Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

MÔI TRƯỜNG FDI CỦA MỘT SỐ NƯỚC ASEAN NHỮNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC THI QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI VÀO CÁC NƯỚC ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.08 KB, 46 trang )

Mở đầu
Trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, sự di chuyển các nguồn lực
(vốn, tài nguyên , kỹ thuật, lao động, ) giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng
gia tăng và phát triển. Sự di chuyển đó được quyết định bởi đầu tư quốc tế (bao
gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp). Trong đó đầu tư trực tiếp đóng vai trò
quan trọng. Dòng đầu tư này đang vận động theo nhiều chiều, dưới nhiều hình thức
và ngày càng có xu hướng tự do hoá. Đây là một tất yếu khách quan. Các nước đều
phải chấp nhận tính tất yếu khách quan này dù là nước phát triển hay nước đang
phát triển. Nước nào nhận thức được nó và tạo điều kiện cho nó vận động thì nước
đó sẽ phát triển lớn mạnh.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là
nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng phát triển kinh tế. Muốn phát triển nhanh
các nước này cần phải lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, lao động,
của nhiều nước. Song nguồn FDI trên thế giới có hạn, mà nhu cầu về nó ngày càng
lớn. Vốn FDI càng trở nên cấp thiết trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại và phân công lao đông quốc tế sâu rộng hiện nay. Làm thế nào để thu hút
được nguồn vốn này là vấn đề còn nan giải ở các nước đang phát triển. Bởi lẽ dòng
vốn FDI khi chảy vào các nước này thường gặp nhiều trở ngại do trình độ kinh tế,
xã hội của họ còn thấp, nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, trình độ kỹ thuật và
quản lý lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, môi trường kinh doanh không ổn định,
Khu vực Đông Nam á được đánh giá là một khu vực phát triển kinh tế năng
động nhất thế giới, cũng có nhiều thành công trong việc thu hút nguồn vốn này.
Các nước ASEAN đã và đang quyết tâm tìm ra các giải pháp nhằm thu hút nhiều
hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay ASEAN vẫn là khu vực thu hút
khá nhiều vốn đầu tư nước ngoài.
Là một nước trong khối ASEAN, cũng như các nước khác trong khối, Việt
Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế của mình, từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này, Việt Nam cần
vốn FDI để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, nhằm tăng
năng suất lao động tạo công ăn việc làm trong nước. Từ đó tăng thu nhập, tăng tích
luỹ cho sự phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, từ thành tựu mà những nước ASEAN


đã đạt được, Việt Nam đã rút ra được bài học gì cho sự phát triển của mình. Và
trên cơ sở những bài học kinh nghiệm đó, có thể có những gợi ý hoàn thiện hơn
nữa môi trường đầu tư, nhằm tạo ra môi trường đầu tư có sức cạnh trạnh ở Việt
Nam.
Đề tài này có đối tượng và phạm vi nghiên cứu là môi trường đầu tư trực
tiếp nước ngoài của một số nước ASEAN.
Tên tiểu luận:
MÔI TRƯỜNG FDI CỦA MỘT SỐ NƯỚC ASEAN - NHỮNG QUY ĐỊNH
VÀ THỰC THI QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG
THU HÚT FDI VÀO CÁC NƯỚC ASEAN
Nội dung bao gồm 3 chương:
1
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II : Đánh giá môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của một
số nước ASEAN.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện môi trường đầu
tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam.
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của FDI
Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào trong một
thời gian tương thích nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội. Vốn đầu tư có
nhiều nguồn khác nhau, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn vốn
đang thu hút được sự chú ý của nhiều quốc gia.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt
là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước
khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước

ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Từ định nghĩa trên có thể rút ra một số đặc điểm của FDI như sau:
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của các nhà đầu tư, họ tự quyết định đầu
tư, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mạng tính khả thi và hiệu quả cao.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp hoạt động
theo tỷ lệ góp vốn của mình.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài nước chủ nhà có thể tiếp nhận được
công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm tổ chức, quản lý là mục tiêu mà các hình
thức khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của hoạt động nó còn
bao gồm cả vốn của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như đầu
tư từ lợi nhuận thu được.
Các hình thức của FDI trong thực tiễn.
Một là hợp đồng hợp tác kinh doanh: là văn bản kí kết của hai bên hay nhiều
bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến
hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không cần thành lập tư cách pháp nhân
Hình thức này có đặc điểm:
- Không ra đời một pháp nhân mới
- Cơ sở của hình thức này là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong hợp đồng
nội dụng chính phản ánh trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên với nhau.
- Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất
mục tiêu kinh doanh và được cơ quan cấp giấy phép kinh doanh chuẩn
- Hợp đồng phải do đại diện của các bên có thẩm quyền kí. Trong quá trình
hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư các pháp nhân của mình
Hai là doanh nghiệp liên doanh: Theo khoản 2 điều 2 luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam quy định doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai
hay nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc
hiệp định kí giữa chính phủ nước Cộng hoà xã hộ chủ nghĩa Việt Nam và chính
phủ nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước hợp tác với doanh nghiệp

3
Việt Nam hoặc các doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài
trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Hình thức này có đặc điểm:
- Thành lập pháp nhân mới hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập dưới
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Các bên chịu trách nhiệm về phần vốn của
mình.
- Phần góp vốn của bên hoặc các bên nước ngoài không hạn chế mức tối đa
nhưng tối thiểu không dưới 30% vốn pháp định và trong quá trình hoạt động không
giảm vốn pháp định.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quả trị
mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ góp vốn của các bên
nhưng ít nhất phải là hai người. Hội đồng quản trị có quyền quyết định những vấn
đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp theo nguyên tắc nhất trí.
- Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và phân chia rủi ro theo tỷ
lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định hoặc theo thoả thuận giữa các bên .
- Thời hạn hoạt động không quá 50 năm trong trường hợp đặc biệt được kéo
dài nhưng không quá 20 năm.
Ba là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Theo điều 26 Nghị định 12 CP quy định: Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại
Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh.
“Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Thời gian hoạt
động không quá 50 năm kể từ ngày cấp giấy phép”
Bốn là hợp động xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)
Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: “ Hợp đồng xây
dựng - kinh doanh - chuyển giao là văn bản kí giữa cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao

không bồi hoàn công trình đó cho nhà Việt Nam”
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh là văn bản kí kết giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư
kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Năm là Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT)
Theo khoản 13 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: “ Hợp đồng xây dựng
chuyển giao là hợp đồng kí kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau khi xây xong nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Chính phủ
Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu
hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
4
2. Môi trường FDI
2.1. Khái niệm chung về môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài
Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng hoà các yếu tố chính trị,
kinh tế, xã hội có liên quan, tác động đến hoạt động đầu tư và bảo đảm khả năng
sinh lợi của vốn đầu tư nước ngoài.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn FDI
Môi trường đầu tư là yếu tố đầu tiên mà nhà đầu tư nước ngoài xem xét
trước khi quyết định đầu tư. Ở đây, ta xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng
thu hút FDI tức là xem xét các yếu tố thuộc môi trường đầu tư. Nếu những yếu tố
thuộc môi trường nước nhận đầu tư là những yếu tố chủ yếu tạo nên môi trường
đầu tư hấp dẫn, thì những yếu tố thuộc môi trường quốc tế lại là những yếu tố tạo
nên động lực thúc đẩy các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư.
2.2.1. Yếu tố thuộc môi trường nước nhận đầu tư
2.2.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Đây là một nhân tố đầu tiên được đưa ra nhằm nhấn mạnh về tầm quan
trọng của “địa lợi” nước nhận đầu tư trong thu hút FDI. Các nước ASEAN

có vị trí đặc biệt quan trọng trong bản đồ kinh tế - chính trị quốc tế và có
nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú. Chẳng hạn như Việt Nam -
một thành viên của ASEAN, Việt Nam nằm trong tuyến giao thông quan
trọng đi từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương và xuống Châu Úc - Đại
Dương hoặc ngược lại. Những đặc điểm này đã tạo nên một Việt Nam là cửa
ngõ giao thông Đông Nam Á, thuận lợi trên cả ba tuyến đường thuỷ, đường
bộ và đường hàng không. Hay Singapore, từ một đất nước nhỏ bé nghèo nàn,
đã tận dụng tốt nhất vị trí của mình và hiện nay đã trở thành một con rồng
Châu Á, một cửa ngõ đầu tư của ASEAN, một mắt xích tài chính toàn cầu,
là trạm chung chuyển về hàng hoá dịch vụ của khu vực.
Mỗi nước trong khu vực Đông Nam Á đã và đang cố gắng phát huy lợi thế
địa lý của mình, đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, tham gia vào các chương
trình hợp tác giao thông khu vực nhằm thu hút FDI.
2.2.1.2. Yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội
Đây là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hút FDI. Bởi mục
tiêu đầu tiên khi quyết định đầu tư ra nước ngoài của chủ đầu tư là lợi nhuận. Kinh
doanh trong điều kiện chính trị ổn định, kinh tế phát triển, thì lợi nhuận thu được sẽ
ổn định hơn, cao hơn.
Trước chiến tranh thế giới hai, hầu hết các nước ASEAN đều là thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân cũ với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ
bé, chủ yếu là khai thác khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nước
chính quốc. Sau chiến tranh, các nước này lần lượt giành được chủ quyền về chính
trị. Ngay sau đó, các nước đã bắt tay ngay vào phục hồi kinh tế. Và cho đến thập
kỷ70, 80 khu vực Đông Nam Á đã được đánh giá là một trong những khu vực phát
triển kinh tế năng động nhất thế giới. Đặc biệt, trong đó có Singapo đã đạt được tốc
độ tăng trưởng cao liên tục và đã được xếp vào hàng ngũ những nước công mới
trên thế giới (NIC
S
).
Mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997,

