Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

cơ sở lý luận về phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong thời kỳ đổi mới kinh tế ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.76 KB, 96 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA
1.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các loại hình doanh nghiệp
ngoài quốc doanh
1.1.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta, khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm nhiều hình thức sở hữu đan xen đang đóng
vai trò quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Kinh tế ngoài quốc doanh rất đa dạng cả về hình thức sở hữu và các loại hình
kinh doanh của các chủ thể tham gia vào các hoạt động kinh tế.
Theo pháp luật hiện hành, các cơ sở kinh doanh ngoài quốc doanh ở nước
ta thường hoạt động theo một trong các hình thức được dưới đây:
Bảng 1.1: Các hình thức kinh doanh ngoài quốc doanh phổ biến.
Hình thức kinh doanh Cơ sở pháp lý hiện hành
Hộ kinh doanh cá thể
(Trước đây gọi là cá nhân
và nhóm kinh doanh theo
NĐ số 66/HĐBT)
Điều 17-21 Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ban hành
ngày 03/02/2000 về đăng ký kinh doanh (Các quy
định thay thế Nghị định số 66/HĐBT ban hành ngày
2/3/1992 trước đây)
Doanh nghiệp tư nhân
Điều 99-104, Luật doanh nghiệp1999 ban hành ngày
20/06/1999 (thay thế các quy định của Luật DNTN
ban hành ngày 21/12/1990 trước đây)
Hộ gia đình kinh doanh Điều 116-119 Luật dân sự, điều 5 Luật thương mại
Nhóm kinh doanh


Trước đây được quy định bởi NĐ số 66/HĐBT gày
2/3/1992, hiện nay chưa có quy định thay thế
Tổ hợp tác Điều 120- 129 Bộ luật dân sự Việt Nam
Hợp tác xã (HTX) Luật Hợp tác xã ban hành ngày 20/3/1996
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Công ty TNHH có hai
thành viên trở lên
Luật doanh nghiệp 1999 (Thay thế các quy định của
Luật Công ty ban hành ngày 21/12/1990)
Công ty TNHH một thành
viên
Luật doanh nghiệp 1999 (trước đây không có quy
định về loại hình doanh nghiệp này)
Công ty hợp danh (CTHD)
Luật DN 1999 (trước đây không có quy định về loại
hình doanh nghiệp này)
Công ty cổ phần (CTCP)
Luật doanh nghiệp1999 (thay thế các quy định trước
đây của Luật công ty ban hành ngày 21/12/1990)
Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài
Luật ĐTNN tại Việt Nam ban hành ngày 29/12/1990
đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung ban hành ngày
30/06/1990; 23/12/1992; 12/11/1996 và 06/06/ 2000
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hợp tác xã và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài cũng là loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD). Tuy
nhiên theo khái niệm chính trị - pháp luật đã thông dụng ở Việt Nam, đặc biệt là
theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam (CSVN), hai nhóm
doanh nghiệp(DN) này được xếp vào thành phần kinh tế tập thể và thành phần

kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Quy ước này chỉ có tính tương đối, vì theo các
quy định mới của pháp luật về hợp tác xã, hình thức này cũng là một loại hình
kinh doanh do tư nhân thành lập, hoạt động theo các nguyên tắc về cơ bản có thể
so sánh với các doanh nghiệp tư nhân và công ty khác.
Loại hình DNNQD hiện nay trong một số tài liệu còn gọi là doanh nghiệp
dân doanh (DNDD) bao gồm: doanh nghiệp tư nhân (DNTN), công ty trách
nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP). Đây là những loại hình DN
phổ biến nhất ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Thực tế hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh mới mà
không nhất thiết phải thành lập các DN như chung vốn kinh doanh theo các hợp
đồng; liên kết kinh doanh; hoặc các tập thể, cá nhân nhận thuê, khoán một bộ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phận hay toàn bộ cơ sở kinh doanh của một DN; nhận gia công đại lý theo vụ
việc Những mô hình liên kết như vậy có thể đan xen về vốn giữa các cơ sở
quốc doanh, các cơ sở kinh doanh của các tổ chức chính trị- xã hội và vốn của tư
nhân. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào hoạt động của các
DNNQD mà chủ yếu là DNTN, công ty TNHH, CTCP.
Quan niệm về DN, theo Luật doanh nghiệp, là một tổ chức kinh tế có tên,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong đó, “kinh doanh”
phải được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng hàng hoá, dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
• Doanh nghiệp tư nhân: Điều 99- Luật doanh nghiệp1999 quy
định: doanh nghiệp tư nhân là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. DNTN có đặc
điểm như sau:
− DN thuộc sở hữu tư nhân, chủ DN là người tổ chức, quản lý sản xuất

kinh doanh, có trường hợp chủ DN cũng có thể thuê người quản lý, điều hành
hoạt động kinh doanh.
− Là DN mà chủ DN phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với kết quả kinh doanh của DN.
− Chủ DN có toàn quyền quyết định qui mô, phương thức hoạt động,
quản lý kinh doanh cũng như sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện
đầy đủ các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
• Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình DN trong đó các
thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng
với phần vốn góp, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào DN. Công ty TNHH có hai
thành viên trở lên là DN trong đó phần góp của tất cả các thành viên phải được
đóng góp đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ
trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành cổ phiếu [26].
Công ty TNHH thuộc loại công ty đối vốn, chịu trách nhiệm hữu hạn, đặc
điểm của loại hình DN này là:
− Công ty TNHH là một pháp nhân kinh doanh, không được phép phát
hành chứng khoán.
− Vốn của công ty (vốn điều lệ) được chia ra từng phần không nhất
thiết phải bằng nhau. Mức góp tùy khả năng tài chính của từng thành viên. Các
thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của DN trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào DN.
− Các thành viên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn
góp của mình cho người khác nhưng phải chào bán phần vốn đó cho các thành
viên còn lại theo tỷ lệ vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện. Điều
này có nghĩa là các thành viên cũng có thể chuyển nhượng cho người ngoài
trong trường hợp các thành viên còn lại không mua hoặc không mua hết.
− Quyền quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty thuộc về

hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng thành viên và giám đốc (tổng giám đốc).
− Phân phối lợi nhuận theo tỷ lệ phần vốn góp củacác thành viên,
nhưng công ty chỉ được chia lợi nhuận khi công ty kinh doanh có lãi, đã hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp
luật.
− Số lượng thành viên không lớn (không quá 50) nên tổ chức và quản
lý tương đối đơn giản.
Công ty TNHH có một thành viên là DN do một tổ chức làm chủ sở hữu,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của DN trong
phạm vi số vốn điều lệ của DN. Giống như công ty TNHH có hai thành viên trở
lên, công ty TNHH một thành viên cũng không được phép phát hành cổ phiếu.
• Công ty cổ phần: là công ty trong đó số thành viên gọi là cổ
đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là 3, không hạn
chế số lượng tối đa. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận
quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó gọi là cổ phiếu. Công ty
cổ phần có quyền phát hành trái phiếu [26].
Đây cũng là loại hình công ty đối vốn, chịu trách nhiệm hữu hạn. Trong đó
các thành viên (cổ đông) có cổ phần và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn góp vào DN. Đây là một
trong những loại hình DN đang chiếm nhiều ưu thế và hoạt động có hiệu quả,
đồng thời mang tính xã hội hoá rất cao. Đặc điểm của loại công ty này là:
− Công ty được phép phát hành chứng khoán ra công chúng theo đúng
quy định của pháp luật. Như vậy, nếu công ty có uy tín, làm ăn phát đạt, cần mở
rộng quy mô sản xuất thì việc mở rộng vốn trong mọi tầng lớp dân cư rất thuận lợi.
− Vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau. Mệnh giá cổ phiếu
là do công ty quyết định phù hợp với hoạt động kinh doanh, đồng thời thu hút
được sự tham gia rộng rãi của công chúng.

− Các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần, trừ hai trường
hợp sau, thứ nhất: cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển
nhượng cổ phần đó cho người khác; thứ hai: trong thời gian ba năm đầu hoạt
động kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ
đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được
quyền chào bán. Cổ phần phổ thông cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cho
người không phải là cổ đông nếu được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

− Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý và điều hành hoạt động kinh
doanh, quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ
những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông.
− Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức cho các cổ đông khi công ty
kinh doanh có lãi, hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính. Mức
cổ tức cho từng cổ phần do hội đồng quản trị quyết định căn cứ vào kết quả kinh
doanh cùng nhiều yếu tố khác liên quan.
− Số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế tối đa.
Trên đây là ba loại hình DNNQD phổ biến ở nước ta hiện nay, Luật doanh
nghiệp ra đời đã mở thêm loại hình công ty hợp danh, song mô hình công ty này
ít thấy xuất hiện trên thực tế.
1.2. Vai trò của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong nền kinh tế thị trường, các DNNQD đã ngày càng phát triển mạnh
mẽ và trở thành một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nước. Tuỳ theo
trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước mà vai trò đó cũng được thể hiện khác
nhau. Đối với các nước công nghiệp phát triển, các DNNQD là một nguồn lực
đảm bảo cho sức sống của nền kinh tế, là một bộ phận hợp thành quan trọng
trong cơ cấu đa dạng của các loại hình doanh nghiệp. Đối với các nước đang
phát triển và chậm phát triển thì ngoài vai trò là bộ phận hợp thành của nền kinh
tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế, các DNNQD

còn có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành công
nghiệp hoá đất nước, xoá đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề xã hội. Ở
Việt nam từ khi đổi mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và
DNNQD nói riêng đã ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sự lớn mạnh của nó gắn
với sự lớn mạnh của đất nước. Hiện nay, các DNNQD đang đóng một vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện qua tỷ lệ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phần trăm trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP), số công ăn việc làm do
khu vực này mang lại và những đóng góp vào quá trình phân phối thu nhập,
giảm bớt sự phát triển không đồng đều giữa đô thị và nông thôn Sự phát triển
của các DNNQD đã thực sự góp phần quan trọng trong giải quyết những mục
tiêu kinh tế - xã hội, vai trò của các DN này được cụ thể hoá ở những khía cạnh
chủ yếu sau đây:
1.2.1. Thu hút lượng lớn vốn đầu tư của tư nhân vào sản xuất kinh
doanh, khai thác các nguồn vốn trong nước
Sự ra đời và phát triển của các loại hình DNNQD, đặc biệt là mô hình
CTCP sẽ tạo cơ hội cho đông đảo nhân dân có thể tham gia đầu tư . Trong quá
trình hoạt động, các loại hình DNNQD có thể dễ dàng huy động vốn vay thông
qua các quan hệ gia đình, bạn bè… Vì vậy, việc phát triển các loại hình
DNNQD được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động vốn, sử dụng
các khoản tiền đang phân tán, nhàn rỗi trong dân cư thành các khoản vốn đầu tư.
Ở nước ta hiện nay, do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, các hình thức sở
hữu nhà nước và sở hữu tập thể chưa khai thác hết tiềm năng kinh tế to lớn của
đất nước thì việc khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản
xuất và tạo khả năng khai thác tối đa các tiềm năng kinh tế của đất nước.
Sự phát triển nhanh chóng của DNNQD đã tạo ra một kênh đầu tư mới để
khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào hoạt động
sản xuất kinh doanh trong các ngành nghề, lĩnh vực phù hợp với chính sách

khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời khắc phục khuynh hướng chỉ dựa vào
đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước (NSNN). Trên thực tế, có nhiều DNNQD đã
có bước phát triển mới về đầu tư mở rộng quy mô, áp dụng công nghệ tiên tiến,
nâng cao trình độ quản lý, đã tham gia xuất khẩu có hiệu quả cao, nhất là ngành
dệt may, sản xuất đồ gỗ cao cấp, chế biến lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

