Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

năng lực cạnh tranh và các giải pháp tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.84 KB, 74 trang )

Khóa luận tốt nghiệp 1 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mang
đến cho nền kinh tế nước ta rất nhiều cơ hội để phát triển, hòa nhập với nền
kinh tế toàn cầu, đồng thời cũng không Ýt những khó khăn phải đối mặt, các
doanh nghiệp ở tất cả các ngành nghề ra sức vận động để tồn tại và phát triển.
Làm thế nào để hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, một trong những vấn đề
quan trọng là phải xác định được vị trí của mình ở đâu, đâu là lợi thê, đâu là
những bất lợi để sớm bắt được cơ hội và đẩy lùi nguy cơ, chỉ có như vậy các
ngành sản xuất nói riêng và quốc gia nói chung mới có thể chủ động hội nhập
giành thắng lợi, đồng thời có điều kiện sử dụng hiệu quả nguồn lực vốn có
của mình, phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh.
Ngành giấy nói riêng và các ngành sản xuất khác của Việt Nam nói
chung hiện đang bước vào giai đoạn phát triển rất nhanh, cạnh tranh ngày
càng khốc liệt hơn sau khi nước ta gia nhập WTO. Vấn đề cạnh tranh và tìm
cách nâng cao lợi thế cạnh tranh đang là vấn đề các ngành sản xuất thật sự rất
quan tâm.
Xuất phát từ yêu cầu trên, em đã mạnh dạn chọn và hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp của mình với đề tài : “Năng lực cạnh tranh và các giải pháp
tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa và vận dụng những lý thuyết cơ bản về cạnh
tranh, cạnh tranh ngành, khóa luận tốt nghiệp tiến hành phân tích, đánh giá
thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam, tìm ra những thuận
lợi và bất lợi ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh để đề xuất, xây dựng một hệ
thống các giải pháp có tính đồng bộ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 2 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận lấy hoạt dộng nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm giấy
trên thị trường của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu, khóa luận nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh
doanh, thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất nhập khẩu của ngành
giấy Việt Nam, từ đó nghiên cứu triển vọng và những giải pháp đặt ra trong
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam. Sè liệu sử dụng
để nghiên cứu ngành giấy Việt Nam từ năm 2007-2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê Nin làm phương pháp nghiên cứu chủ
đạo, động thời sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp
các vấn đề nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu các vấn đề được sử dụng
một cách linh hoạt-kết hợp hoặc riêng rẽ để giải quyết vấn đề một cách tốt
nhất. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng các sơ đồ, bảng biểu để minh họa, qua
đó rót ra kết luận tổng quát.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận có kết cấu thành 3 chương
nh sau:
Chương 1: Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
ngành trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Phân tích thực trạnh năng lực cạnh tranh của ngành giấy
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp tài chính chủ yếu nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 3 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
CH¦¥NG 1

Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngành trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cùng với quá trình hội nhập kinh tÕ, thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử
dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị,
quân sự, sinh thái, thể thao; thường xuyên được nhắc tới trong sách báo
chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các phương tiện thông tin đại chúng
và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến
có nhiều khái niệm khác nhau về “cạnh tranh”, cụ thể như sau:
- Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành
động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhuận hay các nhóm, các loài vì
mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự
kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác.
- Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế
giữa các chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu
được nhiều lợi Ých nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những
người sản xuất với người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu
dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ
hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất
và tiêu thụ.
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 4 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá, ) hoặc
cạnh tranh phi giá cả (quảng cáo, ). Hay cạnh tranh của một doanh nghiệp,
một ngành, một quốc gia là mức độ mà ở đó, các điều kiện về thị trường tự do
và công bằng có thể sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng

được đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao được thu
nhập thức tế.
Theo Michael Porter thì: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của
cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận
trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình
quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sau dẫn đến hệ
quả giá cả có thê giảm đi (1980).
Cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý nghĩa quan trọng đối với phát
triển kinh tế ở các quốc gia. Việc nghiên cứu hiện tượng cạnh tranh đã có từ
rất sớm với các trường phái nổi tiếng nh: lý thuyết cạnh tranh cổ điển, lý
thuyết cạnh tranh tân cổ điển và lý thuyết cạnh tranh hiện đại.
Có thể tóm lược một số nội dung cơ bản về lý thyết cạnh tranh trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay nh sau:
- Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh cùng một loại
sản phẩm hàng hóa và cùng tiêu thụ trên một thị trường.
- Mục đích cuối cùng là tìm kiếm được lợi nhuận mong muốn để tồn tại
và phát triển doanh nghiệp hoặc ngành sản phẩm. Để đạt được mục đích cơ
bản cuối cùng đó, cuộc ganh đua trong kinh doanh phải tạo cho được những
điều kiện, cơ hội tốt nhất nhằm giành được thị trường và mở rộng thị trường
để tăng thị phần, trên cơ sở hạ thấp chi phí sản xuất-tiêu thụ và các hoạt động
liên quan, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc cung ứng các sản
phẩm khác biệt. Đó là các tiêu chí quan trọng nhất phản ánh năng lực cạnh
tranh.
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 5 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
- Cạnh tranh là phạm trù kinh tế phản ánh hiện thực khách quan về cuộc
ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị trường và chịu tác động của quan
hệ cung cầu sản phẩm.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất
đó là cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường

với nhau, kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự
thay thế lẫn nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận.
Tập hợp những quan điểm trên xin đưa ra quan điểm về cạnh tranh của
ngành giấy Việt Nam như sau: “Cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam được
hiểu là một phạm trù kinh tế trong sản xuất hàng hóa, phản ánh quan hệ
ganh đua giữa các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh sản phẩm giấy trong
ngành giấy Việt Nam với các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh sản phẩm
giấy trong ngành giấy các nước trong khu vực hoặc thế giới và cùng bán trên
thị trường Việt Nam hoặc thị trường quốc tế. Cuộc ganh đua đó được thực
hiện bằng nhiÒu biện pháp, thủ thuật và chiến lược khác nhau nhằm giành
được những cơ hội, những điều kiện thuận lợi hơn so với các đối thủ cạnh
tranh để chiếm thị phần lớn hơn bằng nhiều công cụ quan trọng nhất để đạt
được mục tiêu cuối cùng chủ yếu là tối đa hóa lợi nhuận”.
Việc đưa ra một khái niệm phản ánh đầy đủ bản chất của phạm trù cạnh
tranh sẽ tạo lập cơ sơ lý luận cho việc phân tích năng lực cạnh tranh của
ngành giấy Việt Nam.
1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh
Tùy theo mục đích nghiên cứu và dùa vào các căn cứ khác nhau, cạnh
tranh có thể được phân loại theo nhiều phương pháp khác nhau. Trong khóa
luận sẽ đề cập đến một số phương pháp có liên quan đến nội dung đề tài,
những phương pháp đó là:
 Căn cứ theo phạm vi kinh tế hay mục tiêu kinh tế của chủ thể: có
cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cách phân loại
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 6 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
cạnh tranh như trên cho thấy để đạt mục tiêu bán cùng một loại hàng hóa các
doanh nghiệp sản xuất ra loại hàng hóa đó phải cạnh tranh với nhau do vật
xuấ hiện sự cạnh tranh trong nội bộ ngành, dẫn đến hình thành giá trị thị
trường. Và để đạt mục tiêu cạnh tranh giữa các ngành, dẫn đến hình thành lợi
nhuận bình quân ngành và giá cả sản xuất.

• Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
cung ứng dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu lợi nhuận và có
tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đầu tư ban đầu và đầu tư vào ngành có
lợi nhuận cao hơn. Cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp
luôn tìm kiếm nhưng ngành có đầu tư có lợi nhất nên vốn đầu tư sẽ chuyển từ
ngành Ýt lợi nhuận sang ngành có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Sau một
thời gian nhất định, việc di chuyển dòng đầu tư theo khả năng sinh lời cao
hơn sẽ hình thành sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất, dẫn đến
kết quả cuối cùng là các doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số
lượng vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau.
• Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hóa hay cung ứng dịch vụ nào
đó. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến việc hình giá cả thị trường đồng
nhất đối với hàng hóa, dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hóa
và dịch vụ đó. Trong hình thức cạnh tranh này, các doanh nghiệp có thể thôn
tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh sẽ mở rộng được
thị trương, còn những doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh sẽ bị thu
hẹp sản xuất hoặc có thể bị phá sản.
 Căn cứ theo phạm vi địa lý: có cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ngay trên thị trường nội địa, đó là cạnh
tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng thay thế nhập khẩu. Trong hình thức cạnh
tranh này, các yếu tố như chất lượng sản phẩm tốt, giá bán thấp, thời gian đưa
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 7 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
hàng hóa ra thị trường đúng thời điểm và điều kiện dịch vụ bảo hành, sửa
chữa tốt là mối quan tâm hàng đầu.
 Căn cứ theo cấp dé cạnh tranh quốc gia, ngành và sản phẩm.
• Cạnh tranh ở cấp độ quốc gia : thường được phân tích theo quan điểm
tổng thể chú trọng vào môi trường kinh tế vĩ mô và thể hiện vai trò của Chính
phủ. Các chủ thể ở đây là các quốc gia do vậy đều quan tâm đến các vấn đề

kinh tế-xã hội trên cơ sở tận dụng những điều kiện trong nước và quốc tế. Tuy
nhiên chủ thể liên quan trực tiếp đến cạnh tranh quốc tế là các doanh nghiệp.
• Cạnh tranh ở cấp độ ngành : một ngành được coi là có tính cạnh tranh
khi ngành này có khả năng tạo nên lợi nhuận và tiếp tục duy trì được thị phần
trên thị trường trong nước và quốc tế.
Theo quan niệm cạnh tranh dùa trên yếu tố năng xuất toàn bộ, một
ngành công nghiệp được coi là cạnh tranh khi mức độ yếu tố năng suất toàn
bộ bằng hoặc cao hơn mức nào đó của đối thủ cạnh tranh. Yếu tố này quan
tâm tới hiệu quẩ sản xuất trong việc sử dụng yếu tố đầu vào của vốn và lao
động để tạo ra năng suất lao động cao hơn, góp phần tăng cạnh tranh của
ngành.
Cũng như cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, các quan niệm và cách tính toán
về cạnh tranh có thể khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là ngành đứng vững
trên thị trường dùa trên các yếu tố như hiệu quả trong sản xuất-kinh doanh, sử
dụng công nghệ tiên tiến.
•Cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm:
Có nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm, tuy
nhiên đều có chung là nghiên cứu cạnh tranh ở cấp độ vi mô.
Có quan điểm cho rằng sản phẩm cạnh tranh là: “sản phẩm hội tụ đủ các
yếu tố chất lượng, giá cả, thời gian giao hàng, dịch vụ trong và sau bán hàng.
Trong đó yếu tố quan trọng nhất là chất lượng sản phẩm”. Cũng có quan điểm
khác: “sản phẩm cạnh tranh là sản phẩm đem lại giá trị tăng cao hơn hoặc
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 8 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
mới lạ hơn để khách hàng lùa chọn sản phẩm của mình chứ không phải lùa
chọn sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh không phải mang tính
chất nhất thời mà là một quá trình liên tục”.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh của ngành
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh
Từ trước tới nay, khái niệm năng lực cạnh tranh được nhắc đến rất nhiều

