Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Giá trị tư tưởng HCM trong bối cảnh ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 30 trang )


pg. 1


ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.


GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HCM TRONG
BỐI CẢNH NGÀY NAY.



Nhóm XIII:

Thành viên g

m có:

1. Phạm Thị Oanh.
2. Nguyễn Thị Hải Yến.
3. Kiều Hồng Nhung.
4. Nguyễn Thanh Hương.
5. Phạm Hoàng Long.
6. Trần Mậu Tú.





GV: Nguyễn Ngọc Diệp.





pg. 2
BÀI TRÌNH BÀY:




Trong những năm đầu thế kỷ 21, đất nước ta có cơ hội lớn và cả thách thức
không nhỏ. Tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường.
Ðể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới,
cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề
nóng bỏng mà thực tiễn đang đặt ra; nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh phải trở thành một nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của
Ðảng, cần được toàn Ðảng thực hiện chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả.
Trong bất kể hoàn cảnh nào của thời đại thì giá trị tư tưởng HCM vẫn luôn có giá
trị và mang giá trị thời đại lâu dài. Trong bối cảnh ngày nay thì tư tưởng HCM vẫn
được thấm nhuần trong các hoạt động và nhận thức của chúng ta.
Tư tưởng HCM trong bối cảnh hiện nay sẽ được biểu hiện qua các chủ đề như sau:






I. Tư tưởng Hồ Chí Minh vốn đã mang ý nghĩa và giá trị thời đại, đến
nay vẫn giữ nguyên giá trị.



II. Tư Tưởng HCM về tuổi trẻ với tình yêu đất nước trong bối cảnh
hiện nay.


III. Tư tưởng HCM trong đổi mới chỉnh đốn đảng hiện nay.


IV. Học tập theo tấm gương HCM và nhận thức ứng dụng theo tư tưởng
HCM trong bối cảnh ngày nay.





pg. 3

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh vốn đã mang ý nghĩa và giá trị thời đại, đến
nay vẫn giữ nguyên giá trị.

Trong rất nhiều diễn biến lớn của thế giới, có thể nói đến ba hiện tượng nổi
bật:
Một là, sự phát triển bùng nổ của khoa học và công nghệ, nhất là khoa học
công nghệ viễn thông với Internet toàn cầu, tạo ra một nền văn minh mới - văn
minh trí tuệ, đồng thời tạo cơ sở thuận lợi cho sự phát triển sức sản xuất, trước hết
là đẩy mạnh sức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hai là, toàn cầu hóa mọi mặt đời sống xã hội, dẫn đến thế giới hình thành
một thị trường chung trên nhiều phương diện, đặc biệt là thị trường tài chính tiền
tệ.
Ba là, những diễn biến mới trong lòng chủ nghĩa tư bản, tạo nên sự phát

triển không bình thường giữa quan hệ sản xuất với phương thức phân phối, dẫn đến
những khủng hoảng không thể tránh khỏi. Ðây là một hiện tượng mới thuộc khuyết
tật bẩm sinh của chủ nghĩa tư bản mà từ lâu Mác đã thấy. Cuộc vận động tăng lên
không ngừng trong những lực lượng sản xuất đã dẫn đến toàn cầu hóa hay còn gọi
là chủ nghĩa tư bản phiên bản 3.0, khiến cho của cải vật chất ngày càng dồi dào,
đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tăng tiến; cuộc vận động phủ định không
ngừng trong quan hệ xã hội dẫn đến sự phân hóa trong chính giai cấp tư sản, hình
thành thị trường tài chính tiền tệ và các nhà tư bản tài chính đầu cơ tài chính tiền tệ
nhằm tìm kiếm siêu lợi nhuận, dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các nhà tư bản ngày
càng khốc liệt, xảy ra khủng hoảng là đương nhiên; và, một sự vận động hình
thành không ngừng trong những ý niệm, đó chính là những quan niệm khác nhau
về lý thuyết phát triển chủ nghĩa tư bản.
Trong bối cảnh mới và đặc biệt ấy, chúng ta tiếp tục nghiên cứu, khám phá về
ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhưng, trước hết cần làm rõ quan niệm về thời đại hiện nay là gì. Ðây là
một vấn đề lớn có ý nghĩa thời sự cấp thiết, vì nó có tác động trực tiếp đến việc
định hướng quan điểm phát triển của nhiều nước, nhất là những nước chưa qua giai
đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản như Việt Nam. Với phát hiện của Mác về lịch sử
tiến hóa của nhân loại là lịch sử đấu tranh giai cấp, thời đại đã được xác định theo
bước tiến của các phương thức sản xuất gắn với các chế độ xã hội. Với quan niệm
duy vật về lịch sử và khẳng định quá trình phát triển của nhân loại diễn ra trong

pg. 4
đấu tranh giai cấp và hình thành các phương thức sản xuất, rõ ràng Mác đã giúp
chúng ta một định hướng đúng đắn về phương pháp luận trong việc đi tìm định
nghĩa về thời đại. Với thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga, Lê-nin là
người đầu tiên đặt mốc mới cho thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp theo Mác, Lê-nin vạch ra những đường nét cơ bản để xác định thời đại
mới chứ chưa thể thấy rõ thời đại ấy sẽ diễn ra như thế nào khi thế giới không chỉ

có các nước tư bản phát triển mà còn số lớn các nước kém phát triển với hàng tỷ
người trên trái đất chưa biết chủ nghĩa tư bản là gì. Phải đến Hồ Chí Minh, vấn đề
thời đại mới thấy rõ nét và bao quát hơn, được bổ sung những nhận định mới rất cơ
bản, bao gồm không chỉ các nước tư bản phát triển mà toàn thể nhân loại cần lao
trên khắp hành tinh, trong đó có số lớn các nước lạc hậu chưa qua phát triển chủ
nghĩa tư bản như Việt Nam, dù cho tên gọi về thời đại vẫn giữ nguyên.
Chính vì vậy, trong nhiều văn kiện của Ðảng và Nhà nước cũng như nhân
dân ta đã từng khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đối với nước
ta mà còn mang ý nghĩa và giá trị thời đại.
Việc khẳng định ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng thể hiện rõ tầm cao trí tuệ cũng như giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt qua
biên giới Việt Nam đến với nhiều quốc gia dân tộc có hoàn cảnh như Việt Nam
trong đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Nói về Cách mạng Tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường
giải phóng các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử,
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới Vấn đề
là ở chỗ, cần làm rõ ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh
vực lý luận cũng như thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước ta trong bối cảnh
hiện nay như thế nào.
1. Tiếp thu đồng thời phát triển học thuyết Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã thấy thế
giới là thống nhất, không chỉ gồm các nước tư bản phát triển mà cả nhân loại cần
lao đang cần được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, khỏi nghèo nàn, lạc hậu để có
cuộc sống thật sự ấm no, hạnh phúc, cuộc sống đúng với ý nghĩa của nó. Người tìm
thấy đối tượng cần được giải phóng cũng như nguồn lực sức mạnh đấu tranh giải
phóng con người không chỉ có giai cấp vô sản mà là những người lao động trên
khắp hành tinh, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, mầu da, nam, nữ và cả
chính kiến.