đình… mạnh dạn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, số công ty có vốn đầu tư hàng
chục tỷ đồng đã xuất hiện ngày càng nhiều ở các thành phố lớn như thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội…
Như vậy, nhờ đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh, hàng năm các
DNNQD đã thu hút được một lượng vốn đáng kể của dân cư góp phần khắc
phục được một nghịch lý trong nhiều năm, các DN thiếu vốn đầu tư trong khi đó
lượng vốn trong dân còn nhiều khả năng tiềm ẩn chưa khai thác. Tuy lượng vốn
thu hút vào từng DN không lớn, nhưng do số lượng DNNQD phát triển nhiều
nên toàn bộ vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh ngày càng tăng.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà Luật doanh nghiệp ra đời cho phép mọi
người đều có thể thành lập DN, kinh doanh các mặt hàng mà pháp luật không cấm,
cần khuyến khích nhân dân đưa nguồn vốn nhàn rỗi của mình vào hoạt động kinh
doanh để làm lợi cho đất nước.
Thực tế cho thấy, các DNNQD là khu vực có khả năng khai thác và thu hút
vốn trong dân cư do tính hiệu quả và quy mô sản xuất chủ yếu là vừa và nhỏ, đòi
hỏi vốn không nhiều, thời gian thu hồi vốn nhanh.
1.2.2. Phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế
Với ưu thế của DNNQD: vốn đầu tư không lớn và dễ thay đổi phương hướng
đầu tư cho phù hợp với nhu cầu thị trường, chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ phù hợp
với năng lực quản lý của tư nhân nên đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia vào khu vực này làm cho số lượng các DN tăng lên rất nhanh, làm
tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro, đồng thời còn làm tăng số lượng,

chủng loại hàng hoá, dịch vụ, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, phù hợp với
thị hiếu và tập quán tiêu dùng của từng địa phương. Như vậy, sự phát triển của các
DNNQD sẽ cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn về nhu
cầu đời sống xã hội. Chính việc tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn hơn,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phong phú hơn và có chất lượng tốt sẽ thay thế được nhiều mặt hàng nhập khẩu,
góp phần cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong nước và sự gia tăng xuất khẩu
của khu vực DNNQD là yếu tố góp phần tạo cho nền kinh tăng trưởng và ổn định.
Xét trên giác độ tổng cầu, nhìn chung ở nước ta, theo tính toán của các nhà
thống kê, để tăng trưởng 1% GDP cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1 đến 2,2% (kể cả
tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho đời sống) [25]. Khi khu vực kinh tế tư
nhân nói chung và các DNNQD nói riêng phát triển sẽ làm tăng tổng cầu, bởi vì:
− Do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào gia tăng.
− Thu nhập của người lao động tăng do sản xuất phát triển và do số lao
động được huy động vào làm việc tăng thêm.
Bên cạnh đó, một điều được thừa nhận chung là đầu tư là động lực cho tăng
trưởng kinh tế ở tất cả mọi nước. Việt Nam đã đạt được tăng trưởng cao trong
thập kỷ qua với vòng tăng trưởng đầu tiên vào đầu những năm 90 được kích
thích do sự “cởi trói” năng lực sản xuất ở giai đoạn đầu đổi mới, sự tăng trưởng
đó có phần đóng góp rất quan trọng của các loại hình DNNQD - loại hình DN
lần đầu tiên được thừa nhận sau ba thập kỷ bị cấm đoán. Xét về cơ cấu ngành
của các DNNQD cho thấy, nếu có môi trường kinh doanh thuận lợi, khu vực
kinh tế này có tiềm năng to lớn thúc đẩy một sự tăng trưởng theo định hướng
xuất khẩu của nền kinh tế. Thực tế các DNNQD sử dụng nhiều lao động (may
mặc, chế biến thực phẩm, đồ da), là loại DN có định hướng xuất khẩu mạnh, đặc
biệt là vào thị trường châu Âu và Đông Á. Hiện tại, đầu tư và tăng trưởng của
khu vực này còn bị hạn chế do môi trường kinh doanh có không ít rủi ro, do các
quy định của Nhà nước và bị chèn ép bởi các DNNN trong cuộc cạnh tranh
không bình đẳng.

Khác với khu vực DNNN, khu vực DNNQD năng động, tăng trưởng nhanh
góp phần vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Những gì khu vực này
cần chỉ là môi trường thông thoáng và tín hiệu rõ ràng từ phía Nhà nước.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

1.2.3. Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, hạn chế di dân vào đô thị
Một trong những vấn đề nổi cộm của nền kinh tế chuyển đổi nói chung đó
là giải quyết việc làm cho người lao động. Giải quyết việc làm cho người lao
động không chỉ đảm bảo đời sống cho nguời lao động mà còn là điều kiện rất
quan trọng đảm bảo duy trì tốt an ninh xã hội. Song với số lượng các DNNQD
không ngừng tăng lên , mặc dù chủ yếu với các DNNQD mới được thành lập
phần lớn có quy mô nhỏ, số lao động làm việc trong mỗi DN không nhiều nhưng
với số lượng lớn các DNNQD trong nền kinh tế đã tạo ra nhiều việc làm mới,
giải quyết có hiệu quả vấn đề thất nghiệp và góp phần giảm bớt các tệ nạn xã
hội, tạo ra sự phát triển hài hoà cho nền kinh tế. Đây cũng là đóng góp quan
trọng trọng nhất của khu vực DN này.
Phát triển các DNNQD cũng sẽ tạo ra nhiều khả năng thuận lợi để huy
động được nhiều hơn nguồn nhân lực do các DNNQD chủ yếu sử dụng lao động
tại chỗ. Đồng thời, điều kiện để đào tạo tay nghề cho người lao động thuận lợi
hơn so với các khu vực kinh tế khác, do đó chi phí đào tạo sẽ không quá lớn
đồng thời qua việc truyền nghề ở các doanh nghiệp góp phần duy trì những làng
nghề truyền thống.
Thực tế, ở Việt nam trong thời gian qua, hệ thống DNNN được xắp xếp lại,
các DNNN bằng các giải pháp cổ phần hoá, bán khoán, cho thuê và giải thể các
DNNN làm ăn thua lỗ thì việc dôi ra một số lượng lao động lớn là điều không
thể tránh khỏi, bên cạnh đó khu vực hành chính Nhà nước cũng thực hiện giảm
biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Như vậy, nếu xét về mặt tạo công ăn,
việc làm, thì khu vực nhà nước nói chung và khu vực DNNN nói riêng không
tạo thêm nhiều việc làm, thậm chí còn giảm xuống cả về tuyệt đối và tương đối
trong khi nạn thất nghiệp là một trong những khó khăn lớn nhất của quá trình