5
nhưng ngay sau đó các nước bị khủng hoảng đã nhanh chóng phục hồi, lấy lại đà
tăng trưởng, phục hồi lại lòng tin của các nhà đầu tư.
2.2.1.3. Yếu tố liên quan đến cơ chế chính sách, luật pháp
Hệ thống chính sách luật pháp về thu hút FDI cũng như khả năng thực thi
của nó là một trong những tiêu chí quan trọng trước khi quyết định đầu tư của các
nhà đầu tư.
Nhìn chung, các nước trong khu vực ASEAN đều có chính sách thu hút FDI
hấp dẫn liên quan tới thể chế, thuế, tính đơn giản trong thủ tục đầu tư Mặc dù
còn không ít những hạn chế, nhưng mỗi nước đều đang cố gắng xây dựng lên một
hệ thống luật pháp, hướng tới một chính sách đầu tư rộng mở, mang tính cạnh
tranh cao nhằm thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
2.2.1.4. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng xã hội chủ yếu ảnh hưởng đến việc thu hút FDI phải kể đến hệ
thống giao thông vận tải, hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao; mạng lưới năng lượng, viễn thông
Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội của các nước ASEAN nhìn chung là đã phát
triển, đóng góp quan trọng cho việc thu hút FDI. Như ở Singapore, Malaysia, Thái
Lan đã có đường bộ cao tốc, tỷ lệ đường trải mặt đã đạt trên 60%. Hệ thống khu
công nghiệp, khu chế xuất đã trở nên hoàn thiện.
2.2.1.5. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực dồi dào, đươc đào tạo phù hợp với yêu cầu của các công ty có
vốn FDI là một trong những nhân tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Các nước
trong khu vực Đông Nam Á, nhìn chung đều có nguồn nhân lực đông, chi phí cho lao
động tương đối rẻ, trình độ nhận thức và tay nghề cao.
2.2.2. Các yếu tố thuộc môi trường quốc tế
Vào cuối những năm 1970, tình hình quốc tế đã tác động mạnh mẽ lên
những nước đang phát triển ASEAN, đòi hỏi những nước này phải cải cách mở cửa
thu hút FDI như là một xu thế tất yếu.
2.2.2.1. Cục diện chính trị kinh tế quốc tế thể hiện nét đặc trưng hoà bình và phát

triển, thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng, có lợi cho các nước
ASEAN
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, do chiến tranh lạnh bắt đầu, thế giới hình
thành hai phe đối đầu nhau là Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa. Trong sự đối
đầu đó, nhân tố chủ đạo là hai nước Mỹ và Liên Xô. Cả hai nước đều coi nhau là
đối phương, là trở ngại chủ yếu cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược toàn cầu và
lợi ích của mình. Sự tranh giành trên phạm vi toàn cầu giữa hai siêu cường này là
nguồn gốc chủ yếu gây ra sự căng thẳng kéo dài trong quan hệ quốc tế và cũng gây
ra mối đe doạ đối với hoà bình thế giới.
Sau một thời gian dài, do tác động của nhiều nhân tố, việc bố trí chiến lược
toàn cầu của hai siêu cường này khó có thể thực hiện được. Những xung đột và bất
đồng dần dần được giải quyết theo xu hướng đối thoại và hợp tác.
Do có chiến tranh nên kinh tế Mỹ, Liên Xô suy yếu nhanh chóng. Trong khi
đó, Tây Âu và Nhật Bản lại có điều kện đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế do họ
6
không có chiến tranh, và đã vươn lên thành những trung tâm kinh tế độc lập. Bên
cạnh đó các nước đang phát triển ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế, chính trị và hoà bình thế giới. Cục diện Thế giới thay đổi, xu thế đa cực hoá nền
chính trị quốc tế cung với các nhân tố kinh tế tăng lên trong cuộc cạnh tranh quốc
tế, khiến khả năng nổ ra chiến tranh càng ít đi. Đây cũng là cơ hội cho hoà bình,
đối thoại và hợp tác đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển. Khi
nguy cơ chiến tranh thế giới giảm đi thì cuộc cạnh tranh bằng sức mạnh tổng hợp
lấy lại thực lực và có lợi trong cục diện thế giới mới. Nhu cầu phát triển cũng được
đặt ra ở tất cả các nước, mở cửa với bên ngoài đã trở thành chiến lược cơ bản phát
triển kinh tế của các nước.
Đối với các nước đang phát triển, sau chiến tranh thế giới II, tuy đã
giành được độc lập về chính trị, song cơ sở kinh tế của các nước này còn rất
non yếu, trình độ phát triển kinh tế thấp, trình độ kỹ thuật và quản lý lạc
hậu, thiếu vốn khiến cho khoảng cách giữa họ với các nước phát triển rất
lớn. Vì vậy, họ có nhu cầu hợp tác và phát triển kinh tế với các nước phát

triển để xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu. Sự độc lập về chính trị đã mở đường cho
họ phát triển quan hệ hợp tác kinh tế đa phương với các nước phát triển trên
thế giới.
Về phía các nước tư bản phát triển, sau chiến tranh thế giới thứ hai, họ nắm
bắt được cơ hội do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới sau chiến tranh mở ra,
Nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật trước đây phục vụ cho chiến tranh, nay đã được
ứng dụng cho phát triển kinh tế. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật, nền kinh tế tư bản phát triển nhanh chóng. Nó thúc đẩy các nước này tăng
cường mở cửa tìm kiếm thị trường. Nhưng nếu chỉ mở rộng thị trường trong các
nước phát triển thì khả năng tăng trưởng kinh tế của họ chỉ có hạn. Do vậy các
nước này đã chú ý tới thị trường của các nước đang phát triển. Trong quá trình tìm
kiếm thị trường, họ thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài. Họ muốn lợi dụng nguồn sức
lao động rẻ mạt, tài nguyên thiên nhiên phong phú, và thị trường đầy tiềm lực của
các nước đang phát triển để hạ thấp chi phí sản xuất, giành lợi nhuận tối đa. Thông
qua FDI vào các nước đang phát triển, họ thường thu được lợi nhuận cao hơn rất
nhiều so với đầu tư vào các nước công nghiệp phát triển khác
Quan hệ giữa các nước đang phát triển và các nước tư bản phát triển
ngày càng mang tính hợp tác, phát triển cùng có lợi. Các nước đang phát
triển không tách rời các nước tư bản phát triển về vốn, kỹ thuật công nghệ,
khả năng quản lý, thị trường tiêu thụ Ngược lại, các nước tư bản phát
triển cũng không thể tách rời các nước đang phát triển vệ nguồn nguyên
liệu, năng lượng, thị trường sản phẩm, thị trường đầu tư, nguồn lao động, sự
chuyển nhượng công nghệ Điều này đã thúc đẩy đầu tư quốc tế tăng
trưởng.
2.2.2.2 Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng tăng lên mạnh
mẽ, thúc đẩy đầu tư quốc tế tăng trưởng
Sự đan xen và tác động lẫn nhau về lợi ích kinh tế giữa các nước phát triển
và đang phát triển, giữa các nước đang phát triển với nhau dẫn đến sự liên kết
qúa trình sản xuất lưu thông tiêu dùng trên toàn cầu, hình thành nên sự phân
công quốc tế sâu rộng và sự tuỳ thuộc sâu sắc. Hiện nay hoạt động kinh tế của

7
mỗi nước đều chịu ảnh hưởng của những quan hệ kinh tế quốc tế, đồng thời
cũng có tác động lớn đối với nền kinh tế các nước khác.
Tuy nhiên, cho đến nay nền kinh tế toàn cầu chưa xuất hiện, nó chỉ mới có
những yếu tố ban đầu. Bởi lẽ các nước đang phát triển tham gia vào nền kinh tế thế
giới còn yếu ớt. Ở nhiều nước, nhiều khu vực, chính sách còn chưa chịu ảnh hưởng
của tự do hoá như tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu tư Nhiều nước còn phân
biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Mặt khác, thế giới hiện nay đang đứng trước những vấn đề toàn cầu gay
gắt, mà không một nước nào có thể đơn phương giải quyết được. Đó là các vấn
đề: sự cạn kiệt của nguồn tài nguyên thiên nhiên, nạn ô nhiễm môi trường, nạn
nghèo khổ, vấn đề dân số, vấn đề an ninh toàn cầu Do vậy, xuất hiện yêu cầu
các nước phải liên kết lại, phối hợp chính sách nhằm can thiệp vào điều tiết
nền kinh tế thế giới. Nó có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại, ổn định và
phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Trên thế giới đã xuất hiện các tổ chức kinh
tế có tính toàn cầu như quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB), tổ
chức thương mại thế giới (WTO) Bên cạnh các tổ chức liên kết kinh tế có
tính toàn cầu, xu hướng liên kết kinh tế khu vực cũng ngày càng tăng lên.
Những sự liên kết quốc tế này đã thúc đẩy đầu tư quốc tế ngày càng tăng
trưởng.
Hiện nay dòng vồn FDI trên thế giới ngày càng gia tăng và đổ nhiều hơn
vào các nước đang phát triển. Dòng FDI vào các nước này đã tăng từ 1,4%
năm 1975 lên tới 3,4% trong năm 1991.
Nguồn FDI của thế giới ngày càng phong phú, nó không chỉ đến từ các nước
công nghiệp phát triển mà nó còn đến từ các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
nguồn FDI đến từ các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Đức,
Pháp vẫn chiếm vị trí chủ đạo, với 2/3 tổng vốn FDI. Một số nước NIC
S
,


như Hàn
Quốc, Singapore và Đài Loan, do kinh tế tăng trưởng cũng thúc đẩy đầu tư ra nước
ngoài. Một vài nước đang phát triển khác như Malaisia, Thái Lan, Indonesia vừa
thu hút FDI, vừa đầu tư ra nước ngoài.
Xu thế FDI trên thế giới ngày càng tăng và phát triển, đây là thời cơ thuận
lợi cho các nước ASEAN trong việc thu hút FDI. Song, các nước ASEAN cũng
phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt với các nước trong việc tranh thủ nguồn
vốn này.
Tới nay các nước công nghiệp phát triển vẫn chiếm phần chủ yếu trong sự phân
bố đầu tư quốc tế. Sở dĩ họ thu được nhiều FDI là do trong phân công lao động quốc
tế, một sản phẩm được sản xuất ở nhiều nước, các nước công nghiệp phát triển có
trình độ ngang nhau dễ thực hiện sự phân công này. Mặt khác nữa còn là do ở các
nước này, hệ thống pháp luật chặt chẽ, hệ thống tài chính - ngân hàng vận hành hoàn
hảo, kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, lực lượng lao động có tay nghề và tri thức cao, trình
độ kỹ thuật và quản lý tốt. Không chỉ vậy họ còn thâm nhập vào nhau, đan xen để
tránh hàng rào thuế quan.
Cùng với các nước công nghiệp phát triển, một số nước đang phát triển khác
cũng đang vươn lên nhanh chóng giành giật nguồn vốn này.
Nhận thức được vấn đề này, các nước ASEAN đã liên tục cố gắng duy
8
trì tình hình chính trị xã hội ổn định, tăng trưởng kinh tế. Cải cách luật đầu tư
nước ngoài theo hướng rộng mở, xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng hệ thống
pháp luật, hệ thống tài chính - ngân hàng hoàn chỉnh, đào tạo nâng cao tay
nghề cho người lao động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Đặc biệt, từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, để nhanh chóng
lấy lại niềm tin từ các nhà đầu tư, các nước ASEAN đã định ra những chính
sách ưu đãi hơn đối với đầu tư nước ngoài. Hiện nay dòng FDI vào các nước
ASEAN vẫn đang ngày một tăng.
2.2.2.3 Sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới
Mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư là lợi nhuận. Vào những năm đầu thập

