Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

KINH NGHIỆM CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG Á BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.05 KB, 41 trang )

KINH NGHIỆM CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG Á BÀI HỌC CHO VIỆT
NAM
I. CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA TRUNG QUỐC
1. Chất lượng tăng trưởng về kinh tế
1.1. Kết quả sản xuất và tăng trưởng của nền kinh tế
Là nước có nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi như Việt Nam, Trung Quốc đã có những bước tiến dài
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội kể từ khi bắt đầu tiến hành việc cải cách mở cửa nền kinh tế vào năm 1979.
Qua 25 năm đổi mới, kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng và đã đạt được nhiều kết quả to lớn trong sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế cũng như xây dựng được một nền tảng xã hội vững chắc, thể chế chính trị ổn định,
đảm bảo sự tăng trưởng có chất lượng.
Trung Quốc hiện đứng trong số 10 nước có GDP lớn nhất thế giới, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong lịch
sử loài người. Trong thập kỷ 1980, mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Trung Quốc đạt 10,1%, sang
thập kỷ 1990, mức tăng này còn cao hơn, đạt 10,3%. Từ năm 2001 đến nay GDP của Trung Quốc vẫn liên tục đạt
mức cao, cụ thể năm 2001 đạt 7,3%; năm 2002 đạt 8,3%; năm 2003 đạt 9,3%; năm 2004 đạt 9,5%; năm 2005 đạt
9,2% và dự đoán năm 2006 đạt khoảng 8,8%.
Năm 1995, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là 2653 USD, rút ngắn khoảng cách so với GDP bình
quân đầu người của Châu Âu xuống còn 5,3 lần, so với Mỹ còn 8,8 lần, so với Nhật Bản tăng lên bằng 7,4 lần, so
với GDP bình quân đầu người trên thế giới giảm từ 4,2 lần năm 1952 còn có 2 lần.
Mức tăng trưởng cao mà Trung Quốc đạt được trong suốt 25 năm qua chính là kết quả của sự đổi mới trong tư
duy của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đã mạnh dạn và kiên quyết thực hiện các chính sách
đổi mới kinh tế, đưa nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Các chính
sách kinh tế vĩ mô liên tục được thay đổi theo hướng ngày càng nới lỏng sự kiểm soát của Chính phủ đối với thị
trường, bắt đầu từ khu vực nông nghiệp, sau đó mở rộng sang khu vực công nghiệp và cuối cùng là khu vực dịch vụ.
Thay đổi căn bản và sâu sắc nhất để hướng về một nền kinh tế tự do và thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ hơn chính là
việc sửa đổi Hiến pháp năm 2004. Tất cả những sự thay đổi này đã tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân, bộ phận đóng
vai trò chủ chốt trong nền kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ.
Đóng góp trước tiên về tăng trưởng nền kinh tế của Trung Quốc phải kể đến thành quả của quá trình chuyển đổi
trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành. Đồng thời với việc đi sâu cải cách, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện điều
chỉnh mang tính chiến lược đối với cơ cấu kinh tế, lấy cơ cấu ngành làm trọng tâm, coi cơ cấu ngành có tác dụng
quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng cao
và bền vững của nền kinh tế.


Cơ cấu ngành bao gồm quan hệ tỷ lệ giữa 3 khu vực sản xuất (I - Nông nghiệp và khai thác; II - Xây dựng, chế
tạo, chế biến; III - Dịch vụ) cũng như quan hệ nội bộ từng ngành. Từ năm 1978, xu thế biến động cơ cấu ngành của
Trung Quốc là: Tỷ trọng khu vực I có xu thế giảm xuống, tỷ trọng khu vực II cơ bản giữ ở mức trung bình và có xu
hướng tăng lên; tỷ trọng khu vực III ngược lại có xu hướng tăng nhanh. Xét về mặt cơ cấu giá trị sản lượng thấy
rằng, từ năm 1978 đến 2005, tỷ trọng khu vực I đã từ 28,1% giảm xuống còn 19,6%; tỷ trọng khu vực II từ 48,2%
tăng lên 49,1%; tỷ trọng khu vực III đã từ 23,7% tăng lên 31,3%. Xét đóng góp vào GDP, năm 2001, ngành nông
nghiệp chiếm 12,5%; ngành công nghiệp chiếm 51,2%; dịch vụ chiếm 33,6%. So với năm 1978 (mức tương ứng
trong ba ngành là: 28,4%; 48,6% và 23%). Như vậy có thể thấy tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ có xu hướng
đang tăng lên, tỷ trọng của nông nghiệp giảm đi.
Tuy nhiên trong xu thế biến động theo cơ cấu ngành, có một đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy là tỷ trọng khu vực I
giảm xuống đã không dẫn đến sự biến động lớn của khu vực II, mà lại là sự tăng lên tỷ trọng của khu vực III, trong
khi Nhà nước tập trung đầu tư lớn cho khu vực II. Điều này cho thấy những bất cập trong việc dùng mệnh lệnh hành
chính thúc đẩy công nghiệp hóa, hạn chế sự phát triển của ngành dịch vụ. Sự phát triển mạnh của khu vực III trong
quá trình cải cách theo hướng thị trường là một tất yếu mang tính khách quan trong thực trạng phát triển của nền
kinh tế thị trường.
Về cơ bản, cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp thay đổi theo hướng: tỷ trọng một số ngành mới như chế tạo,
dầu mỏ, điện tử, thiết bị thông tin được nâng cao, tỷ trọng một số ngành công nghiệp truyền thống như dệt, cao su,
… bắt đầu giảm, nhưng cục diện chung về cơ cấu ngành chưa có sự thay đổi mạnh mẽ, rõ nét.
Trong khu vực nông thôn cũng có sự chuyển biến cơ cấu theo chiều hướng tích cực. Điển hình là sự tăng trưởng
nhanh chóng của khu vực công nghiệp nông thôn, bao gồm vô số các doanh nghiệp nông thôn quy mô nhỏ do các
hương trấn, làng xã và cá nhân thành lập. Các doanh nghiệp nông thôn này đã làm thay đổi toàn cảnh kinh tế của
khu vực nông thôn Trung Quốc, trở thành lực lượng chính đứng đằng sau sự tăng trưởng chung bền vững của Trung
Quốc. Đây chính là điểm khác biệt quan trọng đưa Trung Quốc đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong công
cuộc công nghiệp hóa công nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hóa nói chung. Năm 1978, giá trị sản lượng
của các doanh nghiệp nông thôn trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 9% tổng sản lượng toàn quốc. Đến năm 1997,
con số này lên tới 58%. Công nghiệp nông thôn ngày nay không chỉ đơn thuần là sự bổ sung cho sản xuất nông
nghiệp mà đã là một nguồn tăng trưởng không thể thiếu đối với các ngành kinh tế khác, đặc biệt là xuất nhập khẩu.
Năm 1986, tỷ trọng của doanh nghiệp nông thôn trong tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 9%; đến năm 1997 con số
này đã là 46%.
Có thể nói, điều chỉnh kết cấu ngành nghề là một trong những nội dung quan trọng nhất làm thay đổi phương