chuyển đổi kinh tế ở nước ta trong thời gian qua. Do vậy, với sự ra đời và phát
triển của các DNNQD, áp lực thất nghiệp đã được giảm mạnh.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Như vậy, một mặt các DNNQD đã tạo thêm nhiều chỗ làm mới cho người
lao động, mặt khác đã góp phần giải tỏa tâm lý tập trung lao động về khu vực
Nhà nước hay khu vực có vốn ĐTNN. Đồng thời, phát triển các DNNQD đã
từng bước làm thay đổi quan niệm của người lao động về vấn đề việc làm, một
mặt, mở ra khả năng giải quyết việc làm và thu nhập của người lao động. Do đó,
việc thay đổi quan niệm này đã làm giảm bớt gánh nặng xã hội cho Nhà nước
trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp và những vấn đề xã hội khác.
Các DNNQD có tác động thúc đẩy quá trình đô thị hoá phi tập trung.
DNNQD phát triển nhanh trong tất cả các ngành và ở khắp các địa phương đã
tạo ra cơ hội phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản
và sản xuất kinh doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao động có năng suất
thấp, thu nhập chưa cao, chiếm số đông, thiếu việc làm sang khu vực DN công
nghiệp, dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khá hơn. Trên thực tế, số lượng
việc làm mới được tạo thêm từ khu vực DNNQD đã góp phần tích cực trong
mục tiêu thực hiện chuyển dịch lao động nông nghiệp.
Sự phát triển của các DNNQD ở nông thôn không chỉ tạo ra việc làm cho
một bộ phận dân cư mà còn thu hút số lượng lớn lao động thời vụ trong thời
gian nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực lượng lao động
nông nghiệp sang làm công nghiệp và dịch vụ tại địa phương, giảm bớt được tốc
độ di dân vào thành phố.
1.2.4. Góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu cho cho ngân sách
Với việc tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động nên phát triển
khu vực kinh tế tư nhân nói chung và DNNQD nói riêng đã tạo thu nhập cho
người lao động, đồng thời góp phần cải thiện và nâng cao mức sống chung của
toàn xã hội.
Về đóng góp với Ngân sách Nhà nước (NSNN), DN là khu vực tạo ra nguồn

thu chủ yếu cho NSNN. Việc phát triển các DNNQD sẽ làm tăng số luợng DN và
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

làm tăng khả năng cung ứng các dịch vụ cho xã hội, nhà nước có thể thu thêm
được tiền thuế trên số sản phẩm và dịch vụ gia tăng cũng như thu thêm thuế thu
nhập từ người chủ DN và người lao động. Mặt khác, tuy số đóng góp của một
DNNQD là không lớn do các DN này chủ yếu là có quy mô nhỏ, song với số
lượng đông đảo các DN cũng có đóng góp một phần đáng kể vào NSNN.
Hiện nay ở nước ta mức đóng góp vào NSNN của các loại hình DNNQD
tăng nhanh trong những năm qua là điều kiện góp phần để đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng, phát triển các hoạt động xã hội công cộng như y tế, giáo dục, xoá đói
giảm nghèo và Nhà nước không phải trợ cấp trở lại cho các DN này như
DNNN.
1.2.5. Phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Xét về quy mô sản xuất, các DNNQD đa phần là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (DNV&N). Số lượng DN tăng khá nhanh, mặc dù một số DN hiện nay cũng
đạt mức quy mô khá hơn nhưng nhìn chung chủ yếu là các DNV&N. Do đó có
những hạn chế trong trang bị kỹ thuật. Công nghệ sản xuất của loại hình DN này
hầu hết ở trình độ thấp và trung bình, thậm chí nhiều DN và hộ kinh doanh cá thể
sử dụng kỹ thuật lạc hậu, chắp vá, lao động thủ công là chủ yếu.
Tuy nhiên hiện nay các DNNQD đã phát triển hơn bất kỳ thời kỳ nào trước
đây, sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Đối
với DN có quy mô tương đối lớn đã có nhiều DN đầu tư thiết bị khá hiện đại,
công nghệ tiên tiến với những sản phẩm có uy tín trên thị trường, các DNNQD
sẽ góp phần tích cực vào quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước.
1.2.6. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý
theo hướng kinh tế thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh
Sự phát triển của các DNNQD đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự
phát triển cân đối giữa các vùng, khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa
các vùng trong một quốc gia từ việc xây dựng các cụm, khu công nghiệp- dịch
vụ tổng hợp ở nơi có cơ sở hạ tầng phát triển. Đồng thời, chính việc phát triển
rộng khắp các DNNQD ở các vùng sẽ giúp cho vùng sâu, vùng xa, các vùng
nông thôn có thể khai thác được tiềm năng, thế mạnh của mình để phát triển
nhanh các ngành sản xuất, dịch vụ tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về mọi mặt giữa các vùng.
Sự phát triển của các DNNQD cũng tạo điều kiện trong việc chuyển dịch
cơ cấu ngành. Đến nay, hoạt động của loại hình DNNQD tuy còn nhỏ nhưng
phát triển nhanh, rộng khắp ở các địa phương trong cả nước, do đó trừ một số ít
các lĩnh vực, ngành nghề Nhà nước giữ vai trò độc quyền, còn lại hầu hết các
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thì các DNNQD đều tham gia với mức độ ngày
càng lớn. Trong đó ở một số ngành nghề, DNNQD đã chiếm tỷ trọng khá cao
như sản xuất lương thực, thực phẩm, bán lẻ hàng hoá, hàng tiêu dùng, nuôi trồng
thuỷ sản Nếu như trước đây, các DNNQD chỉ hoạt động trong các lĩnh vực
thương mại, dịch vụ là chủ yếu thì vài năm trở lại đây, số DN sản xuất trực tiếp
đã tăng lên đáng kể, kể cả những ngành đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật cao như cán
thép, dây cáp điện, xi măng, xe gắn máy, máy tính, thiết bị điện tử và đồ điện
gia dụng chất lượng cao. Nhiều DN đã bước đầu khẳng định được vị thế của
mình trên thương trường, góp phần tích cực vào quá trình phát triển chung của
cả nước, đồng thời tạo cơ sở quan trọng cho việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và
thúc đẩy cho các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển.
Với sự tham gia của DNNQD cùng với các thành phần kinh tế khác sẽ tạo
ra động lực cạnh tranh, làm cho nền kinh tế hàng hoá phát triển đa dạng, phong
phú, sôi động và có tốc độ tăng trưởng nhanh. Chính sự phát triển phong phú, đa
dạng các cơ sở sản xuất, các ngành nghề, các loại sản phẩm dịch vụ, các hình
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


