Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất tiêu thụ Hồ tiêu trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.62 KB, 118 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuân Lộc là huyện nông thôn, miền núi của tỉnh Đồng Nai với diện tích
tự nhiên là 72.719,48 ha, chiếm 12,4% diện tích toàn tỉnh. Huyện Xuân Lộc có
15 đơn vị hành chính, trong đó có 14 xã và 01 thị trấn với 91 khu, ấp được chia
thành 1.238 tổ nhân dân, dân số trên 228 ngàn người, chiếm 9,0% dân số tỉnh
Đồng Nai.
Trong 20 năm xây dựng và phát triển vừa qua, kinh tế huyện Xuân Lộc đã
thay đổi đáng kể, tăng trưởng GDP với tốc độ cao, đạt bình quân 12,3% / năm,
trong đó giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình quân 16,61%; cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông lâm nghiệp với tỷ trọng các khu
vực là: 40,1% - 25,9% - 34%.
Sản xuất nông, lâm nghiệp được phát triển toàn diện theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp gắn kết với việc xây dựng nông thôn mới,
góp phần nâng cao đời sống của nông dân và dân cư trên địa bàn.
Điều kiện tự nhiên của huyện Xuân Lộc có khí hậu pha và đất nâu đỏ trên
đá bazan (25 ngàn ha) rất thích hợp để phát triển các loại cây công nghiệp dài,
ngắn ngày, cây thực phẩm, cây ăn trái có giá trị kinh tế cao, trong đó có hồ tiêu.
Tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm trên địa bàn huyện đến năm 2011
là 19.618 ha, trong đó diện tích cây cà phê là 1.105 ha; cây Cao su là 3.900 ha;
cây Điều là 13.256 ha; Cây Tiêu là 1.246 ha.
Cây Tiêu là một trong 04 cây công nghiệp lâu năm cho sản phẩm xuất
khẩu có giá trị cao của huyện Xuân Lộc, chiếm tỷ trọng 29,46% trong tổng giá
trị cây công nghiệp lâu năm trên địa bàn huyện Xuân Lộc, sản lượng trung bình
đạt 3.226 tấn/năm. Những năm gần đây diện tích trồng Hồ tiêu trong nhân dân
không ngừng tăng do mang lại thu nhập cao hơn so với các cây trồng khác như
Cao su, Cà phê, Điều trên cùng đơn vị ha diện tích đất canh tác.
2
Tuy nhiên, phát triển cây tiêu còn mang tính manh mún, phân tán, chưa
theo quy hoạch; người trồng tiêu chưa tiếp cận đầy đủ các chính sách hỗ trợ của


Nhà nước đối với sản xuất và tiêu thụ hồ tiêu đã triển khai trên địa bàn; thu nhập
của nông dân chưa tương xứng với công sức bỏ ra và chưa hưởng lợi đầy đủ lợi
ích tạo ra trong toàn bộ chuỗi giá trị hồ tiêu trên địa bàn huyện.
Trong tiêu thụ, nông dân thường bán sản phẩm dưới dạng hồ tiêu tươi cho
người thu gom ngay sau khi thu hoạch khi cần tiền gấp, giá bán thấp nên thu
nhập không cao. Đại bộ phận nông dân phải bán sản phẩm tươi ngay sau thu
hoạch cho thương lái, một bộ phận nhỏ hộ nông dân tự vận chuyển và bán hồ
tiêu trực tiếp cho Doanh nghiệp thương mại trên địa bàn huyện với giá cao hơn
và được thanh toán ngay tiền và một bộ phận tự phơi, sấy khô để bảo quản và
bán ra vào các thời điểm có giá cao hơn.
Để phát triển được cây hồ tiêu theo lợi thế tự nhiên ở huyện Xuân Lộc,
UBND tỉnh Đồng Nai và UBND huyện Xuân Lộc cần có chính sách tốt hơn,
phù hợp hơn để hỗ trợ có hiệu quả nông dân trong sản xuất tiêu nhằm góp phần
tạo công ăn việc làm, nâng cao mức thu nhập và giảm nghèo trên địa bàn huyện,
làm tiền đề thúc đẩy các ngành dịch vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến
phát triển, tăng thu ngân sách cho nhà nước.
Với vị trí là cán bộ phụ trách nông nghiệp thuộc UBND huyện Xuân Lộc,
trước tình hình bức thiết trên đây tôi chọn đề tài “Thực trạng và kiến nghị hoàn
thiện chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu trên địa bàn
huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của
mình với hy vọng kết quả nghiên cứu luận văn sẽ tạo căn cứ để kiến nghị với
UBND huyện Xuân Lộc một số chính sách, giải pháp hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ
hồ tiêu trong những năm tới nhằm nâng cao thu nhập của người sản xuất và tạo
ra sự phát triển bền vững hồ tiêu những năm tới.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Đánh giá thực trạng triển khai chính sách hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ Hồ
tiêu của nông dân trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai và đề xuất kiến
nghị hoàn thiện.

2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của chính sách hỗ trợ nông dân trong
sản xuất, tiêu thụ Hồ Tiêu;
- Đánh giá thực trạng triển khai chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất,
tiêu thụ Hồ tiêu trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2009 –
2011; xác định những bất cập, hạn chế trong triển khai và khả năng hoàn thiện
chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu trên địa bàn huyện;
- Kiến nghị các nội dung hoàn thiện chính sách hỗ trợ nông dân trong sản
xuất,tiêu thụ Hồ tiêu trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu trên địa
bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: 03 năm 2009 – 2011.
- Phạm vi không gian: huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
- Phạm vi về nội dung: Cơ sở lý luận, thực tiễn; Thực trạng triển khai và
kiến nghị hoàn thiện chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu
trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
4
4.1. Phương pháp chọn địa điểm và đối tượng nghiên cứu
Chọn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai làm địa bàn nghiên cứu do huyện
Xuân Lộc là nơi tác giả đề tài sinh sống và công tác, tác giả sẽ thuận lợi trong
quá trình khảo sát, điều tra để thu tập số liệu thứ cấp và sơ cấp để phục vụ
nghiên cứu đề tài. Đồng thời huyện Xuân Lộc là huyện nông thôn miền núi, có
tốc độ phát triển nông nghiệp cao, tỷ lệ % đóng góp vào GDP của huyện khá
cao.
4.2. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp

+ Tham khảo và kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có dưới các hình thức
đề tài, bài viết khoa học; các văn bản chính sách và báo cáo tổng kết về chính
sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản nói chung và Hồ tiêu nói
riêng trên thế giới và ở Việt Nam.
+ Kế thừa các báo cáo Kinh tế - Xã hội huyện Xuân Lộc để đánh giá kết
quả sản xuất Hồ tiêu trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai trong 03 năm
2009-2011.
+ Sử dụng các báo cáo đánh giá tình hình triển khai chính sách hỗ trợ
nông dân trong sản xuất và tiêu thụ Hồ tiêu trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh
Đồng Nai trong 3 năm 2009-2011.
+ Sử dụng các văn bản về chính sách hỗ trợ nông dân sản xuất, tiêu thụ
Hồ tiêu của tỉnh Đồng Nai (Quyết định số 2419/QĐ-UBND ngày 26/9/2011 của
UBND tỉnh Đồng Nai); Các văn bản triển khai chính sách hỗ trợ nông dân sản
xuất, tiêu thụ hồ tiêu của UBND huyện Xuân Lộc, Phòng Nông nghiệp và PTNT
huyện Xuân Lộc.
4.3. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
+ Điều tra trực tiếp 130 hộ nông dân sản xuất Hồ tiêu trên địa bàn huyện
Xuân Lộc qua bảng câu hỏi, trong đó có 60 hộ được hưởng chính sách hỗ trợ (30
hộ hưởng chính sách hỗ trợ trồng mới, 30 hộ hưởng chính sách hỗ trợ thâm
5
canh) và 70 hộ không được hưởng chính sách để làm đối chứng; Chia thành 4
nhóm hộ theo tiêu chí giàu nghèo: Nhóm hộ nghèo, Nhóm hộ trung bình, Nhóm
hộ khá, Nhóm hộ giàu để phân tích, đánh giá.
+ Phỏng vấn, trao đổi với 10 cá nhân là thương lái thu mua gom (bao
gồm cả thương lái chuyên nghiệp và thương lái thời vụ) tiêu thụ Hồ tiêu trên địa
bàn huyện.
4.4. Phương pháp chuyên gia
+ Thảo luận với một số cán bộ quản lý nhà nước cấp huyện về chính
sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu đã triển khai trên địa bàn huyện và định
hướng giải pháp hoàn thiện chính sách (Cán bộ phụ trách trồng trọt-Phòng Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Xuân Lộc);
+ Khảo cứu ý kiến cán bộ, nhân viên trực tiếp triển khai chính sách hỗ
trợ nông dân trong sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu trên địa bàn huyện Xuân Lộc để
nắm được thực trạng của công tác triển khai chính sách (Cán bộ Phòng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Xuân Lộc; Cán bộ phụ trách Nông nghiệp
các xã và đại diện người đứng đầu UBND các xã thuộc 4 vùng quy hoạch phát
triển Hồ Tiêu: Xã Xuân Bắc, xã Xuân Thọ, xã Xuân Trường, xã Suối Cao, xã
Suối Cát, xã Xuân Hiệp, xã Lang Minh và Thị trấn Gia Ray).
4.5. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu và đánh giá chính sách hỗ trợ
- Sử dụng Microsoft Office Excel để xử lý các số liệu thu thập được.
- Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để phân tích chi phí, giá thành sản
xuất và hiệu quả của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu;
- Sử dụng phương pháp phân tích chi phí - lợi ích để đánh giá lợi ích của
hộ nông dân trước và sau khi được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước;
- Sử dụng phương pháp so sánh và đo lường phản ứng của hộ nông dân để
đánh giá ảnh hưởng của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu, cụ thể:
6
i). So sánh ảnh hưởng của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ Hồ tiêu
trong trường hợp có hỗ trợ và không hỗ trợ;
ii). So sánh mức hỗ trợ (giá trị của chính sách hỗ trợ) với kết quả sản xuất
của nông dân trong trường hợp được hưởng chính sách hỗ trợ;
iii). Phân tích phản ứng của hộ nông dân về nội dung của chính sách hỗ
trợ sản xuất, tiêu thụ hồ tiêu.
4.6. Chỉ tiêu sử dụng trong nghiên cứu đề tài
- Chi phí sản xuất 01 ha của nhóm hộ nông dân được hưởng chính sách hỗ
trợ trồng mới so với chi phí sản xuất 01 ha chính nhóm hộ đó trước khi được
hưởng chính sách hỗ trợ;
- Chi phí sản xuất 01 ha của nhóm hộ nông dân được hưởng chính sách hỗ
trợ thâm canh so với chi phí sản xuất 01 ha chính nhóm hộ đó trước khi được
hưởng chính sách hỗ trợ;

- Gía thành sản xuất 01 kg tiêu của nhóm hộ nông dân được hưởng chính
sách hỗ trợ trồng mới so với gía thành sản xuất 01 kg tiêu chính nhóm hộ đó
trước khi được hưởng chính sách hỗ trợ;
- Gía thành sản xuất 01 kg tiêu của nhóm hộ nông dân được hưởng chính
sách hỗ trợ thâm canh so với gía thành sản xuất 01 kg tiêu chính nhóm hộ đó
trước khi được hưởng chính sách hỗ trợ;
- Thu nhập bình quân 01 ha của nhóm hộ nông dân được hưởng chính sách
hỗ trợ trồng mới so với Thu nhập bình quân 01 ha chính nhóm hộ đó trước khi
được hưởng chính sách hỗ trợ;
- Thu nhập bình quân 01 ha của nhóm hộ nông dân được hưởng chính sách
hỗ trợ thâm canh so với Thu nhập bình quân 01 ha chính nhóm hộ đó trước khi
được hưởng chính sách hỗ trợ;
- Thu nhập tăng thêm bình quân 01 ha của nhóm hộ nông dân sau khi được
hưởng chính sách hỗ trợ trồng mới;
7
- Thu nhập tăng thêm bình quân 01 ha của nhóm hộ nông dân sau khi được
hưởng chính sách hỗ trợ thâm canh.
5. Nội dung chính của luận văn
i. Một số vấn đề về cơ sở lý luận, thực tiễn của chính sách hỗ trợ nông dân
trong sản xuất, tiêu thụ hồ tiêu.
ii. Nội dung và thực trạng triển khai chính sách hỗ trợ nông dân trong sản
xuất, tiêu thụ hồ tiêu trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
iii. Kiến nghị hoàn thiện chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất, tiêu
thụ Hồ tiêu trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai nhằm nâng cao thu
nhập cho hộ nông dân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, kết
cấu luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý luận về chính sách
hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản.

- Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu (huyện Xuân Lộc, Đồng Nai).
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu.
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ SẢN XUẤT, TIÊU THỤ NÔNG SẢN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn tác giả đã khảo cứu một số tài liệu
nghiên cứu về chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp trong điều kiện Việt Nam
gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã được công bố trong thời gian
qua và thu được kết quả như sau:
i). Nghiên cứu của Dự án thương mại Đa biên giai đoạn 2 đã chỉ ra rằng
“Trong khi phải dỡ bỏ nhiều trợ cấp trái với qui định của WTO đối với nông
nghiệp, Việt Nam đang tự kìm hãm cơ hội tận dụng những chính sách hỗ trợ cho
ngành này mà WTO cho phép”. Theo đó, hiện nay hầu hết chính sách hỗ trợ
trong nước đều thuộc Hộp xanh lá cây và xanh da trời (không thuộc nhóm bị
cấm) nên vẫn có thể tiếp tục duy trì song song với việc chuyển dần một số biện
pháp hỗ trợ thuộc Hộp Hổ phách (bị cấm) sang hai loại trên.
Tổng mức hỗ trợ gộp (AMS) hiện nay chiếm khoảng 3,4% tổng giá trị sản
lượng nông nghiệp, là mức thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu được phép theo
qui định WTO là 10% giá trị sản lượng. Nhiều chính sách không bị cấm nhưng
chưa được sử dụng như trợ cấp điều chỉnh cơ cấu và trợ cấp để rút các nguồn lực
ra khỏi sản xuất nông nghiệp, chi trả trực tiếp cho người sản xuất thay vì hỗ trợ
trực tiếp cho các hoạt động xuất khẩu
1
. Điểm quan trọng mà nghiên cứu này đã
chỉ ra là, Việt Nam còn nhiều cơ hội sử dụng các biện pháp thuộc Hộp xanh lá
cây (gồm các chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước không gây bóp méo thương
1
Tham khảo báo cáo “Các chính sách thương mại trong nông nghiệp và các nghĩa vụ WTO về nông

nghiệp của Việt Nam”, Antonio Cordella, MUTRAP, 2007.
9
mại) và Hộp xanh da trời (bao gồm các biện pháp đầu tư phát triển trong ngành
nông nghiệp, được phép áp dụng) để triển khai các biện pháp hỗ trợ sản xuất
trong nước theo mục tiêu mà Chính phủ lựa chọn.
Trước đây, Việt Nam đã dành phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách để
hỗ trợ sản xuất nông nghiệp thuộc Hộp xanh lá cây, đó là các khoản đầu tư vào
xây dựng, phát triển hạ tầng thuỷ lợi; một phần nhỏ cho khuyến nông; hỗ trợ
phát triển vùng và dự trữ lương thực quốc gia; hỗ trợ xóa đói giảm nghèo và
những hộ trợ khác, nhưng vẫn chưa vượt quá mức cho phép đối với các biện
pháp hỗ trợ gộp, với tổng hỗ trợ gộp (AMS) chưa vượt quá 10% giá trị sản
lượng nông nghiệp hàng năm.
Nhóm các biện pháp hỗ trợ thuộc “Hộp Xanh lá cây” bao gồm rất nhiều
biện pháp hỗ trợ được phép sử dụng như đã nói trên mà Việt Nam cần và có thể
tiếp tục áp dụng
2
. Như vậy, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục chính sách hỗ trợ sản
xuất nông nghiệp trong điều kiện thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó có cam
kết WTO.
ii). Đề tài “Nghiên cứu các giải pháp, chính sách bảo hộ sản xuất nông
nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế và quy định của WTO” của
Ths. Huỳnh Thị Liên Hoa (2011) đã khẳng định
2
: Việc thực hiện các cam kết
của WTO theo hướng cắt giảm thuế loại bỏ hàng rào phi thuế và cắt giảm các
khoản trợ cấp cho nông nghiệp sẽ ảnh hưởng đến thương mại và cung cầu một
số ngành hàng nông sản của Việt Nam, tạo cơ hội cho hàng hoá của các nước
xuất khẩu nông sản thâm nhập thị trường Việt Nam với giá rẻ hơn, chất lượng
cao, mẫu mã đẹp gây sức ép cạnh tranh lên các ngành hàng nông sản nội địa. Do
vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và các giải pháp thực hiện

hỗ trợ cho nông nghiệp trong nước một cách hợp lý vừa đảm bảo tính khả thi,
2
. Ths. Huỳnh Thị Liên Hoa, Đề tài khoa học cấp bộ “ Nghiên cứu các giải pháp, chính sách bảo hộ sản xuất
nông nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế và quy định của WTO; Viện Quy hoạch và Thiết kế
nông nghiệp, Hà Nội 2011 đã nghiệm thu
10
phù hợp với điều kiện của Việt Nam, vừa đảm bảo không sai với các quy định
của quốc tế và WTO là hết sức cần thiết và cấp bách.
Việc hỗ trợ không phải chỉ là tạo ra những rào cản ngăn chặn sự xâm nhập
của hàng hoá nước ngoài vào trong nước, hoặc trợ cấp dưới mọi hình thức cho
sản xuất nông nghiệp mà quan trọng hơn là những phương thức bảo hộ đó phải
đạt được mục tiêu phân bổ nguồn lực hợp lý hướng tới nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế. Điều này
cũng có nghĩa là không nên hỗ trợ cho những ngành sản xuất yếu kém, không có
khả năng phát triển và không thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị
trường.
iii). Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ, Bộ Nông nghiệp và PTNT
năm 2010 về: “Nghiên cứu cơ sở khoa học để đề xuất chính sách bù đắp thu
nhập cho những hộ sản xuất lúa trong vùng lúa chuyên canh nhằm đảm bảo an
ninh lương thực Quốc gia”; Chủ nhiệm TS. Phạm Bảo Dương đã chỉ rằng:
Thể chế và chính sách là một trong những nhân tố tác động có ảnh hưởng
trực tiếp đến thu nhập của hộ sản xuất lúa. Một chính sách tốt, phù hợp có thể
kích thích sản xuất lúa phát triển, đảm bảo được an ninh lương thực và ngược
lại. Nguyên tắc là, các khoản hỗ trợ cho người trồng lúa có thể chuyển giao trực
tiếp đến tay họ.
Một vấn đề cần đặc biệt quan tâm trong quá trình cung cấp các hỗ trợ đó
là các khoản hỗ trợ của Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu thông qua các doanh
nghiệp thu mua kinh doanh nông sản, nên khi Chính phủ muốn hỗ trợ nông dân
thường phải dựa vào hệ thống doanh nghiệp làm trung gian và người nông dân
chỉ là đối tượng thụ hưởng gián tiếp. Tuy nhiên, hình thức này bị cấm trong