thức tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc. Phương châm đặt ra đối với Trung Quốc từ những năm đầu thập kỷ 1990 là:
chú trọng phát triển ngành nghề thứ nhất, điều chỉnh và nâng cao ngành nghề thứ hai, tích cực phát triển ngành nghề
thứ ba. Phát triển ngành nghề thứ nhất, đặc biệt là nông nghiệp được coi là chiến lược cơ sở của Trung Quốc vì sản
xuất lương thực liên quan đến sự tồn vong, đến tương lai của Trung Quốc. Phát triển ngành nghề thứ ba giúp thúc
đẩy thị trường phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất, giúp ngành nghề thứ nhất và thứ hai phát triển.
Nhờ những thay đổi trong cơ cấu ngành đã tạo tiền đề thúc đẩy thương mại Trung Quốc phát triển và trở thành
động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là kể từ sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc tăng lên hàng năm. Tốc
độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu của Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2005 luôn được duy trì ở mức trên 20%. Cụ
thể, năm 2001, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 509,67 tỷ USD, năm 2002, 620,79 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm
2001, năm 2003 đạt 851,21 tỷ USD, tăng 37,1% so với năm 2002, năm 2004 đạt 1155,28 tỷ USD, đến năm 2005 con
số này đã đạt hơn 1.421 tỷ USD. Với tốc độ tăng trưởng cao liên tục như vậy cho thấy, mô hình tăng trưởng ngoại
thương của Trung Quốc đã có những thay đổi sâu sắc.
Mức tăng trưởng cao đạt được còn là kết quả của những yếu tố trong tổng cầu. Tỷ lệ tiết kiệm cao dẫn đến tỷ lệ
tích lũy và mức đầu tư cao. Tỷ lệ dự trữ trong nước cao thể hiện qua lượng tiền gửi trong nước tăng hàng năm, trong
đó tiền gửi tiết kiệm của nhân dân thành thị và nông thôn chiếm 2/3 trong GDP. Thời gian qua, Trung Quốc đã rất
thành công trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nguồn vốn này đã tăng
nhanh chóng, từ 4,4 tỷ USD năm 1991 lên 53,3 tỷ USD năm 2003; 60,6 tỷ USD năm 2004 rồi 60,33 tỷ USD năm
2005, đưa Trung Quốc lên vị trí dẫn đầu thế giới về tiếp nhận FDI. Chính hai nhân tố này đã khiến cho Trung Quốc
duy trì tốc độ tăng trưởng cao và thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế của Trung Quốc.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Trung Quốc chấp nhận mức lạm phát cao 11 -15%/năm, trong giai đoạn năm
1994 – 2001, để đạt tốc độ tăng trưởng hai con số với tăng mức cung tiền thêm lên tới 59.223,82 tỷ NDT, tương
đương 701 tỷ USD. Tuy nhiên, chính sách này không đảm bảo bền vững, theo đánh giá của WEF, điều này thể hiện
những yếu kém về thể chế; sự trì trệ trong các điều chỉnh cải cách tài chính; tỉ lệ công nghệ mới đưa vào nền kinh tế
thấp và tỷ lệ lao động trình độ cao còn thấp. Hiện nay, tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc đã được kiềm chế ở mức thấp,
song tăng trưởng vẫn còn thể hiện những bất cập nghiêm trọng. Điển hình đó là sự tăng trưởng nền kinh tế quá cao
lại do sự đầu tư quá nhiều vào bất động sản; tình trạng vay tín dụng quá lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng;... gây ra tình
trạng tăng trưởng ảo và lạm phát là điều tất yếu sẽ xảy ra.
Biểu đồ 5: Biến động lạm phát của Trung Quốc
(1990 – 2003)

-5
0
5
10
15
20
25
30
1
9
9
0
1
9
9
1
1
9
9
2
1
9
9
3
1
9
9
4
1
9

9
5
1
9
9
6
1
9
9
7
1
9
9
8
1
9
9
9
2
0
0
0
2
0
0
1
2
0
0
2

2
0
0
3
%
1.2. Tăng trưởng kinh tế đảm bảo theo chiều sâu
Một thành công lớn trong quá trình tăng trưởng nhanh ở Trung Quốc đó là tăng trưởng dựa vào tăng hiệu quả sử
dụng vốn và các yếu tố khác hơn là dựa vào sự gia tăng lượng đầu vào về vốn và lao động. Trong thời gian 1978 –
1995, mức tăng bình quân năm của GDP đạt 9,4% thì mức tăng vốn là 8,8%, mức tăng vốn nhân lực (tính bằng số
năm đi học/một công nhân) là 0,7% và mức tăng lực lượng lao động là 4%. Theo tính toán của WB, việc tăng vốn
đầu vào đóng góp khoảng 37% vào mức tăng trưởng chung, cải thiện chất lượng và số lượng lao động đóng góp
17%, còn lại gần 1 nửa tăng trưởng GDP (khoảng 4,3 điểm %) là nhờ các yếu tố khác (tiến bộ công nghệ, hợp lý hóa
sản xuất, cải tiến quản lý…). Giá trị năng suất nhân tố tổng hợp (TFP – Total Factor Productivity) nhờ đó được tăng
lên. Điểm phần trăm tăng trưởng của TFP chiếm từ 0,194% lên đến 4,09 % trong tăng trưởng GDP 9,71 % giai đoạn
1979 -1998. Tính chung 1960 – 2000, điểm phần trăm trung bình của TFP là 4,4 %, chiếm 46,8 % đóng góp vào
tăng trưởng GDP của Trung Quốc. Giá trị TFP của Trung Quốc là khá cao so với các nước trong khu vực và có thể
so sánh với các nước công nghiệp phát triển. Sự gia tăng không ngừng giá trị đóng góp của TFP ở Trung Quốc có
được là nhờ:
Thứ nhất: Tác động của cải cách kinh tế làm nâng cao chất lượng lao động thông qua tăng cường chất lượng giáo
dục – đào tạo. Đồng thời, sự chuyển dịch lao động từ các công việc có năng suất thấp trong nông nghiệp sang những
công việc có năng suất cao hơn nhiều trong khu vực thành thị hoặc trong các xí nghiệp hương trấn cũng có thể xem
như một sự nâng cao chất lượng lao động, giải thích cho sự tăng lên của TFP.
Trong giai đoạn tới đây, chính phủ Trung Quốc thực hiện chủ trương đầu tư cho phát triển nhân lực, coi đây là
tiền đề, nền tảng và động lực để phát triển đất nước bền vững. Phát triển giáo dục kỹ thuật và dạy nghề nhằm nâng
cao chất lượng và kỹ năng của công nhân và cán bộ trung cấp; mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục đại học và
sau đại học cũng là những ưu tiên trong chính sách giáo dục của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc còn có những
chính sách gửi sinh viên ra nước ngoài đào tạo, thu hút các sinh viên đã học xong trở về nước làm việc. Đặc biệt, sau
khi Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc thực hiện chủ trương bồi dưỡng nhân tài theo 3 hướng: hướng về hiện
đại hóa, hướng ra thế giới và hướng tới tương lai. Chiến lược này thể hiện ý chí đưa giáo dục của Trung Quốc bắt
kịp với các xu thế phát triển của thế giới, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho tương lai.