thức kinh doanh của các DN này đã tác động mạnh mẽ đến các DNNN, buộc các
DNNN này phải sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức sản
xuất kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Nói cách khác,
sự phát triển của các DNNQD đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các DN trong nền
kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động hơn, đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn
buộc công tác quản lý hành chính của Nhà nước phải thay đổi nhanh nhạy, đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi của các DN trong nền kinh tế thị trường.
Hiện nay, nhiều DNNN, đặc biệt là các tổng công ty lớn thường đòi hỏi sự
độc quyền và bảo hộ của Chính phủ; còn các DNNQD hầu hết là các DNV&N
có tính tự chủ cao, chấp nhận tự do cạnh tranh, nâng cao tính năng động, linh
hoạt của nền kinh tế nhờ quy mô nhỏ, tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, kết
hợp chuyên môn hoá với đa dạng hoá, hoà nhập kịp thời với những đòi hỏi của
nền kinh tế thị trường góp phần làm năng động nền kinh tế.
Như vậy, sự phát triển của DNNQD đã góp phần quan trọng hình thành và
xác lập vai trò, vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ
chế thị trường, đẩy nhanh việc hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, thúc
đẩy cải cách DNNN, cải tổ cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp
tác với bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bên cạnh đó, các DNNQD còn có vai trò tích cực trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành và trong nội bộ ngành, thúc đẩy
công nghiệp dịch vụ phát triển mạnh, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong
cơ cấu kinh tế. Từ năm 1986 đến nay, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển
biến tích cực theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp, tăng
tỷ trọng giá trị sản lượng công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời DNNQD phát
triển ở vùng nông thôn sẽ thu hút lao động nông nghiệp nông thôn sang hoạt
hoạt động công nghiệp,trong đó có phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm
nông nghiệp tại địa phương.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


1.2.7. Góp phần hình thành và phát triển các nhà doanh nghiệp có
trình độ chuyên môn, tạo điều kiện cho sự phát triển năng lực của mọi người,
từng bước thực hiện công bằng xã hội
Việc ra đời và phát triển của các DNNQD, đã từng bước hình thành đội ngũ
các nhà DN hoạt động trên các lĩnh vực, các ngành nghề của nền kinh tế quốc
dân. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ DNNQD đã tỏ rõ bản lĩnh và khả
năng thích ứng với sự chuyển đổi của nền kinh tế. Họ đã vươn lên tự khẳng định
mình, tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần tạo việc làm và
thu nhập cho người lao động, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội và được xã
hội tôn vinh. Đây cũng là một cơ hội tự khẳng định sự nghiệp của các doanh
nhân trong thời kỳ đổi mới kinh tế. DNNQD cũng chính là nơi đào tạo và sàng
lọc các nhà quản lý DN qua thực tiễn kinh doanh, góp phần vào việc đào tạo lực
lượng cán bộ quản lý DN có chất lượng cao cho đất nước. Mặc dù không tránh
khỏi những bất cập và hạn chế, sự phát triển của các DNNQD đã tạo ra được đội
ngũ doanh nhân tiếp cận với kinh tế thị trường.
Sự phát triển DNNQD với các loại hình khác nhau đã góp phần làm cho
quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực lượng sản xuất trong giai đoạn
chuyển đổi của nền kinh tế. Thị trường lao động được hình thành và phát triển,
các DN chủ động ký kết các hợp đồng lao động theo yêu cầu sản xuất kinh doanh,
tạo cơ hội trong việc tìm kiếm việc làm cho người lao động thay cho việc phân bổ
lao động vào các DNNN theo chỉ tiêu trong thời cơ chế bao cấp trước đây. Quan
hệ phân phối cũng trở nên đa dạng, linh hoạt, ngoài phân phối chủ yếu dựa theo
lao động, còn sử dụng các hình thức phân phối theo vốn góp, theo tài sản, theo cổ
phần và nhiều hình thức khác.
Sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối đã làm cho
quan hệ sản xuất trở nên mềm dẻo, đa dạng, linh hoạt, phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh nền kinh tế và tâm lý xã hội ở nước ta hiện nay. Nhờ vậy đã khơi dậy
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

và phát huy tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt

là nguồn lao động dồi dào và khả năng sáng tạo của hàng triệu người lao động.
Thông qua đó, mọi người dân đều tham gia phát triển kinh tế và hưởng thụ thành
qủa lao động của mình, công bằng xã hội từng bước được thực hiện.
1.3. Những ưu thế và hạn chế của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong nền kinh tế, mỗi loại hình DN đều có những ưu thế và hạn chế riêng.
Các DNNQD với đặc trưng thuộc sở hữu tư nhân, hoạt động gắn liền với lợi ích
và động lực cá nhân, tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh , do đó cũng thể
hiện những mặt ưu thế và hạn chế của nó:
1.3.1. Ưu thế của loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Các DNNQD với đặc trưng thuộc sở hữu tư nhân và phần lớn có quy mô
vừa và nhỏ nên có khá nhiều ưu thế:
− Năng động, nhạy bén, dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường
Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
các DNNQD luôn tìm kiếm và đáp ứng những yêu cầu trong nền kinh tế thị
trường. Do các DN này thường có mối liên hệ trực tiếp với thị trường và người
tiêu dùng nên phản ứng của nó với thị trường nhanh nhạy hơn và do tính tự chủ
cao trong kinh doanh, các DN có khả năng đổi mới linh hoạt các loại sản phẩm
phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và nhu cầu thị trường. Ngay khi gặp phải
giới hạn của nhu cầu thị trường về không gian sẽ chuyển sang đầu tư theo chiều
sâu nhằm nâng cao khả năng sinh lời và sức cạnh tranh thông qua cải tiến công
nghệ, giảm chi phí và cuối cùng thường đi theo hướng mở rộng danh mục sản
phẩm của mình để đưa ra thị trường. Mặt khác, các DN này khi gặp những bất
lợi cũng dễ dàng thay đổi tình thế, có thể chuyển đổi sản xuất hay thu hẹp quy
mô mà không gây ra hậu quả lớn cho xã hội.
− Tạo lập dễ dàng, hoạt động có hiệu quả với chi phí thấp
Thông thường, việc thành lập mới các DNNQD không nhất thiết đòi hỏi
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