WTO, đây là điều rất cần phải lưu ý trong quá trình nghiên cứu áp dụng các biện
pháp hỗ trợ cho nông nghiệp Việt Nam vì về lâu dài hỗ trợ cho nông nghiệp,
nông dân vẫn rất cần và phải triển khai trong thực tế, lý do vì nông dân vẫn là
11
người nghèo và chịu thiệt thòi nhất trong xã hội phát triển như hiện nay. Nếu
được xây dựng và thực hiện một cách hợp lí thì chính sách hỗ trợ không những
không vi phạm các cam kết với WTO mà còn có thể giúp Việt Nam đạt được các
mục tiêu khác về xã hội và nhân văn, vì hiện tại Việt Nam vẫn có tới gần 80%
dân số đang trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới các hoạt động sản xuất nông
nghiệp.
Báo cáo còn chỉ ra rằng, cần hỗ trợ vốn để người sản xuất ứng dụng
KH&CN mới vào sản xuất lúa, từ đó người sản xuất lúa được hưởng lợi về: Các
dịch vụ khuyến nông, dịch vụ chuyển giao KH&CN, kết quả sẽ phục vụ cho việc
nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng lúa gạo, từ đó gia tăng khả năng sản
xuất lúa hàng hóa chất lượng cao với quy trình canh tác mới, đây là biện pháp
gián tiếp giúp nông dân trồng lúa ở các vùng chuyên canh nâng cao thu nhập.
Biện pháp hỗ trợ này không vi phạm các quy định về hỗ trợ trong nước của Hiệp
định Nông nghiệp. Biện pháp này hiện đã và đang được Việt Nam áp dụng mạnh
mẽ nhằm tạo điều kiện cho nông dân trong sản xuất đặc biệt là về kiến thức, kĩ
thuật, kĩ năng để nâng cao năng suất, sản lượng và qua đó nâng cao được thu
nhập cho người sản xuất. Tuy nhiên, chính sách này cần được tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện để nâng cao hiệu quả của chính sách, mang lại lợi ích nhiều hơn và
thiết thực hơn cho người nông dân nói chung.
Báo cáo nhấn mạnh, chính sách hỗ trợ người sản xuất lúa gạo cần tập
trung phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại vùng quy hoạch trồng lúa, đây là biện
pháp gián tiếp bù đắp thu nhập cho người sản xuất lúa tốt nhất, thông qua việc
Nhà nước đầu tư phát triển hệ thống thuỷ lợi, các loại hạ tầng phục vụ làm khô
lúa trên đồng ruộng, hạ tầng sơ chế và kho cất giữ sản phẩm… những hạ tầng
này sẽ giúp nông dân sản xuất lúa giảm chi phí, giảm thiệt hại, từ đó cải thiện thu
nhập cho họ, giúp họ phát triển sản xuất lúa bền vững lâu dài. Ngoài ra chính

12
sách này hỗ trợ có thể giúp nông dân hình thành các trung tâm mua bán lúa gạo
để tạo ra mạng lưới lưu thông lúa gạo với chi phí thấp nhất.
iv). Báo cáo kết quả nghiên cứu cơ sở khoa học để đề xuất chính sách bù
đắp thu nhập cho những hộ sản xuất lúa trong vùng lúa chuyên canh nhằm đảm
bảo an ninh lương thực Quốc gia”, Chủ nhiệm TS. Phạm Bảo Dương: “Ngoài
một số hình thức bị cấm, các hình thức trợ cấp còn lại là rất đa dạng theo quy
định của WTO có thể vận dụng cho thực tế của Việt Nam. Vấn đề là chọn loại
nào, hỗ trợ "gốc" để tạo ra tính bền vững hay hỗ trợ "ngọn" chỉ tạo ra lợi ích
thời điểm (tình thế) không mang tính lâu dài thì cần suy tính để áp dụng có lợi
nhất cho nông dân. Bên cạnh đó cần xác định, chính sách áp dụng cho ai, mức
độ là bao nhiêu, trong thời gian bao lâu để vừa thúc đẩy được sản xuất, không
tạo ra sự ỉ lại và nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn ngành sản
phẩm mà chính sách tác động” (Hội nông dân VN, 2008).
Từ khảo cứu các nghiên cứu trên, Luận văn cho rằng việc nghiên cứu cơ
sở khoa học và thực tiễn của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ hồ tiêu, nhằm
kiến nghị với chính quyền tỉnh Đồng Nai và huyện Xuân Lộc hoàn thiện chính
sách hỗ trợ phát triển hồ tiêu trong những năm tới là cần thiết và có ý nghĩa thực
tiễn to lớn, nâng cao các giải pháp phát triển nông nghiệp nói chung và ngành
sản phẩm hồ tiêu nói riêng trong phạm vi khả năng ngân sách và tài chính của
tỉnh, huyện và trong điều kiện vẫn không vi phạm quy định của WTO về hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp, nhằm mục đích nâng cao thu nhập cho nông dân và năng
lực cạnh tranh của sản phẩm Hồ tiêu trên thị trường trong nước và phục vụ mục
tiêu xuất khẩu, đúng theo chủ trương phát triển nông nghiệp của tỉnh và huyện.
1.2. Cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm về chính sách, chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản.
1.2.1.1. Khái niệm về chính sách.
Cụm từ “Chính sách” đã được dùng phổ biến trong các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, chưa có định nghĩa tổng quát và đầy đủ về cụm
từ này và do có nhiều cách tiếp cận và mức độ phản ánh của chính sách, tùy theo

13
quy mô và phạm vi tác động của từng loại chính sách. Trong bối cảnh đó, cách
hiểu tổng quát là, chính sách là: “Quá trình tác động của một chủ thể vào khách
thể nào đó để đạt tới mục tiêu mà chủ thể mong muốn”
Nhà kinh tế Franc Ellis cho rằng “trên tầm vĩ mô, chính sách được xem
như đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với quản lý nhà nước về
một lĩnh vực nào đó, có thể là kinh tế, xã hội và môi trường”
3
.
Học giả Samuelson cho rằng “Ngay cả khi Chính phủ không đưa ra một
chính sách cụ thể nào trong bối cảnh bất đắc dĩ nào đó để thực hiện mục đích
nào đó, thì đó cũng là một cách tác động của chính sách”
4
.
Từ điển Tiếng Việt (1988) định nghĩa [1]: “Chính sách là những sách
lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối
chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra”.
Nguyễn Như Ý giải nghĩa cụm từ “chính sách” trong Đại từ điển Tiếng
Việt (1999) [2] là: “Các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một
chính phủ trong các lĩnh vực chính trị, xã hội”.
Theo Jones (1984) thì chính sách luôn gồm các yếu tố bao gồm:
- Dự định: Là mong muốn của người làm (hoạch định) chính sách.
- Mục tiêu: Dự định đã tuyên bố và cụ thể hóa thành đích cần đạt tới.
- Đề xuất giải pháp: Cách thức tác động để nhằm đạt được mục tiêu.
- Quyết định lựa chọn giải pháp: Các giải pháp chính sách cụ thể được lựa
chọn để triển khai thực hiện.
Theo Đinh Dũng Sỹ (2008) thì, khái niệm chính sách có mối tương quan
rất mật thiết với chính trị và pháp luật, bao gồm các khía cạnh:
- Là sự cụ thể hóa đường lối chính trị của Nhà nước.
- Là cơ sở để chế định pháp luật. Pháp luật là cụ thể hóa chính sách.