nhưng đến nay khái niệm này vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Bởi lẽ
năng lực cạnh tranh cần phải đặt vào điều kiện, bối cảnh phát triển của đất
nước trong từng thời kỳ. Đồng thời năng lực cạnh tranh cũng cần thể hiện khả
năng đua tranh, tranh giành giữa các doanh nghiệp và cần được thể hiện ra
bằng phương thức cạnh tranh phù hợp.
Năng lực cạnh tranh về cơ bản là một khái niệm ở mức công ty. Một
công ty có năng lực cạnh tranh nếu có thể sản xuất các sản phẩm dịch vụ chất
lượng cao và chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh ở trong nước và quốc tế.
Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với kết quả lợi nhuận dài hạn và khả năng
của nó để bồi hoàn cho người lao động, tạo thu nhập cao cho các chủ sở hữu.
Năng lực cạnh tranh là thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các
đối thủ cạnh tranh khác trong việc thỏa mãn tốt nhu cầu của khách hàng để
thu được lợi nhuận ngày càng cao. Nh vậy năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là yếu tố nội hà
của doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các yếu tố như công nghệ, tài
chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp một cách riêng biệt mà cần
đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động trên cung một
sản phẩm, lĩnh vực và thị trường. Nếu những điểm mạnh, điểm yếu bên trong
của doanh nghiệp không được đánh giá thông qua việc so sánh một cách
tương ứng với các đối thủ cạnh tranh thì sẽ không có giá trị. Trên cơ sở so
sánh và đánh giá đó, để tạo năng lực cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo
lập được lợi thế so sánh so với đối thủ. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 9 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng mục tiêu còng nh lôi kéo được khách
hàng của đối thủ cạnh tranh. Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào
có thể thỏa mẵn đầy đủ những yêu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp có lợi
thế về mặt này thì hạn chế về mặt khác. Tuy nhiên doanh nghiệp phải nhận
biết được điều này và cố gắng phát huy những điểm mạnh để đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của khách hàng.

1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh của ngành
•Đặc điểm ngành sản xuất
Được hiểu là tập hợp nhiều doanh nghiệp sản xuất mà hoạt động sản
xuất chủ yếu có những đặc trưng kinh tế-kỹ thuật giống nhau hoặc tương tự
nhau thể hiện qua:
- Cùng áp dụng một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự
cơ-lý, hóa, sinh học để sản xuất ra sản phẩm.
- Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu
đồng loại.
- Sản phẩm có đầu ra có cùng công dụng cụ thể giống nhau hoặc công
dụng cùng loại.
Cách phân loại này lấy doanh nghiệp làm đối tượng phân loại căn cứ
vào một, hai hoặc ba đặc trưng trên của quá trình sản xuất.
Ngành là đơn vị căn bản để phân tích năng lực cạnh tranh. Theo
M.Porter, một ngành (sản phẩm hay dịch vụ) là một nhóm doanh nghiệp sản
xuất những sản phẩm hay dịch vụ mà những sản phẩm hay dịch vụ này cạnh
tranh trực tiếp với nhau. Phân biệt rõ về mặt chiến lược, một ngành bao gồm
các sản phẩm hay dịch vụ có các lợi thế cạnh tranh nh nhau.
Nh vậy, ngành giấy có thể được hiểu là một ngành sản xuất thuộc lĩnh
vực hoạt động công nghiệp, tập hợp một số doanh nghiệp mà các doanh
nghiệp đó có quá trình sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau, sản xuất sản
phẩm đầu ra là giấy. Sản phẩm giấy được thực hiện qua hai công đoạn chủ
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 10 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
yếu: công đoạn sản xuất bột giấy và công đoạn sản xuất giấy thành phẩm. Về
hình thức tổ chức sản xuất trong ngành giấy có hai loại hình doanh nghiệp đó
là: doanh nghiệp liên hợp giấy và các doanh nghiệp bột giấy hoặc giấy độc
lập. Đối với các doanh nghiệp liên hợp thì giấy là sản phẩm cuối cùng được
thực hiện thông qua hai công đoạn là sản xuất bằng phương pháp cơ, hóa hoặc
kết hợp cả hai phương pháp. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất bột giấy

hoặc giấy độc lập thì bột giấy là sản phẩm cuối cùng của doanh nghiệp sản
xuất bột giấy và giấy là sản phẩm cuối cùng của doanh nghiệp sản xuất giấy.
Có rất nhiều cách để phân tích năng lực cạnh tranh của ngành, trong
khóa luận sẽ trình bày ba quan điểm được coi là phù hợp khi phân tích năng
lực cạnh tranh ở cấp độ ngành. Đó là quan điểm quản trị chiến lược của M.
Porter, quan điểm tân cổ điển và quan điểm tổng hợp.
• Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành theo quan điểm quản trị
chiến lược của M. Porter
- Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành dùa theo phân tích cấu trúc
M. Porter đã xây dựng mô hình “ khối kim cương” trong phân tích cạnh tranh
quốc gia dùa trên nền tảng của việc phân tích cấu trúc. Theo cách tiếp cận
này, nghành có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong và
ngoài nước dùa vào năm nhân tè:
(1) Sự thâm nhập ngành của các công ty mới
(2) Các sản phẩm hay dịch vụ thay thế
(3) Vị thế của các nhà cung ứng
(4) Vị thế của người mua
(5) Sù tranh đua của các công ty hiện đang cạnh tranh.
Phân tích năng lực cạnh tranh theo cấu trúc được đánh giá là có ưu thế
trong nghiên cứu tình huống và trong nhận thức động thái ngành.
Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành chính là việc phân tích và đánh
giá các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh của ngành đó. Môi trường kinh
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 11 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
doanh của ngành bao gồm tổng thể các yếu tố thuộc điều kiện khách quan và
chủ quan có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của
ngành.
Các nhân tố của môi trường kinh doanh bao gồm các nhân tố về môi
trường vĩ mô, các nhân tố về môi trường ngành và các nhân tố bên trong. Môi
trường ngành là môi trường phức tạp nhất và có nhiều ảnh hưởng đến cạnh