vốn đầu tư, mặt bằng sản xuất và quy mô nhà xưởng lớn đã giúp cho DN tiết
kiệm được chi phí cố định. DN có thể tận dụng lao động thay thế cho vốn với

giá lao động thấp, từ đó có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn.
− Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh
Các DNNQD với số lượng đông đảo, phần nhiều có quy mô không lớn, do
vậy thường khó có khả năng độc quyền trên thị trường. Các DN này dễ dàng và
sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh, có thể sản xuất sản phẩm chất lượng tốt
ngay cả khi điều kiện kinh doanh còn nhiều hạn chế, nhất là với những sản phẩm
có hàm lượng lao động thủ công cao. Nó làm cho nền kinh tế sống động và thúc
đẩy việc sử dụng tối đa các tiềm năng của mọi thành phần kinh tế.
− Các DNNQD sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức
độ rủi ro cao.
Do khó có thể cạnh tranh trên thị trường truyền thống của các DN lớn cũng như
các công ty, tổng công ty thuộc sở hữu nhà nước, các DNNQD thường tìm cách phát
triển những lĩnh vực mới, chấp nhận rủi ro cao để thu lợi nhuận.
1.3.2. Những hạn chế của loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Bên cạnh những ưu thế mà các DNNQD có được, trong thực tiễn hoạt
động sản xuất kinh doanh, các DNNQD có những hạn chế nhất định. Từ khảo
sát các DNNQD có những hạn chế sau:
− Phát triển tự phát và thể hiện tính kém bền vững.
Các DNNQD với đặc trưng thuộc sở hữu tư nhân, hoạt động gắn liền với
lợi ích và động lực cá nhân, mục tiêu cao nhất là tối đa hoá lợi nhuận do đó dễ
dàng bỏ qua hoặc không coi trọng các mục tiêu kinh tế, xã hội khác. Bên cạnh
đó, do tính tự phát cùng với khả năng tài chính hạn chế, không có được sự bảo
hộ của Nhà nước nên khi có những biến động lớn về thị trường, các DN này dễ
đi đến tình trạng phá sản và dễ dẫn đến tình trạng đổ vỡ gây khủng hoảng kinh
tế nếu Nhà nước buông lỏng quản lý.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

− Hạn chế về quy mô
Trừ một số nước công nghiệp phát triển cao như CHLB Đức, Nhật Bản,
Mỹ… cùng với quá trình tư nhân hoá và làn sóng sáp nhập các công ty đã tạo ra

các công ty tư nhân có quy mô rất lớn, còn lại phần lớn loại hình DNTN ở các
nước có quy mô vừa và nhỏ. Do hạn chế về quy mô, các DNTN này gặp không
ít khó khăn, trở ngại trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và trong quản lý của
Nhà nước, cụ thể:
• Khả năng tài chính hạn chế
Các DNNQD phần lớn vốn tự có ít, khả năng vay vốn của các DN thấp.
Mặt khác các DN này thường thiếu tài sản để thế chấp, hoặc tài sản thế chấp có
giá trị thấp nên khó vay vốn của ngân hàng và cũng ít có khả năng huy động vốn
ngoài thị trường. Do vậy hạn chế phát triển, mở rộng kinh doanh, chuyển đổi
công nghệ, hạn chế sức cạnh tranh trên thị trường.
• Trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu
Phần lớn máy móc thiết bị trong các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ đều đã
lạc hậu trong khi hiện nay, công nghệ được coi là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong
việc đo lượng chất lượng sản phẩm. Việc sử dụng công nghệ kỹ thuật lạc hậu sẽ
không cải tiến được chất lượng, mẫu mã và giá thành sản phẩm, tù đó làm giảm
khả năng cạnh tranh của DN. Sức cạnh tranh của hàng hoá thấp, khó tiêu thụ, độ
rủi ro cao.
• Ít có khả năng thu hút được các nhà quản lý và công nhân giỏi.
Do còn tồn tại tâm lý của người lao động muốn được làm việc trong các
DNNN để đảm bảo sự ổn định và có mức thu nhập cao hơn. Do đó, các
DNNQD khi cần tuyển chọn lao động có tay nghề cao thường gặp nhiều khó
khăn. Đối với các DN này, việc đào tạo công nhân và chủ DN, đầu tư cho
nghiên cứu cũng có nhiều hạn chế.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

− Hoạt động phân tán, rải rác khắp cả nước nên khó quản lý và hỗ trợ.
Khác với các DNNN được thành lập và hoạt động theo quy hoạch cụ thể,
gắn với phân vùng lãnh thổ, các DNNQD phân bố rải rác khắp cả nước, hoạt
động phân tán theo nhiều lĩnh vực kinh doanh đa dạng nên gây nhiều khó khăn
cho việc quản lý cũng như hỗ trợ phát triển đối với loại hình doanh nghiệp này.

