì Hoàng Sa sẽ dính vào Việt
Nam như một khối thịt liền và cách Trung Quốc
bằng một vùng biển sâu (Krempf, Giám đốc Hải
học Viện Đông Dương, khảo sát năm 1925). Các
sinh vật trên các đảo và dưới biển thuộc hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa như rùa, đời mồi, vít,
đồn đột, ốc tai voi, ốc hương đều tương tự như các
đảo ven biển Việt Nam như cù lao Ré. Các khảo sát
từ thập niên 40 của thế kỷ XX cũng cho thấy các
thú vật sống trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa đều là các loài đã gặp ở Việt Nam, không có
nhiều liên hệ với sinh vật ở Trung Quốc. Các khảo
sát về thảo mộc cũng có kết quả tương tự, hầu hết
thảo mộc ở hai quần đảo này đều du nhập từ đất
liền của Việt Nam như cây mù u, cây bàng có nhiều
ở cù lao Ré. Các sách sử của thời Nguyễn cũng
chép rõ, theo lệnh vua Minh Mạng binh lính Việt
Nam đã trồng nhiều cây cối trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, để ngày sau cây cối cao to
giúp người đi biển nhận biết mà tránh mắc cạn.
Biển Đông cũng như Việt Nam nằm trong khu vực
mà các nhà sinh vật học gọi là Wallacca, là vùng
đất sinh sống của các loài động vật Á Đông mà
Trung Hoa nằm ngoài vùng này. Tại Biển Đông
không giống như Thái Bình Dương, có dòng hải
lưu chảy thay đổi theo chiều gió mùa. Thiên nhiên
đã tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ giữa đất
liền của Việt Nam với các đảo ở Hoàng Sa và
Trường Sa. Chính nhu cầu tránh bão hoặc bị nạn
rồi theo dòng hải lưu, theo chiều gió tấp vào đất

liền Việt Nam của các thương thuyền nước ngoài
nên người Việt Nam từ lâu đã biết tới Hoàng Sa và
Trường Sa và sẵn lòng cứu giúp những người bị
nạn. Điều đó chứng tỏ hoạt động xác lập chủ quyền
và thực thi chủ quyền trên thực tế của người Việt
Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức tự
nhiên từ bao đời qua.
Nguồn: Báo Đại Đoàn kết
Khái quát về biển đảo Việt Nam
24/08/2012 08:32:38
Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm trong
khu vực trung tâm của Đông Nam Á. Bờ biển
Việt Nam dài 3.260km, từ Quảng Ninh ở phía
đông bắc tới Kiên Giang ở phía tây nam. Có
28/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam nằm ven
biển, chiếm 42% diện tích và 45% dân số cả
nước, có khoảng 15,5 triệu người sống gần
bờ biển và hơn 175 ngàn người sống ở đảo.
Tính trung bình tỷ lệ diện tích theo số km bờ
biển thì cứ 100km2 có 1km bờ biển (so với
trung bình của thế giới là 600km2 đất liền trên
1km bờ biển).
Biển đảo Việt Nam có thể chia thành bốn khu
vực: biển Đông Bắc (một phần vịnh Bắc bộ),
nằm ở phía đông bắc Việt Nam và tiếp giáp
với Trung Quốc (đảo Hải Nam), biển Bắc
Trung bộ (một phần biển Đông) ở phía đông
Việt Nam, biển Nam Trung bộ (một phần biển
Đông) ở phía đông nam và vùng biển Tây
Nam (một phần vịnh Thái Lan) nằm phía tây

nam của Việt Nam tiếp giáp với Campuchia và
Thái Lan.
Vùng biển Việt Nam bao gồm vùng nội thủy
nằm bên trong đường cơ sở; lãnh hải có chiều
rộng 12 hải lý (1 hải lý tương đương
1.852km); vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ
sở; riêng thềm lục địa có thể kéo dài 350 hải
lý. Theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về
Luật biển năm 1982, vùng biển Việt Nam có
diện tích trên 1 triệu km2, gấp ba lần diện tích
đất liền, chiếm 30% diện tích biển Đông. Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã tuyên bố
chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia đối với các vùng biển trên. Năm
1982, Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố xác
định đường cơ sở thẳng ven bờ lục địa Việt
Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm.
Đảo Trường Sa lớn (thuộc quần đảo Trường
Sa, Việt Nam).

