PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chưa có một trào lưu triết học nào gần gũi với cuộc sống như triết học
hiện sinh. Nú đó hình thành nên những xu hướng mới trong đời sống và để
lại những dấu ấn đậm nét trong văn học.
Chủ nghĩa hiện sinh, sau khi gây một phong trào mãnh liệt và sâu rộng
trong văn học nghệ thuật, sau gần 20 năm hoạt động ở bề nổi, nay dần đi
vào thế chỡm. Nú đó lắng lại trong tiềm thức của mỗi người. Ở Việt Nam,
triết học hiện sinh không còn là một thứ mốt cho người ta chạy theo. Nhưng
nó vẫn mang một sức hút khó cưỡng đối với nhiều nhà văn. Những tư tưởng
về nhân vị, tự do, về cuộc sống bất an và âu lo của chủ nghĩa hiện sinh, vẫn
tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn những nhà văn khi họ đối diện với
những đổi thay lớn lao của đất nước và thời đại.
Nhà văn nhìn cuộc sống không như những triết gia nhưng trong tác phẩm
của họ mang màu sắc triết học đó là vấn đề cảm quan. Cảm quan có sự hòa
hợp cảm quan cá nhân và cảm quan thời đại. Hiểu về cảm quan sẽ giúp
người đọc hình dung được những nền tảng sâu xa chi phối đến quá trình
sáng tác và những tư tưởng về thế giới, con người tác giả muốn gửi gắm.
Trên thế giới, có những tên tuổi bất hủ, gắn liền với chủ nghĩa phi duy lí
đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh: Franz Kafka, Albert Camus, Jean Paul
Sartre, Marcel Proust… Trong tầm nhìn của văn học so sánh, chúng ta có
thể thấy được sự tác động mạnh mẽ của trào lưu văn học này đến Việt Nam,
mặt khác, trong tương quan đồng điệu nào đó về văn hoá, thời đại cảm quan
hiện sinh đã nảy sinh và mang những nột riờng do hoàn cảnh xã hội đất
nước quy định. Nó đem đến cho văn học, những điều vừa quen vừa lạ.
Mỗi nhà văn trong bối cảnh văn hoá mới, với những hoang mang và cảm
thức thời đại đã trở thành những cây bút sung sức và khát khao thể hiện
mình. Tiểu thuyết trở thành đất dụng võ cho các cây bút thể nghiệm những
1
đổi mới của mình, từ nội dung đến hình thức. Bởi “Tiểu thuyết nhịp bước
cùng con người thường xuyên và trung thành từ buổi đầu thời hiện đại.
Niềm say mê được hiểu biết, đã xâm chiếm lấy nó, khiến nó chăm chú dò xét
cuộc sống cụ thể của con người và bảo vệ cuộc sống này chống sự lãng
quên của con người; khiến nú luụn giữ cái thế giới sự sống dưới nguồn sáng rọi
thường trực.” [20, 12]
“Thời của tiểu thuyết” với những cách tân độc đáo, mang đậm dấu ấn
của mỗi cá nhân, tiểu thuyết đã vượt khỏi những khuôn mẫu. Để tiếp cận
tiểu thuyết, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề cảm quan. Đặc biệt trong thời
kì, cảm quan hiện sinh ngày càng đậm nét trong văn học qua những tên tuổi
lớn như: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Bình Phương, Thuận…
Thực chất, cảm quan hiện sinh, không chỉ tác động, làm biến đổi nội
dung mà còn tạo ra động lực để thay đổi nghệ thuật biểu hiện của tiểu
thuyết. Nó tạo ra một cuộc cách tân mạnh mẽ từ nội dung đến hình thức của
thể loại nền tảng trong văn học.
Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng là hai cây bút được chú ý nhiều.
Cảm quan hiện sinh là đóng góp độc đáo trong tiểu thuyết hai tác giả này.
Nguyễn Việt Hà, được coi như một “ụng kễnh” văn chương có thể xếp bên
những tên tuổi lớn như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh … Đoàn Minh
Phượng lặng lẽ đến với văn chương, nhưng những trang văn của chị đã trở
thành nỗi ám ảnh đối với nhiều độc giả. Tiểu thuyết Và khi tro bụi, được
trao giải thưởng duy nhất của hội nhà văn phần nào nói lên chất riêng của
chị trong văn học.
Hai cây bút trẻ, hai phong cách có phần xa lạ với nhau, nhưng họ đã
mang đến cho tiểu thuyết những dấu ấn riêng. Cảm quan hiện sinh là nét đặc
sắc trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng, đó là cơ sở
cho những thể nghiệm táo bạo từ nội dung đến nghệ thuật tiểu thuyết.
2
Luận văn nghiên cứu: Cảm quan hiện sinh trong tiểu thuyết của Nguyễn
Việt Hà và Đoàn Minh Phượng cũn gúp thờm một cách nhìn mới khi tìm
hiểu những tiểu thuyết khỏ “trỳc trắc” của hai tác giả này. Từ đó có thể gợi ý
một cách tiếp cận cho những tiểu thuyết “khú đọc” hiện nay. Những tiểu
thuyết dang dở, mang những ám ảnh bi đát về thân phận con người.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1 Lịch sử nghiên cứu cảm quan hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là lí thuyết triết học và mĩ học được du nhập và
có ảnh hưởng rộng rãi nhất trong lý luận và sáng tác văn học ở miền Nam
Việt Nam những năm 1954 – 1975. Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện khi chủ
nghĩa duy linh nhân vị sụp đổ. Nó nhanh chóng trở thành một phần trong
đời sống qua sự phổ biến của báo chí. “Những tờ tạp chí lúc đó như Đại học,
Sáng tạo, Văn, Bách khoa…đều có những bài viết hay số báo đặc biệt về trào
lưu triết học và văn học này cùng những tác gia của nó như Jean-Paul Sartre,
Albert Camus… Hỗ trợ có hiệu quả cho việc tìm hiểu và nghiên cứu đó là nỗ
lực dịch thuật ngày càng sâu rộng những đứa con tinh thần của các tác gia
hiện sinh. Về lý thuyết là các công trình của F. Nietzsche, K. Jaspers, M.
Heidegger, J P. Sartre… Về sáng tác là tiểu thuyết, kịch bản văn học của A.