Thứ hai, sự cải thiện trong cơ cấu vốn. Sự cải thiện này được thấy ở việc chuyển sang phụ thuộc nhiều hơn vào
máy móc thiết bị nhập khẩu – có chất lượng cao hơn với giá rẻ hơn.
Thứ ba, đầu tư phát triển khoa học - công nghệ. Tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc luôn đi liền với sự phát triển
của lĩnh vực khoa học - công nghệ. Tổng mức kinh phí chi cho hoạt động khoa học toàn quốc năm 1999 là 125 tỷ
NDT. Năm 2000, tỷ trọng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D)/GDP của Trung Quốc đạt 1,0%
(tương đương với khoảng 89,6 tỷ NDT, tăng 17,9% so với năm trước), vượt lên đứng hàng đầu trong các nước phát
triển. Sự phát triển của khoa học - công nghệ đã góp phần không nhỏ trong việc tăng năng suất lao động xã hội, thúc
đẩy sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào sản xuất, tăng tỷ trọng đóng góp của TFP trong mức tăng trưởng GDP.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nhanh ở Trung Quốc lại không dẫn đến việc năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
được nâng cao. Ngược lại, trong những năm gần đây, theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF – World
Economic Forum), vị trí xếp hạng năng lực cạnh tranh của Trung Quốc liên tục tụt bậc. Nếu như năm 2002, xếp
hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Trung Quốc là 33 trên tổng số 80 nước được xếp hạng, thì đến năm 2003
đã tụt 11 bậc xuống vị trí thứ 44, năm 2004 là 46 và năm 2005 là 49. Trong đó, chỉ số môi trường vĩ mô có sự suy
giảm mạnh nhất từ vị trí rất cao (thứ 8) năm 2002 xuống vị trí thứ 24 năm 2004 và 33 năm 2005. Điều này xuất phát
từ thực tế là trong vòng 2 - 3 năm qua, Trung Quốc đang áp dụng các biện pháp để kiềm chế, kiểm soát sự tăng
trưởng quá nóng, cũng như do cầu tăng mạnh đã thúc đẩy lạm phát gia tăng.
2. Hiệu lực quản lý nhà nước của Trung Quốc
2.1. Các chính sách vĩ mô
2.1.1. Chính sách tài khóa
Trong điều hành bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, Trung Quốc chú trọng sử dụng chính sách tài khóa, coi đây
là động lực tiên phong thúc đẩy kinh tế tăng trưởng một cách bền vững. Trong suốt gần 30 năm qua, Trung Quốc đã
kiên trì thực hiện chính sách chi tiêu NSNN hết sức thận trọng, kiểm soát chặt chẽ thâm hụt NSNN, tạo môi trường
kinh tế vĩ mô ổn định, thuận lợi cho kinh tế tăng tốc lâu dài. Từ 1978 đến nay, Trung Quốc kiên quyết không phát
hành tiền cho chi tiêu và bù đắp thâm hụt NSNN trong trường hợp thu NSNN không đủ cho chi tiêu của Chính phủ.
Thay vào đó, tích cực thi hành chính sách động viên (chính sách thu) và chính sách chi NSNN đúng đắn, nhờ vậy
mà kinh tế nước này đã được thúc đẩy tăng tốc với nhịp độ cao chưa từng thấy. Độ ổn định và cân bằng NSNN của
Trung Quốc chỉ dao động trên dưới 0,9% GDP, vào loại vững chắc nhất thế giới.
Cùng với đó là các chính sách điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu chi NSNN, bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế –
xã hội. Tỷ lệ đầu tư vào các dự án sản xuất giảm dần cho thấy Nhà nước đã chủ động rút dần khỏi hoạt động sản
xuất kinh doanh thuần túy vốn có trong kinh tế kế hoạch để tập trung cho chức năng hoạch định chính sách, điều

chỉnh và định hướng ở tầm vĩ mô. Chi cho xây dựng kinh tế giảm từ 60% năm 1978 xuống còn 26,6% tổng chi
NSNN năm 1995, còn chi cho đầu tư cơ bản giảm từ 40,3% năm 1978 xuống còn 11,6% năm 1995. Chi tiêu cho y
tế, giáo dục và phúc lợi tăng từ 11,6% lên 23,2% NSNN năm 1995. Chi cho quản lý trong công nghiệp, thương mại
cũng như toàn bộ bộ máy hành chính tăng từ 6% lên 14,3%. Chi trả nợ năm 1995 chiếm 13%, riêng cho quốc phòng
giảm từ 14,96% năm 1978 xuống 9,33% NSNN năm 1995. Đồng thời chính sách tài khóa cũng hướng đầu tư sang
phía Tây nhằm đối phó với tình trạng thiểu phát và duy trì nhịp độ tăng trưởng cao, chính sách tài chính nhà nước
của Trung Quốc đã có một số điều chỉnh tích cực.
Từ 1998, với định hướng mở rộng quy mô vốn đầu tư của Nhà nước, Chính phủ tăng cường phát hành trái phiếu
Chính phủ. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, hiệu ứng của chính sách này đã làm tăng GDP lên 1,5% trong năm
1999, 2% trong năm 2000. Kết hợp chính sách tăng chi ngân sách, đặc biệt tăng cường đầu tư với qui mô rất lớn vào
cơ sở hạ tầng và chính sách thuế được điều chỉnh theo hướng giảm thuế đã chặn được nguy cơ tụt dốc của nền kinh
tế. Đến năm 2005, Trung Quốc đã thực hiện tối ưu hóa kết cấu các khoản chi ngân sách; phát huy vai trò xúc tiến
của Chính phủ trong việc điều chỉnh kết cấu ngành nghề, thực hiện sự phát triển nhịp nhàng; tăng cường củng cố các
khâu yếu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn tiếp theo, Chính phủ sẽ thực hiện ưu tiên công cuộc
xây dựng nông thôn, khoa học, giáo dục, văn hóa, bảo đảm xã hội, tiết kiệm tài nguyên, xây dựng sinh thái, phát
triển khu vực miền Tây, bảo đảm cho việc các dự án trọng điểm; tiếp tục rót kinh phí Nhà nước vào các dự án đầu tư
cơ sở hạ tầng quy mô lớn và sử dụng nguồn đầu tư của Chính phủ để giải quyết sự phát triển chênh lệch giữa nông
thôn và thành thị.
Quan hệ và tỷ trọng giữa ngân sách Trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP) cũng có những thay đổi
cơ bản. Trong điều chỉnh, tỷ trọng của NSTW liên tục giảm và duy trì ở mức thấp, tỷ trọng NSĐP tăng lên. Nếu năm
1979 tỷ trọng giữa trung ương và địa phương là 50,8% và 49,2% thì đến năm 1993 tỷ lệ này là 22% và 78%. Năm 1994
Trung Quốc thông qua Luật NSNN, mà một trong các mục tiêu là nâng tỷ trọng của NSTW lên 50%, trên thực tế mục
tiêu này đã cơ bản đạt được, tỷ trọng NSTW đã nằm ở mức 49 - 52% trong các năm 1995 - 1998, nhưng phần sử dụng
của NSTW sau khi đã chuyển giao chỉ chiếm 20 - 22,7% tổng chi NSNN. Đây là tỷ trọng rất thấp so với Anh là 71%,
Mỹ là 42%, Achentina là 57%, Inđônêxia là 82%. Xét về tác động của chính sách này, tỷ trọng NSĐP trong tổng
NSNN lớn tạo điều kiện cho NSĐP được tăng cường và chủ động trong chi tiêu và đầu tư. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác
điều này gây ra tình trạng NSTW thiếu nguồn lực, khó khăn cho việc thực hiện các chương trình tầm cỡ nhằm hỗ trợ
các vùng khó khăn, nghèo nàn, kém phát triển. Trung Quốc hiện nay trở thành một trong ba nước bị mất cân đối và có
sự phân hóa lớn nhất trên thế giới. Sự phân hóa ngày càng nghiêm trọng giữa miền Đông – Tây, giữa giàu – nghèo,
thành thị – nông thôn.