kỷ 60, FDI chạy theo lao động rẻ để thu hút lợi nhuận và khai khoáng, chế biến
nông sản của công nghiệp chế tạo. Sau đó lĩnh vực FDI cũng thay đổi cùng với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới nghiêng về xu thế phát triển mạnh về kinh
tế dịch vụ. Từ đầu thập kỷ 80 đến nay, 50% lượng vốn FDI chảy vào các nước
công nghiệp phát triển và gần 30% lượng vốn FDI chảy vào các nước đang phát
triển. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật
chất vẫn là lĩnh vực chủ yếu, chiếm tới 70% tổng vốn FDI mặc dù tỷ trọng của nó
có xu hướng giảm dần.
Vài năm gần đây đã xuất hiện xu hướng mới là đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ
tầng, nhất là các nghành viễn thông, điện, giao thông vận tải, thuỷ lợi Nguyên nhân
là vì các nước, nhất là các nước đang phát triển có nhu cầu phát triển cam kết mạnh
mẽ không quốc hữu hoá, các nước đã dành các chính sách ưu đãi để thu hút vốn FDI
vào cơ sở hạ tầng nhằm khắc phục sự hạn hẹp của ngân sách. Đến nay vốn FDI dành
đầu tư cho cơ sở hạ tầng bình quân hàng năm là 7 tỷ USD, và tăng bình quân
5%/năm. Mỹ và Nhật có tới 7-8% vốn FDI hướng vào cơ sở hạ tâng. Đây là khả năng
mới cho các nước nhận đầu tư.
2.2.2.4. Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNC
S
) đóng vai trò rất quan trọng trong đầu
tư trực tiếp nước ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài.
Hiện nay, các TNC
S
đang chi phối, kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh doanh
trên thế giới. Khi nghiên cứu 100 TNC
S
lớn nhất trên thế giới mà tất cả đều thuộc các
nước công nghiệp phát triển có thể thấy các TNC
S
này chiếm tới một phần ba toàn bộ
nguồn vốn FDI của thế giới. Các TNC

S
đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực Châu Á.
Theo báo cáo đầu tư thế giới năm 1996 của Liên Hợp Quốc công bố ngày 24/09/1996,
trong tổng số 39.000 TNC
S
trên thế giới, công ty mẹ phần lớn có trụ sở chính tại các
nước phát triển và có 270.000 chi nhánh ở nước ngoài với tổng số vốn FDI lên tới
2.700 tỷ USD. Các chi nhánh ở nước ngoài của tất cả các TNC
S
đạt doanh thu hang
năm trên 6.000 tỷ USD. Tất cả các TNC
S
lớn nhất trên thế giới đều là của các nước tư
bản phát triển trong đó Mỹ có 32 công ty. TNC
S
đã trở thành động lực chủ yếu của
nguồn vốn, hàng hóa và lưu thong rộng rãi trong phạm vi toàn cầu. TNC
S
có tác động
to lớn trong việc phân bổ cơ cấu kinh tế ở các quốc gia, chi phối lưu chuyển hàng hóa
của thương mại quốc tế. Các TNC
S
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển
tải kỹ thuật, công nghệ, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những
nước đang phát triển. Do đó, chiến lược đầu tư phát triển của các TNC
S
có tác động to
lớn đến dòng FDI và xu hướng vận động của FDI.
2.2.2.5 Xu hướng cải tổ và đổi mới theo nền kinh tế thị trường trong các nước
9

đang phát triển đã thúc đẩy mỗi nước cải cách, mở cửa để tạo tiền đề thuận lợi
cho việc thu hút FDI
Trước sự bùng nổ ngày càng gia tăng của FDI trên thế giới hiện nay, việc
khép cửa nền kinh tế để phát triển đã tỏ ra lỗi thời. Hầu hết các nước đang phát
triển đã mở cửa tiếp nhận nguồn vốn này.
Xu hướng của họ là mở cửa, họ cần lợi dụng các ưu thế về vốn, thị trường,
công nghệ, lao động của nhiều nước qua thu hút FDI để phát triển. Do vậy họ đã
tiến hành cải tổ thể chế chính trị - kinh tế - xã hội phù hợp với nền kinh tế thị
trường. Trong thu hút FDI những cải cách thể chế này được thể hiện qua các luật:
luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, luật xuất nhập khẩu theo hướng tự do hóa
thương mại, luật xuất nhập khẩu dễ dàng, thuận lợi… Chúng phù hợp với thông lệ
quốc tế và bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư. Trong ccs nước đang phát triển, một số
nước nhờ thực hiện cải tổ thành công nên đã thu hút được nhiều FDI, đem lại sự
phát triển mạnh mẽ như các nước NIC
S
.
Tóm lại, sự du nhập của đầu tư tư bản nước ngoài vào các nước đang phát
triển tùy thuộc vào cả hai phía: nước đầu tư và nước nhận đầu tư.
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài mối quan tâm hàng đầu của họ không
dừng lại ở nguồn lợi nhuận cao, mà còn cần có sự đảm bảo chắc chắn đối với
nguồn vốn do họ bỏ ra, tức là đảm bảo quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với
nguồn vốn đó. Hơn nữa, khi đầu tư vào các nước đang phát triển, các công ty nước
ngoài còn xuất phát từ những động cơ rất rõ ràng như chiếm lĩnh thị trường, tranh
thủ nguồn lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên nếu như ở nước chủ
nhà có nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có.
Một yếu tố có tác động quan trọng tới đầu tư nước ngoài là cơ cấu và khả
năng kinh tế của nước chủ nhà. Thông thường các nhà đầu tư nước ngoài thích đầu
tư vào những nền kinh tế có cơ cầu và khả năng kinh doanh năng động.
Tất cả các yếu tố trên đây đã được các nước đang phát triển xem xét một
cách thận trọng khi định ra những chính sách và biện pháp để thu hút đầu tư của tư

bản nước ngoài. Những chính sách và biện pháp đó rất đa dạng, khác nhau tuỳ theo
điều kiện cụ thể của mỗi nước, tuy nhiên có thể thấy chúng tập trung vào chủ yếu
vào việc tạo ra và đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định và xây dựng cơ sở hạ
tầng thuận lợi.
10
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG FDI CỦA MỘT SỐ NƯỚC ASEAN
1. Khái quát về thành tựu đạt được trong quá trình thu hút nguồn vốn FDI
của một số nước ASEAN
1.1. Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội
ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á) được thành lập vào năm 1967, đã
thiết lập một tiến trình lâu dài và thành công cho việc xây dựng từng bước ý thức
về một lợi ích chung và về một hiệp hội khu vực giữa 6 (ban đầu là 5) quốc gia
thành viên. ASEAN đã trở thành một tổ chức chủ chốt ở khu vực Đông Nam Á
không chỉ vì nó đã phát triển thành công một ý thức cộng đồng giữa các thành viên
rất phân tán của mình và tìm được con đường tiến đến một sự hợp tác kinh tế chặt
chẽ hơn mà nó còn trở thành một diễn đàn thảo luận với các cường quốc thế giới
về hàng loạt vấn đề quốc tế.
Với việc kết nạp Vương quốc Campuchia vào ASEAN trong buổi lễ đặc biệt
biệt tại Hà Nội ngày 30 - 4 - 1999, ý tưởng thành lập một ASEAN - 10 (gồm 10
nước khu vực Đông Nam Á) vì hoà bình và thịnh vượng chung của khu vực được
ấp ủ suốt 30 năm đã trở thành hiện thực. Năm 1999 đã trở thành cột mốc lịch sử
đánh dấu sự trưởng thành và bước phát triển mới cuả ASEAN với diện tích rộng
4.604.866 km
2
, dân số 518.588.659 người.
Hiện tại, toàn thể các nước ASEAN đã phát triển theo nền kinh tế thị trường
với nhiều sự kiểm soát chính trị của nhà nước hơn so với ở phương tây. Đây chính
là sự nhất trí về một sự phát triẻn kinh tế dựa trên những thị trường tương đối tự
do, có nhiều thành phần kinh tế và có sự cạnh tranh. Điều này đã dẫn đến một thời

kỳ tăng trưởng kinh tế chưa từng có trước đó cho ASEAN.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ bắt đầu nổ ra ở Thái Lan và sau đó lan
ra hầu hết các nền kinh tế trong khu vực, để lại những hậu quả kinh tế - xã hội hết
sức nghiêm trọng cho các nước này. Nửa đầu năm 1999, cuộc khủng hoảng dường
như đã “chạm đáy”, tốc độ phục hồi tuy có khác nhau giữa các nước nhưng đều
nhanh hơn mức dự đoán. Nền kinh tế của tất cả các nước trong khu vực đều tăng
trưởng dương trong năm 1999 và năm 2000. Một lần nữa, cùng với Đông Bắc Á,
Đông Nam Á lại vùng lên tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ tăng trưởng GDP
của toàn vùng trong năm 1999 là 4.4% và năm 2000 khoảng 5.5%. Đây là tốc độ
phục hồi rất ngoạn mục so với mức sụt giảm -7.5% trong năm 1998.
Tất cả những kết quả đạt được đều nói lên sự cố gắng phục hồi sau khủng
hoảng của các nước ASEAN. Quá trình cải cách cơ cầu và thể chế nền kinh tế tuy
gặp rất nhiều khó khăn, song diễn ra một cách nghiêm túc và triệt để về nguyên
tắc. Quá trình này đóng vai trò là động lực cơ bản giúp họ nâng cao năng suất và
cải thiện năng lực cạnh tranh trong dài hạn.
1.2. Những thành tựu trong thu hút FDI
Các nước ASEAN đều coi FDI là yếu tố then chốt để công nghiệp hoá. Có
thể khẳng định ngay được rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng
11
trưởng kinh tế cao và quá trình chuyển dịch cơ cấu hướng về xuất khẩu nhanh
chóng của các nước ASEAN từ thập kỷ 70 trở lại đây là việc sử dụng hiệu quả của
nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI.
Khi sảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ, các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn ra
khỏi khu vực này. Thực trạng FDI lúc này rơi vào tình trạng bế tắc. Sau khủng hoảng, các
nước đã dần lấy lại được lòng tin từ các nhà đầu tư nước ngoài. Để thu hút được nhiều FDI
hơn nữa, Chính phủ các nước ASEAN đã nhanh chóng đưa ra những biện pháp hữu hiệu
để tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ những nỗ lực
đó mà dòng chảy FDI vào các nước ASEAN (chủ yếu là 4 nước Indonesia, Malaysia,
Philipin và Thái lan) không hề thua kém so với các nước Châu Mỹ La Tinh (chủ yếu là
Mexico, cộng hoà Sec, Slovakia và Balan), các nước ASEAN đã đạt được những thành