Camus, J P. Sartre, S. de Beauvoir, F. Sagan…”
Ngay từ 1942, Công trình của Nguyễn Đình Thi “triết học Nietzche”
đã đưa lại những hiểu biết ban đầu đúng đắn về Nietzche và gợi mở về chủ
nghĩa hiện sinh: “dùng trực giác chống lớ trớ, dựng bi quan chống lại lạc
quan, dùng phi đạo đức chống luõn lớ” [27 – 202]
Từ tháng 10-1961 đến tháng 9-1962, trên tạp chí Bách Khoa, dưới bút
hiệu Trần Hương Tử, Trần Thái Đỉnh đã viết một loạt bài giới thiệu chủ nghĩa
hiện sinh, về sau được tập hợp thành chuyên khảo Triết học hiện sinh (NXB
Thời mới, Sài Gòn, 1967, tái bản 1968). Tác giả đã trình bày tổng quan về
triết học hiện sinh với những đề tài chính và hai ngành: hiện sinh hữu thần và
hiện sinh vô thần. Tác giả đi sâu phân tích những quan niệm của các triết gia
3
tiêu biểu với Kierkegaard, Nietzsche, Husserl, Jaspers, Marcel, Sartre và
Heidegger
Tác giả Lê Tôn Nghiêm cũng có nhiều công trình chuyờn sõu về triết
học Heidegger: Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương (NXB
Lá Bối, Sài Gòn, 1970); Đâu là căn nguyên tư tưởng hay con đường triết lý
từ Kant đến Heidegger (NXB Trình Bầy, Sài Gòn, 1970).
Nguyễn Văn Trung được nhiều người biết đến với những công trình
nghiên cứu bàng bạc tư tưởng hiện sinh, đặc biệt là J. P. Sartre.
Công trình của tác giả Nguyễn Tiến Dũng “Chủ nghĩa hiện sinh, lịch
sử, sự hiện diện ở Việt Nam” đó khỏi quỏi sự ra đời và phát triển, những vấn
đề trung tâm của triết học hiện sinh và quá trình hiện diện của chủ nghĩa
hiện sinh ở Việt Nam, từ đó chỉ ra những dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh
trong một số tác giả tiêu biểu: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn
Huy Thiệp….
Theo tác giả: “chưa có một trào lưu văn học nào như văn học hiện
sinh mà chỉ trong thời gian ngắn đã cho ra đời một khối lượng lớn đến
thế….” Văn học hiện sinh: “quan niệm kiếp người là một bất đắc dĩ, là một
thảm kịch, là thất bại, vì vậy nó mang nặng chủ nghĩa bi quan xa lạ với chủ
nghĩa lạc quan cách mạng. [5, 134]” Vì thế, nó ít có những tác phẩm lớn, ít
giá trị nhân văn.
Trong tác phẩm, “Mấy trào lưu triết học phương tõy”, tác giả Phạm
Minh Lăng, (1989) đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của chủ nghĩa hiện
sinh: vũ trụ, con người và đời người dưới con mắt của chủ nghĩa hiện sinh.
Nhưng gúc nhỡn của tác giả vẫn còn giới hạn trong nhận thức phê phán.
Cùng với quá trình đổi mới, quá trình toàn cầu hóa, những tác phẩm
của những triết gia hiện sinh trở nên quen thuộc với đông đảo độc giả Việt
Nam.
4
Vấn đề nghiên cứu cảm quan hiện sinh, thực chất không phải là vấn
đề mới mẻ. Trong những nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh, nhiều nhà
nghiên cứu đã nhắc đến cảm quan bi đát về thế giới và con người của những
triết gia hiện sinh. Trước cuộc sống giòn ải của con người, sự bất lực của
nhận thức, con người luôn lo âu và bất an. Thế giới trở nên xa lạ và bí ẩn.
Khi nghiên cứu về vấn đề hậu hiện đại, sự đổi mới của tiểu thuyết vấn
đề con người hoài nghi, vô minh, những cảm nghiệm chua chát ê chề về
thân phận được nhắc tới. Thực chất, nó rất gần gũi với cảm quan hiện sinh.
Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng là hai cây bút trẻ, thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, những người yêu văn
học. Có thể coi, cảm quan hiện sinh là một đóng góp độc đáo của hai tác giả
này.
2.2. Những nghiên cứu gợi mở về cảm quan hiện sinh trong tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà
Ngay khi xuất hiện với cuốn tiểu thuyết đầu tiên, Nguyễn Việt Hà đã
được coi là một hiện tượng văn học. Chỉ cần seach trên google cũng có thể
hiển thị đến hơn 13 triệu kết quả liên quan đến Nguyễn Việt Hà và những
tiểu thuyết của anh. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm của công chúng đối với
nhà văn trẻ này. Trong đó có rất nhiều những ý kiến trái chiều.
Nhiều tác giả đã đánh giá cao, những nỗ lực cách tân tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà. Từ ngôn ngữ, cấu trúc, điểm nhìn trần thuật, đến những
cảm quan mới trong tác phẩm.
Tác giả Đoàn Cầm Thi cho rằng “ Cơ hội của Chúa cuốn hút tôi
trên hết bởi nghệ thuật của nó. Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà là một lò
thử nghiệm văn phong khổng lồ trong đó ta gặp lối kể chuyện ở ngôi thứ ba,
thể loại tự sự ở ngôi thứ nhất, văn nhái, truyện lồng truyện, tiểu luận.” [69]
Khải huyền muộn khi ra đời cũng cũng được không ít nhà văn tán
thưởng. Nhà văn Trung Trung Đỉnh: “Với tiểu thuyết Khải huyền muộn, nhà
5
văn Nguyễn Việt Hà đã tự mình bứt mình ra khỏi lối mòn của cấu trúc tiểu
thuyết và cách kể chuyện truyền thống”. Hoạ sĩ Lê Thiết Cương: “Trong
Khải huyền muộn có những đoạn luận văn học, những đoạn không bịa như
nhật ký. Cảm giác như đang xem phim truyện lại có một trường đoạn phim
tài liệu.” “Khụng cú kiếm tiền xong rồi, yêu xong rồi, sống xong rồi. Không
có kết. Khải huyền muộn là một kiểu siêu văn bản của nhiều văn bản dở
dang.” Nhà văn Tạ Duy Anh cũng khen ngợi: “Tôi phải nói ngay rằng văn
trong Khải huyền muộn hơn đứt trong Cơ hội của Chúa. Nhiều trang văn
rất đẹp, có chiều sâu, có sức lan toả và nó cũng cho thấy tác giả là người
nghiêm túc, có bản lĩnh, có trách nhiệm nghề nghiệp.” Dù: “Nhược điểm
lớn nhất của Khải huyền muộn – theo tôi – là tác giả còn lộ ra mình phải
cố” Với nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan: “Cuốn tiểu thuyết này gợi lên
nhiều ý tưởng, nhiều điều để nói.” Nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Hùng
nhận xét: “Khải huyền muộn là những sải bơi tiếp theo Cơ hội của chỳa
trờn dòng sông tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Chọn lựa thứ cấu trúc đa ngôi
thứ như thể khối vuụng ru-bớch, Nguyễn Việt Hà tạo cho mình ưu thế thoải
mái để quan sát và kể chuyện, thoả cơn khát tìm tòi và đồng cảm với các
nhân vật cuộc sống.” [51]
Bên cạnh đú, cú khá nhiều luận văn nghiên cứu về tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà, chứng tỏ sự yêu thích và quan tâm của giới trẻ đến những
tiểu thuyết này, dù đó là những tiểu thuyết không dễ đọc.