pg. 5
Chính vì lẽ đó, từ khi đi tìm đường cứu nước, tiếp cận với học thuyết Mác và chủ

nghĩa Lê-nin, Hồ Chí Minh không chỉ tìm được con đường cứu nước mà còn trang
bị cho mình một nhân sinh quan mới, tìm thấy con đường phát triển của một đất
nước còn lạc hậu, kém phát triển như Việt Nam. Ðây là quá trình Hồ Chí Minh tìm
hiểu và vận dụng những nguyên lý cách mạng và học thuyết của học thuyết Mác và
chủ nghĩa Lê-nin vào Việt Nam với tư duy độc lập, sáng tạo. Chính quá trình đó,
Người không chỉ thành công trong việc vận dụng một học thuyết vốn có cơ sở thực
tế từ xã hội phương Tây tư bản chủ nghĩa vào thực tiễn một nước thuộc địa, nông
nghiệp, chưa phát triển như Việt Nam mà còn phát triển học thuyết Mác lên một
tầm cao mới phù hợp không chỉ với thế giới tư bản chủ nghĩa mà cả với phần thế
giới còn lại là những nước chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản mà Việt
Nam là một điển hình.
Từ đó, có thể nói, nếu học thuyết Mác và chủ nghĩa Lê-nin mang tính thời
đại bao nhiêu thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng mang giá trị thời đại bấy nhiêu. Với
Mác, ý nghĩa thời đại của học thuyết cách mạng và khoa học diễn ra trực diện và
phù hợp với những nước phát triển chủ nghĩa tư bản. Với Lê-nin, thời đại đã được
xác định với tên gọi cụ thể nhưng vẫn tập trung ở ý nghĩa đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp công nhân và chủ nghĩa tư bản. Với Hồ Chí Minh, ý nghĩa và giá trị thời
đại không chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển mà còn bao quát hơn ở tất cả các
nước chưa phát triển; không chỉ bao gồm cuộc đấu tranh sống còn giữa giai cấp
công nhân với chủ nghĩa tư bản mà cuộc đấu tranh đã được mở rộng trên tất cả các
phạm vi và lĩnh vực đời sống xã hội; không chỉ là đấu tranh giai cấp với ách áp
bức, bóc lột mà cả đấu tranh xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu, nhằm xây dựng một thế
giới mới theo mục tiêu lý tưởng của Mác: "Tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người".

Hồ Chí Minh tiếp thu Mác ở hai khía cạnh lớn: Ðó là phương pháp luận biện
chứng và nhân sinh quan tất cả vì con người, cho con người và do con người.
Nhưng, Người tập trung hơn vào phát hiện thứ ba của Mác được Ăng-ghen nhắc
đến sau khi Mác qua đời, đó là lịch sử phát triển các nền văn minh, tập trung vào lý
tưởng giải phóng con người không chỉ khỏi áp bức, bóc lột mà còn phải giải phóng

con người khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Ðây là vấn đề có ý nghĩa thời đại cấp bách
hiện nay.
2. Từ những phát hiện mới, Hồ Chí Minh phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính
gắn với chủ nghĩa quốc tế chân chính nhằm tổ chức cuộc đấu tranh trường kỳ, anh
dũng để giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước ta phát triển theo

pg. 6
định hướng chủ nghĩa xã hội. Ðó là sự khởi đầu mang tính thời đại một cách sâu
sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay chủ nghĩa tư bản không còn phát triển
bình thường nữa, chính nó đã tạo ra sự vận động hình thành không ngừng những ý
niệm, vì theo Mác, những quan hệ sản xuất trong đó giai cấp tư sản vận động,
không có một tính chất nhất trí, một tính chất đơn mà là một tính chất kép; rằng
trong cùng quan hệ ấy sự giàu có được sản sinh ra thì sự khốn cùng cũng được sản
sinh ra; trong cùng những quan hệ ấy, có sự phát triển của lực lượng sản xuất thì
cũng có một lực lượng sản sinh ra áp bức; rằng những quan hệ ấy chỉ sản sinh ra sự
giàu có tư sản, nghĩa là sự giàu có của giai cấp tư sản, bằng cách không ngừng thủ
tiêu sự giàu có của những thành viên cấu thành của giai cấp ấy và bằng cách sản
sinh ra một giai cấp vô sản không ngừng tăng lên. Ðó là biểu hiện của sự thoái trào
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến sự phá sản tất yếu của nó, là
hậu quả tất yếu của phương thức sản xuất hiện đang tồn tại "những dấu hiệu chứng
tỏ rằng phương thức sản xuất đó bắt đầu tan rã" như Ăng-ghen dự báo.

Trên cơ sở thực tiễn ấy, Hồ Chí Minh đã rút ra nhận định: "Thời đại chủ
nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại của một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài
chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc". Chính nhóm nước lớn, do bọn tư bản
tài chính cầm đầu được xem là "thầy phù thủy" không kiểm soát nổi của chủ nghĩa
tư bản, đang tạo nên sự phá sản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi
một phương thức sản xuất mới thay thế. Ðó chỉ có thể là chủ nghĩa xã hội. Không
phải là ngẫu nhiên, trong sự vận động hình thành những ý niệm trong lòng chủ
nghĩa tư bản, cũng xuất hiện cả ý niệm về chủ nghĩa xã hội. Ðiều đó chứng minh

rằng, chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản.
Hiện nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo ra sức sản xuất mới đáng lẽ
phải có một chế độ xã hội mới cao hơn là chủ nghĩa xã hội tương ứng với nó,
nhưng xã hội mới đó lại chưa đủ mạnh để thay thế chủ nghĩa tư bản đã không còn
thích hợp nữa. Trong bối cảnh đó, nhân loại hướng về việc tìm kiếm một mô hình
về chủ nghĩa xã hội, dường như là điều tất yếu. Và, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội không chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với Việt Nam mà còn có ý nghĩa và
giá trị thời đại ở ngay cả các nước tư bản phát triển, dù cho quan niệm về chủ
nghĩa xã hội đang cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
3. Phát hiện quan trọng nữa của Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở những nước chưa phát triển như Việt Nam, không chỉ là đấu tranh giai cấp mà
trước hết và trên hết phải tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, làm sao cho
dân giàu, nước mạnh, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Ðó là con đường phấn đấu