tựu lớn trong việc thu hút FDI.
ASEAN: FDI inflows, host country (in usd million)
Host Country 2003 2006 2007 2008 2009 2010
Indonesia -596 4.914 6.928 9.318 4.877 13.304
Lao PDR 20 187 324 228 319 333
Malaysia 2.473 6.072 8.538 7.248 1.381 9.156
Philippines 491 2.921 2.916 1.544 1.963 1.713
Singapore 11.941 29.349 37.033 8.589 15.279 35.520
Thailan 5.235 9.460 11.330 8.539 4.976 6.320
Vietnam 1.450 2.400 6.739 9.579 7.600 8.000
Other contries 3.498 1.345 1.842 2.031 1.871 1.862
Total Asean 24.512 56.648 75.650 47.076 38.266 76.208
Source: ASEAN Investment Statistics Databases, as of 30 Sep 2011
Nhìn vào những con số thống kê trên, chúng ta có thể thấy dòng FDI hàng
năm đã đổ vào các nước ASEAN không ngừng tăng lên. Khi bị tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ, dòng FDI có giảm, song ngay những năm sau đó đã
phục hồi và lại tiếp tục tăng.
Dự báo trong tương lai, nguồn vốn FDI vào ASEAN sẽ tăng nhanh trong
12
giai đoạn từ 2010 đến 2020.
1.3. Đánh giá chung về thời cơ và thách thức của ASEAN trong thu hút FDI
1.3.1. Thời cơ
Đảm bảo sự ổn định về chính trị và tăng trưởng của nền kinh tế. Trong 30
năm qua, các nước Đông Nam Á đã luôn đảm bảo được sự ổn định về chính trị và
tăng trưởng kinh tế. Nhờ vào tình hình chính trị khá ổn định, tốc độ tăng trưởng
trung bình của các nước ASEAN đạt 7%.
Bên cạnh đó các nước ASEAN đã sớm ban hành và hoàn thiện luật đầu tư,
có những ưu đãi thoả đáng đối với các nhà đầu tư.
Mặt khác các nước ASEAN cũng rất chú trọng xây dựng và phát triển cơ sở
hạ tầng. Chính Phủ các nước ASEAN rất coi trọng xây dựng các khu công nghiệp,

kho, bãi, nhà xưởng. Kết quả của đường lối này khiến nhiều nước như Singapo,
Malaysia, Thái Lan có hệ thống giao thông, thông tin viễn thông, sân bay, cảng
được xây dựng, nâng cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra các nước ASEAN còn
xây dựng nhiều cơ sở văn hoá, giải trí như sân gôn, câu lạc bộ, casino, khu nghỉ
mát
Một thuận lợi nữa mà chúng ta không thể không kể đến đó là các nước ASEAN
đều có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, trình độ nhận thức và tay nghề cao.
Hơn nữa các nước ASEAN luôn nỗ lực tăng cường hội nhập khu vực và thế giới.
Các nước ASEAN xúc tiến mạnh mẽ việc xây dựng các “khu vực mậu dịch tự do” hay
“khu công nghiệp tự do” để tạo ra những điều kiện thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tư,
từng bước tham gia vào chương trình Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (tên viết tắt
tiếng Anh là CEPT), tiến tới hoàn thiện Khu vực Thương mại Tự do ASEAN ( tên viết
tắt tiếng Anh là AFTA), tham gia vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình
Dương (tên viết tắt tiếng Anh là APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (tên viết tắt
tiếng Anh là WTO), tạo ra môi trường đầu tư mới, thuận lợi, thích hợp với xu hướng
toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay.
1.3.2. Thách thức
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi đó, còn không ít những khó khăn mà
các nhà đầu tư nước ngoài còn dè dặt khi đầu tư vào ASEAN. ASEAN là một
khu vực có tiềm lực phát triển kinh tế giữa các nước không đồng đều, chỉ có
Singapore là nước phát triển còn lại Thái Lan, Malaisia, Inđonesia, Philipin là
những nước đang phát triển; Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma là những
nước kém phát triển. Chính vì vậy, khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của cả khối ASEAN còn chưa cao. Môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài của các nước trong khu vực ASEAN còn chưa thực sự hấp dẫn. Đó là:
cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, tình hình chính trị, an ninh quốc phòng còn
nhiều bất ổn, thị trường tài chính còn biến động phức tạp, có nhiều dấu hiệu
không an toàn để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, vấn đề làm thế nào để cạnh
tranh được với Trung Quốc - một nước luôn chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào khu vực Châu Á, cũng là một thách thức lớn đối với

các nước ASEAN trong cạnh tranh thu hút vốn FDI. Năm 2000, Trung Quốc
thu hút được 43,5 tỷ USD tăng hơn 8 tỷ USD so với năm 1999. Theo
UNCTAD, sau khi chính thức trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc
13
mỗi năm có thể tiếp nhận được khoảng 60 tỷ USD và nếu Chính phủ cho phé
các công ty được sáp nhập, FDI vào Trung Quốc có thể đạt 100 tỷ USD.
Như vậy, bên cạnh rất nhiều thuận lợi, các nước ASEAN vẫn phải đối
mặt với không ít những thách thức trong cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Các nước ASEAN cần phát huy những mặt lợi, và dần khắc
phục những mặt còn tồn tại, nhằm xây dựng lên môi trường đầu tư thuận lợi,
có sức cạnh tranh cao.
2. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN trong việc xây dựng môi trường đầu
tư trực tiếp nước ngoài hấp dẫn
Tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực Châu Á đã giảm từ
61% trong những năm 1990 - 1996. Đứng trước vấn đề tỷ trọng đầu tư bị giảm sút
này, vào tháng 12 năm 1995, các nước ASEAN đã đưa ra đề nghị về việc thành lập
Khu đầu tư ASEAN (AIA) để nâng cao sức hấp dẫn và cạnh tranh của khu vực
nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua một môi trường đầu tư thông
thoáng và rõ ràng hơn.
Ngoài sự cần thiết phải thành lập AIA, việc cạnh tranh thu hút FDI ngày
càng quyết liệt, đồng thời ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997
cũng như suy thoái kinh tế 2008 và cuối năm 2010 cũng làm giảm khả năng thu hút
FDI vào khu vực khiến cho việc cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài trong khu
vực càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn.
Tình hình trên đòi hỏi có sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ giữa các nước
ASEAN để cùng nhau đưa ra các biện pháp điều chỉnh dài hạn nhằm cải thiện môi
trường đầu tư trong khu vực và lấy lại đà tăng trưởng kinh tế của khu vực.
Ý tưởng cơ bản của AIA là làm tăng đáng kể dòng đầu tư vào khu vực
ASEAN từ các nguồn trong ASEAN và ngoài ASEAN bằng cách nâng cao sức hấp
dẫn và cạnh tranh trong lĩnh vực đầu tư của các nước ASEAN. Điều này sẽ được

thực hiện qua việc cùng nhau thúc đẩy ASEAN trở thành một khu vực đầu tư hấp
dẫn nhất, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế của
ASEAN bằng cách tăng cường và mở rộng hợp tác trong ASEAN và dần dần giảm
bớt hoặc tiến đến loại bỏ các qui định và điều kiện đối với đầu tư có thể cản trở
luồng đầu tư vào ASEAN cũng như hoạt động của các dự án đầu tư ở các nước
ASEAN. Việc thực hiện AIA sẽ góp phần tạo ra các dòng lưu chuyển đầu tư tự do
vào khu vực ASEAN vào năm 2020.
Để thực hiện nghĩa vụ theo hiệp định này, các nước thành viên cảu ASEAN
sẽ cùng nhau hoạch định và thực hiện các chương trình sau:
- Chương trình hợp tác và hỗ trợ do từng nước thành viên thực hiện nhằm
cải thiện môi trường đầu tư của nước mình.
- Chương trính xúc tiến và tạo hiểu biết nhằm tổ chức các hoạt động xúc tiến
đầu tư giữa các nước, hỗ trợ nhằm cải thiện và nâng cao trình độ quản lý, học hỏi
kinh nghiệm khuyến khích đầu tư giữa các nước ASEAN, nâng cao tính hiệu quả
của thông tin về đầu tư trong khu vực Nhìn chung hai chương trình này tạo nhiều
thuận lợi cho các nước ASEAN thu hút đầu tư là điểm yếu của họ. Giai đoạn thực
hiện chương trình này sẽ là giai đoạn cải thiện, tiến tới và đuổi kịp sự lành mạnh
môi trường đầu tư của các nước này.
14
- Cuối cùng là chương trình tự do hóa cho các nhà đầu tư ASEAN nhằm xóa
bỏ gần như toàn bộ các hạn chế về định tính cũng như định lượng đối với FDI từ
ASEAN. Tạo ra một môi trường pháp lý khá thuận lợi thúc đẩy đầu tư cho tất cả
các nước ASEAN.
Ngoài ra, các nước ASEAN còn thực hiện các biện pháp khác như xây dựng
các mạng lưới liên kết cơ sở hạ tầng (giao thông liên quốc gia, cáp viễn thông liên
quốc gia), hợp tác phát triển dưới hình thức các tam giác, tứ giác tăng trưởng…
Qua những phân tích trên, ta thấy quá trình hợp tác hoá trong ASEAN sẽ là
điều kiện tạo nên môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nước ASEAN. Mỗi nước sẽ
có cơ hội nhiều hơn trong việc thu hút FDI từ chính các nước khác trong khu vực
ASEAN cũng như ngoài ASEAN.