Phạm Thị Thu Thuỷ trong luận văn “Nhỡn chung về tiểu thuyết Việt
Nam từ 1995 đến nay” đã đề cập những đổi mới về tiểu thuyết Việt Nam từ
1995 đến nay. Trong một số tiểu thuyết đáng chú ý, tác giả đã đánh giá khái
quát những băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, những thể nghiệm đổi mới thể
loại trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà.
Luận văn “Những thể nghiệm tiểu thuyết qua Cơ hội của Chúa và
Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà”, Nguyễn Thi Anh Đào, đi từ sự thay
6
đổi cách tiếp cận đời sống đến quan niệm nghệ thuật về con người. Tác giả
chỉ ra những thể nghiệm về cốt truyện và di chuyển điểm nhìn trần thuật,
cách ứng xử khác và mới trong nghệ thật xây dựng nhân vật.
Tuy nhiên, khi tiếp cận với cái mới, có rất nhiều những luồng tư
tưởng trái ngược. Nhiều nhà nghiên cứu đã hoài nghi những sáng tác của Nguyễn
Việt Hà.
Trong bài viết: “Cơ hội của Chúa: Chúa cũng không giúp được gỡ!”
Nguyễn Hòa cho rằng tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà là một người đọc nhiều,
ưa triết lý, sính ngoại ngữ và khoái trích dẫn kim – cổ, đông – tây. Và
“Người làm sao của chiêm bao làm vậy”. [43] Đối với Cơ hội của Chúa, có
tác giả nhận xét đó chỉ là “món nộm” (Lê Hoàng) và “cái giọng trí thức bụi
bình dân cao cấp nhiều lắm cũng chỉ tạo nổi thứ văn chương hạng nhì”
(Hoàng Hưng)
Trong văn chương, người đọc có quyền dân chủ với tác giả và với
những độc giả khác. Vì thế, những ý kiến trái chiều cũng là điều dễ hiểu.
Trong nhiều nghiên cứu, nhận xét, có những tác giả đã nói đến dấu ấn
của chủ nghĩa hiện sinh trong tác phẩm của Nguyễn Việt Hà. Tuy nhiên, đó
thường là những vấn đề được các nhà nghiên cứu vô tình lướt qua và đả
động đến. Họ chưa có sự nghiên cứu chủ tâm về nó.
Các tác giả đã nhìn ra cái “tạng” của Nguyễn Việt Hà trong tiểu
thuyết. Nguyễn Việt Hà viết về cuộc sống chưa hoàn kết, tiểu thuyết “là một
kiểu siêu văn bản của nhiều văn bản dở dang” (Lê Thiết Cương). Trong tác
phẩm của anh mang những cảm quan bi đát về con người, sự hoài nghi trước
những biến động làm tha hoá con người. “Trong con người có tính thiện.
Nhưng khi phải đối mặt với hiện thực nghiệt ngã của xã hội, không ít người
đánh mất mình. Nếu để ý, trong các nhân vật của tôi dự cú trượt ngã đến
thế nào, người ta sẽ thấy một chút gì đó của những day dứt, trăn trở.” [45]
Trong những lo âu, bất an về thế giới, con người và cuộc sống, anh “luôn
7
hướng tới hy vọng hoặc đi vào những nghịch cảnh của sự tha hoỏ” bởi: “Nó
là những mặt thật trái chiều của cuộc sống.” [45]
Nguyễn Văn Dân trong phần khảo luận cuốn “Văn học phi lớ”, đã nói
đến bóng dáng của Kafka và Camus trong tác phẩm của Phạm Thị Hoài và
Nguyễn Việt Hà. Cách xây dựng nhân vật Hoàng (Cơ hội của chúa): “cú cái
gì đó phảng phất không khí của kẻ xa lạ của Camus. Nhìn chung nhân vật
Hoàng cú cỏi vẻ giống các nhân vật cô đơn, không hòa nhập với cộng đồng
của văn học phi lớ.” [4-110]
Ông cũng ghi nhận: “Đõy là những nỗ lực rất đáng khích lệ. Phạm
Thị Hoài và Nguyễn Việt Hà là một trong những trường hợp thể nhiệm như
vậy. Tiếc thay, kết quả thể nghiệm của họ tỏ ra chưa đủ sức thuyết phục.”
[4, 116] Tuy nhiên “Sự cấy ghộp” cỏi chủ đề “phi lớ”, “cụ đơn” “buồn
nụn” ở cấp bản thể của phương Tây vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt
Nam đã tỏ ra khập khiễng không đủ sức thuyết phục và do đó kém hiệu quả thẩm
mỹ” [4, 116]
Tác giả đã gợi mở đến vấn đề cảm quan hiện sinh trong sáng tác của
Nguyễn Việt Hà. Tuy nhiên, đây mới là những cảm nhận ban đầu. Thực chất,
chưa có một công trình nghiên cứu nào hướng trọng tâm về vấn đề này.
2.3. Những nghiên cứu gợi mở về cảm quan hiện sinh trong tiểu
thuyết Đoàn Minh Phượng
Đoàn Minh Phượng là cái tên khá mới trong văn học Việt Nam. Với
giải thưởng hội nhà văn Việt Nam cho tiểu thuyết đầu tay: Và khi tro bụi,
chị nhận được nhiều lời khen ngợi cho tác phẩm này. Mưa ở kiếp sau mới
xuất bản, tiếp tục dòng mạch tiểu thuyết của chị. Tiểu thuyết về những cảm
nghiệm u buồn của con người.