Vùng biển Việt Nam có khoảng 3.000 đảo lớn
nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và
Trường Sa. Trong đó, 84 đảo có diện tích trên
1km2, 24 đảo có diện tích trên 10km2, 66 đảo
có dân sinh sống với tổng số dân là 175 nghìn
người. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia đã làm
tăng giá trị kinh tế và an ninh quốc phòng đất
nước. Các đảo có diện tích lớn nhất là: Cái

Bầu: 200km2, trên 21 nghìn dân; Phú Quốc:
320km2, 50 nghìn dân; Côn Đảo: 56,7km2,
1.640 dân; Phú Quý: 32km2, gần 18 nghìn
dân; Cát Bà: 149km2, trên 15 nghìn dân; Đảo
Lý Sơn: 3km2, có trên 16 nghìn dân sinh
sống.
Ý nghĩa kinh tế lớn nhất của đảo không chỉ là
giá trị vật chất của bản thân chúng mà còn là
vị trí chiến lược, là cầu nối vươn ra biển cả, là
điểm tựa khai thác các nguồn lợi biển, là
những điểm tiền tiêu bảo vệ Tổ quốc. Nhờ có
hệ thống đảo ven bờ được vận dụng làm các
điểm cơ sở của hệ thống đường cơ sở thẳng
nên đã tạo ra vùng nội thủy rộng lớn, do đó
vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa cũng được mở rộng ra hướng biển. Về
giá trị văn hóa, hệ thống đảo đã tạo nên
những cảnh quan thiên nhiên như những di
sản văn hóa có sức thu hút mạnh đối với du
khách (ví dụ vịnh Hạ Long).
Những đặc điểm chính của biển đảo Việt Nam
là: có khí hậu nhiệt đới tạo điều kiện cho sinh
vật biển phát triển và tồn tại tốt, biển có tài
nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú, đa
dạng và quý hiếm.
Trên bờ biển của nước ta lại có nhiều mũi đá
nhô ra sát biển tạo nên các “hoành sơn thiên
nhiên tráng lệ”, như đèo Ngang, đèo Hải Vân,
đèo Cả. Địa hình bờ biển của nước ta rất đa
dạng và độc đáo do được phát triển trên các

loại đất đá khác nhau trong điều kiện khí hậu
có sự phân hóa rõ rệt theo chiều bắc - nam.
Đó là địa hình karst phát triển trên đá vôi ở
vịnh Hạ Long và Bái Tử Long (vịnh Hạ Long
đã 2 lần được UNESCO công nhận là di sản
thế giới và đang được đề nghị mở rộng khu di
sản sang cả vịnh Bái Tử Long), ở Hòn Đỏ
(Ninh Thuận). Địa hình “karst giả” phát triển
trên cát đỏ ở khu vực Suối Tiên - Mũi Né (Bình
Thuận), “karst giả” phát triển trên đá granite ở
khu vực mũi Kê Gà và một số nơi khác ở
Trung bộ. Các vách đá hùng vĩ ở mũi Đá
Vách, mũi Đại Lãnh, đèo Hải Vân, “gành đá
đĩa” phát triển trên đá bazan.
Dọc bờ biển Việt Nam xác định nhiều khu vực
xây dựng cảng, trong đó có một số nơi có thể
xây dựng cảng biển nước sâu như: Cái Lân và
một số điểm ở khu vực vịnh Hạ Long và Bái
Tử Long, Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát Hải, Đồ
Sơn, Nghi Sơn, Cửa Lò, Hòn La, Vũng Áng,
Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quốc, Vân Phong,
Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải… Phía Nam,
cảng quy mô vừa như Hòn Chông, Phú
Quốc… Ngoài sự hình thành mạng lưới cảng
biển, các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven
biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc
biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép
vùng biển và ven biển nước ta có khả năng
chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi miền
của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận

lợi.
Do có bờ biển dài nên Việt Nam có nhiều bãi
tắm đẹp với cát mịn và sạch rải rác từ Trà Cổ
(Móng Cái, Quảng Ninh) đến Bãi Nai (Hà Tiên,
Kiên Giang) và nhiều bãi tắm còn rất hoang sơ
trên các đảo (Ngọc Vừng, Quan Lạn ở Quảng
Ninh; Hòn La ở Quảng Bình, Côn Đảo, Phú
Quốc,…). Đường bờ biển của nước ta rất
khúc khuỷu, lại được các đảo che chắn (vịnh
Hạ Long và Bái Tử Long), có nhiều vũng vịnh
(Vũng Áng, vịnh Đà Nẵng, An Hòa, Dung
Quất, Quy Nhơn, Xuân Đài, Vũng Rô, Vân
Phong,…) và nhiều cửa sông lớn đổ trực tiếp
vào biển Đông.
PV tổng hợp
Đầu trang
In bài
1.
Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm
trong khu vực trung tâm của Đông
Nam Á, Việt Nam có vùng biển nối liền
tuyến giao thông vận tải đường biển
quan trọng giữa Ấn Độ Dương với Thái
Bình Dương, đặc biệt biển Đông Việt
Nam là tuyến vận tải dầu và container
từ các nước khác tới Nhật Bản, Hàn
Quốc và Trung Quốc, những nước đang
tiêu thụ khối lượng năng lượng khổng
lồ.
Việt Nam ở vị trí có tiềm năng phát

triển kinh tế biển như đóng tàu, vận tải
đường biển, phát triển cảng và công
trình thủy, khai thác thủy hải sản, khai
thác tài nguyên khoáng sản biển và
dầu khí, du lịch biển và hải đảo, dịch vụ
đường biển và các ngành khác liên
quan (tin học ứng dụng).
Biển đảo Việt Nam có thể chia thành
bốn khu vực: biển Đông Bắc (một phần
vịnh Bắc bộ), nằm ở phía đông bắc Việt
Nam và tiếp giáp với Trung Quốc (đảo
Hải Nam), biển Bắc Trung bộ (một
phần biển Đông) ở phía đông Việt Nam,
biển Nam Trung bộ (một phần biển
Đông) ở phía đông nam và vùng biển
Tây Nam (một phần vịnh Thái Lan)
nằm phía tây nam của Việt Nam tiếp
giáp với Campuchia và Thái Lan.
Việt Nam giáp với biển ở hai phía đông và
nam. Vùng biển Việt Nam là một phần của
biển Đông. Bờ biển Việt Nam dài 3.260km, từ
Quảng Ninh ở phía đông bắc tới Kiên Giang ở
phía tây nam. Tính trung bình tỷ lệ diện tích
theo số km bờ biển thì cứ 100km2 có 1km bờ
biển (so với trung bình của thế giới là 600km2
đất liền trên 1km bờ biển). Biển có vùng nội
thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa với diện tích trên 1 triệu km2
(gấp ba lần diện tích đất liền: 1 triệu
km2/330.000km2).

Trong khu vực biển Việt Nam có khoảng 4.000
đảo lớn nhỏ, gần và xa bờ, trong đó có hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm xa bờ
tạo thành một phòng tuyến bảo vệ kiểm soát
và làm chủ vùng biển và hải đảo.
Biển Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng,
là khu vực giao thông nối liền Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu,
châu Úc với Trung Đông. Khu vực biển Việt
Nam là một phần của biển Đông, là tuyến
đường vận tải dầu hỏa quan trọng tới Nhật
Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Biển Việt Nam
có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi và có tiềm
năng phát triển ngành kinh tế biển phong phú
và đa dạng. Những đặc điểm chính của biển
đảo Việt Nam là: có khí hậu nhiệt đới tạo điều
kiện cho sinh vật biển phát triển và tồn tại tốt,
biển có tài nguyên sinh vật và khoáng sản
phong phú đa dạng và quý hiếm.
Việt Nam nằm trải dài ven biển, có tới 26 tỉnh
thành phố ven biển chiếm tới 42% diện tích và
45% dân số cả nước, có khoảng 15,5 triệu
người sống gần bờ biển và 16 vạn người sống
ở đảo. Trên bờ biển của nước ta lại có nhiều
mũi đá nhô ra sát biển tạo nên các "hoành sơn
thiên nhiên tráng lệ", như đèo Ngang, đèo Hải
Vân, đèo Cả. Địa hình bờ biển của nước ta rất
đa dạng và độc đáo do được phát triển trên
các loại đất đá khác nhau trong điều kiện khí
hậu có sự phân hóa rõ rệt theo chiều bắc-