1.4. Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Qua các kỳ đại hội Đảng, sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh nói chung và các DNNQD nói riêng đang ngày càng được quan tâm đúng
mức và được khẳng định tồn tại lâu dài dưới sự đảm bảo của Nhà nước. Do vậy,
các chính sách, pháp luật đã được ban hành và điều chỉnh, bổ sung nhằm phá bỏ
mọi rào cản, tạo môi trường cho các DNNQD phát triển.
1.4.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển doanh nghiệp
ngoài quốc doanh
Tháng 12.1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và khẳng định sự tồn tại
lâu dài của các thành phần kinh tế. Từ những đổi mới trong tư duy lý luận, cơ
chế chính sách, Đảng và Nhà nước đã đổi mới cách nhìn nhận về sự tồn tại của
các loại hình DN. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi trong sản
xuất kinh doanh của các DN trong nước và cả các DN liên doanh, liên kết với
các DN nước ngoài, khuyến khích mọi người tham gia kinh doanh, phát triển
sản xuất, mọi cá nhân có khả năng về vốn, kỹ thuật, công nghệ đều được phép
thành lập DN, hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật.
Tháng 03/1989, Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) khẳng định sự nhất
quán trong chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần để giải phóng mọi năng
lực sản xuất và coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

lâu dài , có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Nghị quyết đã nhấn
mạnh các hình thức kinh tế ngoài quốc doanh như cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân là cần thiết cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở nước ta.
Chủ trương đổi mới tiếp tục được khẳng định trong kỳ Đại hội lần thứ
VII của Đảng năm 1991. Tháng 04/1991, Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư
nhân ra đời và có hiệu lực đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các DNNQD

quy mô lớn hoạt động. Luật doanh nghiệp tư nhân đã công nhận sự tồn tại và
phát triển lâu dài của DNTN, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của
DNTN với các DNNN. Trong khuôn khổ pháp luật, DNTN có quyền tự do
kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở
tổng kết
thực tiễn công cuộc đổi mới, Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 2 (khoá VII)
năm 1992 đã đưa ra một số chủ trương để phát huy tiềm năng của các DNNQD
như bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm đảm bảo cho DNNQD được phát huy không
hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật
không cấm.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng năm 1996 khẳng định, kinh tế tư bản tư nhân
có vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước, vì vậy đòi hỏi nhà nước cần
phải có biện pháp khuyến khích phát triển, tạo điều kiện đi đôi với việc tăng
cường quản lý hướng dẫn làm ăn hợp pháp. Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng
lần thứ tư (khoá VIII) tháng 12/1997 tiếp tục cụ thể hoá chủ trương xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân,
đồng thời chủ trương phát triển các hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết giữa
các thành phần kinh tế. Tháng 06/1999, Luật doanh nghiệp đã được thông qua
thay thế cho Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Sự ra đời của Luật
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

doanh nghiệp đã có những đổi mới mạnh mẽ và tạo điều kiện thuận lợi cho các
DNNQD thành lập và phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã ban hành một
số luật có liên quan như: Luật thương mại (1997), Luật các tổ chức tín dụng
(1997), Luật thuế giá trị gia tăng (1997), Luật thuế thu nhập (1997)… nhằm tiến
tới hoàn thiện môi trường pháp lý cho các DN.
Đại hội lần thứ IX của Đảng 04/2001 chỉ rõ cần đổi mới và hoàn thiện
khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế chính sách, thủ tục hành chính
nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất,

kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Tiếp đó, Nghị định 90/2001/NĐ-CP về
khuyến khích và hỗ trợ phát triển DN được ban hành. Theo đó, Nhà nước sẽ
thành lập các tổ chức tư vấn, điều phối và hỗ trợ DN như quỹ bảo lãnh tín
dụng, Cục phát triển DN của Bộ Kế hoạch và đầu tư, đồng thời xây dựng các
khu công nghiệp tập trung, hỗ trợ cung cấp thông tin, đào tạo, xúc tiến xuất
khẩu.
Như vậy, các chủ trương và quan điểm của Đảng đã có những đổi mới quan
trọng mang tính đột phá, từ chỗ nhận thức và hành động không thừa nhận nền
kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế tư nhân là lực lượng phải cải tạo, đến xác
định mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí quan trọng trong cơ cấu của nền kinh
tế, đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Từ chỗ coi kinh tế quốc
doanh là chủ đạo theo nghĩa các DNNN phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi
ngành nghề, lĩnh vực, độc quyền, chi phối thị trường, đã chuyển sang coi khu
vực ngoài quốc doanh trong đó có các DNNQD là một bộ phận trong cơ cấu nền
kinh tế quốc dân, có khả năng góp phần xây dựng đất nước và được phát triển
không hạn chế trong các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được kinh
doanh, xuất nhập khẩu và đầu tư ra nước ngoài theo quy định chung, thực hiện
hợp tác với DNNN. Những nỗ lực trên đã tạo hành lang pháp lý để các DNNQD
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

có thể phát triển nhanh chóng và vững chắc, đóng góp cho sự phát triển kinh tế
của đất nước.
1.4.2. Chính sách của Nhà nước về phát triển doanh nghiệp ngoài
quốc doanh
Những chủ trương của Đảng trong các kỳ đại hội đã được cụ thể hoá bằng
các chính sách và pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho khu vực kinh tế
tư nhân nói chung và các DNNQD nói riêng phát triển nhanh chóng cả về số
lượng và quy mô hoạt động.
 Chính sách đất đai.

Luật đất đai được ban hành năm 1993 đã thay thế cho Luật đất đai năm
1988 là một cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo cho các DNNQD sử dụng đất
một cách hiệu quả, ổn định, lâu dài. Theo đó, Nhà nước không thừa nhận các
yêu cầu đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng. Quy định này đã đảm bảo
chắc chắn quyền lợi sử dụng đất của các doanh nghiệp trong thời gian thuê đất
của nhà nước một cách hợp pháp. Tiếp đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
luật của Luật đất đai ban hành ngày 02/12/1998 đã tăng cường vị trí pháp lý cho
các tổ chức thuê đất kinh doanh. Nghị định 17/1999/NĐ- CP(có hiệu lực thi
hành từ ngày12/04/1999) cụ thể hoá thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất. Đây là những quy định mới góp phần ổn định các quan hệ sử
dụng đất, làm rõ các quyền của người sử dụng đất và cải cách cơ bản các thủ tục
hành chính liên quan đến việc thực hiện các quyền này[41].
Như vậy, về phía các doanh nghiệp, Luật đất đai sửa đổi đã có những ưu
điểm sau:
− Luật Đất đai sửa đổi tăng cường phạm vi quyền sử dụng đất của các
DN như tài sản thế chấp vay vốn, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất, có quyền cho thuê lại quyền sử dụng đất…
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