Tác giả Ngô Đồng viết: “Toàn bộ câu chuyện luôn ẩn hiện trong một
màn sương mờ ảo, hoang mang, đôi lúc khó nắm bắt. Một thân phận tha
hương, phải chịu đựng những xung đột về xã hội, văn hóa, phân vân giữa
quá khứ và hiện tại, hiện tại và tương lai. Để cuối cùng, người đàn bà –
8
nhân vật chính nhận ra, chị cũng chỉ là một trong số những người chị từng
gặp và tiếp tục đi tỡm.” [38]
Tác giả Trương Hồng Quang đã dành nhiều lời ngợi khen cho tác
phẩm: “Và khi tro bụi vừa mang đầy chất thơ, chất ma lỵ, dường như gần
gũi với phong cách của một Theodor Storm, cây bút văn xuôi hàng đầu của
Đức vào cuối thế kỷ 19, hơn là với truyền thống của văn học Việt Nam, vừa
mang tầm triết luận Đông – Tây như ở Siddhartha của Hermann Hesse,
mặc dù thực chất đây là một cuốn Phản-Hesse, đồng thời lại là một cuốn
truyện trinh thám với một cốt truyện và bố cục tinh vi.” [55]
Đoàn Minh Phượng cũng thường nhắc đến những trăn trở, lo âu được
gửi gắm trong trang viết của mình. Trong bài: “Cỏch kể chuyện của tôi rất
xưa” Đoàn Minh Phượng đã nói: “Nhõn vật tôi - người phụ nữ trong truyện
từ nỗi hoang mang khi người chồng tử nạn trong một tai nạn xe cộ đã hết
sức đau khổ và cảm thấy cuộc sống trống vắng, vô vị. Người phụ nữ nghĩ
đến cái chết và chọn lựa cuộc hành trình đi tìm cái chết trên những chuyến
tàu bình thường nhưng tưởng như vô định. Tâm trạng nhân vật mơ hồ,
hoang mang và luôn tự vấn “mỡnh là ai”. [78]
Tác giả nói nhiều đến nỗi u buồn, ám ảnh từ cuộc sống đi vào trong
câu chuyện của mỗi nhân vật. “Cú lẽ đến gần 20 năm sau, tôi mới thấy rõ
ràng mình là một người lưu lạc. Sự lưu lạc đó bắt đầu vào năm nào? Ngày
trước tôi sống ở thành phố, tôi không hiểu chiến tranh, tụi tỡm mọi cách
không nhìn thấy nú, tỡm mọi cách đặt mình bên ngoài câu chuyện chung
của đất nước mình. Sự lưu lạc bên trong đã bắt đầu trước khi tôi rời Việt
Nam và theo tôi hết phần lớn cuộc đời.” [48]
Thực ra, cảm quan hiện sinh trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và
Đoàn Minh Phượng đã được gợi mở trong hướng nghiên cứu về chủ nghĩa
hiện sinh, trong nhiều nghiên cứu về đổi mới tiểu thuyết, về cảm thức hậu
hiện đại…
9
Nhiều nghiên cứu đã đề cập đến những bất an, lo âu cùng với những thể
nghiệm mới trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng. Tuy
nhiên, chưa có một nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề cảm quan hiện sinh
trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng. Đây vẫn là một
mảnh đất trống để chúng ta có thể đi sâu khai thác.
3. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu Cảm quan hiện sinh trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và Đoàn
Minh Phượng chúng tôi muốn khám phá những dấu ấn của chủ nghĩa hiện
sinh qua tiểu thuyết của hai tác giả này.
Mặt khác, thấy được cảm quan riêng của mỗi nhà văn về thế giới và con
người để chỉ ra cái mới trong những tiểu thuyết này. Từ đó, chúng tôi muốn
góp một hướng nghiên cứu mới về những tiểu thuyết khỏ “trỳc trắc” hiện
nay.
4. Cấu trúc luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Giới thuyết về cảm quan hiện sinh và tiểu thuyết Nguyễn Việt
Hà, Đoàn Minh Phượng.
Chương 2: Cảm quan hiện sinh với thực tại và con người trong tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng
Chương 3: Cảm quan hiện sinh và nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Việt
Hà, Đoàn Minh Phượng.
Chương 1, chúng tôi giới thuyết sơ lược về những vấn đề lí thuyết. Trong
khuôn khổ của luận văn, vấn đề chủ nghĩa hiện sinh, ảnh hưởng của chủ
nghĩa hiện sinh tới văn học và vấn đề cảm quan hiện sinh trong tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng được trình bày ngắn gọn và giản
lược.
Chương 2, chúng tôi đi sâu vào vấn đề cụ thể: cảm quan hiện sinh với
thực tại và con người trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Đoàn Minh
10
Phượng. Trong đó gồm cảm quan về thế giới và cảm quan về con người.
Chúng tôi nghiên cứu khá kĩ những vấn đề này vì, thực chất, vấn đề trung
tâm của chủ nghĩa hiện sinh là vấn đề “con người như một nhân vị độc đáo”.
Thực chất, cảm quan hiện sinh có ảnh hưởng đến mọi mặt nghệ thuật của
tiểu thuyết. Chương 3, chúng tôi tập trung vào kiểu tư duy hiện sinh, cách
cấu trúc và xây dựng nhân vật, theo chúng tôi là mang màu sắc hiện sinh rõ
nét nhất.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp miêu tả, thống kê, phân loại.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh
- Phương pháp phân tích- tổng hợp.
11
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THUYẾT VỀ CẢM QUAN HIỆN SINH VÀ TIỂU THUYẾT
NGUYỄN VIỆT HÀ, ĐOÀN MINH PHƯỢNG
1.1. Giới thuyết sơ lược về chủ nghĩa hiện sinh
Cảm quan hiện sinh không còn là một vấn đề mới mẻ. Nhưng còn nhiều
quan điểm chưa thống nhất về vấn đề này. Thực chất, muốn tìm hiểu về cảm
quan hiện sinh phải bắt nguồn từ gốc của nó, chính là chủ nghĩa hiện sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh là sản phẩm của sự khủng hoảng của xã hội và khoa
học kĩ thuật. Nguồn gốc của nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp từ các cuộc
chiến tranh thế giới tàn khốc mà còn là sự bại hoại tinh thần do chủ nghĩa duy
lý gây nên trong xã hội phương Tây thời công nghiệp và hậu công nghiệp.
Ngay từ khi ra đời, chủ nghĩa hiện sinh đó cú một sức ảnh hưởng rất
mạnh mẽ và nhanh chóng tỏa rộng hấp lực của nó trên phạm vi toàn thế giới.
