Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

ĐỀ TÀI: Thị trường Mỹ và khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của ngành Cà Phê Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.56 KB, 33 trang )

Lời mở đầu
Từ nhiều năm nay, cà phê là một trong những mặt hàng nông sản quan trọng
được buôn bán rộng rãi trên thị trường thế giới. Theo thống kê của Tổ chức cà phê
thế giới (I.C.O) và Trung tâm Thương mại Quốc tế (I.T.C), giá trị xuất khẩu cà phê
trên thế giới vượt xa so với cao su, chè, ca cao hay bất kỳ một sản phẩm nông
nghiệp nào khác. Trong nhiều năm, kim ngạch ck cà phê đạt trên 10 tỷ USD/năm
trong khi kim ngạch xuất khẩu chè và ca cao chỉ đạt 3 - 4 tỷ USD/năm.
Ở nước ta, cà phê cà phê là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng ngày càng được
khẳng định vị trí của mình trên thị trường cà phê thế giới. Từ một nước sản xuất cà
phê nhỏ, năm 2000 Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 trên thể giới về xuất khẩu cà
phê. Hàng năm ngành cà phê đưa lại cho đất nước một khối lượng kim ngạch đáng
kể và giải quyết công ăn việc làm, ổn định đời sống cho hàng trăm ngàn hộ gia đình
ở các khu vực miền núi và Tây Nguyên. Những thành tựu đó đã kẳng định vị trí,
vai trò của ngành cà phê trong nền kinh tế quốc dân, góp phần vao sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Bất kỳ một ngành hàng xuất khẩu nào cũng tự tìm cho mình những thị trường có
khả năng tiêu thụ cao. Và ngành cà phê đã tự tìm cho mình một thị trường đầy tiềm
năng đó là thị trường Mỹ. Kể từ ngày 3/2/1994 Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam và
ngày 6/8/1995, Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội đã chính thức khai trương, Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết ngày 13/7/200 và được thông qua vào ngày
11/12/2001, đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ hai nước nói chung và
quan hệ thương mại nói riêng. Không chỉ ngành cà phê mà rất nhiều ngành khác
ccũng đã coi thị trường Mỹ là một thị trường không thể không thâm nhập. Nhờ vậy,
kim ngạch buôn bán giữa Việt – Mỹ đã có những bước tiến đáng kể, tuy vÉn còn
rất nhỏ bé so với tiềm năng và nhu cầu của hai bên.
Đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, thị trường Mỹ với dân số khoảng 270 triệu
người, kim ngạch nhập khẩu hàng năm khoản 1100 tỷ USD, GDP/người khoảng
27000 USD với nhu cầu đa dạng, là một thị trường hấp dẫn. Riêng với mặt hàng cà
phê Mỹ phải nhập với số lượng lớn, kim ngạch năm khoảng 5 tỷ USD là từ hai
mươi nước vì vậy khả năng chiếm lĩnh thị phần của cà phê Việt Nam là không nhỏ.
Hiên nay, ngành cà phê đang phải đương đầu với một thời kỳ ảm đạm bởi giá cà


phê tên thị trường giảm sút một cách liên tục, bởi vậy cần phải có những chính sách
hỗ trợ cho ngành này phát triển một cách bền vững. Bởi đây là một ngành gắn liền
với rất nhiều dự án và chương trình quốc gia.
Người nghiên cứu đã xuất phát từ tình hình thực tế những năm qua trong sản
xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam , sự phát triển quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Mỹ nên đã quyết định chọn đề tài: “ Thị trường Mỹ và khả năng
thâm nhập thị trường Mỹ của ngành cà phê Việt Nam “ và qua đó thấy được khả
năng thâm nhập và mở rộng cả ngành cà phê Việt Nam vào thị trường Mỹ, một thị
trường có những quy định nghiêm ngặt trong việc nhập khẩu.
Trong phạm vi bài đề án này, tác giả không có tham vọng đi sâu nghiên cứu, mổ
xẻ từng vấn đề cụ thể, chỉ nêu lên khái quat thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt
Nam vào Mỹ, các luật lệ khi hàng vào Mỹ và rót ra những điểm cần lưu ý khi
ngành cà phê Việt Nam vào Mỹ.
Đề án này gồm 3 chương, cùng với lời mở đầu và kết luận
Chương I : Một số vấn đề chung.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ.
Chương III : Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thâm nhập thị trường
Mỹ của ngành cà phê Việt Nam.

CHƯƠNG I
MỘT SÈ VẤN ĐỀ CHUNG

I – Khái quát về ngành cà phê thế giới và Việt Nam.
1 – Giới thiệu về sản phẩm cà phê.
Cà phê là loại đồ uống đươch ưa thích ở hầu hết các nước trên thế giới, nó là
sản phẩm nhiệt đới nhưng lại tiêu thụ nhiều ở các nước ôn đới. Ngày nay cà phê
được sử dụng rộng rãi vì trong hạt cà phê nhân sống thông thường có chứa 1-2,5 %
chất cofein có tác dụng kích thích thầng kinh, tăng cường hoạt động của tế bào não.
Ngoài ra trong hạt cà phê còn có chứa các chất dinh dưỡng cho cơ thể như : đường,
protein, các sinh tè B (B1,B2,B6,B12 ).

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều giống, chủng loại cà phê, nhưng phổ biến
sản xuất có những chủng loại sau :
- Cà phê chè ( Arabica):
Loại cà phê chè Arabica có nguồn gốc từ cao nguyên Jimma Etiopia, đay là
loại cà phê có phẩm chất thơm ngon, năng suất khá, có giá trị kinh tế cao được
chú trọng phát triển sớm nhất và chiếm 70 % lượng cà phê thế giới. Cà phê chè
có rất nhiều chủng loại, người ta chia thành các chủng loại sau :
+ Cà phê Arabica dịu dạng Côlômbia, các nước sản xuất nhiều loại này là
Côlômbia, Keynia, Tanzania.
+ Cà phê ảabica Brazil, các nước sản xuất gồm Brazil, Etiopia.
+ Cà phê ảabica dịu khác, các nước sản xuất gồm Bôlivia, Costrica, Cuba,
ElSanvado, Indonsia, Việt Nam.
- Cà phê vối (Canephora):
Loại cà phê này cód nguồn gốc từ hạ lưu sông CôngGô, thích hợp với khí
hậu nhiệt đới. Đây là chủng loại dễ trồng, chịu hạn tốt nhưng phẩm chất không cao.
Chủng loại được trồng nhiều nhất là cà phê vối Robusta với sản lượng chiếm tỷ lệ
trên 25% trên thế giới.
- Cà phê mít (Exellsa):
Đây là loại cà phê sinh trưởng khoẻ, Ýt sâu bệnh, chịu hạn hán nhưng phẩm
chất kém, Ýt hương thơm và có vị chua, diện tích trồng rất thấp.
Ở Việt Nam diện tích cà phê vối được trồng phổ biến, rộng rãi nhÊt chiếm
90%, tiếp đó là cà phê chè chiếm 9%, còn lại là cà phê mít
2 - Nguồn cung cấp cà phê trên thế giới và xu hướng tiêu thụ.
2.1 - Nguồn cung cấp cà phê trên thế giới.
Cây cà phê có nguồn gốc châu Phi, vào thế kỷ XVII, cà phê được đưa sang
trồng ở Indonesia, sang thế kỷ XVIII nó được đưa sang trồng ở Tây bán cầu, và
được trồng đầu tiên ở Matinique vàSwriname vùng đảo Cabirê. Kể từ đó nó được
trồng ở khắp vành đai nhiệt đới,cận nhiệt đới và châu Mỹ- Latin. Sau này dù cà phê
được nhân rộng ở châu á châu Phi nhưng Mỹ- Latin vẫn chiếm 2/3 sản lượng sản
xuất và xuất khẩu trên thế giới.

Hiện nay trên thế giới có khoảng 70 nước sản xuất cà phê. Mặc dù cà phê chủ
yếu được trồng ở vành đai nhiệt đới và á nhiệt đới nhưng phần lớn lại được tiêu thụ
ở các nước công nghiệp phát triển. Việc phân loại các nước sản xuất cà phê được
tiến hành theo 2 cách. Căn cứ vào loại cà phê xuất khẩu người ta chia các nước sản
xuất cà phê thành nhóm sản xuất cà phê arabica và nhóm sản xuất cà phê Robusta.
Tất nhiên cũng có nước thuộc nhóm sản xuất cà phê arabica lại sản xuất cà phê
Robusta và ngược lại. Người ta cũng có thể chia các nước sản xuất cà phê theo khu
vực và vùng lãnh thổ như arabica ở vùng Bắc và Trung Mỹ, khu vực châu á Thái
Bình Dương.
Theo báo các của Hội đồng quản trị ICO tại văn bản số EB 3770/01 tổng sản
lượng cà phê niên vụ 1999/2000 đạt 114,2 triệu bao so với 106,5 triệu bao niên vụ
1998/1999. Tổng sản lượng 2000/2001 đạt 112,9 triệu bao giảm 1,3 triệu bao so với
niên vụ 1999/2000, niên vụ 2001/2002 được dự đoán là 112,4 triệu bao. Như vây,
tổng sản lượng cà phê 1999/2000, 2000/2001 đạt mức kỷ lục từ niên vụ 1964/1965
đến nay.
Sản lượng cà phê của khu vực châu Á đã tăng lên do mức tăng nhanh của Việt
Nam, đạt trung bình khoảng 11,5 triệu bao trong 2 niên vụ 1999/2000 và
2000/2001 so với con số khiêm tốn 4 triệu bao vô 1995/1996 và 7 triệu bao vô
1998/1999. Sản lượng cà phê Nam Mỹ cũng tăng lên trong vô 2000/2001 mặc dù
sản lượng của Brazil có phần giảm so với niên vụ trước. Sản lượng Colombia ước
tính đạt 12 triệu bao so với 9,3 triệu bao vô 1999/2000. Một số nước Châu Phi,
Mexico, trung Mỹ đều giảm sản lượng so với vụ trước. Tuy vậy, cung vẫn vượt cầu
năm thứ 3 liên tiếp. (xem bảng 1 ).
Các loại cà phê Robusta có sức mạnh nhất về sản lượng, với tổng sản lượng
niên vô 1998/1999 đạt 32,6 triệu bao, vô 1999/2000 đạt 38,7 triệu bao, vô
2000/2001 tăng lên 40,1 triệu bao. Con số này ảnh hưởng rất lớn bởi cà phê Việt
Nam hiện nay đã lớn hơn tổng sản lượng của hai nước sản xuất lớn là Indonesia và
Bờ Biển Ngà. Tỷ trọng Robusta trong tổng sản lượng thế giới tăng từ 33,92 % vô
1999/2000 lên 35,5 % vô 2000/2001. Robusta trở thành nhóm có sản lượng lớn
nhất trong 4 nhóm cà phê.