tranh. Khác với môi trường vĩ mô, môi trường ngành không được tổng hợp từ
những quy định, quy luật mà nó mang tính thời điểm.
Tuy nhiên, trên thực tế, rất khó để có được hết thông tin cần thiết và
việc phân tích theo quan điểm quản trị chiến lược thường bị đánh giá là thiếu
những giả thiết có thể kiểm định được về mặt thống kê và khó dự báo về
lượng những tác động của các chính sách của Chính phủ đến năng lực cạnh
tranh của ngành.
- Lợi thế cạnh tranh dùa trên các nguồn lực riêng biệt
Từ những năm 1990, quan điểm quản trị chiến lược có bước phát triển mới
với lý thuyết cạnh tranh dùa trên các nguồn lực (hữu hình và vô hình). Cơ sở
lý thuyết này là việc thừa nhận ngành trong một chiến lược thích hợp có thể
sử dụng các nguồn lực của mình để thu được lợi nhuận cao hơn mức bình
thường trên thị trường trong một thời gian dài. Nguồn lực của ngành gồm các
nguồn vốn tài sản, vốn tài chính, vốn con người, tri thức, thông tin, các tài sản
vô hình (như thương hiệu và địa vị thị trường), các quá trình ra quyết định và
hệ thống phối hợp. Tuy nhiên, không phải mọi nguồn lực đều tạo ra lợi nhuận
cao hơn, nhất là các nguồn lực mà các đối thủ cạnh tranh cũng đang sử dụng.
Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh dùa trên nguồn lực “riêng biệt” được
duy trì nhờ bốn đặc trưng:
(1) Nguồn lực phải thực giá trị, tức là đóng góp tích cực cho việc khai
thác vị thế của ngành trên thị trường.
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 12 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
(2) Nguồn lực phải hiếm hoi, các đối thủ cạnh tranh không thể có được
một cách rộng rãi.
(3) Nguồn lực phải có tính khó bắt chước hay mô phỏng.
(4) Nguồn lực không dễ bị thay thế bởi nguồn lực khác.
Tóm lại, lợi thế cạnh tranh, mục tiêu của quản trị chiến lược, đòi hỏi các
nguồn lực của ngành phải khác biệt, rất khó lưu chuyển và bắt chước.
• Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành dùa trên quan điểm tân cổ

điển
Quan điểm tân cổ điển dùa trên lý thuyết thương mại truyền thống xem
xét lợi thế cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh đối với một sản phảm qua lợi
thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất so với đối thủ nước ngoài. các chỉ
số được sử dụng như giá thành sản phẩm so với đối thủ, năng suất hoặc chi
phí nguồn lực trong nước. Các chỉ số này thường được xem xét cùng với tỷ
giá hối đoái và các biện pháp bảo hộ.
Đánh giá năng lực cạnh tranh theo quan điểm tân cổ điển có phần phiến
diện do Ýt sử dụng phân tích động thái và việc đo lương chi phí và nhất là
năng suất phải dùa trên những giả thiết không thật phù hợp với thực tế.
• Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành theo quan điểm tổng hợp
Theo quan điểm tổng hợp, năng lực cạnh tranh của một ngành là năng
lực duy trì được lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước.
Có bảy nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành như năng suất,
công nghệ, sản phẩm, yếu tố đầu vào và chi phí, mức độ tập trung, các điều
kiện về cầu và độ liên kết. Việc phân tích về mặt định lượng, định tính có thể
cho biết những lợi thế và yếu tố nào do ngành kiểm soát nhằm tăng năng lực
cạnh tranh và yếu tố nào từ phía Chính phủ nhằm tạo điều kiện cho các chiến
lược kinh doanh trở nên hiệu quả hơn.
Quan điểm tổng hợp kết hợp các quan điểm quản trị chiến lược, tân cổ
điển và kinh tế học về tổ chức công nghiệp, có thể giúp đo lường năng lực
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 13 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
cạnh tranh, đồng thời chỉ ra những nhân tố thúc đẩy hay cản trở năng lực cạnh
tranh.
Xét tổng thể, cách phân tích theo quan điểm tổng hợp cho phép trả lời
ba câu hỏi khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh của một ngành:
(1) Ngành có năng lực cạnh tranh nh thế nào?
(2) Những nhân tố nào tác động tích cực hay tác động tiêu cực tới năng
lực sản xuất của ngành?

(3) Những tiêu chí nào cần có để nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành, những chính sách và công cụ nào đáp ứng được các tiêu chí
đó?
Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành theo quan điểm tổng hợp thể
hiện đầy đủ cả những phân tích định tính và định lượng còng nh quan sát tĩnh
và động. Tuy nhiên, rất khó có thể áp dụng tất cả các yêu cầu trên trong một
khóa luận hay chuyên đề do cần phải có nguồn số liệu đầy đủ còng nh các
thông tin chính xác tại từng thời điểm.
Tổng hợp và trình bày nội dung khái niệm năng lực cạnh tranh, phân
tích năng lực cạnh tranh dùa trên những quan điểm, phương pháp khác nhau ở
trên, có thể rót ra mét quan điểm chung nhất về năng lực cạnh tranh của
ngành giấy Việt Nam như sau: “ Năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt
Nam được hiểu là tổng hợp khả năng hoạt động sản xuất-kinh doanh của
toàn bộ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong ngành giấy
Việt Nam nhằm duy trì, mở rộng thị phần các sản phẩm giấy của ngành, được
tiêu thụ trên thị trường trong nước và quốc tế so với các doanh nghiệp trong
ngành giấy các nước trong khu vực hoặc thế giới. Năng lực cạnh tranh của
ngành được phản ánh bằng nhiều tiêu chí đánh giá khác nhau”.
1.2.các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành
1.2.1.Thị phần sản phẩm của ngành trên thị trường nội địa
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 14 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
Đây là tiêu chí quan trọng đánh giá triển vọng tăng trưởng, phát triển
của ngành. Những số liệu về tổng thị phần trong và ngoài nước nói lên kết
quả của hoạt động thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường, xúc tiến thương mại,
mức độ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và tính năng động của ngành.
Ngoài ra thị phần cũng phản ánh mức độ tạp trung trong sản xuất kinh
doanh đối với loại sản phẩm hàng hóa của ngành trên thị trường. Bên cạnh đó,
thị phần còn phản ánh độ liên kết giữa vị thế của ngành với vị thế của người
mua đối với một sản phẩm hay hàng hóa nhất định, biểu hiện uy tín của