2.1. Thái Lan
2.1.1 Kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái Lan thời gian qua
Thái Lan luôn được coi là nước có kinh nghiệm nhất trong thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Thật vậy, vào đầu những năm 40, Thái Lan hiều rằng vị trí của đất nước của
họ rất quan trọng trong chiến lược bành trướng xuống Đông Nam Á của các nước lớn. Thái
đã tìm cách khai thác triệt để lợi thế của vị trí đó để thu lợi cho nước họ. Hơn nữa, ở Thái
Lan, người ta nhìn nhận công cuộc đầu tư của tư bản tư nhân ngoại quốc một cách hợp lý.
Một mặt thừa nhận rằng người Thái có thể bị bóc lột, nền kinh tế có thể phát triển một cách
méo mó trong những thời gian nhất định nhưng mặt khác, Thái Lan sẽ có được vốn, công
nghệ, công ăn việc làm và tạo điều kiện cho người Thái Lan học tập kinh nghiệm quản lý
của nước ngoài. Giữa cái được và cái mất, thì cái được là nhiều hơn. Vì thế, Thái Lan đã
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào nền kinh tế của họ. Theo tổng quan
kinh tế xã hội Châu Á - Thái Bình Dương, dòng FDI bình quân vào Thái Lan trong thời gian
từ 1990 đến 1995 là 1,873 triệu USD một năm, gấp ba lần con số của giai đoạn 1984 - 1989
là 676 triệu USD. Điều đó chứng tỏ những nỗ lực đáng kể của Thái Lan trong việc thu hút
FDI.
Bảng 2: FDI vào Thái Lan từ năm 1990 đến năm 2010 (đơn vị triệu USD).
1990 1993 1996 1997 2000 2003 2006 2007 2008 2009 2010
2.389 1.202 1.732 2.313 2.767 5.235 9.460 11.330 8.539 4.976 6.320
Nguồn: ASEAN Macroeconomic Outlook 1995 - 1996. Foreign Direct Investment and
Development: Where do we stand?(JBIC)
ASEAN Investment Statistics Databases, as of 30 Sep 2011
Vào thời gian đầu khi luật khuyến khích đầu tư nước ngoài mới ra đời và
còn chưa có những sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế, FDI năm
1970 đã chiếm 12% tổng số vốn ròng của Thái Lan. Năm 1987, mười năm sau lần
sửa đổi đầu tiên, tổng số vốn đầu tư được ưu đãi, kể cả FDI ở Thái Lan là 12,3 tỷ
bath, tương đương 497 triệu USD. Sau năm 1987, nguồn FDI vào nước này được
tăng lên mạnh mẽ. Nguyên nhân là do chi phí sản xuất ở các nước đầu tư tăng, đặc
biệt là chi phí lao động. Bước sang thập kỷ 90, luồng FDI vào Thái Lan bắt đầu có
xu hướng chậm lại. Có một số nguyên nhân khách quan dẫn đễn hiện tượng trên.

Đó là việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất của các công ty đa quốc gia ở Nhật Bản và
các nước NIC
S
, sự bế tắc trong việc giải quyết vấn đề cơ sở hạ tầng và nguồn nhân
lực, sự bất ổn về chính trị trong nước và quốc tế. Tóm lại là do những lợi thế so
15
sánh của Thái Lan đã giảm dần, trong khi đó, Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Nga,
các nước Đông Á và Đông Âu đều mở cửa thị trường kêu gọi vốn đầu tư của nước
ngoài. Tuy nhiên theo số liệu của ngân hàng thế giới (WB, 1996), lượng FDI hàng
năm vào Thái Lan trong những năm 1990 - 1994 tăng 16,7 lần so với năm 1985.
Cũng theo đánh giá của WB thì năm 1996, Thái Lan đứng vào hàng thứ năm trong
số 12 nước đang phát triển nhận được nhiều FDI nhất.
Xét về nguồn và lĩnh vực đầu tư thì những nước cung cấp FDI chủ yếu cho
Thái Lan là Mỹ, Nhật Bản, Anh, Đức, Hồng Kông và Singapore. Những nước này
cung cấp 85% số FDI vào Thái Lan. Ngoài ra, Mỹ và Nhật Bản còn là những nước
cung cấp chính những khoản vay cho khu vực tư nhân của nước này. Về lĩnh vực
đầu tư thì có tỷ lệ phân bố 38,4% cho công nghiệp chế tạo, 34% cho dịch vụ và
27,6% cho nông nghiệp.
2.1.2. Những mặt tích cực và hạn chế trong môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Thái Lan
2.1.2.1. Tích cực
Có thể nói Thái Lan có một hệ thống chính sách, luật khá hoàn chỉnh và
đồng bộ. Hiệu lực của các bộ luật này được duy trì một cách thường xuyên lâu dài
và ổn định. Khi những điều kiện chủ quan và khách quan đã thay đổi khiến cho
việc duy trì những điều khoản cụ thể của các điều luật đó trở thành vật cản đối với
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước thì chúng được điều chỉnh, bổ sung nhằm
làm cho nó tiếp tục là công cụ sắc bén thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Mặt khác khi xét tới thuận lợi của cơ sở hạ tầng thì ta thấy có những thuận
lợi như: dự án vùng Nam Thái Lan, huyết mạch của tuyến đường vận chuyển
thương mại giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với tổng ngân sách khoảng

140 tỷ bath (6,5 tỷ USD). Dự án này nhằm xây dựng các tuyến đường cao tốc và
đường sắt từ một tỉnh ở phía Đông sang một tỉnh ở phía Tây, hai cảng nước sâu,
một hệ thống ống dẫn dầu khí khai thác được từ vịnh Thái Lan và một cơ sở hàng
hải có tầm cỡ để đảm nhận các dịch vụ vận chuyển hàng hoá cũng như các dịch vụ
vận chuyển khác.
Mặt khác sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế chỉ dừng lại ở việc
hoạch định chiến lược tổng thể, xác định mục tiêu cho từng thời kỳ, trên cơ sở
đó bố trí cơ cấu vốn đầu tư một cách hợp lý, thu hút vốn FDI vào những ngành,
những vùng theo mục tiêu định hướng, tránh tình trạng tự phát. Sự can thiệp
không quá sâu này tạo nên một tâm lý thoải mái hơn, không bị phiền hà, gây
khó khăn.
Hơn nữa sau khủng hoảng, Thái Lan đã dần lấy lại đà tăng trưởng. Theo dự
kiến tốc độ tăng trưởng của Thái Lan vẫn tiếp tục tăng trong những năm tới. Sự
tăng trưởng được giữ vững tạo điều kiện cho Chính phủ tiếp tục cải cách về chính
trị, luật pháp và cải tổ khu vực tài chính, ngân hàng. Điều này là nhân tố không nhỏ
tạo nên sự thuận lợi cho môi trường đầu tư.
2.1.2.2. Thách thức
Bên cạnh những thuận lợi còn không ít những thách thức cần tháo gỡ để xây
dựng lên một môi trường đầu tư có tính cạnh tranh.
Đó là tình hình chính trị còn nhiều phức tạp, bên cạnh đó nạn tham nhũng,
16
hối lộ, yếu kém về điều hành và quản lý nhà nước và công ty, sự yếu kém của khu
vực nông nghiệp, cũng là những yếu kém làm giảm sức hấp dẫn của môi trường
đầu tư.
Hơn nữa còn có thách thức về tính phụ thuộc của Thái Lan vào thị trường
thế giới. Việc phục hồi một số ngành sản xuất hướng vào xuất khẩu như ô tô, điện
tử, viễn thông và máy văn phòng là do kinh tế Mỹ, Nhật Bản và EU, những đối tác
kinh tế chủ yếu của Thái Lan đang có nhu cầu phát triển. Một khi những nhu cầu
này bị thu hẹp lại thì sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp và không nhỏ đến đà tăng trưởng
của Thái Lan. Chính điều này là nguy cơ gây sự mất ổn định về kinh tế.

Mặt khác còn có sự yếu kém về giáo dục và cơ sở hạ tầng. Sự yếu kém về
giáo dục làm cho đất nước lâm vào tình trạng khó khăn hơn trong quá trình phát
triển. Cơ sở hạ tầng kém gây nên sự kém hấp dẫn trong môi trường đầu tư. Cơ sở
hạ tầng ở Thái Lan kém hấp dẫn là do khâu hoạch định chính sách. Điển hình là
thoogn tin giữa các Bộ, ngành không được thông suốt; các dự án nhiều khi bị kết
thúc một cách chậm trễ cho những tranh cãi chính trị và khi thực thi thì thường
không dựa trên lợi ích kinh tế của đất nước mà lại dựa vào món lợi thu được của
một số cá nhân nào đó. Nạn mua chuộc, hối lộ tràn lan khiến cho nền kinh tế Thái
Lan mặc dù tăng trưởng rất nhanh và rất lâu vẫn bị thất bại trong việc xây dựng
một mạng lưới giao thông và hệ thống liên lạc viễn thông đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Thêm vào đó còn có sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế. Các ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động đã từng thúc đẩy sự tăng trưởng của Thái Lan trong
một thời gian dài nay đã bị lỗi thời. Các ngành sản xuất vật chất như dệt, giày dép
và đồ chơi khó có thể phục hồi do sự cạnh tranh của Trung Quốc và các nước
khác.
2.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan trong việc xây dựng môi trường đầu tư trực
tiếp nước ngoài hấp dẫn
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi được công bố vào năm 1989 đã qui định rõ
ràng những nghành kinh tế không chấp nhận đầu tư nước ngoài và những nghành
kinh tế mở cửa tự do cho tư bản tư nhân ngoại quốc. Các ngành kinh tế của Thái
Lan được chia thành 3 nhóm: A, B, C.
Các nhà doanh nghiệp nước ngoài không được phép đầu tư vào các nghành kinh
tế thuộc nhóm A (bao gồm nghề trồng lúa, nghề làm muối, buôn bán bất động sản, xây
dựng). Những ngành kinh tế còn lại được mở cửa cho tư bản tư nhân ngoại quốc. Chính
phủ đưa ra những chính sách ưu đãi rõ ràng nhằm thu hút các nhà đầu tư xây dựng cơ
sở sản xuất tại những vùng kém phát triển, thực hiện mục tiêu phát triển đồng đều giữa
các khu vực của đất nước.
Những dự án đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa (Thái Lan gọi là khu vực
3) được miễn hoàn toàn thuế nhập khẩu trang thiết bị máy móc (trong khi đó
các dự án đầu tư ở Băng Cốc chỉ được miễn thuế nhập khẩu trang thiết bị