Mặt khác, theo Commodity Expert dự đoán sản lượng vụ cà phê 2002/2003 toàn
thế giới đạt 124,3 triệu bao tăng 11,9 so với vụ 2001/2002. Sự tăng trưởng này
quyết định bởi sự tăng sản lượng của Braxin. Trong khi sản lượng giảm ở nước thứ
nhì thế giới là Việt Nam , cùng với việc giảm sản lượng ở Ên độ và một số nước
Trung Mỹ… thì sản lượng Braxin tăng từ 33 triệu bao vô 2001/2002 lên 47,5 triệu
bao vô 2002/2003. Với sản lượng từ 45 – 50 triệu bao cà phê ( 2,7 – 3 triệu tấn)
Braxin là một nhân tố quan trọng đẩy giá cà phê xuống thấp. đây là một điểm phải
tính toán đến khi hoạch định mục tiêu xuất khẩu cà phê .
Vô 2001/2002 sản lượng cà phê của Braxin theo F.O.Litch là 34,4 triệu bao
trong đó 10,55 triệu bao Robusta, còn lại Arabica chiếm 23,75 triệu bao.
Vô 2002/2003 sản lượng cà phê Braxin dự kiến sẽ tăng lên tới 45,2 triệu bao
trong đó cà phê Robusta tăng 10,8 triệu bao còn Arabica là 34,4 triệu bao. Như vậy
có nghĩa là cà phê Braxin tăng nhiều về Arabica còn nhẹ về Robusta.

Bảng 1 : Sản xuất và tiêu thụ cà phê trên thế giới 1990 - 2002

Đơn vị tính: triệu bao (bao = 60Kg )
NĂM SẢN XUẤT TIÊU THÔ THỪA THIẾU
1990 94,4 91,2 3,7
1991 96,1 93,2 2,9
1992 96,8 96,1 0,7
1993 89,9 99,4 9,5
1994 91,2 97,6 6,4
1995 86,7 96,3 9,6
1996 97,7 99,9 2,2
1997 97,4 99,6 2,2
1998 105,2 100,0 5,2
1999 106,6 103,2 3,4
2000 114,2 102,2 12,0
2001 114,7 112,9 1,8

2002* 112,4 108,2 4,2
Nguồn: Vicofa.
2.2- Xu hướng tiêu thụ cà phê trên thế giới.
Tổng sản lượng cà phê niên vụ 1999/2000 đạt 114,2 triệu bao, tăng 10 triệu bao
so với dự án ban đầu, trong đó Việt Nam đạt 11,5 triệu bao. Sản lượng niên vụ
2000/2001 đạt 114,7 triệu bao. Như vậy, sản lượng cà phê sản xuất giảm không
đáng kể.
Tiêu thụ cà phê trên thế giới trong niên lịch 1999 khoảng 102,2 triệu bao, trong
đó có 24,9 triệu bao tiêu thụ tại các nước xuất khẩu và 77,3 triệu bao tại các nước
nhập khẩu. Các ước tính sơ bộ cho thấy năm 2000, tiêu thụ cà phê ở các nước nhập
khẩu đã giảm xuống từ 79,1 triệu bao xuống 77,3 triệu bao. Riêng Mỹ, tiêu thụ
giảm 1,4 triệu bao và Liên minh Châu Âu giảm 1,4 triệu bao. Còn ở Nhật Bản, con
số này tăng từ 6,3 triệu bao năm 1999 lên 6,5 triệu bao năm 2000.
Lượng tồn kho đầu năm 2000 khoảng 38,5 triệu bao, trong đó các nước xuất
khẩu 29,9 triệu bao, các nước nhập khẩu 6 triệu bao và các cảng tự do 4,6 triệu bao.
Như vậy, tình hình trên cho thấy xu hướng cung vượt xa cầu " làm cho thị
trường cà phê thế giới suy sụp, khiến cho các nhà sản xuất không kiểm soát được
nữa, còn các nhà nhập khẩu luôn đóng vai trò chủ động trong việc thực thi những
chính sách mua hàng tạm thời và tận hưởng các quyền mà họ mới có ".
Theo báo cáo kinh tế của ICO trong kỳ họp ICC lần thứ 82 trong 2 ngày 27-
29/09/2000 ở London thì nét chung nhất của thị trường cà phê thế giới là cà phê
giảm giá liên tục xuống mức thấp nhất so với giá thập kỷ 1990. Nếu năm 1997 bình
quân giá tổng hợp của ICO là 133,91 US cent/lb thì năm 1998 là 108,95 US cent/lb,
năm 1999 là 85,72 và bình quân 8 tháng đầu năm 2000 chỉ còn 69,6 US cent/lb.
Giá cà phê vối từ 67,53 US cent/lb năm 1999 giảm 33,6 % còn 44,85 US cent/lb.
Bình quân 8 tháng đầu năm 2000, giá cà phê Robusta giảm nhiều hơn giá Arabica
loại dịu khác và giá cà phê Robusta từ 36,37 US cent/lb năm 1999 tăng lên tới
49,49 US cent/lbtrong 8 tháng đầu năm 2000, tức là tăng 36,1 %.
Giá thị trường kỳ hạn ở London chủ yÕu là cà phê Robusta năm 2000 giảm
31,7 % so với năm 1999, trong khi đó giá ở NewYork chủ yếu là cà phê Arabica

giảm 4,3%
•- Nhu cầu và xu hướng tiêu thụ cà phê ở Mỹ.
Theo kết quả khảo sát gần đây cho thấy 79 % sè thanh niên Mỹ uống cà phê. Số
người uống cà phê hàng ngày ở Mỹ là 54 % hay 110 triệu người, số người uống cà
phê không thường xuyên là 51 triệu người, tăng 1 triệu và 3 triệu người tương ứng
so với năm 1999. Theo số liệu khảo sát thì ở khu vực uống cà phê không thường
xuyên được tăng thêm 13 triệu người trong vòng bốn năm qua.
Tiêu thụ cà phê đặc biệt đang tăng dần với tỷ lệ cao. Tiêu thụ loại cà phê đặc
biệt trong đối tượng uống cà phê hàng ngày tăng khoảng 9 % năm 2000 so với gần
3% năm 1995. Trong khi đó tiêu thụ cà phê đặc biệt của những người uống cà phê
không thường xuyên tăng 53% trong năm 2000 so với 35% năm 1997.
Giá trị bán lẻ cà phê ở Mỹ đạt 13 tỷ USD trong năm 1993 nay tang lên đến 18,5
tỷ USD vì khu vực uống cà phê không thường xuyên đang mở rộng và thị trường cà
phê đặc biệt đang ngày càng có ưu thế.
Tiêu thụ cà phê theo đầu người ở Mỹ dự kiến vẫn ở mức 3,1 cốc/ngày nhưng
khác ở chỗ trong lượng mỗi cốc cà phê tăng lên 9 ounce trong năm 2000 (1 ounce =
28,35 gam ).
Dù cuộc khảo sát lần này có kết quả khả quan nhưng trước chiều hướng tiêu thụ
cà phê không chỉ giảm mạnh ở Mỹ mà còn ở Châu Âu, nơi mọi lứa tuổi đều uống
cà phê Ýt đi. Theo NCA, cách tốt nhất để thu hút lớp trẻ là : phải quan tâm tới xu
hướng Èm thực của thanh niên; đóng gói sao cho cà phê có thể dễ mang xách hơn
và đễ có mặt ở mọi nơi ; dùng máy bán tự động; quảng cáo chân thực để người dân
nhận ra vị thế của cà phê trong cuộc sống, thay thế lối bán truyền thống cũ cứng
nhắc, đưa cà phê đến với đời sống thanh niên bằng việcgiới thiệu sản phẩm hữu
Ých trong giới sinh viên, nhân viên trẻ và gia đình trẻ.
Thực tế, trong số đồ uống ngọt, đồ uống có vị cà phê đang được giới trẻ quan
tâm. Đó chính là cái đích và mục tiêu cần khai thác để mở rộng thị trường tiêu thụ
cà phê không chỉ ở Mỹ mà ở toàn thế giới.
2.3 - Nhận xết chung về xu hướng của thị trường cà phê thế giới.
Nhìn chung bức tranh toàn cảnh của thị trường cà phê thế giới có thể nói là khá

ảm đạm với một nét đặc trưng nhất là sự khủng hoảng dư thừa ( bảng 3) . Khủng
hoảng sản xuất dư thừa đã tác động mạnh đến giá cả trên thị trường. Giá cà phê
xuống thấp liên tục dẫn đến thu nhập của người trồng cà phê suy giảm. Đặc biệt
kim ngạch do xuất khẩu cà phê đưa đến xuống thấp rõ rệt, điều đó làm cho không
Ýt quốc gia gặp khó khăn nhất là những quốc gia có nguồn kim ngạch xuất khẩu
chủ yếu dựa vào cà phê. Một năm trở lại đây, giá cà phê liên tục biến động bất
thường làm cho các nhà xuất khẩu lao đao, không thể dự báo được thị trường gây ra
sù thua thiệt rat lớn.
Những số liệu ở trên nói lên lý do giá xuất khẩu cà phê hiện nay ở mức thấp
nhất kể từ năm 1990 lại đây và dưới kỷ lục của thời kỳ khủng hoảng năm 1930.
Đúng như ông Jorge Cardenas – Chủ tịch Hội nghị cà phê thế giới đã phát biểu
trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị Cà phê Quốc tế họp ở Luân đôn ngày
17/5/2001 là “ Chóng ta đang trải qua mét trong những thời điểm gây Ên tượng
nhất trong lịch sử cà phê 100 năm qua”, và hơn 20 triệu nông dân, chủ vườn cà phê
ở các châu lục Á, Phi , Mỹ La tinh, đangh phải vật lộn để sống còn trong hoàn
cảnh khó khăn hiện nay, nhiều người trở nên nghèo đói với mức sống thấp dưới 1
USD/ngày. Tuy nhiên giá bán cuối cùng đến tay người tiêu dùng chỉ giảm chút Ýt
nó khác xa với sự tụt giá xuất khẩu vào những năm 1980 khi Hiệp định cà phê quốc
tế còn hiệu lực. Chi phí tiêu dùng cà phê hàng năm vào khoảng 30 tỷ USD, trong
đó các nước xuất khẩu thu được 9 –10 tỷ hàng năm tức là vào khoảng 30 – 33%.
Theo số liệu gần đây nhất lượng tiêu thụ cuối cùng vào khoảng 55 tỷ USD hàng
năm và các nước sản xuất cà phê chỉ nhận được dưới 8 tỷ USD tức là vào khoảng
15%. Tình hình giá cả như thế đã gây nên phản tác dụng đối với quá trình phát triển
cà phê.
Trước tình hình đó các nước sản xuất cà phê đã có nhiều phản ứng khác nhau,
đưa ra những chủ trương nhằm giảm bớt thiệt hại. Từ chương trình giữ lại cà phê
của ACPC, cho đến kế hoạch loại bỏ 5% sản lượng cà phê thuộc diện chất lượng
xấu kếm ra khái thi trường của các nước Trung Mỹ…. Xem ra triển vọng mà các
chủ trương này mang lại không mấy sáng sủa. Kế hoạch giữ lại cà phê của ACPC
đã thất bại. Và tình hình này vẫn có thể tiếp diễn sang các vụ cà phê tiếp theo.