Tư tưởng hiện sinh đã được manh nha từ rất sớm: triết học của
Socrate; Thánh kinh, những nhân vật trong cựu ước và tân ước, thánh
Augustin, Pascal qua tác phẩm “Tư tưởng”. Đồng thời, nó thường xuyên
được phủ định, bổ xung bởi những triết gia cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX:
S. Kiekergaard, F. Neitzche, M. Heidergeer, J. P. Sartre…. và vẫn được tái
sinh trong hoàn cảnh hậu hiện đại.
Cho dù chủ nghĩa hiện sinh thường thấm đẫm tư tưởng bi quan, thất
bại nó vẫn mặc nhiên được coi như một đại diện cho tư tưởng nhân bản
trong triết học phương Tây hiện đại. Bởi, theo Bách khoa toàn thư Đất Việt:
Chủ nghĩa hiện sinh là một học thuyết mà đối tượng là sự tồn tại của con
người xét trong hiện thực cụ thể của nó. Cho rằng đầu tiên con người chỉ là
hư vô, và chỉ việc con người tồn tại thôi đã là “phi lớ” rồi, chủ nghĩa hiện
sinh kêu gọi con người sống là phải đem lại cho đời mình một ý nghĩa. [86]
12
Trong Những chủ đề triết hiện sinh, một cuốn sách khái quát các nội
dung quan trọng và lộ trình của chủ nghĩa hiện sinh, tác giả E. Mounier cho
rằng: “Nói một cách khái quát thì trào lưu tư tưởng mới này (triết học hiện
sinh) là một phản ứng của con người, chống lại sự thái quá của triết thuyết
duy tâm và triết lí về vạn vật. Trào lưu đú khụng lấy cuộc sống nói chung,
nhưng lấy cuộc sống của con người nói riêng là vấn để đầu tiên của triết
học.” [9, 8]
Trần Thái Đỉnh, một trong những nhà nghiên cứu triết học tên tuổi ở
miền Nam giai đoạn 1954-1975 cũng đưa ra quan niệm tương tự: “Chủ
nghĩa hiện sinh là sự phản ứng, đối lập lại chủ nghĩa duy lý thống trị trong
xã hội Tây phương hiện đại”. [8, 3] Tác giả nhấn mạnh triết học hiện sinh là
triết học về con người, không phải là con người phổ quát, con người viết hoa
của Aristote, mà là con người có xương có thịt đang sinh hoạt hàng ngày
trong xã hội.
Trong khi những triết gia trước đó, khi hướng đến những vấn đề cao
siêu, đó “lóng quờn con người”, thì chủ nghĩa hiện sinh coi con người là đối
tượng nghiên cứu. Nó hướng đến con người như một nhân vị tự do, độc đáo.
“Nú không lấy “con người” như một bản thể phổ quát làm đối tượng nghiên
cứu, mà chỉ quan tâm tới “con người” tồn tại như một “nhõn vị”. Nhân vị
của con người với tư cách sự hiện sinh (existence) mang một bộ mặt riêng
biệt, đặc thù, xa lạ với mọi tính cách phổ quát. Hiện sinh là một tư chất, một
đặc ân dành riêng cho con người - “Hữu thể - người”, bởi chỉ có con người
mới có khả năng tự do lựa chọn cách thức, thái độ sống và có ý thức để thành
hiện sinh.” [68]
Với những suy tư sâu sắc hơn về con người, chủ nghĩa hiện sinh đã
đem đến cho triết học một cuộc cách mạng sâu sắc và mạnh mẽ hơn bao giờ
hết, nú đó bước khỏi những phạm trù lí thuyết đơn thuần để trở thành một
trào lưu trong cuộc sống và ảnh hưởng tới văn học.
13
Chủ nghĩa hiện sinh đã đem đến cho con người một luồng tư tưởng mới,
khơi dậy ở họ sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Đồng thời với việc khẳng định
nhân vị độc đáo, các nhà hiện sinh đã trao quyền tự sáng tạo mình cho con
người. Con người hiện sinh phải không ngừng vươn tới cái “sẽ là” của mình.
Vì thế, con người hiện sinh không chỉ là một nhân vị tự do, độc đáo mà
còn là con người cô đơn, mang nỗi ưu tư, lo âu trước những giới hạn. Con
người hiện sinh luôn đối diện với sự tha hoá: “Nó hành động như một cái
máy không hồn, nó đánh mất nhân vị của mình, “ăn theo tư tưởng của người
khác, của một tập đoàn nào đấy không sao dứt ra được. Tha hoá bám vào
con người như một tội tổ tông. (…) Với sự kinh hãi và khắc khoải của nó, con
người có thể có được sự nhận thức sâu xa và chắc chắn về thực tại – cái mà
các triết gia truyền thống gọi là “hữu thể” – hơn bất kỳ phân tích lý lẽ trừu
tượng, riêng lẻ nào có thể mang lại. Chân lý chỉ có thể chiếm hữu được bởi
nhà tư tưởng hiện sinh trong hoàn cảnh cá nhân của hắn, chứ không bởi tư
duy khách quan tách rời với cuộc hiện sinh của nhà tư tưởng.” [5, 108].
Chủ nghĩa hiện sinh mang cảm quan bi đát về đời sống. “Nỗi sợ, sự
buồn chán, sự lạc lõng trong xã hội (Social alienation), sự phi lý, tự do, cam
kết (commitment), và hư vô“ như là nền tảng của sự hiện sinh con người.”
[86] Thế giới bí ẩn của tâm hồn, những lặp lại vụ lớ và vô nghĩa, những tác
động khốc liệt từ bên ngoài của thế giới đầy cạm bẫy mà con người không
tránh thoát được trở thành nỗi quan hoài mãnh liệt.
Chủ nghĩa hiện sinh đóng một vai trò rất mực quan trọng đối với đối
với triết học, thần học, và ngày càng quan trọng hơn đối với các lãnh vực
khoa học xã hội, trong đó có văn chương và nghệ thuật.