pg. 7
lâu dài, gian khổ, liên tục trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và
xã hội, y tế và giáo dục.
4. Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trên nhiều
lĩnh vực khác về xây dựng con người và văn hóa Trong bối cảnh mới, tư tưởng
của Người mang ý nghĩa và giá trị mới.
Có thể nói, chưa bao giờ thế giới lại diễn ra nhiều nghịch lý như hiện nay.
Thế giới càng giàu lên thì sự phân hóa giàu nghèo càng trở nên sâu sắc. Chính
nghịch lý đó đang tạo ra những khủng hoảng về niềm tin, về tâm lý, dẫn đến nhiều
tệ nạn xã hội như một tất yếu ở các nước được xem là văn minh, vào chính con
người ở ngay các nước giàu có nhất. Trớ trêu thay, cái thế giới văn minh như đã
thấy khiến con người có đủ mọi thứ, thực hiện được mọi ước mơ mà trước kia chỉ
là huyền thoại lại vẫn có vô số sự bất công, vô số người mất lòng tin đã tìm đến cái
chết để trốn tránh cuộc đời. Trớ trêu thay, chính ở những nước có nền kinh tế phát
triển, có nhiều người là tỷ phú đô-la, lại nảy sinh hiện tượng khủng hoảng về lẽ
sống, phải tìm đến những cách sống xa lạ trái với tự nhiên. Phải chăng, đó cũng

chính là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức khi con người chỉ hướng vào "cái tôi"
thuần túy, chạy theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa nhân văn, về đạo đức mới đang có ý nghĩa định hướng cho
con người hành động, cho con người thấy hướng đi đúng đắn.
Không phải ngày nay chúng ta mới thấy được ý nghĩa và giá trị thời đại của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Từ rất lâu, nhân loại tiến bộ trên thế giới, nhất là những trí
thức lớn, những chính khách giàu lòng bác ái, đã từng ca ngợi và bày tỏ sự khâm
phục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhưng, có thể nói, trong bối
cảnh thế giới đang có những diễn biến phức tạp, đan xen những thời cơ và thử
thách, những tiêu cực và tích cực, những nghịch lý thì ý nghĩa và giá trị thời đại
của tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tỏa sáng hơn bao giờ hết.

II. Tư Tưởng HCM về tuổi trẻ với tình yêu đất nước trong bối cảnh
hiện nay.

Tuổi trẻ là sức mạng, là đội ngũ có vai trò ảnh hưởng rất lớn đến nước nhà. Hồ
Chí Minh đã cho thấy tầm quan trọng của thanh niên với tổ quốc, Thanh niên luôn
đóng vai trò quan trọng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Trần Quốc

pg. 8
Toản, Trần Nhật Duật, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, đều là những người chí lớn, tài cao,
lập công khi đang ở tuổi thanh niên. Hồ Chí Minh đã khái quát truyền thống đó
trong cuốn “Lịch sử nước ta”:
"Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời".
Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước độc lập, tiền đồ rạng rỡ của dân tộc
được mở ra trước mắt thế hệ trẻ. Trong điều kiện mới, Hồ Chí Minh khẳng định:
Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà nước nhà thịnh hay suy, yếu
hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây

dựng chủ nghĩa xã hội, Người đã nhìn thấy thanh niên là lực lượng nòng cốt để
xây dựng xã hội mới, bởi:
- Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ cách mạng đi trước
đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thiếu niên nhi đồng - thế hệ thanh niên
tương lai.
- Thanh niên là người xung phong vươn lên phía trước trong công cuộc phát
triển kinh tế, văn hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội;
- Thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và quân dân tự vệ,
đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ Tổ quốc;
- Trong mọi công việc, thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu: Đâu cần
thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm.
Hồ Chí Minh khẳng định: thanh niên có sứ mạng lịch sử vẻ vang đối với cách
mạng nước mình và cách mạng thế giới, đó là thanh niên trong giai cấp công

pg. 9
nhân, giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử, là
người xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Người cho
rằng: Thanh niên các nước đoàn kết với nhau, tin tưởng vào khả năng đấu
tranh của mình để giữ gìn hòa bình thế giới, thực hiện hợp tác cùng nhau để
xây dựng đời sống hạnh phúc tươi vui.
Bên cạnh việc khẳng định những ưu điểm của thanh niên, Hồ Chí Minh cũng
luôn chỉ ra những mặt yếu, những nhược điểm của họ, đó là sự thiếu từng trải trong
cuộc sống, một số chưa chịu khó học tập, mắc bệnh hình thức, bệnh cá nhân, tự
cao, tự đại Hồ Chí Minh chỉ rõ: phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu là con
đường để tự hoàn thiện nhân cách của thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương
lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải không ngừng rèn luyện tinh thần và lực
lượng cho mình, phải làm những việc chuẩn bị cái tương lai đó.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quán triệt
quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên, Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác thanh niên. Nghị quyết khẳng định: “Đảng ta tiếp
tục đề cao vai trò, vị trí quan trọng của thanh niên; xác định thanh niên là lực
lượng xung kích trong giai đoạn cách mạng mới”; “Thanh niên là rường cột
của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược
bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người”. Đồng thời nêu rõ “thanh
niên nước ta đang đứng trước những cơ hội, thuận lợi lớn, nhưng cũng phải
đương đầu với những khó khăn, thách thức không nhỏ…”.

Tháng 1 năm 1946, trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp tết
sắp đến, Bác Hồ kính yêu đã viết: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi
đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội"(4 - 167). Là một lãnh tụ vĩ đại,
có tầm nhìn xa trông rộng, hơn ai hết, Bác thấu hiểu vai trò vô cùng to lớn của tầng
lớp thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc bảo vệ, xây dựng, kiến

pg. 10
thiết nước nhà. Để phát huy vai trò và sức mạnh của tuổi trẻ thì phải tiến hành giáo
dục thanh niên một cách toàn diện và chu đáo. Do ý thức một cách sâu sắc về vấn
đề này nên trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã hết sức quan tâm dìu dắt thế hệ trẻ, dành cho họ một sự quan tâm thích
đáng. Trong đó, việc giáo dục tinh thần, truyền thống yêu nước là điều mà Người
đặc biệt chú ý. Ngay từ những ngày đầu bôn ba cứu nước, để giáo dục, thuyết phục
và tập hợp thanh niên, Người đã lập ra tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên cách
mạng. Trước lúc đi xa, trong "Di chúc" thiêng liêng, Người còn ân cần căn dặn:
"Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung
phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần
thiết"( 12 - 510).
Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người “vừa hồng, vừa
chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh
niên hành động, xác định các chuẩn mực cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các
tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên học tập và noi theo. Bên cạnh đó, sự
nỗ lực học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng của thanh niên theo tấm gương
Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây dựng thế hệ thanh niên thời kỳ mới.
Trong số những vấn đề cần giáo dục thanh niên, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu
vấn đề giáo dục tinh thần yêu nước. Trong năm điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng
thì điều thứ nhất là: "Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào"(10 - 356). Đối với thanh niên
Bác yêu cầu: "Trước hết phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, phải có tinh thần dân
tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn"(7 - 455). Tinh thần yêu nước, như
Bác đã khẳng định, là vốn quý, là sức mạnh tuyệt vời đã bao lần giúp dân tộc ta
đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã của lịch sử. Người viết: "Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"(6 - 171). Tinh thần yêu nước
được hun đúc từ bao đời đã trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam.
Ngày nay, trong thời đại Hồ Chí Minh, hơn bao giờ hết, tinh thần ấy cần được khơi
dậy một cách mạnh mẽ, cần được đề cao và phải tiếp tục tỏa sáng để đưa chúng ta
bước qua đói nghèo, tụt hậu. Việc nghiên cứu, tìm hiểu những tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề giáo dục tinh thần yêu nước cho thanh niên là việc làm đặc biệt
quan trọng trong bối cảnh hiện nay bởi lẽ nó sẽ góp phần quan trọng vào quá trình