3 – Khái quát về tình hình cà phê Việt Nam.
Cách đây 25 năm, một phần tư thế kỷ, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra
với những bước khởi đầu rầm rộ, chủ yếu là tại địa bàn hai tỉnh Đăklăc và Gia lai
Kontum ở Tây nguyên. Vào thời gian này cả nước chỉ có không đầy 20 nghìn hécta
phát triển kém, năng suất thấp, với sản lượng chỉ khoảng 4000 – 5000 tấn.Đến nay
cả nước đã có khoảng 500.000 ha cà phê hầu hết sinh trưởng khỏe, năng suất cao ,
tổng sản lượng dật tới 80 vạn tấn. Những con số đó vượt xa tất cả mọi suy nghĩ,
mọi mục tiêu chiến lược của ngành. Diện tích cà phê ở Việt Nam bắt đầu tăng
nhanh vào nữa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Đến năm 1992 giá cà phê thế giới tụt
xuống mức thấp nhất do các nước sản xuất cà phê trên thế giới tung ra cà phê tồn
kho từ những năm trước, do Tổ chức cà phê quốc tế còn áp dụng chế độ hạn ngạch
ra bán. Sau năm 1992 giá cà phê lại phục hồi và đần dần đạt tới đỉnh cao vào năm
1994, 1995. Lúc này mọi người từ nông dân, gia đình, cán bộ công nhân viên ở Tây
nguyên và cả nững người ở các tỉnh khác đổ xô đi tìm mua đất, mua vườn làm cà
phê, dẫn đến sự tăng nhanh sản lượng cà phê qua từng năm. Điều này không nằm
trong sự kiểm soát của chúng ta cho nên đến hôm nay chóng ta phải trả cái giá đó
quá đắt, với những tổn thất nặng nề.
3.1 – Về sản xuất.
- Năm 2001 cà phê Robusta ở những vùng canh tác đã ổn định năng suất cao. Ở
những vùng mới trồng sau này do điều kiện đất đai, nguồn nước tưới, giao thông
không thuận lợi nên sinh trưởng kém, năng suất thấp. Do khí hậu ở nước ta như
mưa nhiều ở miền Nam và sương muối ở miền Bắc nê gây cho năng suất thấp cả cà
phê chè và cà phê vối.
- Năm 2002, thì diện tích Robusta suy giảm, chăm sóc kém, sản lượng giảm sút
rõ rệt so với vụ trước và dự báo vụ tới cũng kém. Tuy nhiên diện tích Arabica cũ đã
phục hồi, triển vọng tốt còn diện tích mới trồng tăng chậm.
- Tình hình chế biến bước đầu được cải thiện, nhiêu fdoanh nghiệp đã lắp đặt
dây chuyền chế biến hiện đại (như công nghệ chế biến cà phê ướt) mà nhiều nước
trên thế giới đã và đang áp dụng.
3.2 – Tình hình xuất khẩu.

Vụ cà phê 2000/2001 chóng ta đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay về sản
lượng cà phê xuất khẩu và cũng đạt mức thấp nhất từ trước đến nay về dơn giá.
Tình hình đó đã gây nên xáo động trong toàn ngành, buộc người ta phải tìm lối
thoát cho cả trước mắt và mai sau. Có những vấn đề thay đổi coi như tận gốc rễ như
vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Có nhũng vấn đề trước mắt như làm thế nào để
nâng cao chất lượng sản phẩm… Những vấn đề đó đòi hỏi chúng ta, toàn ngành cà
phê Việt Nam phải đổi mới, thật sự đổi mới để tồn tại.
Trong vụ cà phê 2000/2001 vừa qua cả nước xuất khẩu 874.676 tấn, kim
ngạch đạt 381.907.947 USD. Như vậy luọng xuất khẩu tăng 33,8% so với vụ trước
nhưng kim ngạch lại giảm 29%. Kết quả xuất khẩu cà phê được cập nhật mới nhất
thông qua bảng 2 dưới đây.
Qua bảng dưới ta cung thấy một cách rõ ràng là giá cà phê Việt Nam tụt rốc
một cách nhanh chóng. Từ 530 USD/tấn trong tháng 10 năm 2000 thì sau một năm
là vao táng 11 năm 2001 giá chỉ còn là 316,3 USD/tấn đâu là giá thấp nhất trong
vòng 3 năm gần đây. Việc giá giảm làm kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam
giảm một cách rõ rệt từ 40 - 50% (so sáng từng qúy của 2 niên vụ).
Qua đó ta thấy rằng, giá cà phê thế giới nói chung và giá cà phê Việt Nam nói
riêng đang ở tình trạng khủng hoảng. điều này yêu cầu ngành cà phê cần phải có
những sách lược đẻ điều tiết tình hình cà phê trong nước trước làn sóng phá cà phê
ở Tây Nguyên và mét số tỉnh khác. và cần phải có chiến lược chuyển đổi giống cà
phê từ Robusta sang Arabica một cách hợp lý.

Bảng 2: Kết quả xuất khẩu cà phê niên vụ 2001/2002 so với 2000/2001
(Thống kê theo chứng chỉ xuất xứ)
Niên vô 2001/2002 Niên vô 2000/2001 So sánh (%)
Tháng Số
lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)

Giá b/q
USD/tấn
Số
lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Giá b/q
USD/tấn

Lương
Trị
giá
Giá
B/q
10 43.969 14.581.006 331,6 43.357 22.977.782 530,0 1,4 -36,5 -37,4
11 61.642 19.496.680 316,3 70.711 34.986.877 494,8 -12,8 -44,3 -36,1
12 87.695 27.899.993 318,1 109.520 47.938.366 437,7 -19,9 -41,8 -27,3
Quý IV 193.306 61.977.679 320,6 223.588 105.903.025 473,7 -13,5 -41,5 -32,3
1 93.994 30.872.508 328,5 74.347 32.603.020 438,5 26,4 -5,3 -25,1
2 72.327 23.182.154 320,5 95.800 43.378.240 452,8 -24,5 -46,6 -29,2
3 72.280 25.686.798 355,4 89.783 40.797.395 454,4 -19,5 -37,0 -21,8
Quý I 238.601 79.741.460 334,2 259.930 116.778.655 449,3 -8,2 -31,7 -25,6
4 43.128 16.959.288 393,2 91.479 39.344.283 430,1 -52,9 -56,9 -8,6
5 46.346 19.339.351 417,3 84.811 35.917.459 423,5 -45,4 -46,2 -1,5
6 35.125 15.029.270 427,9 63.204 26.210.699 414,7 -44,4 -42,7 3,2
Quý II 124.599 51.327.909 411,9 239.494 101.473.608 423,7 -48,0 -49,4 -2,8
7 - - - 55.899 22.197.493 397,1 - - -
8 - - - 46.958 17.792.386 378,9 - - -
9 - - - 48.807 17.765.748 364,0 - - -

Quý III - - - 151.664 57.753.651 380,8 - - -
Cả vô - - - 874.676 381.883.542 436,6 - - -
Nguồn Vicofa

II . Vị trí, vai trò hoạt động sản xuất và xuất khẩu của ngành cà phêViệt
Nam.
1 – Về vị trí cà phê Việt Nam.
- Cà phê là một trong những cây công nghiệp mũi nhọn, hết sức quan trọng ở
nước ta, can đánh giá đúng vị trí của nó để có cơ chế và định hướng phái triển trong
2 kế hoạch 5 năm ( 1996- 2000 và 2001- 2005).
- Nước ta có nhiều vùng sinh thái rất thích hợp cho phát triển cây cà phê gồm
các tỉnh : Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, các tỉnh miền Trung và miền núi phía Bắc.
Quỹ đất qui hoạch cho phát triển cây cà phê còn lớn và không bị tranh chấp bởi các
cây trồng khác. Đất trồng cà phê chủ yếu là các vùng miền núi, dân tộc Ýt người,
nếu được qui hoạch và phát triển tốt sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển xoá dần
tình trạng đói nghèo của đồng bào dân tộc.
- Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản hàng hoá xuất khẩu chủ yÕu,
đưa lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Năm1995, kim ngạch xuất khẩu cà phê có
thể đạt 400 đến 450triệu USD, tương đương với xuất khẩu gạo. Hiện nay, sản xuất
và xuất khẩu cà phê nước ta đứng thứ 1 Châu Á và là đứng thứ 2 trong sè 70 nước
xuất khẩu cà phê trên thế giới, đã có thị trường xuất khẩu ổn định với hơn 60 nước
và khu vực .
1 - Vai trò của ngành cà phê trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Kể từ sau 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, việc phát triển cà phê đã
trở thành một chủ trương lớn của Nhà nước và được nhân dân các vung khác nhau
đều đồng tình hưởng ứng. Từ đó đến nay ngành cà phê Việt Nam ngày càng đi lên
thể hiện rõ là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, tạo công ăn việc làm cho
hàng chục vạn lao động, tạo ra lượng hàng hóa xuất khẩu ngày càng lớn, đem lai
kim ngạch xuất khẩu ngày càng nhiều, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của
cả nước.