ngành, sự tin cậy của người mua trong việc cung ứng, thanh toán, giá cả,, chất
lượng và dịch vụ sau bán hàng của hàng hóa đó trên thị trường.
(%)
MP
p
MS
+
=
(1.1)
Trong đó:
- MS: Thị phần của ngành trên thị trường trong nước
- P: Sản lượng của ngành, được tính bằng hiện vật hoặc doanh
thu
- M: Số lượng nhập khẩu mặt hàng đang xét hoặc giá trị hàng
nhập khẩu
1.2.2. Chỉ tiêu về chất lượng và chủng loại sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng của sản phẩm là yếu tố quan
trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu cùng một loại sản phẩm có công
dụng sử dông và giá cả nh nhau thì sản phẩm chất lượng tốt hơn sẽ được thị
trường chấp nhận. Yếu tố chất lượng sản phẩm phụ thuộc điều kiện kỹ thuật,
trình độ lao động của từng ngành, từng vùng, từng quốc gia nhưng nâng cao
chất lượng sản phẩm của ngành là mục tiêu của mọi ngành ở bất kỳ quốc gia
nào. Bên cạnh đó, kinh tế thế giới và kinh tế của các quốc gia đều tăng trưởng
mạnh mẽ, mức sống của mọi tầng líp dân cư được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 15 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
tăng lên, người tiêu dùng sẵn sàng tiêu thụ những hàng hóa có chất lượng tốt
với giá cao hơn nhưng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của họ.
Đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu sử dụng khác nhau là
công cụ hữu Ých trong cạnh tranh. Để sản phẩm được duy trì và chiếm thị

phần lớn trong quá trình tiêu thụ, các doanh nghiệp phải thường xuyên cải
tiến đưa ra thị trường các loại sản phẩm khác nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu
ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. Và đây chính là cơ hội để nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngành.
1.2.3. Chỉ tiêu về giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là một trong các yếu tố quan trọng để doanh
nghiệp có thể xác định giá bán sản phẩm trên thị trường. Giá bán sản phẩm sẽ
tác động đến quyết định của người mua và là yếu tố quan trọng trong cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp hay giữa các ngành với nhau. Với sản phẩm cùng
loại, có chất lượng tương đương nhau và dịch vụ khách hàng được cung cấp
như nhau, người mua sẽ chọn sản phẩm có giá bán rẻ hơn. Cùng mức chi phí
sản xuất nh nhau, doanh nghiệp nào tiêu thụ được nhiều hàng hơn, chiếm thị
phần lớn hơn sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Như vậy, doanh nghiệp hay
ngành có năng lực cạnh tranh cao hơn đối thủ.
1.3.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH
Năng lực cạnh tranh ngành nói chung và năng lực cạnh tranh nghành
giấy Việt Nam nói riêng, chịu sự tác động tổng hợp của nhiều loại nhân tố
khác nhau. Nghiên cứu sự tác động của các nhân tố đó có nhiều biện pháp tiếp
cận. Nội dung khóa luận này sẽ tiếp cận theo mô hình ‘kim cương’ để tạo lập
được cơ sở khoa học cho việc phân tích đánh giá thực trạng năng lực cạnh
tranh của ngành giấy Việt Nam.
Mô hình “Kim cương”, một lý thuyết cạnh tranh nổi tiếng của Michael
Porter, được ông nêu trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” (1990), đã
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 16 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
nêu lên các yếu tố quyết định sự cạnh tranh của một quốc gia trong thương
mại quốc tế. Theo ông, khả năng cạnh tranh của một quốc gia ngày nay lại
phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành, của quốc gia đó.
Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu hóa thì nền tảng cạnh tranh sẽ

chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho
sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì bị thế cạnh tranh
lâu dài của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế.
M. Porter đã đưa ra phương pháp phân tích năng lực cạnh tranh theo
cấu trúc đối với mỗi ngành, dù hoạt động trong hay ngoài nước, bản chất cạnh
tranh nằm trong 4 nhân tố và các nhân tố này tác dộng qua lại lẫn nhau, tạo ra
động lực khác nhau cho cạnh tranh.
1.3.1. Điều kiện về yếu tố sản xuất
Yếu tố sản xuất là những đầu vào cần thiết để cạnh tranh của bất kỳ
ngành nào. Mỗi quốc gia đều có những yếu tố về lịch sử và điều kiện tự
nhiên, thiên nhiên khác nhau như tài nguyên con người, tài nguyên vật chất,
tri thức, tư bản và cơ sở hạ tầng. Những yếu tố này bao gồm nhiều loại và vai
trò của chúng trong việc hỗ trợ cạnh tranh khác nhau. Yếu tố sản xuất có thể
gồm các yếu tố cơ sở và yếu tố cao cấp.
- Yếu tố cơ sở bao gồm tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý, lao
động giản đơn và bán giản đơn, nguồn vốn vay. Đây là những yếu tố đơn
giản, thuần túy do điều kiện thông thường mà có.
- Yếu tè cao cấp là những yếu tố có được do tích lũy và đầu tư có định
hướng nh cơ sở hạ tầng về truyền thông dữ liệu, trình độ công nghệ, lao động
ở trình độ cao nh kỹ sư, các nhà khoa học.
Yếu tố cơ sở có vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu khi một quốc gia
tham gia vào cạnh tranh nhưng không phải là yếu tố lâu bền và Ýt có ảnh
hưởng ở gia đoạn phát triển cao hơn. Những yếu tố cao cấp có ý nghĩa quan
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 17 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
trọng trong việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, yếu tố
cao cấp của một quốc gia được xây dựng trên những yếu tố cơ sở.
1.3.2. Điều kiện về cầu
Nhu cầu trong nước ảnh hưởng khác nhau tới cạnh tranh quốc tế. Nhu
cầu trong nước rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của