− Giảm bớt các thủ tục phiền hà có liên quan đến việc thuê đất, quyền sử
dụng đất, chuyển nhượng đất…Làm rõ các quyền của người sử dụng đất và các
thủ tục hành chính liên quan đến việc thực hiện các quyền này.
Luật đất đai ngày càng có những quy định rõ ràng hơn trong việc tạo điều
kiện cho các DN thuê đất của nhà nước hoặc thuê lại quyền sử dụng đất trong
các khu công nghiệp tập trung. Trong quá trình thực hiện, Chính phủ đã ban
hành nhiều nghị định bổ sung và điều chỉnh Luật đất đai cho phù hợp với tình
hình thực tế.
 Chính sách thuế, tín dụng, đầu tư
Các chính sách về thuế, tín dụng, đầu tư là những chính sách có ảnh hưởng

trực tiếp và mạnh mẽ đến hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN.
Trong những năm qua, nhiều văn bản, pháp luật thuế, tín dụng và đầu tư đã được
ban hành theo hướng phù hợp hơn đối với các yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Năm 1994 Quốc hội đã ban hành ban hành Luật khuyến khích đầu tư
trong nước. Các chính sách về đầu tư đã góp phần tạo môi trường thuận lợi
cho các các DNNQD như được thuê mặt bằng trong các khu công nghiệp tập
trung; lập các quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay trung và dài hạn; có các chế độ
ưu tiên, ưu đãi trong đầu tư vào một số ngành nghề, vùng lãnh thổ; bảo đảm
an toàn cho hoạt động đầu tư, đảm bảo tài sản và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư.v.v
Bên cạnh những chính sách về đầu tư, nhiều sắc thuế đã được ban hành và bổ
sung sửa đổi cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế như thuế giá trị gia tăng;
thuế thu nhập DN, thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế chuyển quyền sử dụng đất,
thuế nhà đất; thuế xuất nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế thu nhập với những
người có thu nhập cao… Các chính sách thuế đã có nhiều mặt tích cực hỗ trợ cho
các DNNQD trong hoạt động sản xuất kinh doanh như hệ thống thuế ngày càng
hoàn chỉnh hơn, đối tượng chịu thuế được mở rộng và không phân biệt các thành
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phần kinh tế; thuế suất áp dụng thống nhất cho các đối tượng và giản đơn hoá; có
nhiều ưu đãi thuế cho các cơ sở kinh tế trong đó có DNNQD.
Về tín dụng, tháng 12/1997 Luật các tổ chức tín dụng đã được ban hành.
Nhà nước đã có những biện pháp cụ thể hỗ trợ về tín dụng đối với các DNNQD
trong đầu tư phát triển thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ trong các dự án
phát triển nông nghiệp nông thôn, trong các chính sách cho vay vốn tạo việc
làm. Thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển, các DNNQD có thể được vay với lãi suất
ưu đã thấp hơn lãi suất cho vay từ các Ngân hàng thương mại.
Nhìn chung, từ nhiều năm nay, Nhà nước ta đã coi trọng việc khai thác và
phát huy tiềm năng đầu tư của kinh tế ngoài quốc doanh; một bước tiến khá
quan trọng từ thể chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang thể chế kinh tế thị

trường, thể hiện rõ quyền tự do kinh doanh trong lĩnh vực mà pháp luật không
cấm.
 Chính sách thương mại
Tháng 04/1997, Luật thương mại đã được thông qua tạo có sở pháp lý cho
các hoạt động thương mại của các DN. Chính sách thương mại được đổi mới
trên các mặt: tự do hoá thương mại, đổi mới chính sách xuất nhập khẩu, đổi
mới hệ thống thuế quan, giảm bớt các quy định về hạn ngạch.
− Tự do hoá thương mại bao gồm tự do hoá giá cả, tự do kinh doanh
đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thúc đẩy hình thành hệ thống
thị trường đồng bộ thống nhất.
− Đổi mới chính sách xuất nhập khẩu: các thành phần kinh tế đều được
quyền tham gia hoạt động ngoại thương, xoá bỏ quy định mức vốn tối thiểu để
được hoạt động xuất nhập khẩu. Các DN có giấy phép kinh doanh đều được
phép tham gia xuất nhập khẩu.
− Đổi mới hệ thống thuế quan, giảm mức thuế và hợp lý hoá thuế xuất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nhập khẩu. Đổi mới thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu, thay
đổi cơ chế quản lý xuất nhập khẩu từ phương pháp hành chính sang phương
pháp kinh tế thông qua hệ thống thuế quan
 Chính sách khoa học công nghệ
Hiện nay, khoa học công nghệ trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ và đang
có ảnh hưởng lớn đến các nước đang phát triển. Để đảm bảo khả năng cạnh
tranh của các DN khi bước vào hội nhập kinh tế, Nhà nước đã có những chính
sách tạo điều kiện cho các DN có khả năng tiếp cận với thành quả khoa học
công nghệ tiên tiến. Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo kỹ
năng và xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học công nghệ, tạo thị trường và thông tin
khoa học công nghệ cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nhà nước cũng đã và
đang triển khai nghiên cứu các chương trình khoa học công nghệ. Nhờ đó bước
đầu đã tạo điều kiện cho các DN nói chung và DNNQD nói riêng tiếp cận với các

công nghệ mới, nhận chuyển giao công nghệ, đầu tư phát triển công nghệ.
Luật Khoa học và công nghệ được Quốc hội thông qua ngày 9/6/2000 xác
định rõ Khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động lực cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh và bền vững đất nước [3].
Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới chính sách khoa học công
nghệ với các nội dung:
- Xác định cách thức tiếp nhận công nghệ hợp lý thông qua đầu tư nước
ngoài, mua bằng phát minh, sáng chế. Khuyến khích đầu tư nước ngoài có
công nghệ tiên tiến.
- Khuyến khích các hoạt động đào tạo kỹ năng và xây dựng kết cấu hạ tầng
khoa học công nghệ, tạo thị trường và thông tin khoa học công nghệ cho khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh hoạt động.

×