3
Franc Ellis (1995), Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển, Nhà xuất bản Nông
nghiệp, trang 23.
4
Paul Samuelson, Kinh tế học, Viện kinh tế học, Bộ Ngoại giao, tập I, trang 117.
14
Theo PGS.TS. Lê Chi Mai, “Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ
một chuỗi các quyết định của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang
đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định”. Theo đó, chính
sách do một hay nhiều cấp quản lý khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành
và thực thi trong thực tiễn một thời gian nhất định.
TS. Chu Tiến Quang định nghĩa: “chính sách là tập hợp các chủ trương,
quan điểm, giải pháp, công cụ nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Quá trình
hình thành chính sách có sự tác động của nhiều yếu tố, trước hết là sự nảy sinh
một vấn đề kinh tế - xã hội nào đó cần giải quyết. Trên cơ sở thực tiễn hiện tại
của vấn đề và mong muốn đạt tới một thực tiễn tốt hơn, Chính phủ đặt ra mục
tiêu, đưa ra giải pháp và công cụ để thực hiện chủ trương đã định”
5
.
Trong cấu thành của chính sách có chủ thể chính sách và khách thể chính
sách. Chủ thể chính sách là các cơ quan ban hành và thực hiện chính sách gồm
Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các Bộ ngành. Khách thể chính sách hay đối tượng
điều chỉnh của chính sách là những cá nhân, tổ chức, Doanh nghiệp, hộ gia đình
mà chính sách tác động vào.
Để triển khai một chính sách nào đó, chủ thể chính sách tác động đến
khách thể bằng các biện pháp tạo sức hấp dẫn, tạo động lực trong các đối tượng
nói trên nhằm khuyến khích họ làm theo mục tiêu, định hướng mà chủ thể chính
sách đưa ra, từ đó đạt được kết quả mong đợi. Trong trường hợp không khuyến
khích thì chủ thể chính sách có thể đưa ra các biện pháp ngăn chặn, các biện
pháp làm giảm hoặc mất động lực của đối tượng điều chỉnh để các đối tượng này

hạn chế hành vi theo mong muốn của chủ thể chính sách
6

Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt đưa định nghĩa về
chính sách như sau: “Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về
5
TS. Chu Tiến Quang, Giáo trình xây dựng và phân tích chính sách Nông nghiệp, nông thôn, trang 6.
[1], [2], Từ điển Tiếng Việt (1988), (1999).
6
TS. Chu Tiến Quang, Giáo trình xây dựng và phân tích chính sách Nông nghiệp, nông thôn, trang 6.
15
phương diện nào đó của Chính phủ. Nó bao gồm các mục tiêu mà Chính phủ
muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này
bao gồm sự phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội - môi
trường”
7

Tóm lại: Trên cơ sở khảo cứu các kết quả nghiên cứu đề tài tổng hợp lại
như sau: “Chính sách là một trong các công cụ của quản lý, là tập hợp các chủ
trương, quan điểm, giải pháp, công cụ mà một chủ thể sử dụng để tác động lên
khách thể (đối tượng điều chỉnh của chính sách) nhằm đạt tới mục tiêu nhất định.
Chính sách đề cập rất rộng các giải pháp tác động đối tượng của hệ thống kinh tế
- xã hội, có phạm vi rộng từ cấp độ vĩ mô đến vi mô”. Có nhiều loại chính sách
khác nhau tùy theo mục tiêu và đối tượng điều chỉnh, có thể là: kinh tế, xã hội, vĩ
mô, vi mô, trong nước, ngoài nước
Quá trình hình thành và vận hành chính sách luôn liên quan đến ba nhóm
yếu tố: chủ thể; khách thể; mục tiêu, đối tượng điều chỉnh, nội dung, công cụ,
nguồn lực và bộ máy thực hiện các nội dung của chính sách để đạt tới mục tiêu
đề ra hoặc một vấn đề kinh tế - xã hội nào đó cần giải quyết.
1.2.1.2. Khái niệm Chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản.

Từ khái niệm về “chính sách” nêu trên thì: “Chính sách hỗ trợ sản xuất,
tiêu thụ nông sản” là tập hợp các giải pháp, công cụ mà Nhà nước được sử dụng
để hỗ trợ quá trình sản xuất, tiêu thụ nông sản. Mục đích của chính sách hỗ trợ
sản xuất, tiêu thụ nông sản là nâng cao năng lực của nông dân, người sản xuất ,
chế biến nông sản trong sản xuất, tiêu thụ; nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa nông sản và nâng cao giá trị kinh tế trên mỗi đơn vị ha đất canh tác,
cuối cùng là tăng thu nhập cho người nông dân.
- Chủ thể của chính sách hỗ trợ là Nhà nước bao gồm Chính phủ, Chính
quyền địa phương các cấp (tỉnh, huyện, xã);
7
Từ điển Bách khoa toàn thư, />16
- Đối tượng hưởng điều chỉnh (hưởng lợi) của chính sách: là nông dân,
các tổ chức kinh tế trực tiếp tham gia vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản;
- Mục tiêu của chính sách hỗ trợ giảm khó khăn, cản trở và nâng cao hiệu
quả sản xuất, tiêu thụ nông sản, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm
nông sản, trên cơ sở đó nâng cao thu nhập và đời sống nông dân và cộng đồng
của họ
8
.
- Công cụ của chính sách hỗ trợ: là các biện pháp hỗ trợ về kinh tế, tài
chính; hướng dẫn, tư vấn kỹ thuật; đào tạo; các biện pháp hỗ trợ khác.
1.2.2. Sự cần thiết và yêu cầu đối với chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp.
1.2.2.1. Sự cần thiết của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản.
- Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp tác động
làm thay đổi, điều chỉnh hành vi của hộ nông dân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp,
cá nhân, nhằm đạt được mục tiêu cùng gia tăng sản xuất theo định hướng nào đó
trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, nhiều hộ nông dân
cùng tham gia, mỗi hộ có những điều kiện chủ quan và năng lực sản xuất khác
nhau, rất khó tạo ra sản xuất quy mô lớn, tính đồng đều cao.