một ngành vì thực tế các sản phẩm của ngành có nhu cầu trong nước cao và
đa dạng thì thường thành công trong cạnh tranh.
1.3.3. Những ngành hỗ trợ và liên quan
Năng lực cạnh tranh của một ngành cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào
sự phát triển của ngành hỗ trợ và liên quan. Mặc dù xu hướng toàn cầu hóa
nền kinh tế đã làm giảm đi tầm quan trọng của các ngành hỗ trợ và liên quan
trong nước, nhưng các ngành này vẫn có vai trò trong việc cung ứng đầu vào,
đổi mới, cải tiến công nghệ. Điều này càng phù hợp hơn khi các nền kinh tế
mới trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3.4. Năng lực và cơ cấu ngành
Cạnh tranh của một ngành trên thị trường nội địa có ảnh hưởng lớn tới
thành công của ngành đó trên thị trường thế giới. Cạnh tranh trên thị trường
nội địa tạo cho các doanh nghiệp môi trường lành mạnh cần thiết cho các hoạt
động đổi mới. Các doanh nghiệp trong nước khi không thể mở rộng tại thị
trường trong nước để đạt lợi thế theo quy mô sẽ phải cố gắng hướng ra thị
trường quốc tế. Cạnh tranh trong nước bắt các doanh nghiệp không chỉ dùa
vào lợi thế sẵn có nh giá nhân công rẻ, nguyên liệu.
Dunning J. (1988) đã dùa trên mô hình “Kim cương” của Porter để xây
dựng mô hình “Kim cương” cải tiến khi sử dụng thêm 2 yếu tố là Nhà nước
và đầu tư nước ngoài. Ngoài 4 yếu tố trên của mô hình “Kim cương”, yếu tố
bên ngoài là Nhà nước cũng tác động đến mô hình này. Nhà nước không phải
là người trực tiếp tạo ra năng lực cạnh tranh của ngành mà chỉ có vai trò gián
tiếp, thông qua tác động của mình đến những yếu tố của mô hình “Kim
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 18 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
cương”. Trong điều kiện hiện nay, khi các nền kinh tế hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới thì đầu tư nước ngoài là một yếu tố quan trọng không thê
thiếu. Mô hình này rất cần khi xem xét, phân tích và đánh giá năng lực cạnh
tranh của ngành giấy Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1, các quan niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh nói
chung và năng lực cạnh tranh của ngành nói riêng đã được tổng hợp và trình
bày có hệ thống trên cơ sở quan điểm của nhiều tác giả. Từ việc nhận thức và
kế thừa các quan niệm đó nhằm đưa ra quan niệm về năng lực cạnh tranh của
ngành giấy như sau: tổng hợp sức mạnh các nguồn lực của ngành để sản xuất
những sản phẩm trong các doanh nghiệp có chi phí thấp hơn, có chất lượng
sản phẩm cao, dịch vụ bán hàng và sau bán hàng tốt hơn trong mối quan hệ so
sánh với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh giáy của các nước cùng tiêu
thụ trên một thị trường. Mục đích cơ bản của cuộc cạnh tranh là tối đa hóa lợi
nhuận trên cơ sở tối đa hóa lợi Ých của khách hàng trên thị trường tiêu thụ
sản phẩm giấy. Năng lực cạnh tranh của ngành với năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong ngành giấy có mối quan hệ tương tác với nhau. Năng
lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành tạo nên động lực và
sức mạnh cạnh tranh của ngành, ngược lại năng lực cạnh tranh của toàn ngành
là tổng hợp sức mạnh cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp. Nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngành sẽ tạo điều kiện thúc đẩy năng lực cạnh tranh của
từng doanh nghiêp trong ngành.
Để phản ánh, phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh một cách toàn
diện thì cần phải đánh giá cả về mặt định lượng và mặt định tính. Đánh giá về
mặt định lượng thông qua các chỉ tiêu chủ yếu như: Thị phần, chất lượng và
chủng loại, giá thành sản phẩm; Để đánh giá về mặt định ta sử dụng lý thuyết
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 19 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
về mô hình “kim cương” của M. Porter làm cơ sở phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành như: (1) Các điều kiện về yếu tố
sản xuất của ngành, (2) các điều kiện về cầu, (3) các ngành liên quan và hỗ
trợ, (4) năng lực và cơ cấu ngành. Đối với ngành giấy hoạt động trong điều
kiện khi nền kinh thế mới tham gia vào WTO, thì ngoài 4 nhân tố nêu trên cần
bổ sung thêm 2 nhân tố: (5) Nhà nước, (6) vốn đầu tư nước ngoài trong mô
hình “kim cương” cải tiến của Dunning. Những nhân tố này có tác động tổng

hợp đến năng lực cạnh tranh của ngành. Mỗi nhân tố đều được trình bày về
mặt nội dung và hướng tác động đến năng lực cạnh tranh ngành, cũng như
mối tác động tương tác giữa các nhân tố đó với nhau.
Những nội dung trình bày về thực chất cạnh tranh, năng lực cạnh tranh
và việc phản ánh phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành cả về mặt
định tính, định lượng là những nội dung lý luận cơ bản có liên quan đến chủ
đề nghiên cứu của khóa luận. Những nội dung lý luận ở chương 1 đã tạo lập
được cơ sở lý thuyết để vận dụng vào việc phân tích, đánh giá thực trạng và
đề xuất các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh của ngành giấy
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ được trình bày ở chương
2 và chương 3.
CH¦¥NG 2
Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh ngành giấy việt nam trong giai
đoạn hiện nay
2.1.tổng quan ngành giấy việt nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngành giấy là một trong những ngành được hình thành từ rất sớm tại
Việt Nam, khoảng năm 284. Từ giai đoạn này đến đầu thế kỷ 20, giấy được
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 20 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
làm bằng phương pháp thủ công để phục vụ cho việc ghi chép, làm tranh dâ
gian, vàng mã
Năm 1912, nhà máy sản xuất bột giấy đầu tiên bằng phương pháp công
nghệ đi vào hoạt động với công suất 4.000 tấn giấy/năm tại Việt Trì. Trong
thập niên 1960, nhiều nhà máy giấy được đầu tư xây dựng nhưng hầu hết đều
có công suất nhỏ (dưới 20.000 tấn/năm) nh Nhà máy giấy Việt Trì; Nhà máy
bột giấy Vạn Điểm; Nhà máy giấy Đồng Nai; Nhà máy giấy Tân Mai Năm
1975, tổng công suất thiết kế của ngành giấy Việt Nam là 72.000 tấn/năm
nhưng do ảnh hưởng của chiến tranh và mất cân đối giữa sản lượng bột giấy
và giấy nên sản lượng thực tế chỉ đạt 28.000 tấn/năm.