1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại
Chủ nghĩa hiện sinh đã có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của mỗi
con người. Ở phương Tây, nú đó tạo nên một trào lưu hiện sinh trong đời
14
sống, thu hút đông đảo tầng lớp thanh niên vào sống lối sống tự do, phóng
khoáng. “Người ta mô tả sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh ở Pháp như sau:
“ấy là một buổi sáng mùa đông (1946), vừa thức giấc, cả thành phố Paris
thấy mình “hiện sinh”, sách báo đầy hiện sinh quyến rũ tràn khắp phố
phường, những “đỏm thanh niên nam nữ vui vẻ” kéo đến những căn nhà
hầm ở Saint-Germain, ầm vang điệu nhạc Jazz trong những trang phục mới
lạ với mái tóc xõa, quần túm ống và ăn nói chào mời phóng túng. Người ta
bảo đó là một lối sống mới, là một phong trào mốt đã trở thành như một
huyền thoại. Trong bốn năm từ 1945, Paris trở thành thủ đô văn hóa của thế
giới nhờ sức hút của lối sống hiện sinh và danh tiếng của J.P.Sartre, người
được mệnh danh là “giỏo hoàng” của chủ nghĩa hiện sinh lan rộng, đến nỗi
một khẩu hiệu theo kiểu chủ nghĩa đađa được nêu lên rằng “mỗi người hiện
sinh là một người có Sartre ở răng”. [8]
Chủ nghĩa hiện sinh đã đến trong cái bối cảnh bi đát của xã hội miền
Nam những năm 1954-1975, khi con người khao khát tự do và quyền sống
mong muốn suy tư về chính tự do và thân phận làm người.
Nó có ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống và nghệ thuật: sân khấu, điện
ảnh, cải lương, đặc biệt là văn học. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra yếu tố
hiện sinh trong những tác phẩm văn học cổ như Cung oỏn ngõm, Truyện
Kiều….Tụn giỏo trong đó có thiên chúa giáo và phật giáo cũng nhanh chóng
tìm được tiếng nói chung với chủ nghĩa hiện sinh.
“Đú là lỳc cỏc tác phẩm của Sartre được NXB Khai Trí dịch và in lần
đầu năm 1970. Sau giải phóng, những năm 80-90, trào lưu hiện sinh cũng
lan rộng. Thời đó, một người được gọi là trí thức phải có một bản dịch cuốn
“Buồn nôn” của Sartre gối đầu giường, và phải là bản photo từ cuốn của
Thư viện quốc gia.” [88]
Những nhà tư tưởng ở chế độ Sài Gòn quan tâm đến cái nhìn đối với
đời sống. Đời sống được miêu tả như một thảm kịch, một hư vô, như những
15
hố thẳm và con người bị treo chơi vơi hoàn toàn bất lực. Con người hư vô
hoá cuộc sống, hư vô hoá cả lịch sử, không nhận thức được sự vận động của
lịch sử.
Đây là gian đoạn đen tối của lịch sử, con người sống trong sự khét lẹt
của khúi sỳng, trong sự tuyệt vọng và ám ảnh của cái chết. Trong những tác
phẩm văn học của Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Thị
Hoàng… cái chết, sự hư vô, hiện diện thường trực.
Chủ nghĩa hiện sinh ở Sài Gũn cũn chịu ảnh hưởng từ phong trào
phản văn hoá Mĩ. Nó tác động mạnh mẽ đến tư tưởng nổi loạn của con
người. Tuy nhiên, nú đó biến đổi khỏi tư tưởng nổi loạn của triết học hiện
sinh. Không phải theo mệnh đề - tôi nổi loạn vậy tôi hiện hữu, mà là sự nổi
loạn chủ yếu hướng tới thoả mãn cá nhân, con người trốn tránh hiện thực
khốc liệt của cuộc chiến.
Theo PGS. TS Huỳnh Như Phương, “Sau chiến tranh, hoàn cảnh xã
hội đã thay đổi, chủ nghĩa hiện sinh không còn chỗ đứng trong sinh hoạt trí
thức.” Nhưng, chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành một phần trong đời sống tâm
hồn người Việt Nam, nó hướng con người đến cuộc sống tự do, khẳng định
nhân vị độc đáo của mình. Mặt khác, chủ nghĩa hiện sinh đã trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động vào quá trình “nhà văn nắm bắt hiện trạng phi lý của thế
giới duy lý hoá hiện đại, thấy được thân phận nhỏ bé của của con người
trước nền văn minh kĩ thuật của thế giới hiện đại” [5]
Trên thực tế, các nhà văn Việt Nam không đồng thời là những tư
tưởng gia của triết hiện sinh kiểu J. P. Sartre hay A. Camus, họ cũng không
là những kẻ phục chế những ý tưởng kinh điển của chủ nghĩa hiện sinh.
Nhưng trong tác phẩm của họ, ở mức độ này hay mức độ khác, bộc lộ một
tri giác về thực tại và con người mang màu sắc của triết học hiện sinh mà
chúng tôi tạm gọi là cảm quan hiện sinh. Biểu hiện của cảm quan hiện sinh ở
mỗi nhà văn và mỗi thế hệ rất khác nhau nhưng theo chúng tôi, đây là một
16
yếu tố khá quan trọng chi phối sâu sắc nội dung và hình thức của văn bản
nghệ thuật.
Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh văn học “khụng chỉ phản ánh
hiện thực” mà “suy ngẫm về hiện thực,” “ỏp sỏt hiện thực”. Nó đi vào thân
phận cá nhân với tư cách là nhân vị, sản phẩm của sự không nhất thiết, của
ngẫu nhiên, cho nên nó từ chối đi vào điển hình, dù là tính cách hay hoàn
cảnh điển hình mà chỉ bằng lòng dừng lại ở cái “bản chất cụ thể”. [5, 163]
Khi giấc mơ đại tự sự tan vỡ, khát vọng khái quát thế giới đối với nhà
văn trở nên xa vời. Thế giới không còn chuẩn giá trị chung, trở nên bí ẩn, xa
lạ, phi lí.
Trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, cảm quan hiện sinh thể hiện qua
cách nhìn thấm đẫm tinh thần bi quan, hoài nghi về sự hiện sinh của mỗi
kiếp người.
Chiến tranh qua đi, cuộc sống đổi thay, quan niệm thẩm mĩ của văn học
cũng khác. “Không thể phủ nhận một thực tế là cơ chế kinh tế thị trường đã
làm cho cuộc sống khởi sắc hơn, nhưng mặt khác, con người dường như sống
với nhau lạnh lùng hơn, mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội lỏng lẻo
hơn. Bối cảnh lịch sử và văn hóa mới, cả mặt phải và mặt trái của nó khiến
các nhà thơ không thể nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích
ứng với những thay đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống.” (Trần Dần)
Nguyễn Minh Châu với vai trò người mở đường tinh anh và tài hoa,
đã hướng đến số phận của mỗi con người cụ thể. Những nhọc nhằn của họ
trong cuộc sống thời hậu chiến, những mất mát khi cuộc chiến tranh qua đi.