- So với đầu năm 1990, cả nước có 100 ngàn ha cà phê hầu hết mới trồng, sản
lượng không đầy 100 ngàn tấn. Đến nay diện tích cà phê cả nước đã là 500 ngàn ha,
sản lượng đạt xấp xỉ 800 ngàn tấn, tức là tăng đến 10 lần. Vị thế của ngành cà phê
đầu thập kỷ 90 chưa có gì nổi trội, chỉ đứng thứ 20 trong tổng số 70 nước sản xuất
cà phê trên thế giới. Nhưng từ đó đến nay sản lượng tăng nhanh hàng năm và nhanh
chóng vượt qua Cốt ĐiVoa, Uganda, Indonesia để đứng vị trí thứ 3 thế giới. Đến
năm 2000 Việt Nam vượt qua Côlômbia đứng thứ nhì thế giới về xuất khẩu cà phê,
chỉ sau Brazil và đứng đầu thế giới về cà phê Robusta. Có thể nói khó có một
ngành nông nghiệp nào trong cả nướcvà trong cả nước có một tốc độ tăng trưởng
cao đến thế.
- Là một mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng cây cà phê được coi là một
cây chủ lực trong cơ cấu cây trồng ở nhiều tỉnh trung du, miền núi và cao nguyên.
Ngành cà phê còn tham gia có hiệu quả cao vào các chương trình kinh tế - xã hội
lớn của đất nướcnhư chương trình định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc
thiểu số, chương trình xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động và
chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
- Cà phê sản xuất ra phần lớn là để xuất khẩu. Thị trường cà phê Việt Nam phân
bổ trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục khác nhau. Hàng năm
Việt Nam có những thị trường lớn tiêu thụ trên 200.000 bao và các thị trường lớn
này chiếm 89 % tổng số cà phê đã sản xuất.
Nhìn trên biểu đồ ta thấy rằng cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất
khẩu có tính chất quan trọng, kim ngạch nó mang lại chỉ đứng sau thủy sản và gạo.
hàng năm xuất khẩu cà phê mang lại cho đất nước gần nửa tỷ USD, đây là một
thành quả không nhỏ. Đó là sự phần đầu của toàn ngành cũng như từng đơn vị
trong ngành để đạt được thành quả đó.
Qua biểu đồ cho ta thấy mặc dù kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2001 thấp hơn
năm 2000, nhưng đây không phải là do giảm số lượng mà là do giá cà phê trên thế
giới giảm một cách liên tục. Điều này gây ra tình trạng kim ngach xuất khẩu cà phê
có phần giảm sút, nhưng đây chỉ là mang tính thời kỳ.
Bảng 3: Mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam năm

2001

Th
tự
Mt hng
ch yu
Thc hin
nm 2000
c thc hin
nm 2001
Nm 2001 so vi
nm 2000
Sn lng
(1000 tn)
Tr giỏ
(Tr. USD)
Sn lng
(1000 tn)
Tr giỏ
(Tr. USD)
Sn lng
(1000 tn)
Tr giỏ
(Tr. USD)
1 Thy sn 1478 1800 121,8
2 Go 3476 667 3550 588 102,1 88,1
3 C phờ 733 501 911 385 124,3 76,8
4 Rau qu 213 305 143,2
5 Cao su 273 166 300 164 109,9 98,9
6 Ht tiờu 37 146 56 90 152,2 61,4

7 Ht iu nhõn 34.2 167 41 144 119,9 85,9
8 Chố cỏc loi 55 69 58 66 104,7 95,2
9 u phng nhõn 76 41 80 39 105,7 96,1
Tng 4684.2 3448 4996 3581
Ngun: B Thng mi
Qua ú ta thy rng c phờ l mt nt hng nụng sn quan trng trong tụng rkim
ngch xut khu ca Vit Nam . Hng nm c phờ mang li cho t nc giỏ tr ln
m cũn giỳp Chớnh ph thc hin t cỏc chng trỡnh quc gia v xó hi, mụi
trng, xoỏ úi gim nghốo,
0
500
1000
1500
2000
Thủy sản Gạo Cà phê Rau qủa Cao su Hạt tiêu Hạt điều
nhân
Chè các
loại
Đậu
phộng
nhân

Biểu giá trị XK một số hàng nông thủy sản Việt Nam
2000
2001
Chương II
Thực trạng xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ
I – Một số điểm cần lưu ý khi suất khẩu sang thị trường Mỹ.
1- Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạch định chính sách thương mại Mỹ.
Thương mại là một ngành kinh tế có tính chất tổng hợp, liên quan đến nhiều ngành,

nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, do đó cơ cấu tổ chức, bộ máy
hoạch định chính sách thương mại, rat phức tạp. Toàn bộ các hoạt động thương mại
do một hệ thống tổng hợp các đạo luật cơ bản, các quy chế, thể lệ, điều tiết. Các
đạo luật cơ bản do Quốc hội Mỹ – mà chủ yếu là Hạ Nghị viện thuộc ngành lập
pháp – ban hành. Dựa theo các đạo luật này, ngành hành pháp ban hành các sắc
lệnh, nghị định và toà án ra quyết định thi để hành luật đã ban bố. Tất cả các văn
kiện pháp lý này, cùng với các Công ước quốc tế mà Mỹ tham gia và được Quốc
hội phê chuẩn, đã và đang chi phối toàn bộ mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Mỹ
nói chung, trong đó có các chính sách trong việc nhập khẩu.
Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạch định chính sách thương mại Mỹ gồm:
- Quốc hội:
- Các cơ quan hành pháp:
- Các ủy ban Nhà nước chuyên trách.
A – Quốc hội là cơ quan phê chuẩn mọi chính sách kinh tế đối ngoại Mỹ.
Đứng về mặt thương mại, Quốc hội được Hiến pháp giao quyền điều tiết các
quan hệ kinh tế đối ngoại, định và thu các loại thuế.
Như vậy mọi Hiệp định thương mại, áp dụng các loạI thuế khoá, hoặc chính
sách hạn chế nhập khẩu đều phảI dựu trên và giới hạn trong phạI vi luật pháp và
quyền hạn mà quốc hội cho phép.
B – Các cơ quan hành pháp tham gia hoạch định chính sách thương mạI:
* Vai trò và bộ máy điều hành của Tổng thống trong việc hoạch định chính
sách kinh btế thương mạI:
Tổng thống Mỹ là người đạI diện tối cao của ngành hành pháp . Tổng thống
có quyền yêu cầu tham nghị lần thứ 2 đối với những luật mà Quốc hội ban hành hi
được đa số phiếu tán thành của ĐạI biểu. Sau đó, Tổng thống có nhiệm vụ tổ chức
thi hành các luật này.
* Hoạch định chính sách thương mạI là một quá trình phối hợp liên bộ:
- Bộ thương mạI là cơ quan đầu não, quản lý toàn bộ mạng lưới kinh tế.
- Bộ Nông nghiệp có vai trò hoạch định chính sách thương mạI Mỹ đảm
bảolợi Ých của ngành Nông nghiệp quốc gia.

- Bộ NgoạI giao có nhiệm vụ cố vấn cho Tổng thống trong việc hoạch
định và thi hành chính sách ngoạI giao và có vai trò quan trọng, chủ yếu trong việc
nghiên cứu phân tích đánh giá tình hình nhằm đưa ra những kiến nghị về mặt chính
sách ở những lĩnh vực tác động tới lợi Ých của Mỹ ở nước ngoài. Đặc biệt là trong
các vấn đề thương mạI, đầu tư, dịch vụ vì những vấn đề này có ảnh hưởng trực tiếp
quan hệ đối ngoại.
- Bộ Ngân khố: quản lý chính sách kinh tế và tàI chính, chính sách thuế,
quản lý nợ của Nhà nước, phát hành tiền, Bộ Ngân khè phụ trách cơ quan HảI quan
Mỹ.
C – Các ủy ban Nhà nước chuyên trách tham gia hoạch định chính sách thương
mạI:
* Ủy ban thương mại quốc tế:
- Cố vấn về đàm phán thương mạI, chế độ ưu đãI thuế quan phổ cập
(GSP), nới rộng nhập khẩu phục vụcông nghiệp trong nước, buôn bán với thế giới.
- ĐIũu tra phương hạI gây ra do tình trạng trợ cấp, bán phá giá hàng hoá,
những bất hợp lý trong nhập khẩu.
* Các ủy ban cố vấn thuộc khu vực tư nhân:
- Luật Thương mạI Mỹ 1974 còn quy định một cơ chế tập hợp ý kiến
đóng góp, cố vấn của giới tư nhân cho các vấn đề thương mạI quốc tế. Quốc hoịi
mở rộng quyền hạn cho ủy ban này, cho phếp họ được cố vấn về những lĩnh vực
cần được ưu tiên, về phương hướng của chính sách thương mạI Mỹ. Mặc dù thành
viên của ủy ban này không phảI là thành viên Chính phủ, nhưng tiếng nói của họ
rat có trọng lượng.
2 – Luật pháp, thể lệ chính sách thương mạI Mỹ trong nhập khẩu.
2.1 – Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Mỹ.
A – Những quy định cơ bản.
Dù là Mỹột nước có chủ trương tự do hóa thương mạI, nước Mỹ cũng có
chính sách về nhập khẩu nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sản xuất trong nước. Các
quy định của họ không khác của ta nhiều về đạI thể, nhưng nội dung thì chi tiết hơn
nhiều.