Những vấn đề còn tồn tại
Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, bên cạnh những thành tựu trong cải cách NSNN của
Trung Quốc, vẫn còn nhiều vấn đề tiếp tục phải cải cách, điều chỉnh, mà tựu trung lại là:
- Do NSTW eo hẹp nên Chính phủ không thể lập ra được các chương trình tầm cỡ nhằm hỗ trợ các vùng khó
khăn, nghèo và kém phát triển, dẫn đến tình trạng Trung Quốc trở thành một trong ba nước bị mất cân đối lớn nhất
trên thế giới.
- Việc xây dựng quỹ ngân sách bổ sung và quỹ ngoài ngân sách (ước tính chiếm 12% GDP) đang có những điều
bất cập. Phát sinh tình trạng nhiều địa phương tìm cách chuyển các khoản thu trong ngân sách sang quỹ ngoài ngân
sách để tránh phải phân chia với TW.
Cuối những năm 1990 và bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, chính sách tài khóa của Trung Quốc tuy đã
có những thay đổi đáng kể và thu được kết quả tích cực, song không phải không có vấn đề còn tồn tại. Mức độ nợ
của tài chính nhà nước tăng nhanh, từ 20% năm 1995, lên 29,7% năm 1998 và 30,6% năm 1999; đối với NSTW thì
tỷ trọng nợ gia tăng còn cao hơn, năm 1994 là trên 50%; năm 1998 đạt 71,1%. Tỷ lệ trả nợ từ NSNN cũng tăng
mạnh, tỷ lệ trả nợ của NSNN và NSTW năm 1995 tương ứng là 14,1% và 27,1% thì tới năm 1998 hai chỉ số này đã
là 23,8% và 48,1%.
- Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc quá mức vào đầu tư của Nhà nước, đầu tư của xã hội tuy được khôi phục
nhưng với tốc độ chậm và yếu, đe dọa cơ sở tăng trưởng bền vững trong tương lai. Nếu thời kỳ 1993 - 1997 đầu tư
mới tăng của xã hội chỉ phụ thuộc khoảng 40 - 45% đầu tư nhà nước thì năm 1999 chỉ số này đã là 90%
2.1.2. Chính sách tiền tệ
Cung ứng tiền tệ
Trong những năm qua, với mục tiêu theo đuổi một mức lạm phát thấp và ổn định, Trung Quốc kiên trì thực hiện
điều tiết mức cung tiền hẹp.
Năm 1993, mức cung tiền tăng lên đột ngột (khoảng 35%), dẫn đến tỷ lệ lạm phát ở Trung Quốc tăng lên 24%. Liên
tục các năm sau đó, Chính phủ phải áp dụng các biện pháp giảm mạnh mức tăng cung tiền M2, năm 1994, 1995 tương
ứng mức cung tiền chỉ tăng thêm 261,61 tỷ NDT và 183,53 tỷ USD. Trong những năm khủng hoảng tiền tệ châu Á, chính
việc thắt chặt mức cung tiền tệ, tốc độ tăng giữ mức xấp xỉ 15% trong năm 1998, 1999 đã giúp Trung Quốc hạn chế tối đa
tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng này. Lượng cung tiền giảm thấp nhất vào năm 2000 (tăng khoảng 12%). Song
giai đoạn này lượng cung tiền biến động đột ngột, năm 2001, lượng M2 tăng lên, tăng trưởng tiền tệ lên trên 18%; năm
2002 lại giảm xuống chưa đến 17%; năm 2003 cung ứng tiền tệ lại tăng mạnh, với tốc độ tăng là 20%.
Biểu đồ 6: Biến động lượng tiền mở rộng M2

(1990 – 2003)
0
5
10
15
20
25
30
35
40
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
%
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tăng cung tiền lớn trong giai đoạn này của Trung Quốc. Trước tiên, do nền kinh tế
tăng trưởng quá nóng, đặc biệt là tăng đầu tư vào bất động sản, đầu tư tài sản cố định dẫn đến vay tín dụng tăng quá
nhanh. Thứ hai, nguyên nhân do chính sách tăng dự trữ ngoại hối nhằm đảm bảo an toàn cán cân thanh toán của
Chính phủ, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tính trung bình mỗi ngày mua vào 600 triệu USD, tương đương 5 tỷ
NDT đưa ra ngoài thị trường.

Chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất của Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, trở thành một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế một
cách hữu hiệu, đặc biệt từ giai đoạn khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á đến nay.
Thúc đẩy cải cách theo hướng thị trường hóa lãi suất, xây dựng chế độ lãi suất thị trường lấy lãi suất của Ngân hàng
Nhân dân làm cơ sở, điều chỉnh theo lãi suất thị trường, lấy quan hệ cung cầu quyết định lãi suất tiền gửi. Từ tháng 1 đến
tháng 12 năm 1998, Trung Quốc liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền cho vay và tiền gửi ngân hàng bằng NDT. Kết quả của
chính sách này đã tạo điều kiện cho Trung Quốc giảm được 263 tỷ NDT nợ lãi của các doanh nghiệp. Đồng thời đây cũng
là biện pháp kích thích sản xuất, tiêu dùng và tăng lượng tiền mặt trong lưu thông, góp phần ổn định tiền tệ. Cùng với việc
điều chỉnh lãi suất đồng nội tệ, Trung Quốc cũng đã liên tục hạ lãi suất đối với đồng ngoại tệ, từ mức 5%/năm vào tháng 5
năm 1998 xuống còn 3,75%/năm vào tháng 12/ 1998. Chính sách hạ lãi suất ngoại tệ đã giúp cho hệ thống ngân hàng
Trung Quốc vượt qua được khó khăn do ứ đọng vốn ngoại tệ gây ra. Mặt khác, Chính phủ Trung Quốc còn thực hiện các
biện pháp cải cách tài chính khác, như chính sách thuế, chính sách chi tiêu vay nợ, chính sách chỉnh đốn trật tự tài chính.
Tín dụng ngân hàng
Trong những năm vừa qua, tại Trung Quốc, tình trạng các khoản vay ngân hàng tăng nhanh, kéo theo nợ xấu của
ngân hàng gia tăng là một trong những nguyên nhân chính gây ra sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế nước này.
Cụ thể, trong giai đoạn 1998 - 2002, số dư các khoản vay tăng trung bình hàng năm là 1,1 – 1,9 nghìn tỷ NDT; năm
2003 tăng đột ngột 3 nghìn tỷ NDT, tương đương 24% GDP; chỉ tính riêng trong nửa đầu năm 2006, lượng cho vay
tăng mới đã là 1.783,4 tỷ NDT, đạt hơn 70% kế hoạch cả năm. Sự bùng nổ tín dụng gần đây khiến cho hệ thống
ngân hàng Trung Quốc đang phải đối diện với nhiều yếu tố rủi ro mà nghiêm trọng là tỷ lệ nợ xấu đã lên đến 30%
nợ vay. Nguyên nhân là do cơ cấu cho vay bất hợp lý, các khoản cho vay trung dài hạn chủ yếu đầu tư vào xây dựng
cơ bản, đầu tư bất động sản, khoản vay tiêu dùng cá nhân tăng chậm. Thêm vào đó, việc ngân hàng thả nổi cho vay
tín dụng, khiến đầu tư tài sản cố định tăng trở lại, đầu tư chậm và khó thu hồi gia tăng. Tính đến cuối quý I/2006, số
dư nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng trong nước là 1.312,47 tỷ NDT, trong đó tỷ lệ nợ xấu là 8,25%, số dư nợ xấu
tổn thất (khó đòi) là 480,82 tỷ NDT, chiếm 36,6% tổng số dư nợ xấu.
Để giải quyết tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng, đặc biệt ở các ngân hàng quốc doanh, Nhà nước lại luôn tìm
cách “cứu trợ” tài chính cho các ngân hàng này và coi đây là một biện pháp hữu hiệu để điều tiết thị trường (năm
2003, đã bổ sung vốn cho hai ngân hàng thương mại quốc doanh 45 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối), dẫn đến sự thiếu
lành mạnh trong thị trường tài chính, cản trở hoạt động hiệu quả của toàn hệ thống ngân hàng, gây thiệt hại cho nền
kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu mở cửa, Trung Quốc cần khắc phục “điểm yếu” này vì một hệ thống tài chính tiền tệ ổn
định là điều kiện tiên quyết giúp nền kinh tế tránh được những cú sốc từ bên ngoài khi hội nhập sâu hơn vào nền