- Mặt khác, khi bước vào sản xuất hàng hóa nông dân sản xuất quy mô
không tự tiêu thụ sản phẩm làm ra mà phải nhờ tới hệ thống các nhà buôn và tổ
chức kinh tế chuyên thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản do nông dân làm ra.
Bối cảnh này đặt ra yêu cầu phải có sự tác động từ phía chính sách nhà nước để
thúc đẩy sự gắn kết, hợp tác giữa nông dân với các thương lái, doanh nghiệp
trong sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản làm ra.
- Hơn nữa, tồn tại một bộ phận hộ nông dân nghèo, không đủ năng lực
tham gia sản xuất hàng hóa cùng với các hộ khác nên Nhà nước phải thực hiện
8
TS. Chu Tiến Quang, Giáo trình xây dựng và phân tích chính sách Nông nghiệp, nông thôn, trang 7.
17
chính sách hỗ trợ những hộ này để họ có thể tham gia sản xuất hàng hóa cùng
với những hộ khác trong cộng đồng.
Như vậy, đối với một nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, nhiều hộ nông dân
cùng tham gia, bắt đầu bước vào sản xuất hàng hóa thì chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đối với người sản xuất và người tiêu thụ nông sản là cần thiết.
1.2.2.2. Yêu cầu đối với chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản.
Chính sách hỗ trợ phải phù hợp với tình hình thực tế của sản xuất, khả
năng tài chính có thể huy động và phù hợp với thông lệ Quốc tế trong bối cảnh
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Chính Sách hỗ trợ phải tạo ra sự thay đổi của sản xuất, tiêu thụ nông sản
theo hướng tích cực, nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của
sản phẩm.
1.2.3. Các loại hình chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản.
Sự tác động của chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ
làm thay đổi hành vi của các tác nhân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản và thúc
đẩy chúng phát triển theo định hướng do Nhà nước đưa ra. Do vậy, loại hình
chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản là đa dạng, thay đổi theo điều kiện
đặc thù ở mỗi giai đoạn phát triển của sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.
Theo Tiến sĩ Chu Tiến Quang: Có thể phân biệt các loại hình chính sách

hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản như sau:
1.2.3.1. Theo phương thức tác động của chính sách, có:
- Chính sách hỗ trợ trực tiếp: Nhà nước sử dụng các nguồn lực của mình
để tác động trực tiếp vào người nông dân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản như
hỗ trợ về giống, vật tư, phân bón, hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật hoặc dưới
dạng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ do Nhà nước chủ động tổ chức ra và cung cấp
toàn bộ hoặc một phần kinh phí (dịch vụ công) để tạo sức hấp dẫn, khuyến khích
18
các thành phần bỏ vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, từ đó trực tiếp tác động
tạo ra động lực đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của họ.
- Chính sách hỗ trợ gián tiếp: Nhà nước áp dụng các giải pháp mang
tính khuyến khích, thúc đẩy nông dân tham gia phát triển sản xuất, tiêu thụ nông
sản như: Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường giao thông, hệ thống điện phục
vụ sản xuất, chế biến nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
các thành phần kinh tế khi bỏ vốn tham gia. Đối với lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, nông thôn các giải pháp can thiệp gián tiếp là cần thiết và huy động được
nguồn lực của toàn xã hội vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn.
1.2.3.2. Theo phân khúc của quá trình sản xuất nông nghiệp có các loại hình
chính sách hỗ trợ sau:
- Chính sách hỗ trợ đầu vào của sản xuất: Đối tượng hưởng lợi của
chính sách này là tổ chức và cá nhân được cung ứng các đầu vào cho sản xuất
nông nghiệp với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi ban đầu và thúc đẩy các tác
nhân này tham gia tích cực vào quá trình sản xuất tiếp theo;
- Chính sách hỗ trợ trong sản xuất: Đối tượng hưởng lợi của chính sách
là cá nhân, tổ chức tham gia vào sản xuất nông nghiệp. Đối tượng hưởng lợi
nhận được các hỗ trợ từ Nhà nước về kỹ thuật, phương thức sản xuất…từ đó họ
sản xuất hiệu quả hơn và tạo ra sản phẩm nông nghiệp có sức cạnh tranh cao
hơn. Các chế độ hỗ trợ của chính sách có thể khác nhau tùy thuộc vào đối tượng
và hoạt động sản xuất mà họ đang tiến hành;
- Chính sách hỗ trợ đầu ra của sản xuất: Đối tượng hưởng lợi của chính

sách này là các cá nhân, tổ chức tham gia vào khâu thu mua, chế biến và tiêu thụ
sản phẩm do hộ nông dân và các đơn vị sản xuất trong nông nghiệp làm ra,
nhưng không tự tiêu được. Mục tiêu của chính sách hỗ trợ đầu ra là thúc đẩy các
cá nhân, tổ chức thu mua gom, chế biến và tiêu thụ sản phẩm mở rộng thị
19
trường, gắn kết với người nông dân để tạo tiêu thụ nông sản nhanh nhất và hiệu
quả nhất.
1.2.4. Vai trò của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản
Ở mỗi Quốc gia, Chính phủ luôn đưa ra chủ trương, đường lối phát triển
kinh tế - xã hội trong ngắn hạn và dài hạn để thực hiện quản lý, điều hành nền
kinh tế.
Lịch sử phát triển loài người đến nay đã chứng minh rằng, Chính phủ sẽ
không thể điều hành nền kinh tế nếu không đưa ra chủ trương, chính sách đối
với phát triển nền kinh tế và đối với phát triển của từng ngành, lĩnh vực kinh tế.
Chính sách đưa ra phù hợp với điều kiện thực tiễn thì kinh tế phát triển, ngược
lại nếu chính sách không phù hợp thì mục tiêu đề ra không đạt được, đồng thời
xã hội bị đình trệ, không phát triển hay nói cách khác là chính sách không thành
công.
Với ý nghĩa đó, chính sách có vai trò rất to lớn đối với công tác quản lý
kinh tế và xã hội của Chính phủ và đặc biệt quan trọng đối với công tác điều
hành, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng, mục tiêu đề ra.
Đối với khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, chính sách của nhà nước lại
càng có vai trò quan trọng, vì khu vực này thường bao gồm những người nghèo,
vùng nghèo và các ngành kinh tế chưa phát triển. Muốn phát triển được cần phải
có chính sách hỗ trợ của nhà nước, có nghĩa là Chính phủ cần ban hành nhiều
chính sách có mục tiêu tạo ra động lực nhằm thúc đẩy khu vực này phát triển
ngang bằng với các khu vực khác của nền kinh tế.
Theo Tiến sĩ Chu Tiến Quang
9
, chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông

sản có những vai trò sau:

9
TS. Chu Tiến Quang “Giáo trình Xây dựng và phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn”; Trang 7.
20
1.2.4.1. Là công cụ để Nhà nước tác động vào các đối tượng hoạt động trong
sản xuất, tiêu thụ nông sản.
- Đối tượng của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản là nông dân,
những người thu mua nông sản, các doanh nghiệp chế biến và các tổ chức tiêu
thụ nông sản tới người tiêu dùng cuối cùng;
- Đặc điểm cơ bản của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản là tác
động tới các đối tượng hộ nông dân quy mô nhỏ, phân tán; những người thu mua
nông sản đa dạng về khả năng và tính chất tham gia; các doanh nghiệp và tổ
chức tiêu thụ nông sản cũng rất đa dạng, khác biệt về quy mô, công nghệ, khả
năng tiếp cận thị trường tiêu thụ;
- Chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản phải tác động đồng thời
vào các đối tượng trên để định hướng cho hoạt động của các đối tượng cùng
hướng tới lợi ích chung do quá trình sản xuất, tiêu thụ nông sản tạo ra. Sự lựa
chọn chính sách của Chính phủ đối với các đối tượng trên phải phù hợp với lợi
ích và điều kiện tiếp nhận của họ, từ đó mới có thể thúc đẩy và tạo động lực ở
từng nhóm đối tượng để cùng đạt tới mục tiêu mong muốn;
1.2.4.2. Là công cụ để Nhà nước thúc đẩy các đối tượng sản xuất, tiêu thụ nông
sản cùng tham gia thực hiện quy hoạch phát triển các ngành sản phẩm trong
nông nghiệp do Nhà nước xác định.
- Vai trò này thể hiện quyền lực đồng thời là nghĩa vụ của Nhà nước trong
việc đưa ra quy hoạch phát triển các ngành sản phẩm trong nông nghiệp theo các
vùng sinh thái. Đi theo quy hoạc này là kế hoạch phát triển hạ tầng, nguồn nhân
lực, KHCN, thị trường để đáp ứng cho nhu cầu của thực hiện quy hoạch phát
triển ngành sản phẩm nông sản đã được phê duyệt;
- Đồng thời để thực hiện quy hoạch phát triển ngành sản phẩm nông sản,

Nhà nước ban hành các chính sách tạo động lực để định hướng các hộ gia đình,
các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế cùng tham gia triển khai và thực hiện. Khi
21
đó chính sách đóng vai trò là công cụ dẫn dắt, định hướng cho các đối tượng này
thực hiện quy hoạch.
Nếu quy hoạch phát triển nông nghiệp đã được phệ duyệt mà không có
chính sách đi kèm để thúc đẩy và định hướng các đối tượng trong quy hoạch thì
quy hoạch đó sẽ khó hoặc không thể triển khai theo những nội dung đã quy định.
1.2.4.3. Là công cụ để thúc đẩy sự gắn kết hộ nông dân, các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế cùng hợp tác để sản xuất, tiêu thụ nông sản.
- Sản xuất và tiêu thụ nông sản thường liên quan đến nhiều hộ nông dân,
các đơn vị kinh tế khác nhau trên một địa bàn. Đặc điểm này càng thể hiện rõ đối
với những nước như Việt Nam với số lượng hộ nông dân đông, nhiều doanh
nghiệp quy mô nhỏ tham gia kinh doanh nông nghiệp.
Trong điều kiện trên đây, yêu cầu hợp tác và liên kết giữa các đối tượng
khác nhau cùng tham gia sản xuất, tiêu thụ một nông sản nào đó là khách quan
và vô cùng quan trọng. Nhà nước có vai trò thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa hộ
nông dân với nhau và các tổ chức kinh tế khác thì Nhà nước phải có chính sách
để định hướng và tạo sự hấp dẫn của quá trình này.
Tóm lại, vai trò của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản như đã
trình bày trên đây có thể khái quát như sau:
- Thực hiện quy hoạch sản xuất nông nghiệp;
- Thúc đẩy phát triển sản xuất, tiêu thụ nông sản làm ra theo tín hiệu của
thị trường;
- Thúc đẩy ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chế biến, tiêu thụ;
- Thúc đẩy hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp theo vùng sinh thái;
- Thực hiện sản xuất phù hợp với tiêu chuẩn GAP (VietGAP,
GLOBALGAP) do Chính phủ và quốc tế ban hành;
22
- Định hướng hình thành mối liên kết giữa tổ chức sản xuất nông nghiệp

với quy mô phù hợp, tạo ra sản lượng nông sản lớn với chất lượng đồng đều,
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm nông sản;
1.2.5. Sự cần thiết của chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ nông sản điều kiện
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO.
- Các nghiên cứu trong nước đã chỉ ra rằng, trong hội nhập kinh tế quốc
tế, nông nghiệp Việt Nam đã giành được một vị thế cao trên thị trường quốc tế
và thu được những thành tựu to lớn.
Tuy nhiên, hiện nay nông nghiệp Việt Nam đang phải đương đầu với một
số thách thức lớn, đó là nông sản có năng lực cạnh tranh thấp và gia tăng các loại
rủi ro khách quan và chủ quan.
10
Bên cạnh đó, khung pháp lý của Việt Nam về
cơ sở hạ tầng, dịch vụ (như giao thông vận tải, quảng cáo, kho bãi, bảo hiểm,
ngân hàng, thông tin và hậu cần) phục vụ sản xuất, tiêu thụ nông sản còn nhiều
hạn chế và thiếu sự găn kết, hợp tác giữa các khâu, công đoạn của chuỗi giá trị
sản phẩm nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của thị trường hội nhập thành công vào
nền kinh tế toàn cầu. (Mutrap II-2007).
- Trước khi gia nhập WTO, Việt Nam có mức thuế quan nông sản nhập
khẩu ở mức trung bình, hỗ trợ sản xuất trong nước ở mức thấp và trợ cấp xuất
khẩu ở mức tối thiểu. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều sản phẩm
nông nghiệp nhập khẩu giá rẻ nhập khẩu, gây ra thâm hụt cán cân thương mại,
giảm thu nhập và gia tăng tỷ lệ hộ nông dân mất việc làm do không tiêu thụ
được nông sản làm ra. "Làm sao trợ lực cho hơn 10 triệu nông dân nghèo sản
xuất nhỏ lẻ, manh mún sang nền nông nghiệp quy mô lớn, mở rộng hợp tác?
Làm sao để đảm bảo 70% người lao động nông thôn không bị bỏ rơi trong quá
trình công nghiệp hoá? Người nông dân và ngành nông nghiệp đang trông đợi
10
Rủi ro khách quan là thiên tai, môi trường, dich bệnh, thị trường; rủi ro chủ quan là trình độ,
nhận thức thấp kém của nông dân và người sản xuất nông nghiệp.
23