• Quy định của Chính phủ.
HảI quan Mỹ là cơ quan thực thi và áp dụng các quy định của Luật thuế quan
(Tariffs Act) và những luật lệ khác của các bộ để đIũu chỉnh việc nhập khẩu hàng
hóa. Họ cũng phụ trách việc chống các hành vi buôn lậu, vi pham. Quyền sở hữu trí
tuệ, hàng gian, hàng giả được nhập khẩu. Từ năm 1994, hảI quan Mỹ hoạt động
theo một luật goi là Luật tối tân hóa ngành hảI quan (Customs Modernization Act –
gọi tắt là CMA hay ModAct) thiên nhiều về tự động hóa và chú trọng và việc hậu
kiểm sau khi đã cho nhập hàng. Họ cho nộp hồ sơ qua các phương tiện đIửn tử,
thúc đẩy việc tuân thủ và chia sẻ trách nhiệm giữa nhà nhập khẩu và hảI quan trong
việc định giá và phân loạI hàng hóa. Khi chủ trương sự hợp tác và đơn giản hóa thủ
tục như thế, Luật CMA đặt ra mức chế tàI nặng hơn trước và ngăn chặn việc tìm
cách giảm số thuế phảI đóng. Bánh xe chính giúp cho bộ máy này hoạt động là hoá
đơn thương mại. HảI quan Mỹ đặt tầm quan trọng lên văn kiện này.
Việc khai quan thuế do các nhà trung gian hay đạI lý (custom broker) thực hiện
và 97% hàng hóa nhập vào Mỹ là do họ làm.
• Việc áp thuế.
Giống như ở ta, việc Ên định thuế quan ở Mỹ được căn cứ trên bảng Hệ thống
đIũu hoà trong mô tả và mã hàng (Harmonized Tasff Schedule, hay bảng HS ).
Bảng này liệt kê các loạI hàng hoá và mã số của chúng rồi mức thuế áp dụng. Mức
này, về đạI thể, được chia làm ba loại. Một, Mức ưu đãI dành cho một số mặt hàng
đến từ những nước đang mở mang theo một số chương trình khác nhau, trong đó có
Hệ thống ưu đãI phổ cập (Generalised System of Prefrences hay GSP ), thỏa ước
mậu dịch tự do giữa Mỹ và Israel, khu vực Caribê, Mexico và Canada. Hai, mức
thuế cao hơn dành cho các nước có giao dịch bình thường (hay có tối huệ quốc-
MFN) với Mỹ. Đa số sản phẩm nằm trong mức này. Ba, mức cuối dành cho các
nước khong được hưởng quy chế kia.
Hệ thống GSP chỉ áp dụng cho một số mặt hàng nhất định hội đủ một số tiêu
chuẩn về chính trị và kinh tế. Dẫu xuất phát từ một quốc gia được hưởng quy chế
này nhưng một số hàng nhất định khi vào Mỹ vẫn không được hưởng mức GSP nếu
chúng vượt trên 50% sè hàng cùng loạI đã nhập vào Mỹ; hoặc vượt quá một trị giá

nhất định nào đó trong một năm. Chuyện còn tiếp tục được hưởng GSP hay không
lạI tuỳ thuộc vào một lệnh của tổng thống và Văn phòng ĐạI diện thương mạI Mỹ
(US Trade Representative - USTR) duyệt lạI danh sách này hàng năm.
Thuế được Ên định theo ba cách: theo mét con số bách phân dựa trên giá trị món
hàng (ad valorem), thí dụ 5% trên giá trị món hàng; theo một số tiền nhất định
(specific) thí dụ 12 xu mỗi ki-lô-gam; hay theo một mức hỗn hợp ( 7 xu một ki-lô-
gam cộng 10% trên giá trị). NgoàI ra, có một số mặt hàng phảI chịu thêm thuế
doanh thu hay mua bán (ngoàI thuế quan) như rượu, bia, thuốc lá, nước hoa và sản
phẩm dầu khí.
Trách nhiệm đóng thuế do người sẽ nhận hàng chịu. Nừu hàng được giao đI nơI
khác để tiêu thụ thì người hay tổ chức (công ty) có tên trong tê khai hảI quan có
trách nhiệm thanh toán. Nừu hàng được Lưu kho thì trách nhiệm đóng thuế thuộc
về ai mua hàng và lấy hàng ra khái kho. Thuế có thể được trả theo từng kỳ sau khi
nhập. HảI quan Mỹ có thời hạn năm năm để đòi tiền thuế.
Người nhập khẩu phảI nộp một giấy nhận nợ (bond) cho hảI quan Mỹ để bảo
đảm thanh toán các khoản nợ như thuế quan ước tính, các loạI thuế khác, và tiền
phạt. Giấy nhận nợ có thể mua từ các nơI phát hành giấy đó, nhưng thường thì
người ta chỉ bán cho các đạI lý khai thuế quan phụ trách nhập hàng.
• Lệ phí.
Các loạI này gồm có phí xử lý hàng, phí bảo dưỡng cảng. Phí xử lý hàng
(Merchandise processing fee ) được đánh vào từng chuyến tàu hàng. Biểu thuế
dành cho việc nhập hàng chính thức ( tức là hàng có giá trị trên 1.250 USD – ta gọi
là mậu dịch ) liệt kê hàng loạt phí khác nhau từ 21 đến 400 USD cho mỗi lần nhập
cùng với một số phí đánh theo tỷ lệ của giá trị món hàng là 0,19%. Cũng phí này
nhưng cho loại hàng nhập không chính thức (tức là phi mậu dịch) thì mức phí là 2
USD cho hàng xử lý bằng máy, 4 USD cho hàng xử lý bằng tay mà không do hảI
quan Mỹ làm và 8 USD nếu do họ làm. Giá trị cho hàng phi mậu dịch lớn nhất là
2.500 USD. Phí bảo dưỡng cảng: là phí theo giá trị bách phân của chuyến tàu hàng
nhập vào. Phí này là 0.125% trên giá trị chuyến hàng và trả hàng quý.
• Chống nguy cơ gây thiệt hại cho nền thương mại của Mỹ.

Luật Thương mại tập hợp (Omnibus Trade Act) năm 1988 giao cho Văn
phòng ĐạI diện thương mại Mỹ một vai trò quyết định trong việc Ên định những
tập tục thương mại không công bằng. Văn phòng này có quyền thay mặt Tổng
thống Mỹ quyết định đIũu tra một tập tục thương mại ở một nước nào đó vì nó gây
thiệt hạI cho nền thương mại của Mỹ. ĐạI diện thương mại cũng phảI tìm ra và xúc
tiến đIũu tra những nước nào có những tập tục thương mại không công bằng mà
gây thiệt hạI cho hàng xuất khẩu của Mỹ nhiều nhất. Khi tìm ra được rồi mà nước
liên quan không sửa đổi tập tục bị chỉ trích kia thì họ có thể bị Mỹ trả đũa.
Luật trên cũng lập ra một sự duyệt xét liên tục các tập tục thương mại của các
nước khác mà kết quả là đưa ra mét danh sách các tập tục mà hàng năm Mỹ phảI
“ưu tiên” để mắt đến của “các nước ưu tiên” (priority countries) mà Mỹ phảI Lou ý.
Việc duyệt xét này thường được gọi là đIũu khoản Super 301 và được Chính quyền
Mỹ thực hiện hàng năm theo chu khỳ đều đặn. Họ cũng làm tương tự nhưng không
theo chu kỳ cho các nước bị đánh dấu và có vấn đề. Vào tháng 1-2000 mét cơ quan
trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã quyết định là đIũu khoản Super 301
phù hợp với các quy định của WTO và chính quyền Mỹ đã dùng cách đánh dấu
nước phảI ưu tiên theo dõi theo đIũu khoản Super 301 như là một vũ khí thương
mại để giành lợi thế trong các cuộc thương thuyết.
B – Các rào cản phi thuế quan.
• Hạn ngạch.
Cũng như ở ta, hạn ngạch là sự kiểm soát về mặy số lượng hàng được nhập
trong một thời gian nhất định vào Mỹ. Có một số mặt hàng nằm trong sự hạn chế
này theo luật của quốc hội, quy định của các cơ quan quản lý hay lệnh của tổng
thống. Có hai loạI hạn ngạch:
- Hạn ngạch Ên định theo mức thuế quan: loạI nàycho người nhập được đem
vào Mỹ một mặt hàng nhất định nào đó với một mức thuế quan được giảm bớt
trong một thời gian nhất định. Số hàng nào nhập vào mà vượt quá số lượng cho
phép sẽ bị đánh thuế cao. Các mặt hàng này thường là: sữa, kem, cá hồi, một số
loạI khác…
- Hạn ngạch tuyệt đối: cho phép nhập một số lượng của một số mặt hàng nào

đó trong một thời gian nhất định. Hàng đem vào quá hạn ngạch sẽ bị trả về hay cho
nhập vào kho để chờ được đưa vào trong thời gian có hiệu lực của hạn ngạch mới.
Các mặt hàng này là một vàI loạI cồn, sữa đặc, bơ hỗn hợp, chất thay bơ, bông vảI,
đường hỗn hợp.
• Các tiêu chuẩn kỹ thuật bó buộc.
Có nhiều mặt hàng cả nội lẫn ngoạI bán ở Mỹ đều phảI tuân thủ những tiêu
chuẩn về chất lượng và an toàn. Ai nhập khẩu vào Mỹ những mặt hàng này phảI
xin giấy xác nhận đạt chuẩn. Giấy này phảI được xuất trình cùng lúc với hàng voà
và người nhập hàng phảI nộp một số tiền ký quỹ bảo đảm để đoan chắc là hàng phù
hợp tiêu chuẩn đòi hỏi. Thực chất đây là một loai hàng rào phi thuế quan áp dụng
làm phương tiện để phân biệt đối xử giưã hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong
nước, ngoàI ra nó còn được dùng để hạn chế hàng nhập, bảo hộ hợp lệ cho sản xuất
trong nước.
• Ghi dấu hiệu (Marking)
- Nước xuất xứ.
Thông thường, người nhập hàng phảI ghi rõ ở bên ngoàI sản phẩm một nhãn
hàng bằng tiếng Anh tên của nước sản xuất hay chế tạo ra món hàng. Dờu hiệu
phảI ghi ở nơi dễ thấy, rõ ràng và phảI bền như chính tuổi thọ của sản phẩm. Nếu
sản phẩm không có nhãn hàng đúng cách, khi nhập vào nước Mỹ thì người nhập
phảI trả một khoản thu bằng 10% của tiền thuế quan đóng cho sản phẩm Êy.
Hàng phảI ghi dấu hiệu mà được đóng gói lạI ở Mỹ sau khi đã qua hảI quan thì
người nhập khẩu phảI cam kết khi mang hàng di là dấu hiệu về nước xuất xứ sẽ
không bị mờ đI, hoặc là hộp dùng để đóngư gói lạI sẽ được ghi dấu đúng cách. Nếu
hàng được bán cho người khác để đóng gói lạI thì người nhập khẩu phảI thông báo
cho người kia các yêu câù về ghi dấu hiệu. Nếu không kaông làm như thế sẽ bị phạt
hay trả thêm thuế.
- Ghi dấu đặc biệt.
NgoàI những yêu cầu về ghi nước xuất xứ của hàng hóa, có một số mặt hàng đòi
hỏi phảI có dấu hiệu đặc biệt như chữ không được phai, chữ nổi, chữ lỏm cho
những mặt hàng như: ống sắt hay thép, xy lanh, các dụng cụ phẩu thuật….