kinh tế quốc tế. Cải cách hệ thống ngân hàng là một công việc quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
lực tại Trung Quốc, trong đó vấn đề then chốt là nâng cao hiệu quả của quá trình phân phối tín dụng.
2.1.3. Chính sách tỷ giá
Thực hiện chính sách tỷ giá đã nới lỏng dần dần và cải cách từng bước qua từng giai đoạn, từ năm 1986 đến nay,
tỷ giá đồng nhân dân tệ so với đôla Mỹ liên tục được nới lỏng đã tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu, cụ thể từ 2,8
NDT/USD lên 4,72 NDT/USD năm 1989; 5,7 NDT/USD năm 1993 và giữ ở mức ổn định khoảng trên 8 NDT/USD.
Tiếp theo đó, Trung Quốc chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ ổn định, lành mạnh, tiếp tục các biện pháp giữ ổn
định đồng NDT. Trong suốt cả năm 1998, đồng NDT luôn ổn định ở mức 8,27 NDT/USD. Chính sách ổn định đồng
nhân dân tệ của Trung Quốc không chỉ giảm bớt tổn thất cho nền kinh tế Trung Quốc mà còn giúp ổn định thị trường
các nước Đông Nam Á trong giai đoạn khủng hoảng tài chính – tiền tệ. Song thực chất Trung Quốc áp dụng chính
sách hạ giá thấp đồng NDT so với các đồng khác, tỷ giá đồng nhân dân tệ được ấn định thấp hơn tỷ giá thực trung
bình (REER). Với chính sách này, Trung Quốc đã kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng thặng dư cán cân
thương mại và cán cân vốn.
Tuy nhiên, chính sách tỷ giá ổn định của Trung Quốc ngày càng bộc lộ những tác độ tiêu cực trong 3 năm trở lại
đây. Trên thực tế, đồng NDT được định giá quá thấp so với các đồng tiền khác đang làm tăng trưởng quá mức tín
dụng cho vay của các ngân hàng, gây khó khăn trong việc hạn chế tình trạng phát triển quá nóng của nền kinh tế,
làm tăng giá hàng nhập khẩu gây ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng trong nước, đồng thời làm gia tăng sự
phản đối từ các nước khác đặc biệt là Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Trước bức xúc đó, ngày 21/7/2005, Ngân hàng
Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố nâng giá đồng NDT từ mức 8,277 NDT/USD lên 8,11NDT/USD, tỷ lệ nâng giá là
khoảng 2% và về lâu dài sẽ tăng giá đồng NDT lên 15 – 20%. Việc định giá lại đồng NDT có tác động tích cực trong
việc kiềm chế lạm phát, hạn chế tăng tín dụng, thúc đẩy quá trình cải cách ngân hàng, tạo một thị trường tài chính ổn
định và lành mạnh, làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế bền vững, mặt khác, giúp Trung Quốc giảm sức ép từ phía
các đối tác như Nhật Bản, Mỹ và châu Âu.
Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc trong hơn một thập kỷ qua tăng mạnh. Từ mức thấp hơn 50 tỷ USD trong
suốt giai đoạn 1990 – 1993 lên tới mức 609,9 tỷ USD năm 2004, tương đương với 40% GDP của Trung Quốc
trong năm này; năm 2005 đã tăng thêm 208,9 tỉ USD; sáu tháng đầu năm 2006, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc
đã đạt 941,1 tỉ USD và Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để trở thành nước có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới .
Trong đó, thặng dư cán cân vãng lai và luồng vốn FDI khổng lồ chính là những nhân tố đóng góp quan trọng cho
dự trữ ngoại hối của Trung Quốc. Lượng dự trữ ngoại hối lớn giúp trang trải cho lượng nhập khẩu lớn của nước
này. Lượng dự trữ năm 2004 tương đương với tổng giá trị nhập khẩu trong 53 tuần và khoảng 43 tuần nhập khẩu

trong năm 2005. Đồng thời dự trữ cao sẽ đảm bảo một cơ cấu nợ nước ngoài hợp lý, hiện nay, dự trữ Trung Quốc
nhiều hơn 10 lần so với tổng các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn của nước này. Lượng dự trữ ngoại hối lớn có thể
giúp Trung Quốc cứu trợ tài chính cho hệ thống ngân hàng khi cần thiết nhằm ổn định thị trường tài chính.
2.2. Công tác phòng chống tham nhũng tại Trung Quốc
Tuy chỉ số nhận biết tham nhũng (CPI) của Trung Quốc không cao, đạt 3,4 điểm (2004), song Trung Quốc được
đánh giá là một trong những nước đã có những cố gắng và thành công bước đầu trong công tác phòng, chống tham
nhũng.
- Chú trọng công tác giáo dục con người. Trung Quốc xác định giáo dục đạo đức cho công chức và xây dựng đội
ngũ công chức trong sạch liêm khiết là biện pháp quan trọng đầu tiên để hạn chế tham nhũng. Đảng Cộng sản và
Nhà nước Trung Quốc đã ban hành các văn bản quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính
trong Đảng và Nhà nước. Đồng thời tiến hành tuyên truyền, giáo dục cho người dân nhận diện được các hành vi
tham nhũng, có thái độ căm ghét và tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tạo ra môi trường xã hội
chống tham nhũng. Giáo dục chống tham nhũng được thực hiện trên qui mô “toàn Đảng” và “toàn xã hội”, kể cả ở
trẻ em. Chương trình giáo dục chống tham nhũng ở cấp tiểu học và trung học được đưa vào giảng dạy đầu tiên tại
Hàng Châu từ năm 2005, sau đó lan rộng ra các tỉnh thành khác như Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiên Tân, Hồ Bắc...
- Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động mua sắm tài sản công của Nhà nước. Trung Quốc
thành lập 4 trung tâm giao dịch quốc gia để thực hiện các hoạt động đấu thầu xây dựng, mua bán đất đai, mua sắm
tài sản công...
- Ban hành các quy định làm cho công chức không có cơ hội lợi dụng vị trí công tác của mình nhằm thu lợi cá
nhân gây thiệt hại đến lợi ích chung. Trung Quốc quy định: cán bộ khi làm chức vụ lãnh đạo hoặc nghỉ hưu, thì trong
vòng 3 năm sau đó, không được kinh doanh ở những lĩnh vực có liên quan đến công việc trước đây mình phụ trách;
vợ (hoặc chồng), con cán bộ lãnh đạo không được kinh doanh ở các lĩnh vực do chồng (hoặc vợ), cha mẹ mình quản
lý. Từ năm 1997, Trung Quốc đã giải tán các cơ sở kinh doanh trong công an, quân đội, hải quan và cơ quan chấp
pháp, nhằm tránh lợi dụng quyền chức để tham nhũng.
- Quy định những điều công chức không được làm. Trung Quốc có Luật Giám sát hành chính để giám sát công chức
và đề ra “90 điều cấm” đối với cán bộ đảng viên. Ngày 31/12/2003, Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành Điều lệ
Giám sát nội bộ và Điều lệ Xử lý kỷ luật của Đảng, trong đó xác định đối tượng giám sát trọng điểm là cơ quan lãnh
đạo và cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt là người phụ trách của ban lãnh đạo.
- Quy định về việc kê khai tài sản của công chức. Tại Trung Quốc, mỗi năm 2 lần công chức phải kê khai tài sản.
Cán bộ lãnh đạo phải kê khai rõ các khoản như: tiền tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, đồ dùng có giá trị trên 10.000