pg. 11
thức tỉnh một bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên đang sống một cuộc sống thiếu
lý tưởng, thiếu niềm tin, thiếu lòng tự hào và kiêu hãnh dân tộc. Mặt khác, việc

nghiên cứu này sẽ chắp cánh, tiếp thêm nguồn sức mạnh, trí sáng tạo dạt dào cho
hàng triệu thanh niên đang ngày đêm chiến đấu, lao động, cống hiến trên mọi lĩnh
vực cho sự vững bền của đất nước, cho sự thăng hoa của dân tộc, cho dáng đứng
Việt Nam tạc sâu vào thiên niên kỷ.
Từ nỗi đau của một người thanh niên mất nước, Nguyễn ái Quốc đã sớm nhận
ra rằng nền giáo dục mà chế độ thực dân đế quốc dành cho thế hệ thanh niên bản
xứ chỉ là một nền giáo dục đồi bại, chỉ nhằm hướng tới và phục vụ cho lợi ích
chính quốc. "Trường học lập ra không phải để giáo dục thanh niên An Nam một
nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho
họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm"(1 - 399). Mục đích của nền giáo
dục thực dân phong kiến ở nước ta trong nửa đầu thế kỷ 20 chỉ là nhằm đào tạo ra
những kẻ tay sai giúp việc đắc lực cho chế độ cai trị. Nền giáo dục đó đặc biệt
tránh xa những tư tưởng yêu nước thương nòi, tinh thần dân tộc, dân chủ. Không
những thế, nền giáo dục đó còn mang tính chất xảo trá, lừa bịp, đánh lạc hướng
thanh niên Việt Nam. Hồ Chí Minh là người đầu tiên vạch trần điều đó một cách
sâu sắc, Người viết: "Người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và
nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng
mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ lòng "trung thực" giả dối, chỉ dạy
cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một tổ
quốc không phải tổ quốc mình và đang áp bức mình"(1 - 399). Có lẽ từ nỗi đau
đó mà người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã viết hàng loạt bài báo, tài liệu ra sức
tuyên truyền, cổ động tinh thần yêu nước, ý thức tự hào dân tộc của thanh niên
Việt Nam. Trong những năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người hiểu rõ tinh
thần yêu nước và ý chí, tinh thần dân tộc của thanh niên Trung Quốc và nhiều nước
khác. Người đã lấy những chi tiết, những mẩu chuyện sống động về thanh niên
nước ngoài để thức tỉnh thanh niên Việt Nam, thức tỉnh những người đang đắm
chìm trong cuộc sống hưởng lạc mà quên đi nỗi nhục mất nước, quên đi sự đau khổ
của đồng bào đang chịu cảnh áp bức bót lột nặng nề. Trong "Gửi thanh niên An
Nam", Người chỉ rõ: "Thanh niên ta cũng cần biết là hiện nay có hơn hai nghìn
thanh niên Trung Quốc trên đất Pháp và độ năm vạn ở châu Âu và châu Mỹ.

Hầu hết những thanh niên ấy đều đã tốt nghiệp Hán văn và tất cả đang là sinh
viên - công nhân. Còn chúng ta thì chúng ta có những sinh viên có học bổng và
những sinh viên thường, nhờ ơn nhà nước hay tiền của cha mẹ (hại thay hai cái
nguồn ấy lại không bao giờ cạn cả) mà đang dành một nửa thời gian vào các
việc chơi …bi-a, một nửa của nửa thì giờ còn lại để đến các chốn ăn chơi; số thì
giờ còn lại, mà ít khi còn lắm thì để vào các trường đại học hoặc trường trung
học. Những sinh viên - công nhân Trung quốc thì lại không có mục đích nào

pg. 12
khác hơn là nhằm thực sự chấn hưng nền kinh tế nước nhà…"(2 - 131). Những
dòng tâm huyết này được Bác viết ra hồi đầu thế kỷ 20 nhưng cho đến nay vẫn còn
tươi nguyên giá trị và mang những ý nghĩa thời sự nóng hổi. Chúng ta tuy đã giành
được độc lập tự do, đất nước hòa bình thống nhất song vẫn còn biết bao khó khăn
thử thách. Nghèo đói, tụt hậu đang là những nguy cơ lớn. Sự nghiệp chấn hưng đất
nước, đưa nền kinh tế nước ta phát triển ngang với những cường quốc lớn đang đòi
hỏi thế hệ trẻ ngày hôm nay những cống hiến, những hy sinh lớn lao mà nếu như
không có tình yêu quê hương đất nước thiết tha, không có lý tưởng sống cao đẹp
thì không thể nào làm được. Bên cạnh đó vấn đề tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức,
những thói hư tật xấu nảy sinh trong nền kinh tế thị trường cũng đòi hỏi người
thanh niên phải biết tôi luyện, giữ mình trong mọi hoàn cảnh. Họ phải trở thành
những con người có ý chí bền vững, có lòng dũng cảm gan dạ để vượt qua những
cám dỗ thấp kém. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà, vì vậy sự chuẩn bị cho vai trò làm chủ này phải hết sức cẩn thận,
chu đáo: "Nói chung thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn
thế phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa, trước hết phải rèn luyện và
thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa chủ nghĩa cá nhân…"(9 - 310 ).
Để làm tốt vai trò là người chủ nước nhà trong tương lai, rõ ràng là thế hệ trẻ
phải có tình yêu đất nước nồng nàn. Hơn ai hết, họ phải ý thức được một cách sâu
sắc vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối Tổ quốc, với đồng bào. Là những
người đang độ sức xuân, là mùa xuân của xã hội, nhiệm vụ của thanh thiếu niên