50%). Thuế công ty được miễn trong 8 năm; nếu xuất khẩu 30% sản phẩm
(các dự án tương tự chỉ được miễn thuế 1 năm nếu được triển khai ở Băng
Cốc).
Để các nhà đầu tư yên tâm kinh doanh Thái Lan, Uỷ ban Đầu tư của Thái
Lan do Thủ tướng trực tiếp đứng đầu. Nhà nước đảm bảo không quốc hữu hoá và
17
không lập các xí nghiệp cạnh tranh với các công ty có vốn nước ngoài, không kiểm
soát giá cả và hạn chế xuất khẩu.
Về quản lý ngoại hối, nhà đầu tư được chuyển ra nước ngoài các thu nhập,
lợi nhuận, nhưng có thể bị hạn chế trong trường hợp để cân đối tình hình thu - chi.
Trong trường hợp hạn chế này thì cũng được chuyển ít nhất 15%/năm so với tổng
vốn đem vào Thái Lan.
Việc sở hữu đất đai được qui định riêng cho từng loại công ty. Mỗi công ty
được sở hữu bao nhiêu đất đai do luật qui định. Công nhân lành nghề, kỹ thuật viên
và gia đình họ được phép vào Thái Lan làm việc. Uỷ ban đầu tư chịu trách nhiệm
xem xét.
Thái Lan cũng đã nhiều lần cải tiến thủ tục cấp giấy phép; thủ tục triển khai
dự án theo hướng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, trong hơn hai thập kỷ qua, Thái Lan đã có nhiều thành công trong
chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài với lượng vốn đầu tư vào nước này tăng
liên tục. Có thể nói thành công đó là kết quả của sự thay đổi cả về nhận thức, sự
chuyển đổi chiến lược và chính sách kinh tế xã hội lẫn hành động thực tế của Thái
Lan trong thời gian qua nhằm tạo ra môi trường đầu tư ngày càng hấp dẫn hơn.
2.2. Malaisia
2.2.1. Kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Malaisia thời gian qua
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển các khu vực
kinh tế hiện đại của Malaisia. Đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và
dịch vụ, góp phần to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế và là thành công của chính
sách kinh tế mới do chính phủ Malaisia ban hành nhằm cải tổ cơ cấu kinh tế ngành
- lãnh thổ của đất nước. Từ năm 1990 trở lại đây, FDI tại Malaisia có nhiều biến

động. Trong những năm đầu thập kỷ này FDI tăng nhanh. Riêng năm 1993 đạt 4,4
tỷ USD. Năm 1996, tổng giá trị của số dự án vào Malaisia là 12,9 tỷ ringgit (5,6 tỷ
USD), nhưng chính phủ nước này chỉ phê chuẩn những dự án trị giá khoảng 9 tỷ
ringgit - giảm 20% so với năm 1994. Nguyên nhân của sự giảm này là do sự thay
đổi trong đường lối phát triển kinh tế mà Malaisia đã đề ra trong kế hoạch 5 năm.
Theo kế hoạch này, cơ sở của sự tăng trưởng tương lai của Malaisia sẽ là tăng năng
suất và giá trị tăng thêm trong quá trình sản xuất, chứ không phải thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Do vậy, các dự án nước ngoài được lựa chọn kỹ hơn.
Mặc dù chính phủ đã tăng mức lãi suất, đã thắt chặt hơn đối với đầu tư nước
ngoài song dòng vốn này vào Malaisia vẫn tăng mạnh. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Malaisia năm 1998 là 5,6 tỷ USD, năm 2000 đạt 6 tỷ USD, năm 2007 đạt 8,5
tỷ USD và 2010 đạt 9,1 tỷ USD.
Bảng 3: Số lượng FDI vào Malaisia những năm gần đây (triệu USD).
1986 1994 1998 2000 2003 2006 2007 2008 2009 2010
1.019 2.382 5.692 5.995 2.473 6.072 8.538 7.248 1.381 9.156
Nguồn: Foreign Direct Investment and Development: Where do we stand? (JBIC) 6/2002
ASEAN Investment Statistics Databases, as of 30 Sep 2011
Tóm lại, Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đổi mới cơ cấu, và đặc biệt đưa ngành công
nghiệp chế tạo của Malaisia phát triển vượt bậc. Thông qua đầu tư trực tiếp nước
18
ngoài, Malaisia đã sử dụng ưu thế về thị trường của các công ty xuyên quốc gia ở
các nước tư bản phát triển, Malaisia đã thành công trong việc gắn kết thị trường
trong nước và thị trường quốc tế.
Có thể khẳng định rằng việc sử dụng nhân tố đầu tư trực tiếp nước ngoài,
nhất là tranh thủ được thị trường của các nước Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản thông qua
quá trình liên kết với các công ty xuyên quốc gia là nền tảng trong chính sách mở
cửa kinh tế của Malaisia.
2.2.2 Những mặt tích cực và hạn chế trong môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Malaisia

2.2.2.1. Tích cực
Malaisia là nước có đường lối rất linh hoạt trong việc thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Tính linh hoạt được thể hiện ở việc ban hành sửa đổi, bổ sung
chính sách đầu tư cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển. Malaisia đã ban hành
luật thúc đẩy đầu tư PIA. Về cơ bản, các nhà đầu tư nước ngoài có thể được miễn
giảm thuế từ 3 - 8 năm, tối đa là 10 năm tuỳ thuộc vào các yếu tố như qui mô đầu
tư vốn, số lượng công nhân sử dụng, tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu đặc biệt, tư bản
nước ngoài có thể sở hữu 100% vốn nếu nó tuân thủ nhũng điều kiện như tỷ lệ xuất
khẩu thành phẩm đạt 80% trở lên. Bên cạnh việc ban hành và sửa đổi luật đầu tư,
Malaisia còn thực hiện các chính sách và biện pháp thúc đẩy các hoạt động đầu tư
như: đưa ra những văn bản hướng dẫn tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước
ngoài Chính vì vậy, môi trường đầu tư của Malaisia rất thuận lợi, hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài.
Hơn nữa, cơ sở hạ tầng của Malaisia như điện nước, thông tin viễn thông,
giao thông, cầu cảng, sân bay được đánh giá là hiện đại nhất trong khu vực. Đầu
tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng của chính phủ ngày càng tăng, nhằm đảm bảo môi
trường kinh doanh cạnh tranh và hấp dẫn hơn.
Thêm vào đó, về triển vọng phát triển kinh tế của Malaisia cũng là nhân tố
quan trọng tạo nên môi trường đầu tư hấp dẫn. Những thành tựu trong việc duy trì
nền kinh tế vĩ mô ổn định năm 1999 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Malaisia tiếp tục
tăng trưởng trong năm 2000 và những năm tiếp theo.
Tỷ giá đồng nội tệ 3,17 ringgit/1USD, được đánh giá đây là tỷ giá phù hợp với
nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế và tiếp tục hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Đây là những nhân tố nền tảng cơ bản tạo nên cho Malaisia một môi trường đầu
tư hấp dẫn có sức cạnh tranh hơn so với các nước khác trong khu vực.
2.2.2.2. Hạn chế
Thể chế tài chính chưa thực sự vững chắc, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ vừa qua đã bộc lộ những yếu kém trong hệ thống tài chính của nước này. Trong
điều kiện hiện nay, những cải cách và cơ cấu lại các ngân hàng và các công ty tài
chính chưa thực sự phát huy hiệu quả. Đây là nhân tố khiến cho nhiều nhà đầu tư

còn e ngại khi đầu tư vào Malaisia.
Hơn nữa do quá coi trọng vai trò của các công ty xuyên quốc gia nên nền
kinh tế của nước này chịu sự chi phối lớn từ phía nước ngoài, đặc biệt là các công
ty xuyên quốc gia thâu tóm hầu hết các khâu của quá trình tái sản xuất trong các
ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao như điện tử, lắp ráp xe hơi, dệt của
19
Malaisia. Vì vậy nền kinh tế của Malaisia ít có sự liên hệ chặt chẽ giữa các ngành,
điều đó ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tầm vĩ mô, đồng thời các ngành, các vùng
không có sự hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh tế. Điều này làm ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
2.2.3. Kinh nghiệm của Malaisia trong việc xây dựng môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài hấp dẫn
Malaisia trong chiến lược thu hút FDI rất coi trọng vai trò của các công ty
xuyên quốc gia, gắn lợi ích của các công ty này với lợi ích của Malaisia. Hiện nay
có khoảng 1000 công ty xuyên quốc gia của 50 nước đang hoạt động ở Malaisia.
Bên cạnh đó, chính phủ có thực hiện chế độ ưu đãi cho một số ngành có qui mô
nhỏ, tự cấp cho đồn điền, ưu đãi cho các công ty áp dụng cơ cấu sở hữu của tư bản
cổ phần, hoặc áp dụng công nghệ kỹ thuật cao.
Gần đây, nhằm thu hút FDI, khắc phục tình trạng khủng hoảng tài chính tiền tệ,
Malaisia đã chủ trương miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị cho các khu
chế xuất và các dự án hướng vào xuất khẩu. Đối với các dự án khác có thể được áp
dụng nếu sản phẩm chưa sản xuất được ở trong nước.
Malaisia áp dụng chính sách đào tạo lao động theo yêu cầu của chủ đầu tư,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động. Gần đây, nước này còn
quy định, các nhà chuyên môn, chuyên gia quản lý và kỹ thuật đã đóng thuế thu
nhập thì không phải trả thuế sử dụng nhân công nước ngoài.
Mọi thủ tục tạo nên sự phiền hà về đầu tư nước ngoài dần dần được loại bỏ và
thay vào đó là cơ chế, thủ tục nhanh, gọn, thông thoáng và hiệu quả. Nhờ vậy, dòng FDI
vào Malaisia ngày càng tăng lên trong những năm gần đây và một vài năm tới.
2.3. Indonesia