NDT (khoảng 19 - 20 triệu đồng Việt Nam), ô tô, nhà riêng, đất đai, tranh cổ quý hiếm... Uỷ ban Kiểm tra kỷ luật
của Đảng và Bộ Giám sát hành chính của Chính phủ theo dõi, giám sát việc kê khai và xem xét xử lý những trường
hợp có tài sản bất minh. Công chức không giải thích được nguồn gốc tài sản của mình thì bị coi là tham ô.
- Khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội và các phương
tiện thông tin đại chúng trong việc phát hiện, tố giác các hành vi tham nhũng đang là biện pháp nhằm phát hiện tham
nhũng hữu hiệu nhất. Theo một tài liệu của Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung Quốc thì những năm gần đây, 80% các vụ
án lớn ở nước này được xử lý là do nhân dân tố cáo. Trung Quốc cho phép người tố cáo được giấu tên và chấp nhận
thư nặc danh, tiến hành xem xét đơn thư tố cáo nặc danh để phát hiện tham nhũng. Trong thực tế, Trung Quốc có
khoảng 60% đơn thư tố cáo là thư nặc danh và trong số đó có rất nhiều thông tin chính xác về tham nhũng. Chính
phủ cũng đã thiết lập trang Web riêng. Người dân có thể gửi báo cáo về những hành vi tham ô, nhũng nhiễu… của
các quan chức và đảng viên Đảng Cộng sản. Trang Web này sẽ tiếp nhận các báo cáo về các nhân viên Chính phủ và
các đảng viên vi phạm luật pháp; chỉ điểm cho Chính phủ và Đảng về những người có hành vi ăn hối lộ, tham ô…
- Về mặt thể chế, Trung Quốc đã ban hành Luật Chống hối lộ năm 1988 và Luật Chống tham nhũng năm 1997,
trong đó quy định những chế tài nghiêm khắc để xử lý loại tội phạm tham nhũng nhằm răn đe công chức “không
dám tham nhũng”
3. Tăng trưởng và bảo vệ môi trường của Trung Quốc
Quá trình tăng trưởng ở Trung Quốc đã nhanh chóng nâng cao mức sống nhưng đồng thời cũng huỷ hoại môi
trường một cách nghiêm trọng, đặc biệt ô nhiễm không khí và nguồn nước ở các đô thị thuộc loại nghiêm trọng nhất
thế giới.
3.1. Tình trạng ô nhiễm môi trường của Trung Quốc
Ô nhiễm không khí. Mặc dù hàm lượng khí thải ra hầu như không thay đổi kể từ những năm 80, song lượng khí
sunphua điôxit lại tăng mạnh. Hàm lượng các loại khí và khí sunphua điôxit thải ra ở Trung Quốc hiện lớn nhất thế
giới. Ô nhiễm không khí đang ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân Trung Quốc. Tỷ lệ tử vong do bệnh phổi
mãn tính, căn bệnh nguy hiểm gây tử vong nhiều nhất ở Trung Quốc, lớn gấp 5 lần so với ở Mỹ. Hàng năm, khoảng
15 triệu người dân đại lục mắc bệnh về hô hấp, khoảng 2 triệu người khác chết do ung thư. Theo tính toán, chỉ cần
giảm mức ô nhiễm không khí xuống bằng tiêu chuẩn mà Trung Quốc đặt ra thì mỗi năm có thể cứu sống được tới
298.000 người.
Tình trạng thiếu và ô nhiễm nguồn nước. Hiện nay, bình quân đầu người về tài nguyên nước của Trung Quốc
khoảng 2400m
3

. Đến giữa thế kỷ XXI, dân số tăng lên khoảng 1,7 - 1,8 tỷ người, lượng nước bình quân đầu người
sẽ chỉ còn trên dưới 1600m
3
.
Song có một điều đáng mừng là, dù ô nhiễm nước nhưng ảnh hưởng của nó tới sức khoẻ của người dân Trung
Quốc nhìn chung được hạn chế bởi việc sử dụng rộng rãi nước uống sạch và các biện pháp vệ sinh. Các bệnh có liên
quan tới nước nói chung chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số bệnh tật và dịch bệnh. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm
ngày càng trầm trọng đã làm tăng chi phí của việc cấp nước sạch nói riêng và chi phí bảo vệ môi trường nói chung.
Tính tổng thể chi phí kinh tế do ô nhiễm nước và không khí ở Trung Quốc ước tính trung bình chiếm tới 38%
GDP/năm. Theo tính toán của các chuyên gia Trung Quốc, với mức độ ô nhiễm hiện nay, quốc gia này sẽ phải chi
khoảng 450 tỷ USD cho việc làm sạch môi trường. Đó là chưa kể Chính phủ có thể sẽ phải chi ra hàng tỷ USD về y
tế để đối phó với các loại bệnh tật do ô nhiễm gây ra.
Mối lo ngại lớn hơn trước tình trạng ô nhiễm nước ở Trung Quốc là làm căng thẳng thêm tình trạng thiếu nước.
Nước bị ô nhiễm theo dòng chảy lan sang các nguồn nước sạch, làm tình trạng khan hiếm nước sạch ngày càng tăng
lên. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước, thiếu nước sạch sử dụng cho sản xuất nông nghiệp cũng phổ biến. Năm 1993,
khoảng 8% đất nông nghiệp phải dùng nguồn nước ô nhiễm, gây thất thu khoảng 1 triệu tấn ngũ cốc.
Đất canh tác đang bị khủng hoảng. Đất canh tác bình quân đầu người của Trung Quốc chỉ bằng 32% bình quân
đầu người của thế giới. Trung Quốc chỉ chiếm 7% diện tích canh tác của thế giới nhưng lại phải nuôi sống 22% dân
số thế giới. Tuy nhiên, điều này chưa phản ánh thực chất nguy cơ đất canh tác của Trung Quốc mà khủng hoảng đất
canh tác của Trung Quốc trước hết thể hiện ở chỗ hầu như không có tài nguyên đất bổ sung. Sự giảm diện tích đất
canh tác trong thế kỷ XXI của Trung Quốc được dự báo là sẽ gia tăng. Miền bắc Trung Quốc là nơi có khá nhiều đất
canh tác nhưng do thiếu nước nên khó phát huy tiềm năng sản xuất, trong khi điều kiện khí hậu miền Nam khá tốt
nhưng diện tích đất trồng trọt lại rất ít. Trong 28 năm, từ 1957 đến 1985, dù thường xuyên được bổ sung đất khai
hoang, đất canh tác vẫn giảm bình quân hàng năm 530.000 ha; đến năm 2000 dù đã khống chế chặt chẽ nhưng dự
tính vẫn mất mỗi năm 230.000 ha đất để dành cho xây dựng, do thiên tai và sự điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp cũng
làm giảm 130.000 ha đất canh tác. Dự tính đến năm 2100, Trung Quốc có khả năng sẽ chỉ còn lại 80 triệu ha đất
canh tác. Khi đó dân số đã lên 2 tỷ và bình quân đầu người sẽ chỉ còn 0,04 ha. Tình trạng thiếu đất canh tác nghiêm
trọng khiến cho người dân phải đổ về các thành phố hoặc khai phá đất đồi rừng hoặc thảo nguyên, từ đó làm cho
môi trường sinh thái đô thị, nông thôn tiếp tục xấu đi và khó bền vững.
Mưa axít ngày càng nghiêm trọng. Cơ cấu năng lượng chủ yếu lấy từ than của Trung Quốc chính là một nguyên