Năm 1982, nhà máy giấy Bãi Bằng do Chính phủ Thụy Điển tài trợ đã
đi vào sản xuất với công suất thiết kế là 53.000 tấn bột giấy/năm và 55.000
tấn giấy/năm, dây chuyền sản xuất khép kín, sử dụng công nghệ cơ-lý và tự
động hóa. Nhà máy cũng xây dựng được vùng nguyên liệu, cơ sơ hạ tầng, cơ
sở phụ trợ nh điện, hóa chất và trường đào tạo nghề phục vụ cho hoạt động
sản xuất.
Ngành giấy cũng có những bước phát triển vượt bậc, sản lượng giấy
tăng trung bình 11%/năm trong giai đoạn 2000-2006; tuy nhiên, nguồn cung
như vậy vẫn chỉ đáp ứng được gần 64% nhu cầu tiêu dùng (năm 2008) phần
còn lại phải nhập khẩu. Mặc dù đã có sự tăng trưởng đáng kể tuy nhiên, tới
nay đóng góp của ngành trong tổng giá trị sản xuất quốc gia vẫn rất nhỏ.
2.1.2. Các sản phẩm giấy
Tùy theo mục đích sử dụng khác nhau sản phẩm giấy được chia thành 4
nhóm:
• Nhóm 1: Giấy dùng cho in, viết (giấy in báo, giấy in và viết
• Nhóm 2: Giấy dùng trong công nghiệp (giấy bao bì, giấy chứa chất lỏng )
• Nhóm 3: Giấy dùng trong gia đình (giấy ăn, giấy vệ sinh )
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 21 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
• Nhóm 4: Giấy dùng cho văn phòng (giấy fax, giấy in hóa đơn )
Hiện nay ở Việt Nam chỉ sản xuất được các sản phẩm nh giấy in, giấy
in báo, giấy bao bì công nghiệp thông thường, giấy vàng mã, giấy vệ sinh chất
lượng thấp, giấy tissue chất lượng trung bình còn các loại giấy và các tông
kỹ thuật như giấy kỹ thuật điện-điện tử, giấy sản xuất thuốc lá, giấy in tiền,
giấy in tài liệu bảo mật vẫn chưa sản xuất được.
2.1.3. Cơ cấu theo sở hữu
Cuối năm 2007, toàn ngành có trên 239 nhà máy với tổng công suất
đạt 1,38 triệu tấn/năm; 66 nhà máy sản xuất bột giấy, tổng công suất 600.000
tấn/năm.
Hiện nay Việt Nam có khoảng gần 500 doanh nghiệp giấy tuy nhiên đa

phần là các doanh nghiệp nhỏ, hộ sản xuất cá thể. Toàn ngành chỉ có hơn 90
doanh nghiệp có công suất trên 1000 tấn/năm.
Bảng 1: Cơ cấu sở hữu các loại hình doanh nghiệp (DN)
Hình thức sở hữu
Số
lượng
DN*
Bột giấy Giấy
Công suất
(tấn/năm)
Tỷ lệ %
Công suất
(tấn/năm)
Tỷ lệ %
1. DN Nhà nước 13 111.000 26,47 133.070 8,75
2. CTCP và Tập
thể
76 237.550 56,65 694.420 45,68
3. DN tư nhân 167 70.770 16,88 632.460 41,61
4. DN nước ngoài 03 - 0,00 60.000 3,96
Tổng công suất 259 419.320 100,00 1.519.950 100,00
*: Sè liệu 259 DN này chưa bao gồm các hộ sản xuất giấy cá thể, có công suất nhỏ
hơn 300 tấn/năm. Các hộ này không ảnh hưởng đến thị trường.
(Nguồn: Viện công nghệ giấy và xenluylo.)
2.2.Phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy việt nam
2.2.1. Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam thông qua
một số chỉ tiêu chủ yếu
2.2.1.1. Chỉ tiêu thị phần sản phẩm của ngành trên thị trường nội địa
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 22 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng

Vận dụng chỉ tiêu phản ánh thị phần (phần 1.2.1) và theo số liệu
trong qui hoạch điều chỉnh ngành giấy Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn
2020. Ta có bảng số liệu sau:
Bảng 2: Thị phần sản phẩm bột giấy và giấy của ngành giấy
Việt Nam trên thị trường nội địa
Năm 2007 2008 2009
1. Giấy
Sản lượng (tấn) 1.130.000 1.322.600 1.988.000
Nhập khẩu (tấn) 861.730 962.579 705.986
Thị phần 56,7% 57,9% 73,8%
2. Bột giấy
Sản lượng (tấn) 996.000 1.115.000 1.700.000
Nhập khẩu (tấn) 144.000 197.000 110.000
Thị phần 87,4% 85% 94%
Theo bảng trên, có thể thấy thị phần giấy trên thị trường nội địa của
ngành giấy Việt Nam trong giai đoạn 2007-2009 tăng dần qua các năm. Tuy
nhiên, so với năm 1995, ngành giấy Việt Nam chiếm gần 70% thị phần trong
nước thì con số của 3 năm trên vẫn ở mức thấp và không có thay đổi nhiều.
Cụ thể là : năm 2007, ngành giấy đảm bảo được 56,7% nhu cầu tiêu
dùng giấy trong nước, còn lại 43,3% giấy nhập khẩu; năm 2008, đảm bảo
57,9% nhu cầu trong nước, nhập khẩu 42,1%; đến năm 2009 thị phần trong
nước tăng cao hơn so với năm 2007 và 2008 đạt 73,8% nhưng tỷ lệ này cho
thấy năng lực sản xuất của ngành giấy Việt Nam còn thấp không đáp ứng
được nhu cầu trong nước, hoặc năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam
kém so với ngành giấy các nước do giá thành sản xuất cao, chất lượng trung
bình và chủng loại giấy chưa được phong phó.
Đối với thị phần bột giấy trong nước của ngành giấy Việt Nam, có
thể thấy tỷ lệ này cao hơn của giấy, nhưng không chứng tỏ là ngành giấy đã
đáp ứng được nhu cầu bột giấy trong nước mà do các doanh nghiệp sản xuất
sản phẩm giấy chất lượng thấp nên chỉ sử dụng giấy loại làm nguyên liệu và

Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 23 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
bên cạnh đó thì giá bột giấy trên thị trường thế giới liên tục tăng trong những
năm gần đây nên các doanh nghiệp hạn chế nhập khẩu.
Để tìm hiểu nguyên nhân làm cho thị phần sản phẩm của ngành
giấy Việt Nam trên thị trường nội địa thấp, ta sẽ đi phân tích các chỉ tiêu: chất
lượng sản phẩm, chủng loại và giá thành sản phẩm.
2.2.1.2. Chỉ tiêu về chất lượng và chủng loại sản phẩm
 Sản phẩm bột giấy
Ngành giấy Việt Nam không có các doanh nghiệp sản xuất bột giấy
thương mại và chỉ sản xuất được các loại bét nh bét hóa không tẩy trắng, bột
hóa tẩy trắng, bột hóa nhiệt cơ và bột kiềm lạnh. Bột giấy sản xuất phần lớn là
bột xơ sợi ngắn và trung bình, từ nguyên liệu gỗ cứng và tre nứa. Công ty Bãi
Bằng, Tân Mai đều sử dụng hết lượng bột giấy cho sản xuất giấy.
Chỉ có hai công ty giấy Bãi Bằng và giấy Việt Trì sản xuất được bột
giấy tẩy trắng để sản xuất giấy in, giấy viết. Chất lượng bột giấy đáp ứng cho
sản xuất giấy in có chất lượng xấp xỉ với giấy in cùng loại của khu vực. Bột
hóa nhiệt cơ (CTMP) là một trong những sản phẩm phổ biến trong sản xuất
giấy nhưng mới chỉ có Công ty giấy Tân Mai đầu tư, sản xuất. Nguyên liệu sử
dụng trước đây là gỗ lá kim nhưng hiện nay công ty đã thay thế bằng gỗ cứng
do nguồn cung gỗ lá kim không đủ.
Bột giấy không tẩy trắng được sản xuất từ giấy loại, bã mía, tre nứa tại
các công ty cổ phần và tư nhân như Lam Sơn, Lửa Việt, Mục Sơn, Hòa
Bình Loại bột giấy này dùng để sản xuất bao bì công nghiệp, giấy vệ sinh
chất lượng thấp. Hiện nay các sản phẩm giấy bao bì chất lượng cao sử dụng
bét tẩy trắng sợi dài thì Việt Nam nhập khẩu hoàn toàn.
Với công suất và sản lượng bột giấy thấp, không đáp ứng được năng
lực sản xuất giấy nên hàng năm, ngành giấy phải nhập khẩu bột giấy và giấy
loại với số lượng lớn. Các loại bột nhập khẩu chủ yếu là bột tẩy trắng xơ sợ
ngắn và dài.

Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 24 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
Bảng 3: Công suất và sản lượng bột giấy
(Đơn vị: tấn)
Năm Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Công suất sản xuất bột
giấy
1.115.000 1.265.000 1.995.000
Sản lượng bột giấy 996.000 1.115.000 1.700.000
Năng lực sản xuất giấy 1.341.000 1.498.000 2.350.000
(Nguồn: Dự báo về công nghiệp bột giấy Việt Nam 2006-2010)
 Sản phẩm giấy các loại
Hiện nay trên thế giới có hàng trăm chủng loại giấy khác nhau nhưng
ngành giấy Việt Nam chỉ sản xuất được các loại sản phẩm như giấy in, giấy in
báo, giấy bao bì công nghiệp thông thường, giấy vàng mã, giấy vệ sinh chất
lượng thấp, giấy tissue chất lượng trung bình Còn các loại giấy và các tông
kỹ thuật nh giấy kỹ thuật điện-điện tử, giấy sản xuất thuốc lá, các loại giấy
lọc, giấy in tiền, giấy in tài liệu bảo mật vẫn chưa sản xuất được.
Mặc dù đầu tư vào ngành giấy tăng mạnh trong các năm qua nhưng sản
xuất trong nước vânc chưa đủ đáp ứng nhu cầu, nhất là ở những nhóm sản
phẩm tiêu thụ nhiều và doanh nghiệp Việt Nam chưa sản xuất được. Tốc độ
tăng nhu cầu tiêu dùng cao hơn tốc độ tăng của sản xuất vì vậy tỷ trọng nhập
khẩu vẫn cao và tăng qua các năm.
Do máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, nên nhiều nhà máy giấy Việt Nam
không sản xuất được hết công suất, vì vậy, khả năng đáp ứng tiêu dùng nội
địa càng thấp và tỷ trọng nhập khẩu càng cao.
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D
Khóa luận tốt nghiệp 25 Học viện Ngân hàng Häc viÖn Ng©n hµng
Bảng 4: Tình hình sản xuất, tiêu thụ và xuất nhập khẩu các sản phẩm giấy năm 2008
Sản phẩm Năng lực Tiêu dùng Sản xuất Nhập khẩu Xuất khẩu

Khả năng sản xuất
đáp ứng nhu cầu nội
địa
Giấy in báo 58.000 107.195 56.100 51.095 0 52%
Giấy in viết 370.000 395.726 254.100 158.626 17.000 60%
Giấy làm bao bì 830.000 1.270.332 642.300 628.032 51%
Giấy Tissue 100.000 48.362 73.000 362 25.000 99%
Giấy vàng mã 140.000 200 85.200 85.000 100%
Giấy khác 132.707 132.707
(Nguồn: Tạp chí công nghiệp giấy 12/2008)
Sinh viên: Hoàng Hoài Phương_LTĐH 4D

×