2.2 – Các thủ tục khai hàng nhập vào Mỹ.
A- Sửa soạn chứng từ và hàng hóa.
• Việc đóng gói hàng hoá.
Hàng hóa phảI được đóng gói làm sao để hảI quan kiểm soát, cân, đong, đo, đếm
dễ dàng và giảI phóng nhanh chóng. Đóng gói hàng đúng, ghi hóa đơn chính xác là
làm những viẹc sau:
- Lập hóa đơn theo một trận tự có hệ thống.
- Cho thấy số lượng chính xác của mỗi món hàng để trong các kiện hàng.
- Ghi dấu hiệu và số kiện trên mỗi thùng hàng.
- Ghi trong hoá đơn số thứ tự mỗi kiện hàng để làm sao so ra ngay món
hàng ghi trong hoá đơn với trong thùng đựng.
Mỗi container chỉ nên chứa một loạI hàng để hảI quan không phảI kiểm tra nhiều.
Nếu hàng hóa được đóng gói theo hệ thống thì hảI quan chỉ kiểm tra một số mẫu.
• Hàng xếp lẫn lộn.
Hàng xếp lẫn lộn là để các mặt hàng chịu thuế suất khác nhau vào chung một
thùng chứa. Khi Êy hảI quan có quyền chọn món hàng có thuế suất cao nhất để áp
lên hàng xếp lÉn lộn, trừ khi người nhập hàng có thể sắp xếp để phân chia hàng nào
ra hàng đó dưới sự chứng kiến của hảI quan và mọi rủi ro người này sẽ phảI chịu.
Nếu hàng gửi phải xếp lẫn lộn thì nhà nhập khẩu nên lấy Bản hệ thống đIũu hoà
HS (Harmonied system) đÓ tìm trong mục chú thích về cấu trúc của một món hàng
riêng lẻ nào đó có liên quan với số hàng trong thùng để được hưởng một thuế suất
áp dụng cho tất cả các món hàng xếp lẫn lộn. Nếu không tìm được thì nhà nhập
khẩu vẫn tránh khỏi bị áp dụng mức thuế cao nhất nếu cung cấp một cách thoả
đáng các băng chứng sau:
- Hàng xếp lẫn lộn như thế không nhằm để chốn thuế.
- Món hàng hóa có mức thuế cao nhất không có một giá trị thương mại
cao, tức là bán được nhiều tiền.
- Nếu tách riêng ra thì rat tốn kém.
- Hàng sẽ không bị tách riêng trước khi chế biến, hoặc trước khi sử dụng
Nếu bằng chứng thỏa đáng, mức thuế áp dụng cho các món hàng xếp lẫn lộn sẽ là

mức thuế của thành phần nào chiếm số lượng cao nhất trong số hàng đó.
• Hóa đơn thương mại
- Lập hóa đơn.
Hoá đơn thương mại do người bán hàng, người chuyên gửi hàng hoặc đạI lý của
người gửi hàng ký đều hợp lệ. Trên hóa đơn phảI ghi rõ:
+ Tên cảng vào mà hàng hóa sẽ được chở tới.
+ Tên người gửi và người nhận hàng.
+ Tên hàng, tàu
+ Mô tả chi tiết hàng hóa
+ Trọng lượng và số lượng, kích cỡ của hàng hóa
+ Đơn giá và tổng giá trị, đơn vị tiền tệ
+ Mức chiết khấu, mức hao hụt cho phép đối với mặt hàng dố
+ Tên nước xuất xứ
Hóa đơn phảI được viết bằng tiếng Anh hoặc kèm theo một bản dịch chính xác.
- Các yêu cầu đặc biệt:
+ Nừu một hoá đơn chung cho cả chuyến hàng gồm nhiều lô hàng thì phảI có
hóa đơn gốc hoặc biên lai cho từng lô hàng riêng biệt.
+ Nừu một lô hàng của một hợp đồng được gửi thành nhiều đợt thì có thể kê
chung trong một hóa đơn nếu các đợt hàng đó dến cảng vào trong một thời gian
không quá 10 ngày liên tục. Ngược lạI thì phảI lập hóa đơn riêng cho từng đợt
hàng.
+ NgoàI các chi tiế thường được yêu cầu đối với một hóa đơn, thì nhà xuất khẩu
nước ngoàI có thể phảI cung cấp thêm một số chi tiết đặc biệt liên quan đến một số
mặt hàng hoặc một số loạI hàng đặc biệt nào đó. Thông thường nhà nhập khẩu Mỹ
phảI thông báo về những trường hợp đặc biệt này.
B – Lựa chọn chế độ nhập khẩu.
Hàng hóa được nhập vào Mỹ theo hai thể thức: đơn giản và chính thức như sau:
- Đưa hàng voà theo thủ tục đơn giản.
Thủ tục này được áp dụng cho:
+ Hàng nhập có giá trị dưới 2.500 USD, trừ khi nhập để bán. Tuy nhiên, không

nằm trong trường hợp này là các mặt hàng vải, sợi, hàng da, đồ trang sức…
+ Đồ dùng cá nhân.
+ Hàng nhập tạm để triển lãm, dự hội chợ.
+ Hàng đặc chủng quý hiếm mà hải quan không tính giá trị được và được nhập
không phải để mua bán.
+ Hàng sẽ táI xuất (trị giá dưới 10.000 USD). Trong thủ tục này có cáhc nhập theo
sổ tay tạm nhập (ATA Carnets hay admission temporaire) nhưng để nhập như thế
phảI tham gia hiệp ước ATA (hiện chúng ta chưa tham gia).
HảI quan sẽ cho nhận hàng sau khi người chủ hàng xuất trình tờ khai theo mẫu và
trả thuế hay nộp phí. Khi không có tờ khai theo mẫu thì hải quan chấp nhận hóa
đơn thương mại. Khi nhập hàng để bán hay nhập theo một hợp đồng mua bán thì
người nhập phảI đưa cho hảI quan một hóa đơn thương mại , nếu không có hóa đơn
thương mại thì nộp tờ khai chi tiết các món hàng và trị giá.
- Đưa hàng theo thủ tục chính thức.
Khi nhập hàng theo cách này thì chủ hàng phảI nộp một bộ hồ sơ nhập hàng cho
giám đốc hảI quan ở cửa khẩu sẽ đưa hàng vào. Hồ sơ gồm có: tờ khai hàng nhập;
bằng chứng về quyền được nhập, hóa đơn thương mại ,tờ liệt kê hàng đóng gói và
các văn bản can thiết cho hàng được đem vào. NgoàI yêu cầu về hảI quan chủ hàng
phảI thỏa mãn các yêu cầu về kiểm định, dấu hiệu, nhãn hàng…
+ Hàng nhập vào để tiêu thụ.
Phần lớn hàng được nhập vào Mỹ là để tiêu thụ. Thủ tục có hai bước:
. Nộp giấy tờ khai hàng vừa đến hay trước đó.
. Sau khi hàng được giảI phóng nộp giấy tờ để tính thuế cùng lập thống kê.
+ Hàng nhập vào để Lưu kho.
Nếu chủ hàng không muốn đưa hàng vào nội địa ngay thì có thể xin hảI quan cho
tồn trữ hàng trong kho ngoạI quan theo thể thức này. Đối với những hàng dễ hư
hỏng, chất nổ thì không làm như vậy được.
+ Đưa hàng vào bằng đIửn thư.
ở Mỹ có hai hệ thống cho phép nhập hàng bằng đIửn thư. Đó là hệ thống
Automated Broker Interface (ABI) và National Custom Automation Program

(NACP). Để chuyển hồ sơ qua hệ thống ABI , chủ hàng phảI dùng một đạI lý được
phép sử dụng hệ thống này. Hệ thống này cho phép chủ hàng nộp hồ sơ, tờ cam kết,
tờ khai, tiền thuế bằng đIửn thư. Người dùng hệ thống NACP có thể chuyển thông
tin cho từng chuyến hay dùng một tờ khai cho nhiều chuyến, kể cả việc rút hàng
khỏi kho trong từng tháng.
+ Hàng giao ngay.
Đối với một số chủng loạI, chủ hàng có thể làm thủ tục xin giao ngay. Đơn phảI
nộp trước khi hàng tới cửa khẩu. Nừu chấp thuận hảI quan sẽ cho giảI phóng hàng
ngay khi tầu cập bến. Trong vòng 10 ngày sau khi hàng được đưa đI, chủ hàng phảI
nộp hồ sơ, tơ khai, tờ tóm tắt nhập hàng, ước tính thuế
- Nhập qua bưu đIửn.
Có thể nhập hàng qua bưu đIửn nếu hàng thuộc loạI không phảI chịu thuế quan,
hoặc nằm trong phạm vi của trị giá dành cho thủ tục đơn giản.
C – Kiểm tra thực tế hàng hoá và thông quan.
• Hàng không khai báo.
Sau khi hàng đã được đưa vào cửa khẩu năm ngày mà giấy tờ chưa làm xong
hay chưa được làm thì hàng sẽ bị đưa vào diện bỏ hay không khai báo.
• Kiểm tra trước khi giải phóng hàng.
Trước khi cho nhận hàng hải quan cửa khẩu có thể khiểm tra món hàng để xác
định giá trị của nó cungf các yêu cầu khác mà món hàng phảI tuân thủ về mặt chất
lượng, bao bì, nhãn hàng…
Nhân viên hải quan sẽ xác định số lượng hàng, có trừ hao hụt, và áp thuế trên
số còn lại. Họ có một quy định về việc xác định số lượng hàng dựa trênhóa đơn và
thùng đựng.
• Hàng bị giữ.
Trong vòng năm ngày sau khi đưa hàng ra kiểm tra, hải quan phải quyết định
giải phóng hay giữ hàng. Nếu giữ hàng lại thì trong vòng năm ngày họ phải thông
báo cho chủ hàng và yêu cầu cung cấp thông tin để giúp xử lý cho nhanh. Nếu hải
quan không có một quyết định gì trong vòng 30 ngày sau khi hàng đã được đưa ra
kiểm tra thì thông tin mà chủ hàng nộp bị coi là bị từ chối. Và nhà nhập khẩu có