2.3.1. Kết quả thu hút FDI
Con đường phát triển kinh tế - xã hội của Inđonesia diễn ra đồng thời với quá
trình tận dụng hiệu quả các lợi thế có sẵn (tài nguyên thiên nhên, sức lao động rẻ,
thị trường nội địa rộng lớn, vị trí địa lý chiến lược, vai trò điều tiết nền kinh tế) với
các chính sách mềm dẻo để thu hút nguồn vốn và kỹ thuật công nghệ của các nước
phát triển.
Tháng 1 năm 1967, chính phủ Inđonêsia đã ban hành đạo luật về đầu tư nước
ngoài. Sử dụng nguồn vốn bên ngoài để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với Inđonesia. Chính phủ đã nhiều lần sửa đổi và bổ
sung các điều khoản mới trong luật đầu tư, tạo ra một bộ luật thông thoáng và hoàn
thiện nhằm thu hút được nhiều nhà đầu tư.
Có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Indonesia thành 3 giai đoạn lớn như sau:
Giai đoạn 1967 - 1990: Đây là giai đoạn bùng nổ đầu tư nước ngoài lần thứ
nhất. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực hiện trong giai đoạn này đạt
16,936 tỷ USD. Cơ cấu đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này chủ yếu tận dụng tài
nguyên sẵn có của Inđonesia và tập trung vào các ngành cần nhiều lao động.
Giai đoạn 1990 - 1996: Đây là giai đoạn bùng nổ đẩu tư lần thứ hai,
với đặc diểm chủ yếu là tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ cần
nhiều lao động và các công ty đầu tư chủ yếu vào Indonesia chủ yếu là các
công ty vừa và nhỏ từ các nước NIC
S
như Hàn Quốc, Đài Loan và
20
Hôngkông. Trong giai đoạn này, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
và Inđonesia là 127,239 tỷ USD, gấp 8 lần so với 23 năm trước. Đặc biệt
40% trong tổng số vốn đầu tư trong giai đoạn này (63,6 tỷ ) tập trung vào
2 năm 1994 và 1995.
Giai đoạn 1997 đến nay. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ bắt đầu tác
động mạnh vào Inđonesia từ tháng 1 năm 1998 với việc đồng Rupiah mất giá
khoảng 53% so với đồng Đô la Mỹ kể từ giữa năm 1997. Tăng trưởng kinh tế thì

liên tục giảm sút. Lạm phát tăng mạnh đến mức phi mã. Trên 80% số công ty, xí
nghiệp trong nước bị phá sản dẫn đến 12 triệu người bị thất nghiệp.
Trước diễn biến xấu về tình hình kinh tế - chính trị ở Inđonesia, 70% số nhà
đầu tư nước ngoài đã rút vốn đầu tư về nước. Đặc biệt, tình hình nghiêm trọng hơn
khi làn sóng bài Hoa diễn ra mạnh mẽ ở Jakatta và các thành phố lớn khác dẫn đến
tư bản Hoa đã phải chuyển gần 10 tỷ USD lánh nạn.
Số lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1998 giảm từ 9,4 tỷ
USD xuống còn 8,1 tỷ USD. Nhờ có những biện pháp tích cực phục hồi sau khủng
hoảng mà tình hình kinh tế của Inđonesia khá lên từ năm 1999. Do tình hình chính
trị và kinh tế dần dần ổn định dẫn đến việc các nhà đầu tư nước ngoài, kể cả tư bản
Inđonesia gốc Hoa đã quay trở lại tìm kiếm cơ hội đầu tư ở Inđonesia. Năm 1999,
FDI vào Inđonesia đạt 9,2 tỷ USD. Ngoài ra, sau thời gian tháo chạy của tư bản
Inđonesia gốc Hoa, họ đang tìm cơ hội để tái đầu tư trở lại Inđonesia khoảng từ 5
đến 10 tỷ USD.
Một phần đáng kể các dòng FDI vào Inđonesia được thực hiện dưới dạng
mua lại các công ty địa phương hoặc sáp nhập, bán đấu giá. Lĩnh vực quan trọng
đầu tiên là cải tổ hệ thống ngân hàng. Năm 1999, Inđonesia đã cho 6 công ty kiểm
toán chủ chốt kiểm tra 200 hệ thống ngân hàng; chính phủ đã cơ cấu lại 128 ngân
hàng tư nhân bằng các biện pháp đóng cửa, bán cổ phần hoặc sáp nhập với ngân
hàng nước ngoài. Đến năm 2000 số lượng đầu tư nước ngoài vào Inđonesia đã đạt
11,605 tỷ USD.
Tuy nhiên, năm 2003 do chính sách kiểm soát dòng FDI nhằm tránh lạm
phát đã làm cho tâm lý các nhà đầu tư lung lay nên lượng FDI vào Indonesia năm
2003 là âm 0,6 tỷ USD. Nhưng giai đoạn từ 2006 đến nay dòng FDI vào Indonesia
đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại (xem bảng 4). Khi chính sách kiểm soát dòng
FDI được nới lỏng, các biện pháp thu hút FDI được thực hiện tốt đã giúp cho dòng
FDI vào Indonesia có bước tăng mạnh từ 4,9 tỷ USD năm 2006 lên 13,3 tỷ USD
năm 2010.
Bảng 4: Số lượng FDI vào Indonesia những năm gần đây (triệu USD).
1986 1994 1998 2000 2003 2006 2007 2008 2009 2010

3.369 5.015 8.104 11.605 -596 4.914 6.928 9.318 4.877 13.304
Nguồn: Foreign Direct Investment and Development: Where do we stand? (JBIC) 6/2002
ASEAN Investment Statistics Databases, as of 30 Sep 2011
Nhìn chung, Inđonesia là một nước khá thành công trong thu hút vốn FDI.
Để đạt được những kết quả đó, Indonesia đã không những phát huy những lợi thế
sẵn có của mình mà còn đưa ra những chính sách liên quan đến đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhằm xây dựng lên môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh. Vậy
21
môi trường đầu tư của Inđonesia có những mặt tích cực và hạn chế gì.
2.3.2. Những mặt tích cực và hạn chế trong môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Inđonesia
2.3.2.1. Tích cực
Là một nền kinh tế mở, Indonesia có một môi trường đầu tư hấp dẫn: cơ chế
quản lý ngoại hối tự do, tình hình chính trị tương đối ổn định, nguồn nhân lực đông
và rẻ, nguồn tài nguyên giàu có vào bậc nhất Châu Á. Khi tình hình trong nước
cũng như quốc tế thay đổi thì chính phủ Indonesia lại nhanh chóng thay đổi lại
chính sách đầu tư cho phù hợp. Song những sự thay đổi đó bao giờ cũng mang tính
chất ưu đãi nhằm tăng đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, nhiều dấu hiệu về tốc độ phát
triển kinh tế của Indonesia cũng rất khả quan, xét trong dài hạn thì trong khoảng
2010 - 2020 tốc độ tăng trưởng của Indonesia đạt trung bình khoảng 5,5%/năm.
Thu nhập GDP bình quân có khả năng được nâng cao.
Có thể thấy, nếu so với nền kinh tế Inđonesia năm 1998 thì đến năm 2005,
thu nhập bình quân sẽ tăng khoảng 1,5 lần và đến năm 2010 tăng xấp xỉ 2 lần.
Về xuất khẩu và cán cân thương mại có chiều hướng được cải thiện tích cực,
tỷ lệ lam phát, thất nghiệp giảm. Tỷ lệ lạm phát trong 2000 - 2005 là 10 - 15%, đây
là mức lạm phát có khả năng kiểm soát được.
Sức mua của thị trường nội địa cũng sẽ được nâng cao 2000 - 2005 tăng
trung bình 11%/năm.
Tất cả những vấn đề đó đều tạo lên một môi trường kinh doanh ổn định,
khiến cho các nhà đầu tư yên tâm khi đổ vốn vào Inđonesia.

2.3.2.2. Hạn chế
Bên cạnh những tích cực của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài như
trên, vẫn còn không ít những hạn chế. Đó là:
Vấn đề ổn định chính trị và giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo vẫn còn
là ẩn số. Tình hình chính trị có thể nói là phức tạp, với gần 100 đảng phái chính trị
khác nhau. Trong suốt thập kỷ qua, cuộc tranh giành quyền lực diễn ra hết sức
phức tạp, chủ yếu giữa lực lượng quân sự, hồi giáo và tầng lớp dân chủ tiểu tư sản
và các phần tử Maoist. Những đảo lộn xã hội và bất ổn của kinh tế đã dẫn tới việc
gia tăng tình trạng bạo động, chủ nghĩa ly khai và xung đột sắc tộc đáng kể trên
khắp đất nước này trong những năm gần đây. Các nhà phân tích kinh tế cho rằng,
do tính chất phức tạp của tình hình kinh tế chính trị hiện nay, kinh tế Inđonesia khó
lòng đạt được các mục tiêu đã đặt ra cho thời gian tới. Vấn đề cốt lõi của Inđonesia
khác với các quốc gia Đông Nam Á khác ở chỗ, có giải quyết được vấn đề chính trị
mới có khả năng ổn định kinh tế. Mặt khác, Inđonesia vẫn phải đương đầu với nhiều
vấn đề nghiêm trọng trong giai đoạn 2000 - 2005. Đó là 6,1 triệu lao động thất nghiệp,
nợ công cộng tăng gấp 4 lần (102% GDP năm 1999 so với 24% năm 1997), tình trạng
thua lỗ của ngân hàng hiện nay vào khoảng 7,1 tỷ USD, nợ khó đòi chiếm 55% tổng
số tín dụng.
Hơn nữa, các vấn đề xã hội như tình trạng đói kém, thiếu lương thực, các tệ nạn
xã hội gia tăng cũng đang là những vấn đề thách thức đối với Indonesia vào những
năm đầu thế kỷ XXI. Vì có thể dự đoán rằng, về kinh tế, những năm sắp tới, Indonesia
có thể sẽ gặp khó khăn hơn so với các quốc gia Đông Nam Á khác.
22
Đó là những vấn đề lớn còn khiến cho các nhà đàu tư còn dè dặt khi đầu
tư vào Inđonesia.
Ý thức trước những thách thức như vậy, chính phủ Indonesia cũng đang
tích cực tìm cách tháo gỡ. Chẳng hạn như trong diễn văn nhậm chức của mình,
để trấn an các nhà đầu tư nước ngoài, ông Wahid tuyên bố sẽ dồn sức nỗ lực
vào việc cải thiện đời sống của người dân nghèo trong nước, nhưng vẫn tuân
theo những nguyên tắc thị trường tự do. Về đối ngoại, ông cho biết sẽ tập trung