nhân lớn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khí sunfua điôxit và ôxit nitrơrat thải ra sẽ tạo phản ứng với nước
và ôxy trong không khí thành axit sunfuric và axit nitơric có thể rơi xuống những vùng lân cận hoặc những vùng
cách xa nơi gây ô nhiễm hàng ngàn dặm. Mưa axít phá huỷ mùa màng, tàn phá những cánh rừng, phá hỏng những
cấu trúc các toà nhà và gây thiệt hại cho sức khoẻ con người. Những hậu quả này đặc biệt nghiêm trọng ở miền Nam
Trung Quốc, nơi hàng ngày có một lượng lớn than và hàm lượng lớn sunfat cao đang bị đốt.
Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường. So với các nước đang phát triển, ô nhiễm môi trường của Trung Quốc chủ
yếu không phải do quy mô quá lớn gây ra mà do kỹ thuật sản xuất lạc hậu, hiệu suất sử dụng năng lượng thấp, thêm
vào đó quy mô sản xuất tăng nên lượng chất thải ngày càng gia tăng. Do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và cơ
khí hóa diễn ra nhanh, các tập quán thâm canh trong nông nghiệp cũng làm phát sinh những đe dọa tới môi trường.
Hơn nữa, mức sống của người dân được nâng cao, lượng phế thải sinh hoạt cũng tăng lên đáng kể, do đó mối đe dọa
ô nhiễm môi trường của Trung Quốc vẫn sẽ tồn tại và khó loại trừ.
3.2. Các giải pháp của Trung Quốc
Bảo vệ môi trường lồng ghép với chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Thay vì chỉ tập trung vào tăng trưởng
kinh tế, hiện nay, Trung Quốc cũng đã chú trọng hơn tới vấn đề bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường. Trung
Quốc là một trong những nước đi đầu trong việc xây dựng Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững của
Trung Quốc (được Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thông qua và phê duyệt chương trình vào
tháng 7/2004), trong đó công tác bảo vệ môi trường được quan tâm lồng ghép và thực hiện đồng thời với phát triển
kinh tế - xã hội. Trong các kỳ kế hoạch hàng năm hay dài hạn của Nhà nước Trung Quốc cũng như của các địa
phương đều dành một phần hoặc một chương mục riêng viết về phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp phát triển
bền vững, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Dân chúng được tham gia đánh giá tác động môi trường. Trước đây, hệ thống đánh giá tác động môi trường
của Trung Quốc hầu như chỉ dựa vào các biện pháp hành chính nhưng thiếu sự giám sát của dân chúng. Ngày
22/02/2006, Cơ quan bảo vệ môi trường quốc gia Trung Quốc (State Environmental Protection Administration-
SEPA) đã công bố hai biện pháp tạm thời về sự tham gia của dân chúng trong việc đánh giá tác động môi trường.
Hai biện pháp này có hiệu lực kể từ ngày 18/03/2006. Theo đó, dân chúng có thể tham gia đánh giá tác động môi
trường, hỏi ý kiến chuyên gia, hoặc tham dự hội nghị chuyên đề hoặc diễn đàn công khai. Các nhà thầu dự án sẽ
phải cung cấp cho nhân dân chi tiết ảnh hưởng của công trình xây dựng đến môi trường và các biện pháp phòng
tránh mà họ sẽ áp dụng.
Hạn chế xây dựng để bảo vệ môi trường. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra kế hoạch hạn chế việc xây dựng các
biệt thự, sân gôn và các dự án có thể gây hậu quả lãng phí năng lượng và các nguồn tài nguyên khác, khuyến khích

các ngành công nghiệp có triển vọng như viễn thông nhằm hạn chế các hoạt động kinh doanh gây lãng phí năng
lượng và nguồn tài nguyên khác. Chính phủ đã quyết định chuyển dịch đầu tư kinh tế từ khu vực Nhà nước sang cho
khu vực tư nhân gánh chịu song song với việc kiểm soát môi trường chặt chẽ hơn. Chính phủ thắt chặt việc thi hành
luật song song với vấn đề bảo vệ môi trường: Những doanh nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng và gây ô nhiễm sẽ bị
đóng cửa, doanh nghiệp và cá nhân gây ô nhiễm nặng nề sẽ bị phạt (Trong năm 2005, gần 30.000 vụ vi phạm môi
trường bị điều tra và trừng phạt trong đó 2.609 doanh nghiệp buộc phải ngưng hoạt động hoặc đóng cửa); thực hiện
các dự án lớn nhằm giải quyết ô nhiễm môi trường, đặc biệt là xử lý từng bước ô nhiễm nước, không khí và đất.
4. Phúc lợi xã hội, công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo
4.1. Phúc lợi xã hội
Liên tục trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã vươn lên vị trí hàng đầu thế giới về tỷ lệ tăng trưởng cao, kéo theo
đó là sự phát triển về mọi mặt đời sống xã hội của nước này. Thông qua các chương trình hỗ trợ của Chính phủ, cuộc
sống của người dân Trung Quốc đã được nâng cao cả về lượng và chất. Giá trị HDI của Trung Quốc liên tục được
cải thiện. Năm 2003 chỉ số HDI là 0,755 tương ứng với vị trí 85/177 trong bảng xếp hạng HDI. Chỉ số HDI tăng lên
do giá trị các chỉ số thành phần (chỉ số giáo dục, chỉ số tuổi thọ và chỉ số kinh tế) đều có sự cải thiện đáng kể.
Năm 1995, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là 2.653 USD, rút ngắn khoảng cách so với GDP bình
quân đầu người của châu Âu xuống còn 5,3 lần, so với Mỹ còn 8,8 lần, so với Nhật Bản bằng 7,4 lần, so với GDP
bình quân đầu người trên thế giới giảm từ 4,2 lần năm 1952 xuống còn có 2 lần. Thu nhập bình quân đầu người tăng
lên đã giúp làm tăng giá trị chỉ số kinh tế trong điểm số HDI của Trung Quốc.
Chỉ số giáo dục của Trung Quốc được cải thiện nhờ tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn vốn con người - một
nhiệm vụ được chính phủ Trung Quốc đang hết sức coi trọng. Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh cơ cấu giáo dục
theo hướng tăng cường giáo dục cơ sở, trước mắt về cơ bản xóa bỏ nạn mù chữ. Nhờ vậy mà tỷ lệ phổ cập giáo dục
tiểu học của Trung Quốc đạt 94,6% vào năm 2004 và tỷ lệ biết chữ của người lớn là 91% (Theo Báo cáo giám sát
giáo dục toàn cầu 2005 của UNESCO).
Hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt ở các thành phố của Trung Quốc đã được cải thiện đáng kể. Năm 1999, Trung
Quốc đã chi khoảng 554 triệu USD về việc đảm bảo cuộc sống cơ bản cho người nghèo đô thị, đây là mức chi lớn
nhất từ trước đến nay về vấn đề này. Cho đến đầu năm 2002 đã có khoảng 13 triệu trong gần 20 triệu người nghèo
ở các đô thị Trung Quốc được hưởng trợ cấp từ chương trình này, đa số những người thất nghiệp, cán bộ hưu trí và
các gia đình có thu nhập thấp, tăng 76% so với năm trước. Hệ thống này cho đến nay đã được thực hiện ở các khu
đô thị nghèo ở Bắc Kinh, Giang Tô, Triết Giang và Quảng Đông.
Từ giữa những năm 1990, chế độ lương hưu và bảo hiểm xã hội ở Trung Quốc đã có sự thay đổi cơ bản, bảo

hiểm hưu trí sẽ do cả người lao động và chủ doanh nghiệp đóng góp và áp dụng cho cả các xí nghiệp nhà nước.
Trong năm 1996, công nhân các xí nghiệp tập thể ở khoảng 2000 thành phố và thị trấn được hưởng lương hưu theo
sự phân cấp mới này, mạng lưới này đã chi trả tổng số lương hưu lên tới 103,2 tỷ NDT, tương đương 12 tỷ USD.
Hiện nay, ngày càng có nhiều xí nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước tham gia vào mạng lưới bảo hiểm xã hội. Cho
đến cuối năm 1997, mạng lưới bảo hiểm xã hội này đã được thực hiện đối với 87,58 triệu công nhân và 23,58 triệu
người nghỉ hưu. Tuy nhiên, Chính phủ Trung Quốc hiện nay đang còn nợ chi trả lương hưu rất lớn. Với khoảng 7%
dân số trên 65 tuổi, trong đó người về hưu chỉ có khoảng 38 - 40 triệu người được nhận lương hưu thường xuyên, thì
số còn lại bị nợ và phần lớn bị biến thành trái phiếu với số tiền tương đương khoảng 500 tỷ USD.
4.2. Công bằng xã hội
4.2.1. Bất bình đẳng trong thu nhập
1
Chính bất bình đẳng trong thu nhập gia tăng dẫn đến khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và
nông thôn, người giàu và người nghèo ngày càng dãn rộng. Từ 1997 đến 2003, thu nhập đầu người của nông dân
Trung Quốc đã tăng, đạt 695,9 NDT (84 USD) nhưng chỉ gần bằng 1/5 mức gia tăng thu nhập người dân thành
phố. Nhìn chung hàng năm, thu nhập của người dân thành phố gia tăng nhanh hơn 2 lần so với nông dân kéo theo
khoảng cách giữa thu nhập của người dân thành thị và nông dân ngày một gia tăng. Vào những năm 1980, tương
quan đó là 1,8:1; trong thập kỷ 1990 là 2,5:1; trong năm 2003 là 3,2:1. Nếu tính đến việc người nông dân còn
phải nộp thuế và tự chịu phí tổn mua sắm và khấu hao tư liệu sản xuất, thì thực sự mức chênh lệch kia sẽ còn đạt
con số là 5:1 hoặc 6:1. Không những thế, người dân thành thị được bảo đảm xã hội, dịch vụ y tế công cộng, được
Nhà nước trợ cấp nhà ở và được hưởng nhiều ưu đãi và phúc lợi công cộng khác
2
. Khoảng cách chênh lệch về thu
nhập giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp ngay chính trong khu vực thành thị cũng ngày càng
gia tăng. Báo cáo mới nhất của ủy ban Cải cách và Phát triển Trung Quốc cho thấy, 20% dân cư nghèo nhất ở đô
thị có thu nhập thấp chỉ bằng 2,75% tổng thu nhập tại các thành phố đó và chỉ bằng 4,6% tổng thu nhập của 20%
người giàu nhất ở Trung Quốc. Thành công trong cải cách mở cửa của Trung Quốc là to lớn, song họ cũng phải
trả giá không nhỏ, mà một trong số đó là sự phân hóa ngày càng nghiêm trọng (hai cực Đông – Tây, giữa giàu –
nghèo, thành thị – nông thôn). Sự phân hóa này chẳng những không mất đi cùng với phát triển kinh tế, mà dường
như ngày càng sâu sắc, gay gắt hơn.
4.2.2. Mất cân đối nam nữ và dân số già đi nhanh chóng