quyền gửi văn bản phản đối. Nếu hải quan tư chối sự phản đối hay không có hành
động gì liên quan tới sự phản đối này thì nhà nhập khẩu có thể khởi kiện tại Toà án
Thương mại quốc tế của Mỹ (US Court of International Trade).
• Văn kiện tóm tắt việc nhập hàng.
Chủ hàng phảI nộp văn kiện này cùng với tiền thuế ước tính đóng trên số hàng
nhập trong vòng 10 ngày làm việc sau khi hàng được hải quan giải phóng. Luật
giành thời gian này để cho người nhập hàng có thể điều chỉnh giầy tờ cho số hàng
thực nhập khớp với tờ khai nép cho hải quan lúc hàng chưa tới hay vừa mới tới.
Tờ tóm tắt nhậnhàng có các chi tiết sau:
- Tổng số hàng trả về nơi xuất.
- Một tờ tóm tắt làm theo mẫu.
- Các văn kiện hay hóa đơn khác giúp hải quan tính thuế, thống kê, báo
cáo việc tuân thủ luật pháp.
• Hoàn tất thủ tục thông quan.
- Thể thức.
Thanh tlý là thời điểm hải quan quyết định chung cuộc về mức thuế và số tiền
thuế phải nộp. Việc này diễn ra qua một thông báo dán ở trụ sở của hải quan.
Thông báo cho biết hải quan chấp nhận tờ tóm tắt hàng nhập của nhà nhập khẩu và
việc nhập hàng được thanh lý. Nhà nhập khẩu trước đó cũng có thể nhận được một
bản thông báo về thuế suất và số tiền thuế và nhà nhập khẩu cũng có quyền phản
đối mức thuế cho đến khi thông báo được dán trên bảng.
Hải quan cũng có thể quyết định là một chuyến hàng nhập không thể thanh lý
được. Khi Êy, họ sẽ sửa đổi thuiế suất và tiền thuế. Nếu mức thuế được giảm thì
chủ hàng đã nộp dư khi lấy hàng. Hải quan cũng có thể áp một thuế suất cao hơn.
- Phản đối
Trong vòng 90 ngày sau khi có thông báo thanh lý, chủ hàng có quyền phản đối
để yêu cầu điều chỉnh và trả lại tiền thuế đã đóng dư. Chủ hàng phải nộp dơn yêu
cầu hải quan xem xét lại cùng với thư phản đối. Thông thường hải quan từ chối
xem xét lại nếu như đã từng trả lời về một vụ tương tự có cùng vấn đề. Khi bị từ
chối, chủ hàng có thể đem nội vụ ra Toà án Thương mại quốc tế của Mỹ trong vòng

180 ngày.
- Kết thúc thanh lý.
Dù trong đa số trương hợp việc đóng thuế được coi là xong xuôi khi có thông báo
thanh lý, nhưng theo luật thì việc thanh lý chưa xong hẳn chođến khi hoàn tất các
thủ tục khiếu nại và khởi kiện. Thành ra việc nhập hàng chỉ được coi là xong hết
sau một năm kể từ khi nhập hàng vào và các thời điểm khiếu nại khởi kiện đã qua
hết.
Việc thanh lý có thể bị gián đoạn nếu bị toà yêu cầu hay theo luật đòi hỏi. Sự gián
đoạn sẽ kéo dài cho đến khi vấn đề đã được giải quyết. Sau đó thì chuyến hàng
nhập phải được thanh lý trong vòng 6 tháng kể từ ngày chấm dứt.
- Lưu sổ sách.
Cho mỗi chuyến hàng nhập, chủ hàng phải giữ nhiều hồ sơ và hải quan có quyền
kiểm tra việc này. Các hồ sơ lưu trữ phải làm theo yêu cầu của hải quan. Các chứng
từ lưu trữ là những văn kiện được lập trong quá trình nhập hàng hay qua điện thư.
Ai không giữ có thể bị phạt tiền.
Tóm lại, Luật của Mỹ rât phức tạp còn người Mỹ trọng luật pháp bởi vậy khi
giao dịch với họ thì phải hết sức chó ý đến luật phát và tập quán của họ. Ngoài ra
người Mỹ rat hay kiện tụng mà tiền thuê luật sư bên Mỹ rất đắt cho nên việc nghiên
cứu luật nhập hàng của Mỹ là rât cân thiết. Trên đây là những quy định về thủ tục
này.
II – Thực trạng xuất khẩu cà phê sang một số thị trường lớn và sang Mỹ.
1 – Các thị trường lớn.
Hiện nay, cà phê của Việt Nam đã được xuất khẩu sang 63 nước và thị trường
trên thế giới. Cơ cấu khách hàng của ta cũng đã có những thay đổi quan trọng. Nếu
như trước đây 60% lượng hàng được xuất sang Singapore ( để chế biến và tái xuất
khẩu ), số còn lại được xuất theo Nghị định thư sang Liên Xô cũ và các nước Đông
Âu thì ngày nay cà phê Việt Nam được xuất trực tiếp đi khắp các châu lục. Những
năm gần đây Mỹ đã trở thành khách hàng lớn nhÊt của ngành cà phê Việt Nam ,
tiếp đó là các nước trong EU, Nhật Bản, các nước Trung cận đông và Bắc Phi.
Thông qua các số liệu các năm gần đây, ta thấy xu hướng chung là thị trường

của Vicofa chủ yếu là tập trung ở các nước công nghiệp phát triển, nơI mà cà phê
là một loại đồ uống không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày. Có thể nói,
thị trường của Vicofa rất ổn định và không ngừng được mở rộng. Mỹ là bạn hàng
lớn của Vicofa từ năm 1996 đến nay, năm 2000 Mỹ vượt qua Thuỵ Sĩ ( năm 1999)
đứng ở vị trí đầu.
Trong khối thị trường chung châu Âu nổi lên một thị trường lớn là Đức. Đây là
một quốc gia có nền kinh tế phát triển và là nơi mà tiêu dùng cà phê hàng ngày trở
thành thói quen và thị hiếu không thể thiếu được. Tiếp đó là các thị trường khá ổn
định như Ý, Tây Ban Nha, Bỉ, Pháp …
Khối thị trường Châu á và Singapore là hai thị trường nhập khẩu lớn của Vicofa.
Nhật Bản là thị trường chỉ chấp nhận cà phê có chất lượng cao. Tuy vậy,khối lượng
xuất khẩu cà phê sang Nhật Bản luôn luôn chiếm tỷ trọng đáng kể, về thực chất đây
là thị trường trung chuyển. Cho đến nay, Singapore vẫn là thị trường trung chuyển
lớn nhất của cà phê Việt Nam. Ngoài Thái Lan, mặc dù là một nước sản xuất cà
phê nhưng cũng nhập khẩu cà phê hàng năm từ Việt Nam khoảng 3.000 tấn.
Năm 1995, khi mới thành lập Tổng công ty cà phê Việt Nam xuất khẩu với số
lượng là 39.966 tấn, kim ngạch 99 triệu USD, giá bình quân 2.477 USD/tấn; đến
năm 1998 xuất khẩu đạt số lượng 76.443, kim ngạch 121 triệu USD, giá bình quân
1.583 USD / tấn thì năm 2000 số lượng xuất khẩu đạt tới 171.333 tấn, kim ngạch
chỉ đạt 106 triệu USD giá bình quâb còn 619,1 USD/ tấn và trong 6 tháng đầu năm
2001 số lượng xuất khẩu 170.826 tấn, kim ngạch 74,2 triệu USD, giá bình quân
xuống còn 4.34,4 triệu USD/tấn ( xem bảng ).
Từ số liêu trên cho thấy sự tăng giảm về khối lượng và kim ngach xuất khẩu liên
quan mật thiết đến giá cà phê trên thị trường thế giới. Cà phê là một mặt hàng mang
tính quốc tế nên giá cả của nó phụ thuộc rất lớn vào các nước xuất khẩu có thị phần
quốc tế lớn, mà chủ yếu là Brazil và Côlômbia. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu về cà phê, sự tích trữ cà phê của các nhà rang xay quốc tế, tình
hình thời tiết các vùng sản xuất cà phê chủ yếu của thế giới và khối lượng tồn kho
của các nước sản xuất và nhập khẩu cà phê. Đến nay Việt Nam trở thành một nước
sản xuất cà phê lớn trên thế giới nhưng khả năng chi phối về giá hết sức hạn chế,

giá xuất khẩu chủ yếu dựa vào giá thị trường London và Newyork. Mặt khác Việt
Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu cà phê Robusta nên thấp hơn nhiều giá cà phê
Arabica của các nước.
Hiện nay sự biến động về giá cà phê theo chiều hướng giảm ở mức báo động đã
gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu
trong nước.
B
Vì giá giảm dần từ vụ cà phê 1998/1999 dến nay, nhất là 6 tháng đầu năm 2001
giá chỉ bằng 27 % so với giá năm 1998, thấp nhất trong hơn 30 năm qua nên hoạt
động xuất khẩu cà phê của các doanh nghiệp trong Tổng công ty gặp nhiều khó
khăn. Các đơn vị mua cà phê vào từ đầu vụ không bán bgay đợi giá lên, do giá liên
tục giảm nên vẫn còn tồn kho, vốn kinh doanh bị ứ đọng cộng với lãi suất ngân
hàngnên kinh doanh bị thua lỗ ngày càng lớn hơn.
Từ năm 1999, Tổng công ty đã có đến 16 công ty xuất khẩu nhưng chưa có một
hoạt động đối ngoạI nào đáng kể. Trên thực tế, khi Tổng công ty có tới 16 Công ty
có nhiệm vụ kinh doanh xuất khẩu thì chỉ xuất được với số lượng bằng 42,6 %
(1999) so với 6 đơn vị xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2001 và hiệu quả lạI thấp
hơn. Đó là một nghịch lý phảI suy nghĩ. Do thiếu thống nhất việc định gía mua,
chào bán hàng giữa các doanh nghiệp xuất khẩu nên khách hàng nước ngoàI lợi
dụng để Ðo cấp, Ðp giá gây thua thiệt cho các đơn vị kinh doanh.Do đó, cùng một
thời đIểm, một khách hàng, một loạI cà phê nhưng các doanh nghiệp lạI bán với giá
khác nhau.
Để hạn chế tình hình trên, Tổng công ty chỉ định 4 dơn vị phát gía bán hàng
ngày sau khi thị trường London mở cửa, 4 đơn vị thống nhất trao đổi giá bán qua
điện thoại và thông báo cho các đơn vị xuất khẩu tham khảo.
Như vậy, chỉ trong một thời gian không dài, ngành cà phê Việt Nam đã đạt
được những thàng tựu đáng kể và mở rộng được thị trường, đặc biệt là những thị
trường được coi là khó tính nhất với khối lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên để có
thể phát huy được thế mạnh của mình, ngành cà phê cần phải quan tâm hơn nữa
đến công tác nghiên cứu thị trường, đặc biệt là những thị trường lớn như thị trường