Thực chất, trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã xuất hiện
những dự cảm phi lí về số phận con người.
Phác trong Mùa trái cóc ở miền nam không chết vì bom đạn, người
anh hùng ấy đã chết vì chính sự ghen ghét đố kị của những người ngày hôm
qua còn là đồng đội của mình. Chiến tranh qua đi, người anh hùng trở lại với
17
cuộc sống đời thường với những lỡ dở: Vợ mình thành vợ người, những
đồng đội hi sinh trong sự lãng quên của người đời: “Với bao nhiêu hối hả
trong cuộc sống thời bình, mỗi con người chúng ta có lẽ đôi khi cũng là một
cánh rừng cỏ lau giàu sức sống, rất chóng quên lãng những người lính đó
ngó xuống.” (Cỏ lau) Những thiên truyện này đã mở đường cho tiểu thuyết
việt Nam bước vào thời kì đổi mới.
Tiểu thuyết Phạm Thị Hoài, mang cảm nghiệm bi đát về thế giới xa
lạ, bí ẩn, thế giới chưa hoàn kết, đầy biến động. Trong Thiên sứ, thế giới
được nhìn dưới con mắt trẻ thơ. Nhưng thế giới ấy không thanh bình, thế
giới bị giới hạn: “Nhà độc 1 phòng, 16 mét vuông gạch men nõu; phũng độc
1 cửa sổ, lỗ thủng hình chữ nhật lúc thì màu xanh, lúc thì vàng óng, lắm khi
xám xịt, đóng khung lên thế giới men nâu của tôi. 400 ô vuông nâu và 1
khuôn chữ nhật biến ảo, xoay như xoay rubic.”(Thiờn sứ, 1) Thế giới phi lí
khi khước từ cái đẹp. Những thế giới tách rời, vô nghĩa. “Uy tín, danh dự,
thảy đều trừu tượng, thảy đều không hứa hẹn gì.”
Phạm Thị Hoài quan niệm kiếp người là một bất đắc dĩ, là một thảm
kịch, là thất bại vì vậy nó mang nặng chủ nghĩa bi quan xa lạ. Con người
được bé Hoài phân loại: homo – a và homo –z. Con người sống trong những
mối quan hệ lạ lùng, bị ràng buộc bởi những điều phi lí.
Con người vong thân, tha hóa thành những mô hình. Mô hình 1 -
Quang lùn, mô hình 2 - anh Hùng, mô hình 3 - người đàn bà công dân.
Quang lùn là mô hình của những con số. Một bộ máy hoạt động chuẩn xác
và khoa học: “Khụng giờ kém 1 phút ngày 29 tháng 3 năm 1979, anh ta
xuất hiện dưới cửa sổ tôi, 1m 26 phân chiều dài”. Sự xuất hiện của anh ta
gắn liền với những con số: “3 năm, hai, rồi lại 3 năm, xuất hiện theo chu
trình tiền định,” Anh ta trở thành con người tha hóa và vô nghĩa.
Anh Hùng là “kĩ sư máy tính điện tử vừa tốt nghiệp bằng đỏ
Lomonosov, niềm tự hào của bố mẹ và họ hàng thân thích”. Anh từng say
18
đắm bờn cụ vũ nữ, vật cược thân của một ván bài. Nhưng ba năm sau anh
lấy vợ, thông minh, biết điều lí lịch cơ bản… “Nhưng anh tôi không sao gạt
khỏi kí ức mối tình điên cuồng và thảm họa kéo dài đúng 3 tuần lễ với cô
gái lai mà giờ đây anh nguyền rủa đủ đường, anh Hùng tội nghiệp.” Anh ta
tội nghiệp chính bởi sự vong thân của mình.
Chị Hằng cũng là mẫu người tha hóa. Chị Hằng xa lạ với chính bản
thân mình: “Quan hệ giữa chị và cỏi “mỡnh” ấy từ lâu khủng hoảng
nghiêm trọng, chẳng hy vọng khỏ lờn.”
Những mô hình con người trong Thiên sứ, đều được xây dựng với
cảm quan bi đát về sự tha hóa. Con người tồn tại như những sinh vật, không
có ý thức về hiện sinh. Họ sống trong những vòng luẩn quẩn do chính mình
tạo ra. Con người trở nên vô nghĩa trong cuộc sống tẻ nhạt, bị lặp lại.
Bản chất vô nghĩa của cuộc sống phủ thảm này được hiện lên rõ nét
qua cái nhìn minh triết của bé Hoài, con người ngoài cuộc, mang khát vọng
hiện sinh mãnh liệt. Bé Hoài mang khát vọng được sống là mình: “Tụi từ
chối không đứng vào bất kì thế hệ nào. Tôi từ chối bất kì bộ đồng phục quá
chật hoặc quá rộng nào. Hãy để tôi trần truồng với cơ thể còm nhom sớm
đình tăng trưởng của tụi.”
Theo cách nói của Phạm Thị Hoài, cuộc đời như một “định mệnh,
nghiệp chướng”, con người là những kẻ thất phu, “kẻ lữ hành” hay là “con
người vong thân khốn khổ”.
Nguyễn Huy Thiệp, cây bút truyện ngắn xuất sắc đó gúp thờm trong
văn học một màu sắc mới về cảm quan hiện sinh.
Thế giới trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp bị tha hóa bởi con người.
Cuộc sống con người là những cuộc kiếm tìm hoang hoải bản tính thiện đã
mất. Phương trong “Con gái thủy thần” dặc dài trong những chuyến đi. Anh
đi với một khát vọng vừa mơ hồ vừa mãnh liệt. Đó dường như là nơi neo
đậu và an ủi của con người sống trong rất nhiều hoài nghi và chán nản.
19
Nhưng rốt cuộc, tất cả sự thật đều bị đánh tráo. Kết thúc câu chuyện vẫn là
sự kiếm tìm vô vọng.
Nguyễn Huy Thiệp chuyển trọng tâm của tiểu thuyết và truyện ngắn
về những câu chuyện đời thường. Khước từ cảm quan sử thi, viết về cộng
đồng với sự hào hùng, lạc quan Nguyễn Huy Thiệp đưa văn học về với
những lấm láp đôi khi đen tối của cuộc sống thấm đẫm bi quan.