Hiện nay, dân số Trung Quốc là hơn 1,3 tỷ người và có thể lên đến 1,5 tỷ người vào năm 2050. Để giảm tỷ lệ
tăng dân số, Trung Quốc đã ban hành chính sách “Mỗi gia đình chỉ có 1 con” nhằm hạn chế sinh đẻ. Chính sách này
có nhiều đóng góp tích cực, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế xã hội trong những thập
kỷ qua, nhưng đến nay, Trung Quốc đang phải đối mặt với tình trạng mất cân đối giữa nam và nữ trầm trọng. Bởi lẽ
vì chỉ được phép sinh 1 con nên người Trung Quốc luôn tìm cách để sinh con trai và theo dự báo, đến năm 2020,
Trung Quốc sẽ có khoảng 40 triệu đàn ông cô đơn. Một vấn đề nan giải nữa mà Trung Quốc đang phải đối mặt đó là
hiện nước này có số dân cao tuổi đông nhất thế giới. Theo tờ China Daily, hiện nay Trung Quốc có 94 triệu người
trên 65 tuổi, chiếm 7% dân số. Trong vòng 50 năm nữa, con số này sẽ vượt quá ngưỡng 400 triệu người và sẽ chiếm
tới 24% dân số. Mất cân đối nam – nữ và sự già đi nhanh chóng của tháp dân số Trung Quốc đang đặt ra những
thách thức đó, đòi hỏi Trung Quốc phải tìm được lối thoát cho chính sách dân số gắn với sự phát triển kinh tế - xã
hội bền vững của đất nước.
4.3. Xóa đói giảm nghèo
1 Sử dụng tư liệu bài viết “Những vấn đề nan giải trong phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc hiện
nay”, Thông tin chọn lọc phục vụ lãnh đạo, số 5 – tháng 3/2006, Viện Khoa học tài chính.
2 Báo cáo phân tích thu nhập của nông dân Trung Quốc của Vương Mẫn Quý, Trung tâm phát triển
Quốc vụ Viện Trung Quốc.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc, xóa đói giảm nghèo là một mục tiêu ưu tiên. Từ đầu
những năm 1990, Trung Quốc đã đưa ra nhiều giải pháp tích cực để giải quyết vấn đề đói nghèo của dân cư. Năm
1994, Trung Quốc đề ra “Kế họach 8-7” nghĩa là trong vòng 8 năm thực hiện xóa nghèo cho 70 triệu người. Tháng 9
năm 1996, Hội nghị công tác đẩy mạnh chống đói nghèo của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu rõ “Dù
nhiệm vụ gian khổ như thế nào, thì mục tiêu cuối thể kỷ này phải giải quyết vấn đề ăn no mặc ấm cho những người
nghèo khổ ở nông thôn nước ta cũng không được thay đổi”. Kết quả công tác chống đói nghèo của Trung Quốc đã
có những thành công nhất định.
Theo kết quả điều tra hàng năm của Tổng cục Thống kê Trung Quốc đều tiến hành các nghiên cứu ngân sách của
các gia đình nông dân, với chuẩn nghèo của quốc gia là thu nhập bình quân đầu người ít hơn 4,1 NDT/ngày (0,5
USD), cho thấy tình trạng nghèo đói của Trung Quốc đã được cải thiện qua các năm. Năm 1995 có 56,6%, năm
2000 là 32,1%, năm 2001 là 30,2%, năm 2002 là 28,3%, năm 2003 là 26,5% số hộ nghèo. Đối chiếu với chuẩn
nghèo quốc tế, mức thu nhập đầu người thấp hơn 8,2 NDT/ngày (ít hơn 1 USD/ngày) thì tỷ lệ hộ nghèo năm 1990 là
hơn 90%, năm 2000 là gần 74,9%, năm 2001 là 72,4%, năm 2002 là 69,8%, năm 2003 là 66,9% các hộ dân nông
thôn.

Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo ở khu vực nông thôn vẫn chưa được cải thiện nhiều và có những dấu hiệu đáng
báo động. Theo số liệu nghiên cứu lựa chọn của Tổng cục Thống kê Trung Quốc, các năm 200-2002, chỉ có 56,4%
số hộ nông dân có thu nhập tăng lên, còn 1,6% số hộ không thay đổi thu nhập, nhưng có 42% số hộ bị suy giảm thu
nhập. Hiện Trung Quốc có gần 30 triệu nông dân đã không giải quyết được “vấn đề cơm no , ấm áo”, còn 60 triệu
người khác đang sống trong cảnh “điều kiện không ổn định về no cơm ấm áo”. So với 250 triệu người bị đói ăn năm
1978 thì đến nay như vậy là đã có tiến bộ nhất định, song từ đó đến nay đã hơn 1/4 thế kỷ, Trung Quốc vẫn còn 90
triệu người dân nông thôn đang chịu cảnh nghèo đói và bán nghèo đói. Riêng năm 2003, lần đầu tiên sau nhiều năm
cải cách, số người nghèo đói nhất ở nông thôn không những đã không giảm bớt, mà lại còn tăng thêm 800 ngàn
người nghèo, tổng cộng có 30 triệu người có thu nhập bình quân ít hơn 637 NDT/năm (1,74 NDT/ngày) - mức thu
nhập tối thiểu do Nhà nước quy định. “Dân nghèo có thu nhập thấp” trong năm 2003 giảm bớt được đáng kể nhưng
thu nhập bình quân năm của họ không vượt quá 882 NDT/năm (2,42NDT/ngày). Tương quan giữa thu nhập tối thiểu
và trung bình đầu người do Nhà nước quy định trong nông nhiệp năm 1992 là 1/2, 45 nhưng năm 2003 đã nâng
thành 1/4,12. Đồng thời, mức bảo đảm đời sống tối thiểu giai đoạn tháng Giêng đến tháng Chín năm 2004 chỉ có
21,3 triệu hộ, tức gồm 44,5 triệu nhân khẩu nông dân nông nghiệp, đạt 11% cao hơn so với cùng kỳ năm 2003.
Trung Quốc buộc phải giải quyết những vấn đề nghiêm trọng hơn và quy mô hơn về nghèo đói.
II. CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA THÁI LAN
1. Những thành công trong chất lượng tăng trưởng của Thái Lan
1.1. Tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định
Trong thời kỳ từ 1980 - 1986, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Thái Lan luôn giữ ở mức từ 4,8 - 5,5%/năm; đến giai

×