không chỉ là học tập, rèn luyện mà còn phải biết cống hiến và hy sinh. Trong bài
nói chuyện tại buổi lễ khai mạc Đại học nhân dân Việt Nam, Bác đã ân cần chỉ
bảo: "Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những
gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế nào cho ích
nước lợi nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu
chừng nào…"(7 - 455) . Lời nói của Bác tuy giản dị mà thật sâu sắc biết bao.
Ngày nay còn nhiều bạn trẻ đang mải mê theo đuổi những giá trị vật chất thấp kém,
tầm thường mà quên đi trách nhiệm, nghĩa vụ lớn lao của mình đối với Tổ quốc,
với non sông đất nước. Thói quen đua đòi, hưởng lạc, chạy theo những thói hư tật
xấu, những tệ nạn xã hội đang làm hư hỏng không ít một bộ phận thanh thiếu niên
trong cuộc sống hôm nay. Không những thế có những bạn trẻ còn cho rằng tình
yêu non sông đất nước là một cái gì đó quá trừu tượng, xa vời, không có ý nghĩa
thiết thực. Họ đang sa vào một cuộc sống thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không
có sự định hướng một cách đúng đắn. Không có lý tưởng cao cả để phấn đấu, cuộc
sống con người sẽ trở nên tẻ nhạt, tầm thường, thậm chí vô nghĩa. Có lẽ đây cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng những hiện tượng rất đáng lo
ngại trong giới trẻ ngày nay như đua xe máy, nghiện ngập ma túy…

pg. 13
Thực ra, tinh thần yêu nước, ý thức về vai trò trách nhiệm của tuổi trẻ đối với
Tổ quốc không phải là những điều gì đó quá xa xôi, trừu tượng mà ngược lại chúng
thật gần gũi, thật cụ thể trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tình yêu Tổ quốc
bắt nguồn một cách tự nhiên, giản dị từ tình yêu làng xóm, quê hương. Từ những
xúc cảm bồi hồi với cây đa, bến nước, sân đình, từ những rung động thiết tha với
lũy tre làng, với những mái nhà đơn sơ, với những con đường thân thuộc, tâm hồn
mỗi một chúng ta được nuôi dưỡng và hun đúc để rồi chúng ta nhận ra một cách
thật tự nhiên và chân thành rằng tất cả những điều đó chính là tình yêu Tổ quốc,
tình yêu đối với non sông, đất nước. Như trăm sông đổ về biển cả, tình yêu đó
ngày càng vững bền, đằm thắm. Trước đây, khi đất nước còn chiến tranh, người
thanh niên yêu nước là người có ý chí căm thù quân cướp nước, biết cầm súng lên

đường bảo vệ Tổ quốc, chiến đấu chống giặc ngoại xâm, góp phần hy sinh xương
máu cho đất nước sạch bóng quân thù. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, người
thanh niên yêu nước là người thanh niên biết đi đầu gương mẫu trong mọi việc.
Theo Bác Hồ: "Thanh niên phải có tinh thần gan dạ và sáng tạo, cần phải có chí
khí hăng hái và tinh thần tiến lên vượt mọi khó khăn gian khổ để tiến mãi
không ngừng"(7 - 455). Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, người thanh niên yêu
nước cũng phải sống xứng đáng với truyền thống vẻ vang của dân tộc. Trong
bối cảnh hội nhập và mở cửa hiện nay, đất nước đang đứng trước những thời
cơ và những thử thách lớn lao, hơn bao giờ hết, vai trò và trách nhiệm của
thanh niên, của tuổi trẻ lại càng vinh dự và nặng nề. Tương lai của đất nước,
của dân tộc đang nằm trong tay thế hệ trẻ. Chúng ta có thể sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không? Chúng ta có thể đi tắt, đón đầu thời đại
được hay không? Chúng ta có thể vượt ra khỏi đói nghèo, tụt hậu để trở thành
một quốc gia giàu có vững mạnh, phát triển về mọi mặt được hay không? Tất cả
đang trông chờ vào ý chí, nghị lực của tuổi trẻ, tất cả đang được quyết định bởi
những việc làm, những hành động cụ thể của tuổi trẻ hôm nay. Chúng ta không
thể quên lời căn dặn thiết tha của Bác Hồ: "Thanh niên ta có vinh dự to thì
càng có trách nhiệm lớn. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta phải nâng cao
tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân"(10 - 489).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thanh niên yêu nước là người thanh niên
sống có ý chí, bản lĩnh cao, biết vượt qua mọi khó khăn thử thách để luôn xung
phong, gương mẫu trong mọi công việc, mọi nhiệm vụ. Không những thế, người
thanh niên yêu nước phải biết rèn luyện, xây dựng cho mình những phẩm chất đạo
đức cách mạng cao quý, luôn biết sống hết mình vì Tổ quốc, vì nhân dân. Người
kêu gọi: "Thanh niên ta tích cực xung phong cố làm tròn nhiệm vụ đầu tàu
trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hóa, quốc phòng, thực hiện khẩu hiệu
đâu cần thanh niên có,đâu khó có thanh niên”(11-225). .
Để giáo dục tinh thần yêu nước cho tuổi trẻ, Bác Hồ rất chú trọng tới vai trò của

pg. 14

nhà trường, của ngành giáo dục - đào tạo. Có thể nói trường học là nơi thuận lợi
nhất để giáo dục thanh niên trên mọi phương diện. Nhà trường là nơi tuổi trẻ tiếp
thu những tri thức, những kinh nghiệm để chuẩn bị bước vào đời. Nhà trường là
môi trường để tuổi trẻ trau dồi đạo đức, ý chí, luyện rèn những phẩm chất cần thiết
cho một tương lai tươi sáng. Trong tác phẩm "Đời sống mới", Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh vai trò của nhà trường trong chế độ mới: "Cốt nhất là phải dạy học trò
biết yêu nước, thương nòi, phải dạy cho họ ý chí tự lập tự cường, quyết không
chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ"(5 - 102).
Bên cạnh trường học, tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng có
vai trò quan trọng không kém. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chính là
một tổ chức cách mạng do Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, rèn
luyện. Đây là đội ngũ của những người thanh niên Việt Nam ưu tú. Trong suốt quá
trình cách mạng Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã có những
đóng góp lớn lao, đã góp phần cùng dân tộc lập nên những chiến công chói lọi,
vang dội địa cầu. Đây vừa là tổ chức, vừa là môi trường cho người thanh niên yêu
nước rèn luyện và cống hiến. Trong suốt cuộc đời của mình, Bác Hồ kính yêu đã
dành cho tổ chức này những tình cảm đặc biệt quý mến. Đoàn là tổ chức của thanh
niên, của tuổi trẻ, vì vậy "Trung ương Đoàn cần phải tăng cường hơn nữa việc giáo
dục tinh thần yêu nước, giác ngộ đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh
niên"(11 - 318). Trong bối cảnh ngày nay, lời nhắc nhủ đó của Bác lại càng có ý
nghĩa hơn bao giờ hết.
Những thế hệ cha anh đi trước đã hy sinh biết bao xương máu cho độc lập tự do,
cho Tổ quốc được hòa bình thống nhất, cho lãnh thổ Việt Nam được vẹn toàn.
Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh trường kỳ chống đế quốc Pháp và đế quốc
Mỹ, nhân dân Việt Nam, thanh niên Việt Nam đã nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí
kiên cường bất khuất, thà hy sinh đến giọt máu cuối cùng chứ nhất định không chịu
làm người dân mất nước, nhất định không chịu sống cuộc đời nô lệ. Con người
Việt Nam vĩ đại nhất, tiêu biểu nhất cho tinh thần đó, cho ý chí đó chính là Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Là nhà ái quốc vĩ đại, cuộc đời cao cả của Bác chính là tấm
gương sáng ngời cho thế hệ trẻ hôm nay noi theo và học tập. Ngay từ khi còn là