Mỹ.
2 – Thị trường Mỹ.
Từ khi chính quyền Mỹ bỏ lệnh cấm vận Ýt lâu thì cà phê Việt Nam đã nhanh
chóng thâm nhập thị trường Mỹ với số lượng ngày càng lớn hơn. Đặc biệt, việc
ngành Cà phê Việt Nam tham gia Hội chợ triển lãm hàng Việt Nam tại San-
Fransisco năm 1994 đã mở ra thời kỳ mới cho mặt hàng cà phê Việt Nam tiếp xúc
với thị trường Mỹ.
Chúng ta biết rằng thị trường Mỹ là một thị trường lớn, hàng năm Mỹ nhập khẩu
một lượng cà phê lớn nhất thế giới với chủng loại đa dạng bởi vì Mỹ là một nước
nhập cư. Trung bình hàng tháng Mỹ nhập khẩu khoảng 1,7 triệu bao có tháng cao
điểm lên tới 2 triệu bao qua đó ta thấy trung bình năm Mỹ nhập khẩu khoảng 20-25
triệu bao. Trong khi số lượng Mỹ nhập từ Việt Nam hàng năm là rât Ýt so với tổng
nhập khẩu. Năm 2000 mặc dù Mỹ là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng
chỉ đạt là 2449883 bao đạt trị giá 116782194 USD lớn nhất từ thị trườngước đến
nay, sang năm 2001 số lượng bắt đầu giảm còn 2291683 bao đạt 59371585 USD.
Ta thấy rằng, mặc dù số lượng giảm không đáng kể nhưng giá trị đã giảm đi một
con số rât lớn là gần 50%, điều đó cho thấy là giá bình quân trên thị trường thế giới
cũng như tại thị trượng Mỹ giảm từ 794,47 USD/tấn năm 2000 còn 431,8USD/tấn.
Sang 9 tháng đầu niên vụ 2002 thì số lượng chỉ là 1233050 bao đạt 25121912 USD
và giá chỉ còn là 339,6 USD/tấn.
Bảng: Số lượng cà phê Mỹ nhập khẩu từ 8/2001 – 7/2002
Đơn vị: bao (1bao = 60 kg)
Tháng Số lượng
8/2001 1670101
9/2001 1515403
10/2001 1610500
11/2001 1666254
12/2001 1927456
1/2002 1739103
2/2002 1443101

3/2002 1733361
4/2002 1767056
5/2002 1748313
6/2002 1619277
7/2002 1887990
Tổng 20327915
Nguồn: ICO
Từ bảng và các số liệu trên thì ta thấy tổng số lượng xuất khẩu của Việt
Nam sang Mỹ mới chỉ đạt khoảng 12,25% so với tổng số lượng nhập khẩu của
Mỹ. Các con số trên cho ta thấy đó mới là số lượng cà phê nhân, còn các chủng
loại khác như cà phê hoà tan, cà phê rang, cà phê khác thì với số lượng rất bé
(bảng).
Bảng : Cà phê Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ từ 1998 – tháng 9/2002
Năm
Cà phê nhân Cà phê hoà tan Cà phê hạt rang Cà phê khác
Số lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Số lượng
(Kg)
Trị giá
(USD)
Số lượng
(Kg)
Trị giá
(USD)
Số lượng
(Kg)
Trị giá

(USD)
1998
81948,5 - - - - - - -
1999
63892,4 89529753 - - - - - -
2000
146993 116782194 13044 41417 - - 22471 61178
2001
137501 59371585 4600 11200 6261 20693 8980 28079
Đến
9/2002
73983 25121912 67495 186844 30839 105002 28890 75888
Nguồn: Vicofa
Từ bảng trên thì số lượng các loại cà phê đặc biệt xuất khẩu sang Mỹ gày có
chiều hướng gia tăng. đây là một vấn đề dặt ra cho cà phê Việt Nam hướng mở
rộng thị trường và đa dạng phương thức xuất khẩu cũng như tổ chức sản xuất chế
biến và xuất khẩu cà phê thành phẩm.
III - Đánh giá hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ.
Qua nghiên cứu và xem xét thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ
thì ta thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
1 – Thuận lợi.
- Sản lượng cà phê của ta cao, nhất là các năm gần đây thì diện tích trồng được
mở rộng theo hướng tăng diện tích Arabica một loại cà phê đáp ứng được phần lớn
thị hiếu người tiêu dùng trên thế giới nói chung và ở Mỹ nới riêng. Mặt khác giá
thành sản xuất của cà phê Việt Nam tương đối thấp, vì vậy có sức cạnh tranh lới.
- Cà phê Việt Nam phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Mỹ vì: Mỹ là nước có
dân chúng nhập cư từ nhiều nước, người tiêu dùng cà phê ở Mỹ có thị hiếu rất khác
nhau tùy theo:
+ Nguồn gốc dân tộc trước khi đến Mỹ.
+ Tôn giáo

+ Lứa tuổi
+ Trình độ văn hoá
Tuy nhiên, nhìn chung, ta có thể thấy thị hiếu của họ có một số net chung là:
+ Họ thích loại cà phê hỗn hợp, nghĩa là pha trộn cà phê chè với cà phê vối
theo tỷ lệ nhất định.
+ họ thích cà phê hạt rang xay rồi pha phin, chứ không thích cà phê tan
nhanh( Instant coffee).
- Hàng năm, Mỹ vẫn phải nhập một khối lượng nhất định cà phê vối (Rubusta) từ
châu Á như Indonesia và Việt Nam , còn với thị trường cà phê Nam Mỹ thì chỉ có
thể đáp ứng cà phê chè (Arabica).
- Mặt khác ngành cà phê Việt Nam được sự ửng hộ và định hướng của Đảng và
Nhà nước rat lớn về nhiều mặt như: đào tạo cán bộ, cấp vốn theo các chương trình
xã hội khác nhau, cho vay ưu đãi….
2- Khó khăn.
- Chưa có sự hiểu biết lẫn nhau giữa các thương gia hai nước, vì vậy khi xuất
hàng sang Mỹ, nhiều nhà nhập khẩu Mỹ đòi hỏi ta phải có giấy chứng nhận đạt
hàng không hủy ngang – ICPO (Irrevocable Certificate of Purchase Outstanding ).
- Cà phê Việt Nam chưa có tiến tăm trên thị trường Mỹ, bởi vậy thường bị các
doanh nghiệp Mỹ chèn Ðp, ví dụ như vụ thương hiệu sản phẩm của cà phê Trung
Nguyên Việt Nam hiên nay đã bị mất thương hiệu trên thị trường Mỹ.
- Về việc giá thành thấp cũng là một con dao hai lưỡi trên thị trường Mỹ vì luật
Mỹ rất dễ cho đó là hàng hoá bán phá giá như vụ tranh chấp cá Basa Việt Nam .
- Vân tải xa nên giá cước vận tải cao, các tuyến vận tải thì chưa được khai thông
và mở rộng.
- Như đã tìm hiểu ở trên thì luật nhập khẩu của Mỹ rất nghiêm ngặt điều đó đòi
hỏi cà phê Việt Nam phải đày đủ thủ tục, đúng tiêu chuẩn chất lượng…
- Giá cả trên thị trường thế giới diễn biến rat phức tạp, nước ta lại xuất khẩu chủ
yếu là loai cà phê Rubusta, do chất lượng thấp nên giá bán chênh lệch so với giá
các nước trong khu vực.
3- Một số nguyên nhân tồn tại.

- Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam nói chung dang bị đánh giá là thấp.
So với các nước trong khu vực như Thái lan, Indonesia thì cà phê Việt Nam có thủy
phần cao hơn, tổng số lỗi, tạp chất hạt đen vỡ đều cao hơn, kích thước hạt nhỏ
nhưng có ưu điểm là Ýt sâu hơn. Những lỗi trên chủ yếu do chế biến theo phương
pháp thủ công hoặc các xưởng chế biến có công suất nhỏ, lạc hậu.
- Về phân phối sản phẩm, đây là khâu đặc biệt quan trọng nhưng chưa được quan
tâm đúng mức. Hiện nay chóng ta đang thiếu sự nghiên cứu sâu sắc các khâu cơ
bản trong kênh phân phối quấc tế. Mức kiểm soát kênh phân phối còn kém, kỹ
thuật phân phối đơn điệu nên khi tiếp xúc với các thị trường có kỹ thuật phân phối
phức tạp và tiên tiến như Mỹ, Pháp, Đức là rất khó khăn.
- Công tác xúc tiến thương mại còn nhiều vấn đề cần xen xét. Lâu nay tuy cà phê
Việt Nam đã được đưa đi tiêu thụ trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng thực ra
chỉ do khoảng 10 công ty nước ngoài có cơ quan đại diện tại Việt Nam trùc tiếp
mua và phân phối đi không những thế mà đã làm cho thị trường cà phê Việt Nam
xảy ra tình trạng tranh mua, tranh bán và Ðp giá nông dân nên giá cà phê xuất khẩu
giảm. Do đó có thể coi ngành cà phê Việt Nam xuất khẩu tại sân nhà mà thị trường
thì thêm rối ren.
- Do thiếu thông tin và quan trọng hơn là do khả năng phân tích thông tin để dự
đoán diễn biến giá cả, thiếu sự trao đổi thông tin nội bộ và thống nhất đối sách, một
số các biệt còn thiếu ý thức tập thể, tự ý bán phá giá làm sai những điểm đã bàn.
Đây là khó khăn lớn khó có thể giải quyết được.
- Cơ chế chính sách điều tiết sản xuất và kinh doanh xuất khẩu cà phê mang tính
chất giải quyết tình thế, chưa mang tính chiến lược lâu dài.

×