nỗ lực vò việc cải thiện quan hệ với các nước láng giềng trong khối ASEAN và
chuyến viếng thăm nước ngoài đầu tiên của ông là các nước ASEAN và tiếp
đến là Trung Quốc. Mặt khác, chính phủ cũng đã đưa ra nhiều chính sách ưu đãi
đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ nhiều lần sửa đổi và bổ sung các
điều khoản mới trong luật đầu tư, chính phủ đơn giản hoá các thủ tục cấp giấy
phép đầu tư, thực hiện chính sách liên doanh, liên kết, thành lập hệ thống công
ty cổ phần và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ còn cho
phép các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực “cấm” trước đây.
Bằng các chính sách thu hút FDI, Indonesia đã lợi dùng được nguồn vốn
tương đối tập trung của Mỹ, Nhật, kết hợp với nguồn dầu mỏ xuất khẩu đã tạo điều
kiện cho nền kinh tế trong nước tăng nhanh. Thông qua các dự án đầu tư nước
ngoài, Indonesia đã xây dựng được nhiều ngành công nghiệp then chốt đòi hỏi quy
mô vốn lớn và kỹ thuật công nghệ cao. Bằng các hình thức liên doanh, kết quả to
lớn đã đem lại cho các nhà quản lý trong nươc kinh nghiệm kinh doanh và tạo cho
Inđonesia đội ngũ cán bộ, công nhân có kỹ thuật và tay nghề cao. Số lượng đầu tư
nước ngoài, chính vì thế ngày càng tăng nhanh, từ 596 triệu USD giai đoạn 1969 -
1974 lên 40,72 tỷ USD giai đoạn 1989 - 1994.
2.3.3. Kinh nghiệm của Inđonesia trong việc xây dựng môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài hấp dẫn
Thành công của Inđonesia không chỉ là do vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu
của nước này ở Đông Nam Á và các lợi thế so sánh của họ so với các nước khác trong
vùng mà còn do những cố gắng của chính phủ trong việc tạo thêm sức hấp dẫn của
nước họ với tư cách là một địa bàn đầu tư.
Điều đáng lưu ý trong chính sách đó là:
Thu hẹp những vùng cấp FDI nước ngoài: hiện nay chính phủ Inđonesia đã
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được bỏ vốn vào một số ngành trước đây đóng
cửa đối với tư bản tư nhân ngoại quốc. Những ngành đó là: Cảng biển; sản xuất,
chuyển tải và phân phối điện thương mại; viễn thông; tàu biển; hàng không dân
dụng; cung cấp ống nước; điện nguyên tử và thông tin đại chúng.
Không phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài về phương diện thuế.
Về chính sách thị trường, gần đây để tạo môi trường cạnh tranh thuận lợi
Indonesia cho phép mọi ngành công nghiệp, trừ các ngành trong danh mục loại trừ
và trong kho ngoại quan được tiếp cận tự do thị trường nội địa.
Vấn đề quản lý ngoại hối, doanh nghiệp nước ngoài được phép chuyển ra
nước ngoài các khoản thu nhập sau thuế, vốn, chi tiền cho cá nhân, khấu hao tài
sản, tiền bán cổ phần cho người (hoặc tổ chức) Indonesia, tiền thu hồi vốn trường
23
hợp bị quốc hữu hóa. Ngoài ra, Chính phủ Indonesia từng bước hạ thấp lãi suất của
tiền gửi ngân hàng trung ương, làm cho tiền gửi ngân hàng và lãi suất cho vay giảm
xuống. Điều đó khuyến khích các doanh nghiệp hăng hái đầu tư hơn.
Về vấn đề sở hữu 100% vốn nước ngoài, gần đây cũng như Malaisia,
Philipin, Singapore, Thái Lan, Inđonesia đã áp dụng cho tất cả các ngành công
nghiệp, trừ các ngành có trong danh mục cấm hoặc hạn chế đầu tư. Ngoài ra,
Inđonesia còn qui định, sau 15 năm, các công ty phải có ít nhất một phần vốn sở
hữu trong nước.
Về thủ tục hành chính, Inđonesia thực hiện đơn giản hoá thủ tục cấp phép
đầu tư, đặc biệt đầu tư vào công nghiệp. Chỉ cần trình dự án cho các Bộ chủ quản
xem xét và quyết định, không cần phải gửi lên cơ quan thẩm định quốc gia. Các
công ty có giấy phép cố định đặc quyền tự do mở rộng sản xuất, cải tạo, hiện đại
hóa sản xuất thì không cần xin giấy phép nếu sản phẩm nằm trong danh mục ưu
tiên đầu tư.
2.4. Singapore
2.4.1. Kết quả thu hút FDI
Xuất phát từ một nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, Singapore cần một
khối lượng vốn rất lớn để đổi mới cơ cấu và hiện đại hoá nền kinh tế. Vì vậy, ngay
từ đầu họ đã chú trọng cả nguồn vốn bên trong lẫn nguồn vốn bên ngoài, đặc biệt là
nguồn vốn bên ngoài.
Trong các cách thức huy động vốn bên ngoài như vay nợ, đầu tư trực tiếp và
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán,

Singapore đặc biệt chú trọng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Singapore cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư qua các hính thức: doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, liên doanh, khu chế xuất, hợp tác kinh doanh. Trong đó hình thức liên
doanh được chú ý nhều hơn.
Về đối tác đầu tư, Singapore chủ trương không phân biệt để tận dụng khả
năng về vốn của các công ty nhiều nước khác nhau. Tuy nhiên các đối tác được
Singapore quan tâm nhiều hơn là các công ty Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan. Vấn đề
hướng đầu tư cũng được xác định rõ trong các thời kỳ. Ban đầu, do cơ sở kinh tế ở
điểm xuất phát thấp, Singapore chủ trương thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
phát triển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nhanh tạo ra sản
phẩm xuất khẩu như ngành dệt may, lắp ráp các thiết bị điện và phương triện giao
thông. Bước sang những năm 1980, cùng với sự phát triển như vũ bão của công
nghiệp điện tử và một số công nghệ tiên tiến khác, hướng thu hút vốn đầu tư tập
trung vào những nghành như sản xuất máy vi tính, sản xuất hàng điện tử, hàng bán
dẫn dân dụng, công nghiệp lọc dầu và kỹ thuật khai thác mỏ. Nhìn chung nhà nước
có chính sách ưu tiên cho những ngành nghề, lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế.
đồng thời quy mô đầu tư vốn lớn cũng được hưởng nhiều ưu tiên. Để khai thác ưu
thế về vị trí địa lý cũng như khắc phục sự nghèo thiếu về tài nguyên thiên nhiên,
phù hợp với trình độ phát triển cao của nền kinh tế, việc thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài còn hướng tới việc tạo ra một hệ thống các nghành dịch vụ thúc
đẩy đầu tư nước ngoài cũng như phục vụ các nhu cầu đời sống dân cư và phát triển
kinh tế chung ở Singpore.
24
Với định hướng thu hút FDI vào những nhà đầu tư lớn, nắm giữ công nghệ
cao… lượng FDI chảy vào Singapore luôn dẫn đầu các nước thuộc khối ASEAN.
Bảng 5 cho thấy dòng FDI vào Singapore tăng nhanh qua các năm. Đặc biệt là giai
đoạn 1997 đến 2007 và giai đoạn 2008 đến 2010.
Bảng 5: Số lượng FDI vào Singapore những năm gần đây (triệu USD).
1990 1993 1996 1997 2000 2003 2006 2007 2008 2009 2010
2.952 4.686 9.440 5.908 11.834 11.941 29.349 37.033 8.589 15.279 35.520

Nguồn: foreign Direct investment and development: Where do you stand?(JBIC/June/2002)
ASEAN Investment Statistics Databases, as of 30 Sep 2011
Lượng FDI vào Singapore có sự gián đoạn chủ yếu là do suy thoái kinh tế
toàn cầu từ cuối năm 2007 đã ảnh hưởng trực tiếp tới đối tượng thu hút FDI của
Singapore là những nhà đầu tư đến từ Mỹ và Nhật Bản đã làm lượng FDI vào
Singapore năm 2008 giảm mạnh chỉ còn 8,5 tỷ USD. Tuy nhiên, một số chính
sách thu hút đầu tư cũng như nền kinh tế toàn cầu có sự tăng trưởng trở lại từ
năm 2009 dòng FDI vào Singapore tiếp tục tăng trở lại đạt 15,3 tỷ USD và tăng
mạnh lên 35,5 tỷ USD vào năm 2010.
Vốn đầu tư nước ngoài chiếm hầu hết trong các ngành công nghiệp then
chốt. Cụ thể vốn nước ngoài chiếm 70% tổng vốn đầu tư ngành điện tử bán dẫn,
chiếm 84% tổng vốn đầu tư của ngành lọc dầu, chiếm 50% tổng vốn đầu tư của
ngành luyện thép, Singapore cũng là nước có tỷ lệ FDI trên tổng vốn đầu tư
vào nền kinh tế cao nhất trong các nước ASEAN và cũng cao nhất các nước
Châu Á.
Có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố quyết định trong việc làm
thay đổi nhanh chóng bộ mặt của nền kinh tế Singapore. Từ một nền kinh tế thương
mại chủ yếu là chuyển khẩu, nghèo nàn, rời rạc, trong vòng hai thập kỷ Singapore
đã trở thành một quốc gia công nghiệp hoá có cơ cấu công nghiệp - dịch vụ hiện
đại, đứng đầu trong nhiều lĩnh vực về kỹ thuật và công nghệ trong vùng. Những
thay đổi căn bản kể trên là cơ sở vững chắc cho tốc độ cao liên tục trong nhiều
năm. Hơn thế nữa chúng còn là tiền đề cho sự thay đổi vượt trội về năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế.
2.4.2. Những mặt tích cực và hạn chế trong môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Singapore
2.4.2.1. Tích cực
Trước tiên có thể thấy một yếu tố quyết định khiến nhà đầu tư nước ngoài
yên tâm khi đầu tư vào Singapore đó là Singapore có môi trường chính trị ổn định,
an toàn, lợi ích kinh tế được đảm bảo.
Bên cạnh đó, Singapore cũng liên tục tạo ra những chính sách ưu đãi đầu tư.

Chính những ưu đãi đồng thời là những nhượng bộ này có tác dụng căn bản đối với
việc lôi cuốn các nhà đầu tư nước ngoài. Những ưu thế trong chính sách đầu tư đã
giúp cho Singapore thu hút được các công ty hàng đầu thế giới như: Sony, Sharp,
Philips và các lĩnh vực mũi nhọn với công nghệ tiên tiến. Ngành lọc dầu với các
công ty Shell, Esso, Mobil, British Petroleum. Ngành đóng tàu với công ty Ishika
Wajima của Nhật Bản,
Một yếu tố khác cũng có tính hấp dẫn cao đối với nhà đầu tư nước ngoài
25

×