thanh niên, Bác đã bôn ba tìm đường cứu nước. Chính tinh thần yêu nước sáng
ngời đã tôi luyện nên ý chí sắt thép giúp cho người thanh niên Nguyễn Tất Thành
vượt lên tất cả mọi khó khăn thử thách, mọi mất mát hy sinh để tìm ra con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc, để lãnh đạo nhân dân ta đi đến những thắng lợi vinh
quang. Việc giáo dục tinh thần yêu nước cho tuổi trẻ thông qua những tấm gương
cách mạng sáng ngời là một vấn đề hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh là người rất
thấu hiểu điều này và Người đã từng nhắc nhở: "Có số thanh niên tưởng xây
dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay là trên trời rơi xuống, không biết sự gian nan
cực khổ cũ. Các đồng chí già phải kể lại cho họ nghe. Đó là một cách giáo dục

pg. 15
thanh niên"(10 - 468). Đối với những tấm gương anh hùng cách mạng, với những
chiến công của các anh hùng dũng sỹ đã lập nên trong công cuộc cứu nước và giữ
nước, Bác căn dặn: "Chúng ta phải ghi chép và thường nhắc lại những sự tích
ấy…. để giáo dục thanh niên ta rèn luyện một ý chí kiên quyết quật cường, một
tâm lý quả cảm xung phong, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của Tổ quốc"(7 -
387). Người thanh niên yêu nước phải là con người uống nước nhớ nguồn, ăn quả
nhớ kẻ trồng cây. Đạo lý này đã trở nên một lẽ sống quý báu của dân tộc ta và đã
được lưu giữ từ nghìn đời nay. Với những anh hùng liệt sỹ đã cống hiến máu
xương mình cho Tổ quốc chúng ta phải đời đời ghi nhớ công ơn của họ. Trong "Di
chúc" để lại cho đồng bào cả nước, Bác ghi rõ: "Đối với các liệt sỹ, mỗi địa
phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm ghi sự
hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho
nhân dân ta"(12 - 503).
Những tư tưởng quý báu trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi tỏa
sáng trong suốt hành trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh thời đại
và quốc tế ngày nay, những tư tưởng đó lại càng có giá trị hơn bao giờ hết. Học
tập, thấm nhuần và quán triệt một cách sâu sắc những chân lý đó sẽ giúp chúng ta
có thêm niềm tin và sức mạnh để sống, lao động, chiến đấu, và cống hiến theo
gương Bác Hồ vĩ đại.


III. Tư tưởng HCM trong đổi mới chỉnh đốn đảng hiện nay.


1.Về tư tưởng của Người.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, lý luận cách mạng có vai trò hết sức quan
trọng đối với Đảng Cộng sản và sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
 Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh" người viết năm 1927, Khi nói về nội
dung Kách Mệnh trước hết phải có cái gì người đã khẳng định: "Trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng
có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không
có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam".

pg. 16
 Trong Di chúc viết năm 1968 công bố 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
rõ: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta
đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
 Thế nhưng năm 1947, khi Đảng mới nắm chính quyền được 2 năm và đang
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong
điều kiện vô cùng khó khăn ác liệt và thiếu thốn về vật chất… nhưng Bác đã
cảnh báo về những dấu hiệu “chớm bệnh” của Đảng cầm quyền: “Vào
Đảng không phải để làm quan, phát tài…; phải chống bệnh chủ quan,
hẹp hòi, quan liêu, mệnh lệnh, ép buộc… thói ba hoa sáo rỗng, xa rời
thực tế, tham lam, lãng phí, cục bộ gia đình, địa phương trong công tác

cán bộ…”.
 Có thể nói, tác phẩm này giống như một “bệnh án” và “đơn thuốc” điều
trị. Hơn 20 năm sau, trong di chúc viết 1968 công bố 1969 Bác lại nhắc:
Sau chiến thắng “Theo ý tôi, việc phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại
Đảng làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm
tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân
dân.Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng
ta cũng nhất định thắng lợi”.
 Khi nói về quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Hồ Chí Minh coi việc
nhận thức và thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ
bản và quan trọng nhất. Tập trung trong Đảng có nghĩa là thiểu số phải phục
tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, tất cả đảng viên phải phục
tùng nghị quyết của Đảng. Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi,
“phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của
mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị
Đại hội Đảng cho thật tốt”. Người coi tập trung và dân chủ là sự thống nhất
biện chứng, tập trung không đối lập và tách rời dân chủ và ngược lại. Tập
trung dân chủ, trong quan niệm của Người, còn là tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Hồ Chí Minh khẳng định phê bình và tự phê bình là quy luật phát
triển Đảng, là “thang thuốc hay nhất” để Đảng ngày càng phát triển. Mục
đích của phê bình và tự phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến
bộ, để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, tăng cường sức mạnh
đoàn kết, thống nhất trong Đảng .

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá

pg. 17
trình thống nhất biện chứng, tác động qua lại với nhau, mặt này lấy mặt kia
làm điều kiện, tiền đề của nhau. Trong xây dựng có chỉnh đốn, chỉnh đốn về
thực chất là xây dựng. Chỉnh đốn Đảng là nâng tầm năng lực của mỗi đảng

viên, mỗi chi bộ để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ mới.
Muốn chỉnh đốn Đảng thì trước hết “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư”, giữ gìn Đảng thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh
đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Chỉnh đốn Đảng “Là một
cuộc đấu tranh chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những
cái mới mẻ, tốt tươi”. Để việc chỉnh đốn lại Đảng có kết quả, Đảng “Cần
phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng
vĩ đại của toàn dân”.


2.Về việc chỉnh đốn Đảng hiện nay.