vào sự hỗ trợ của Nhà nước" rất nhiều
11
.
Vì những lẽ trên đây, Chính phủ Việt Nam một mặt phải nghiêm túc thực
hiện những cam kết đã ký, mặt khác phải có những chính sách, biện pháp bảo hộ
sản xuất, tiêu thụ nông sản hợp với thông lệ quốc tế nhằm đảm bảo cho ngành
nông nghiệp phát triển ổn định và vững chắc. Trên cơ sở đó tạo đà cho nông sản
Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu rộng và đủ mạnh để cạnh tranh trên thị
trường thế giới và nội địa.
- Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quy định 2 bộ tiêu chuẩn về trợ
cấp: một bộ áp dụng cho nông sản đề cập trong Hiệp định Nông nghiệp và một
bộ áp dụng cho sản phẩm thương mại nói chung, được quy định trong Hiệp định
về trợ cấp và biện pháp đối kháng.
- Khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết sẽ xoá bỏ các loại trợ cấp cho
hoạt động xuất khẩu như: trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất hàng xuất khẩu;
tài trợ các khoản chi trả cho xuất khẩu. Đồng thời với vị trí là nước đang phát
triển, Việt Nam được quyền ưu tiên sử dụng các biện pháp hỗ trợ trong nước và
xuất khẩu với mức không vượt quá 10% giá trị sản lượng nông nghiệp làm ra
trong năm.
- Việt Nam đã cam kết tuân thủ đầy đủ các quy định về trợ cấp nông
nghiệp theo Điều 6 của Hiệp định Nông nghiệp của WTO, trong đó được phép
duy trì một số biện pháp hỗ trợ đầu tư và hỗ trợ đầu vào cho sản xuất nông
nghiệp. Cụ thể, cho đến nay Việt Nam hỗ trợ cho nông nghiệp mới đạt khoảng
260 triệu USD/năm, bằng khoảng 3-4% giá trị sản lượng nông nghiệp hàng năm.
Có nghĩa là, trong cam kết WTO của Việt Nam về hỗ trợ cho nông nghiệp, Việt
Nam vẫn còn khoảng trống khá rộng để thực hiện các chính sách hỗ trợ trực tiếp
11
Ths. Huỳnh Thị Liên Hoa, Đề tài khoa học cấp bộ “ Nghiên cứu các giải pháp, chính sách bảo
hộ sản xuất nông nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế và quy định của WTO”, Viện
Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, Hà Nội 2011 đã nghiệm thu.

24
cho sản xuất nông nghiệp, nếu thấy cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông sản.
Việt Nam vẫn được áp dụng bình thường các khoản hỗ trợ thuộc quy định
của “Hộp Xanh lá cây” trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO (xem bảng dưới
đây):
Biểu 1.1: Quy định về hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp theo
Hiệp định Nông nghiệp của WTO
Loại hỗ trợ Tính chất- nội dung Cơ chế áp dụng
Trợ cấp “hộp xanh lá
cây”
Phải là các hỗ trợ
- Hầu như không có tác động
bóp méo thương mại;
- Không phải là hình thức trợ
giá
Được phép áp dụng không bị
hạn chế
Trơ cấp “hộp xanh lơ” Hỗ trợ trực tiếp trong khuôn khổ
các chương trình hạn chế sản
xuất
Đây là các hình thức trợ cấp mà
các nước đã phát triển đã áp
dụng
Trợ cấp “hộp hổ phách” Các loại trợ cấp nội địa không
thuộc hộp xanh lá cây và xanh
lơ, tác động gây bóp méo
thương mại
Chỉ được phép áp dụng trong
giới hạn nhất định (gọi là mức

tối thiểu)
Phải cam kết cắt giảm phần hỗ
trợ vượt trên mức tối thiểu
Nhóm trợ cấp trong
chương trình “hỗ trợ
phát triển sản xuất”
- Trợ cấp đầu tư
- Hỗ trợ “đầu vào” cho sản xuất
nông nghiệp cho nông dân
nghèo hoặc các vùng khó khăn
- Hỗ trợ các vùng chuyển đổi
cây thuốc phiện.
Là sự ưu đãi đặc biệt và khác
biệt giành cho các nước đang
phát triển
Nguồn: “Báo cáo kết quả nghiên cứu cơ sở khoa học để đề xuất chính sách bù đắp thu
nhập cho những hộ sản xuất lúa trong vùng lúa chuyên canh nhằm đảm bảo an ninh lương
thực Quốc gia”; Chủ nhiệm TS. Phạm Bảo Dương.
25
Như vậy, trong khuôn khổ các cam kết WTO của Việt Nam, Việt Nam có
thể áp dụng một số biện pháp, chính sách hỗ trợ thuộc hộp Hổ phách (các biện
pháp hỗ trợ bị coi là gây bóp méo sản xuất và thương mại như hỗ trợ giá, trợ cấp
gắn với sản xuất) và những chính sách hỗ trợ trong hộp Xanh lơ được phép áp
dụng (bao gồm các khoản chi trả trực tiếp từ ngân sách Nhà nước gắn với sản
xuất và thuộc các chương trình thu hẹp sản xuất nông nghiệp) và các biện pháp
Xanh lá cây (bao gồm các biện pháp hỗ trợ không gây bóp méo thương mại do
ngân sách chi trả và không mang tính chất hỗ trợ giá). Tuy nhiên, WTO ủng hộ
các biện pháp hỗ trợ không gây bóp méo thương mại, vì vậy trong xây dựng
chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, các cơ quan hoạch định chính sách cần
cố gắng tránh các chính sách hỗ trợ dẫn tới “tác động bóp méo thương mại” và

dễ bị khiếu kiện khi sản phẩm được hỗ trợ là sản phẩm xuất khẩu.
Các loại trợ cấp sản xuất trong nước thuộc hộp Xanh lá cây bao gồm 5
nhóm sau:
Nhóm 1: Trợ cấp cho các dịch vụ chung;
Nhóm 2: Trợ cấp nhằm mục tiêu dự trữ an ninh lương thực quốc gia;
Nhóm 3: Trợ cấp lương thực trong nước
Nhóm 4: Hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai
Nhóm 5: Hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất liên quan đến thu nhập: hỗ
trợ thu nhập (không được gắn với các yêu cầu về sản xuất); hỗ trợ tài chính của
Nhà nước vào các chương trình an toàn và bảo hiểm thu nhập cho nông dân (khi
mất mùa hoặc mất giá); hỗ trợ bù đắp thiệt hại do thiên tai.
Các biện pháp hỗ trợ trong cả 5 nhóm trên phải đáp ứng đủ 3 điều kiện:
- Không hoặc rất ít tác động bóp méo thương mại,
- Thông qua chương trình do Chính phủ tài trợ,
- Không có tác dụng trợ giá cho người sản xuất.

×