nam. Đó là địa hình karst phát triển trên đá
vôi ở vịnh Hạ Long và Bái Tử Long (vịnh Hạ
Long đã 2 lần được UNESCO công nhận là di
sản thế giới và đang được đề nghị mở rộng
khu di sản sang cả vịnh Bái Tử Long), ở Hòn
Đỏ (Ninh Thuận). Địa hình "karst giả" phát
triển trên cát đỏ ở khu vực Suối Tiên - Mũi Né
(Bình Thuận), "karst giả" phát triển trên đá
granite ở khu vực mũi Kê Gà và một số nơi
khác của tỉnh khác ở Trung bộ. Các vách đá
hùng vĩ ở mũi Đá Vách, mũi Đại Lãnh, đèo Hải
Vân, "gành đá đĩa" phát triển trên đá bazan ở
Phú Yên.
Do có bờ biển dài nên Việt Nam có nhiều bãi
tắm đẹp với cát mịn và sạch rải rác từ Trà Cổ
(Móng Cái, Quảng Ninh) đến Bãi Nai (Hà Tiên,
Kiên Giang) và nhiều bãi tắm còn rất hoang sơ
trên các đảo (Ngọc Vừng, Quan Lạn ở Quảng
Ninh; Hòn La ở Quảng Bình, Côn Đảo, Phú
Quốc, v.v ). Đường bờ biển của nước ta rất
khúc khuỷu, lại được các đảo che chắn (vịnh
Hạ Long và Bái Tử Long), có nhiều vũng vịnh
(Vũng Áng, vịnh Đà Nẵng, An Hòa, Dung
Quất, Quy Nhơn, Xuân Đài, Vũng Rô, Vân
Phong, v.v ) và nhiều cửa sông lớn đổ trực
tiếp vào biển Đông .
TS. TRẦN NAM TIẾN
(Trích "Hoàng Sa - Trường Sa: Hỏi và đáp",
NXB Trẻ năm 2011)
Bước tới: menu, tìm kiếm

Năm đại dương của Trái Đất
• Ấn Độ Dương
• Bắc Băng Dương
• Đại Tây Dương
• Nam Đại Dương
• Thái Bình Dương
Bản đồ động chỉ ra các vùng nước đại dương của
thế giới. Một khối nước liên tục bao quanh Trái
Đất, Đại dương thế giới (toàn cầu) được chia thành
một số các khu vực cơ bản. Sự phân chia thành 5
đại dương là điều thường được công nhận: Thái
Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc
Băng Dương và Nam Đại Dương; hai đại dương
cuối đôi khi được hợp nhất trong ba đại dương đầu
tiên.
Mục từ "hải dương" dẫn đến bài này. Xin đọc về
Tỉnh Hải Dương của Việt Nam tại Hải Dương.
Đại dương là một vùng lớn chứa nước mặn tạo
thành thành phần cơ bản của thủy quyển. Khoảng
71% diện tích bề mặt Trái Đất (khoảng 361 triệu
kilômét vuông) được các đại dương che phủ, một
khối nước liên tục theo tập quán được chia thành
một vài đại dương chủ chốt và một số các biển nhỏ.
Trên một nửa diện tích khu vực này có độ sâu trên
3.000 mét (9.800 ft). Độ mặn trung bình của đại
dương là khoảng 35 phần ngàn (ppt) (3,5%) và gần
như mọi loại nước biển có độ mặn dao động trong
khoảng từ 30 (ở vùng cận cực) tới 38 ppt (vùng
nhiệt đới/cận nhiệt đới). Nhiệt độ nước bề mặt ở
ngoài khơi là 29 °C (84 °F) ở vùng ven xích đạo

xuống đến 0 °C (32 °F) ở các vùng địa cực.

Tổng quan[sửa | sửa mã nguồn]
Mặc dù nói chung được công nhận như là các đại
dương 'tách biệt', nhưng các vùng nước mặn này
tạo thành một khối nước nối liền với nhau trên toàn
cầu, thường được gọi chung là Đại dương thế giới
hay đại dương toàn cầu.
[1][2]
Khái niệm về đại
dương toàn cầu như là một khối nước liên tục với
sự trao đổi tương đối tự do giữa các bộ phận của nó
có tầm quan trọng nền tảng cho hải dương học.
[3]

Các phần đại dương chính được định nghĩa một
phần dựa vào các châu lục, các quần đảo khác nhau
cùng các tiêu chí khác: các phần này là (theo trật tự
giảm dần của diện tích) Thái Bình Dương, Đại Tây
Dương, Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương (đôi khi
được phân chia và tạo thành phần phía nam của
Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ
Dương) và Bắc Băng Dương (đôi khi được coi là
một biển của Đại Tây Dương
[4]
). Thái Bình Dương
và Đại Tây Dương cũng có thể phân chia tiếp bởi
đường xích đạo thành các phần Bắc và Nam. Các

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×