 Đầu năm 2012, Nghị quyết Trung ương 4 một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng đã thừa nhận: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể
cả một số cán bộ cao cấp…, suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý
tưởng, ích kỷ, cơ hội, chạy theo danh lợi, địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng
phí, tùy tiện, vô nguyên tắc; công tác xây dựng Đảng còn yếu kém, kéo
dài nhiều nhiệm kỳ, nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với
vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”.
 Dường như tất cả những “căn bệnh” mà Bác nhắc đến từ năm 1947 lại hiện
lên đầy đủ trong Nghị quyết Trung ương 4. Không những thế, chúng còn
liên kết thành “một bộ phận không nhỏ” và có thể “thách thức vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Nói cách khác, những dự
cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc và
trong Di chúc đã được chứng minh bằng nhận định của Nghị quyết Trung
ương 4.
 Di chúc của Bác Hồ là ánh sáng soi đường cho sự phát triển của đất nước
nên nhân dân đang kỳ vọng Nghị quyết Trung ương 4 của Đảng còn có thể
dùng ánh sáng đó để xóa đi những “vùng tối và những góc khuất” mà

“một bộ phận không nhỏ…” đang ẩn nấp.

pg. 18
 Hiện nay, sự nghiệp đổi mới của Đảng ta Yêu cầu của công tác đổi mới,
chỉnh đốn Đảng đã và đang đặt ra một cách cấp thiết phải nghiên cứu, quán
triệt sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng muốn vững thì phải
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt. Trước hết, cần thực hiện tốt những vấn đề
cơ bản sau:
1. Một là, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tích cực học tập, nghiên cứu nắm
vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa phương và đơn
vị. Bởi lẽ, nếu không nắm được bản chất cách mạng và khoa học, không
nắm chắc nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng thì không những người cán bộ,
đảng viên không làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng mà còn không
lý giải được một cách thuyết phục những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt
ra. Do đó, không có cơ sở khoa học để đấu tranh có hiệu quả chống các
quan điểm sai trái phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng. Một nội dung quan trọng trong
xây dựng chỉnh đốn Đảng, theo Hồ Chí Minh, là xây dựng đội ngũ đảng
viên. Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều nội dung, nhưng toát lên những nội
dung bản chất nhất: Một, đảng viên phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý t-
ưởng của Đảng. Quá trình phấn đấu đó là bền bỉ, liên tục. Hai, đảng viên
phải luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, tr-
ước hết, biết hy sinh lợi ích của cá nhân mình để bảo đảm lợi ích cho
Đảng. Ba, đảng viên phải có đời tư trong sáng, là một tấm gương mẫu mực
để mọi người noi theo.
2. Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên
truyền giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho nó

giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của Đảng và toàn xã hội. Cần
căn cứ vào đường lối, quan điểm của Đảng, Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn
của cấp trên và tình hình thực tiễn của địa phương, nhà trường và đơn vị để
xác định rõ nội dung, hình thức và phương pháp tiến hành tổ chức nghiên
cứu, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với
từng đối tượng.Nội dung tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống và
chuyên sâu gắn với tình hình thực tiễn. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc đổi
mới hình thức, phương pháp tiến hành công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin, đại chúng, các lực lượng
chuyên trách để tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, tạo nên một phong trào học

pg. 19
tập sâu, rộng trong Đảng và toàn xã hội. Kiên quyết loại bỏ những biểu hiện
tư tưởng, tâm lý "thờ ơ" trước những vấn đề chính trị, lười học tập, lười suy
nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin và hiểu biết mới trong
cán bộ, đảng viên.
3. Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, tiếp tục
làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề bức xúc do thực tiễn đổi mới, chỉnh đốn
Đảng đặt ra. Trước hết, cần nghiên cứu sâu thêm vấn đề đảng viên làm kinh
tế tư nhân; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về Đảng cầm
quyền và công tác xây dựng Đảng; làm rõ hơn mô hình và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nghiên cứu, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm
của các nước vào công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế.
4. Bốn là, đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận, xuyên
tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm
của Đảng. Để đấu tranh đạt hiệu quả, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục
những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

đường lối, quan điểm của Đảng, đưa những tư tưởng đó thành hiện thực
trong cuộc sống nhằm nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Đó là cách tốt nhất để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước
sự công kích của các thế lực thù địch và sự xuyên tạc của các phần tử phản
động.


Phần “ Tư cách của Đảng chân chính cách mạng” có giá trị trong bối cảnh
hiện nay.

1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành
phải luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và
kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị
đó có đúng hay không.
5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng
luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần,
kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.

pg. 20
6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với
dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng
mà cũng không học được dân chúng.
• Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến
của dân chúng.
7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo

dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát.
• Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách
thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của
dân chúng.
8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng
phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán
bộ và đảng viên.
9. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ
thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra ngoài.
11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới.
• Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí.
• Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với
Đảng.
12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã
thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời
nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng.
Năm thực hành lớn, tiêu biểu của Người đang được Đảng ta vận dụng trong
đổi mới hiện nay:
+ Thực hành lý luận trong thực tiễn và tổng kết thực tiễn để nâng lên thành lý luận
(thực tiễn hóa lý luận đi liền với lý luận hóa thực tiễn).
+ Thực hành dân chủ trong Đảng, trong Nhà nước và trong xã hội
+ Thực hành dân vận và công tác dân vận
+ Thực hành đoàn kết và đại đoàn kết, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong dân và
đoàn kết quốc tế
+ Thực hành đạo đức cách mạng, suốt đời chống CNCN, tuyệt đối không vướng
vào vòng danh và lợi, ở ngoài vòng danh, lợi. Đây là thực hành lớn nhất, xuyên
suốt, bao trùm và nổi bật trong mọi thực hành của Hồ Chí Minh. Cần triệt để khai

pg. 21

thác phần thực tiễn quý giá này trong di sản của Người trong công cuộc đổi mới,
trong xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Để giáo dục cán bộ, đảng viên Bác đề cao việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.
Trong di chúc Người căn dặn "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư". Người nói một cách ngắn gọn rằng Cần, tức là siêng
năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai; Kiệm là "tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang
phí, không bừa bãi. Cần với kiệm đi đôi với nhau như hai chân của một người. Cần
mà không kiệm thì làm chừng nào xào chừng ấy, cũng như một cái thùng không
đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. Kiệm
mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Theo Người: "tiết
kiệm không phải là bủn xỉn". Khi không nên tiêu xài thì một đồng cũng không
nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao
nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Tuy
nhiên để thực hiện tiết kiệm phải kiên quyết với những việc làm xa xỉ, như kéo dài
thời gian lao động không cần thiết, làm hao phí vật liệu trong sản xuất, luôn tìm
cách ăn ngon, mặc đẹp trong lúc đồng bào còn khó khăn, thiếu thốn.
Liêm, là trong sạch, không tham lam; không tham địa vị, không tham tiền tài,
không tham sung sướng. không tham người tâng bốc mình. Liêm phải đi đôi với
kiệm, bởi có kiệm mới có liêm. Tham lam là một điều rất xấu hổ. Những hành
động bất liêm điều phải dùng pháp luật để trừng trị, dù đó là người nào, giữ cương
vị gì, làm nghề gì.
Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Và như người xưa đã nói: Ai cũng tham lợi,

thì nước sẽ nguy. Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Một người phải

pg. 22
cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới là hoàn toàn. Chính đối với mình là
không tự cao, tự đại, luôn luôn chịu khó học tập, cầu tiến, phát triển điều hay và
sửa chữa khuyết điểm của mình. Đối với người dân phải yêu quý, kính trọng, giúp
đỡ, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới. Phải để việc nước, việc
công lên trên việc tư, việc nhà. Công việc dù to hay nhỏ điều phải cố gắng hoàn
thành. Phải luôn nhớ "Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ
mấy cũng tránh". Chí công vô tư là "khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau", "Phải lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ". Người nói: “ Cán bộ cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ.
Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm nếu có dịp là đục khoét, có dịp là
ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư".
Lời nói phải đi đôi với việc làm, nói được, làm được sẽ mang lại thành công, được
nhiều người hưởng ứng và làm theo. Nếu chính mình tham ô mà bảo người khác
liêm khiết thì không được. Nếu nói rằng phải cần kiệm liêm chính, mà bản thân
mình lại lười lao động, lười học tập, không hoàn thành những công việc được giao,
không tiết kiệm, sống hoang phí, xa hoa, luôn tìm cách tham ô, bòn rút tiền của nhà
nước và nhân dân, tâm không trong sáng thì sẽ không hiệu quả và không có tính
thuyết phục. Thực hành tốt cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ rèn luyện, làm
cho con người có những phẩm chất tốt, như "Giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục".
Bản thân Bác là một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân, về cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Sinh thời Bác sống rất giản dị, từ cách ăn mặc
cho đến những sinh hoạt hằng ngày, ngay cả khi người đã là Chủ tịch nước, tác
phong vẫn rất giản dị và tiết kiệm. Có một lần Bác nói với một lãnh đạo cấp cao
của Đảng một cách chân tình: "Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo
vá vai thế này là cái phúc của dân đấy". Những lời nói, việc làm, của Bác về cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là

tấm gương của Bác về thực hành cần, kiệm, liêm, chính, vẫn mãi mãi để chúng ta
học tập.
Hiện nay không ít cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những cán bộ có chức, có quyền
vẫn chưa nói và làm đúng những lời dạy của Bác. Nạn tham nhũng, hối lộ, lãng phí
của công, quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân ngày càng nhiều. Các vụ
án kinh tế gần đây cho thấy đó là những cán bộ, đảng viên bị sa sút về đạo đức và
tha hóa về lối sống. Họ đã làm giảm sút lòng tin, uy tín của đảng trước nhân dân.
Thực hành tốt những lời dạy của Bác là chúng ta góp phần cũng cố lòng tin của
nhân dân vào Đảng và chính quyền cách mạng. Góp phần thực hiện mục tiêu "Dân

pg. 23
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh" trong bối cảnh hiện
nay.

IV. Thanh niên học tập và làm theo tấm gương đao đức HCM với
nhận thức tư tưởng HCM trong bối cảnh ngày nay.

1. Yêu cầu về tư cách của thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Với ba nội dung chủ yếu nhất sau đây có tính bao quát toàn bộ các mặt của nó mà
chủ tịch Hồ Chí Minh hay nêu:
Một là, đoàn viên, thanh niên phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của
Đảng, của dân tộc. Đó chính là mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Xuất phát từ đó mà Lý Tự Trọng đã từng nói: “Con đường của thanh niên
chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác!”.
Bác luôn mong lớp lớp thanh niên sau này sẽ không chùn bước trước những khó
khăn trước mắt, luôn vững chí bền tâm vượt qua thử thách để hướng tới tương lai
tốt đẹp hơn. “Không có việc gì khó; Chỉ sợ lòng không bền; Đào núi và lắp biển;
Quyết chí ắt làm nên”.
Paven Copsagine trong tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy”: "Cái quí nhất của con
người là cuộc sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót

xa ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng
ti tiện và đớn hèn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay, mà có thể nói rằng:
Tất cả đời mình ta đã cống hiến cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp
đấu tranh giải phóng loài người. Và ta phải sống gấp lên mới được. Vì bệnh tật
vô lý hay một sự bi đát tình cờ nào đó có thể bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời này".
Hai là, người đoàn viên, thanh niên phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên
trên hết và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc thì Đảng không
có lợi ích gì khác. Cho nên, Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân
để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân.
Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề ra nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng.

pg. 24
Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích
tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”.
Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa cá
nhân là một thứ vi trùng rất độc, do đó mà nó sinh ra các thứ bệnh rất nguy
hiểm như: Bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh,
bệnh thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc thực dụng, óc lãnh tụ. Chủ nghĩa cá nhân việc
gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi
người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích cá
nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ, đoàn viên, thanh niên là phù hợp với lợi
ích của Đảng, của cách mạng.
Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích của Đảng, nhưng
cũng có lúc không, vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu gặp khi lợi ích
chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy
sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình
cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng”; đoàn viên, thanh niên “phải đặt lợi ích
của Đảng lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đoàn
viên, thanh niên phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau.

Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”.
Ba là, người đoàn viên, thanh niên phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm
gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với nhiều
danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm
gương sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan tỏa, thẩm thấu trong suốt
chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong
các thế hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu đoàn viên, thanh niên không
có một đời tư trong sáng thì sẽ không thuyết phục, vận động được nhân dân trong
các phong trào cách mạng. Người đoàn viên, thanh niên, ngoài việc phải hoàn
thành tốt công việc chung của Đảng đã được phân công, lại phải còn là một thành
viên tốt của gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài
xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung quanh trong cùng
bản làng, phum, sóc, thôn xóm…
2. Yêu cầu về phẩm chất, năng lực của thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Trước hết, đoàn viên, thanh niên phải có đạo đức cách mạng. Đây là yêu cầu
“gốc”, “nguồn” đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu. Đây cũng chính là quan
điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ cách mạng.
Không ít lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ chức

pg. 25
để làm quan phát tài”, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm quan
cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng quan tiến
chức”, không phải như dưới thời thực dân phong kiến “một người làm quan cả họ
được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời
thực dân, phong kiến”,…Người đoàn viên, thanh niên phải tận tụy với sự nghiệp
cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Trung thành ở
đây trước hết đòi hỏi đoàn viên, thanh niên phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ của mình được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và kể cả khi thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không

kiêu căng, chủ quan, tự mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không hoang
mang, dao động; “vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi”; phải
luôn luôn có ý thức và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với
cách mạng là phải hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc
gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng
hết sức tránh.
Hai là, về năng lực, đoàn viên, thanh niên phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân
dân. Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài
yêu cầu về việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn,
còn có việc phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi.
Không như thế thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết
định của đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên giấy.
Cán bộ, đoàn viên, thanh niên phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là
yêu cầu đối với cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng nhưng trong thời kỳ Đảng
cầm quyền càng đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán
bộ, đảng viên bằng hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân
kính, dân phục; đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu
dân, kính dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại
cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa
là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ, đoàn viên, thanh niên phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi
mặt. Học suốt đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi; học, học nữa và học
mãi,…đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào trong cuộc sống
của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên.

×