Cảm quan hiện sinh tiếp tục in dấu trong những sáng tác của những
nhà văn trẻ như Thuận, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Bình Phương, đặc biệt đậm
nét trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng…
Chúng ta bắt gặp sự ê chề trong thân phận con người qua tác phẩm
của Thuận. Những con người nhỏ bé, mất tích trong thế giới hối hả của cuộc
sống. Rồi họ mất tích trong sự dửng dưng lạnh lùng của người thân. Họ là
những người bị lãng quên, những kẻ ngoại lề của cuộc sống.
Trong tác phẩm của Nguyễn Bình Phương có sự hoài nghi về thế giới
đầy dẫy chanh chấp Thiện – Ác. Con người với ám ảnh về “trớ nhớ suy tàn”
– sự suy tàn của lớ trớ, của những mối quan hệ và chính cuộc sống tẻ nhạt
hàng ngày. Con người luôn ấp ủ một chuyến đi, là con người ưu tư của hiện
sinh, không cam chịu cuộc sống như cỏ cây, khao khát tìm lại nhân vị tự do
của mình. Cảm quan hiện sinh như một ám ảnh u buồn day dứt. “Phải nói
thật nhanh vì trí nhớ đang suy tàn ghê ghớm, đang héo đi, đổ gục xuống và
tan ra “hoa ấy không quyến rũ, nó chỉ thực sự đẹp khi rụng xuống trong
những làn mưa nhè nhẹ lất phất đủ làm hè phố thẫm lại. Mà hè phố phải thật
rộng, thật vắng vẻ, tóm lại là một ảo ảnh hoang vu và cần phải…” Ý nghĩ bị
bỏ lửng không kịp truyền sang người đàn bà áo vàng vì thời gian đã cạn, trí
nhớ đã suy tàn.” [17, 127]
Cảm quan hiện sinh – cảm quan về thế giới phi lí, xa lạ, về cuộc sống
ê chề bi đát của kiếp người luôn là một ám ảnh đối với mỗi nhà văn. Nó chi
phối từ nội dung đến nghệ thuật của tác phẩm.
20
Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng có lẽ gặp nhau
trong cảm quan u buồn về kiếp nhân sinh. Cả hai cây bút trẻ này đã thể hiện
những cảm nghiệm già dặn trong trang viết. Chúng tôi cố gắng kiếm tìm những
nét tương đồng ấy để gúp thờm một cách hiểu về những tác phẩm mà nhiều
người vẫn cho rằng chúng thiếu đi tính nhân văn, hoặc quá lai căng.
1.3. Vấn đề cảm quan hiện sinh trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
và Đoàn Minh Phượng
1.3.1. Bối cảnh hiện sinh - nền văn hoá hậu chiến Việt Nam.
Bối cảnh hiện sinh là những cơ sở văn hoá, xã hội dẫn tới sự hình thành
và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh. Ở đây, chúng tôi không nói tới hoàn cảnh
nước Pháp, hay phương Tây trong thời kì chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện. Đó là
những hoàn cảnh tương đồng dẫn tới sự tái sinh của chủ nghĩa hiện sinh ở Việt
Nam, mang những dấu ấn riêng của dân tộc và thời đại.
Toàn cầu hóa trở thành một xu hướng tất yếu, nó cuốn theo mọi cá
nhân cùng với những băn khoăn, trăn trở. Những biến đổi khốc liệt của kinh
tế xã hội Việt Nam đã tác động không nhỏ tới mỗi cá nhân. Đây là sự tái
hiện lại bước đi của lịch sử trong thời kì chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở
phương Tây và miền Nam, Việt Nam những thập kỉ 60-70. Những kí ức
chiến tranh phai mờ dần, nó để lại những ám ảnh u buồn, thảm khốc truyền
kiếp từ thế hệ trước. Nền kinh tế thị trường thời kì đổi mới, những tác động
từ toàn cầu hóa đã làm biến đổi những căn rễ trong tâm hồn Việt Nam. Đồng
tiền, quyền lực, sự rạn nứt trong những mối quan hệ xã hội, con người tha
hóa, xa lạ với mình và thế giới. Khi đó, diễn ra sự đảo hoán của những giá
trị, con người hoài nghi, băn khoăn, bất an trước cuộc sống.
Chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở những
tương đồng về lịch sử. Nó không phải là sự phục chế những kinh điển mà là
sự cảm nghiệm, mang nột riờng của mỗi người và dấu ấn thời đại.
21
Những biến động khốc liệt của nền văn hoá hậu chiến đã tác động
không nhỏ tới mỗi nhà văn. Cách cảm nhận về thực tại và con người trong
một số tác phẩm văn học ít nhiều mang màu sắc hiện sinh. Đó là hướng thể
nghiệm mới trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng.
1.3.2. Vấn đề cảm quan hiện sinh
Cảm quan không đơn thuần là giác quan hay cách nhìn, cách cảm
nhận mang tính trực giác. Đó là những dấu ấn, quan niệm, cảm thức hình
thành trong tâm hồn con người nó bao hàm cả trực giác, vô thức và ý thức.
Cảm quan là một kiểu cảm nhận đời sống đặc thù thể hiện trạng thái tinh
thần của con người được lưu giữ, chuyển đổi trong trong vô thức và ý thức.
Hiện sinh, theo Trần Thái Đỉnh: “là ý nghĩa của đời sống; người ta
chỉ vươn lên hiện sinh khi nào người ta đã ý thức được rằng mình sống để
làm gì: sống để thể hiện cái định mệnh cao quý và độc đáo của mỡnh,
khụng sống để mà sống: đó là hiện sinh.”
Nhưng con người hiện sinh, trong thực tế lại vấp phải những giới hạn
không thể vượt qua: giới hạn của nhận thức, giới hạn cuộc sống “Cái chết
không phải là một vấn đề triết lí nhưng chính là việc “tụi chết” mới là vấn
đề triết lớ.” [9, 13] Thực chất, con người khó vươn tới hiện sinh. Khi mang
ý thức phản tỉnh con người luôn trăn trở vươn lên cuộc sống sinh tồn, lặp lại
đáng buồn nôn. Khi đó, con người mang những cảm nghiệm đầy bi đát về
định mệnh của mình.
Vì thế, hiện sinh là ý thức vươn lên cuộc sống “cao quý và độc đỏo”
của con người, nhưng là sự vươn lên đầy nhọc nhằn, thấm đượm cảm quan
bi thiết về cuộc sống, với những định mệnh khắc nghiệt con người không
thể vượt qua.
Cảm quan hiện sinh là cách nhìn, cách cảm nhận thế giới và cuộc
sống mang màu sắc hiện sinh của con người. Thực chất, cảm quan về thế
giới được soi chiếu từ chính cảm quan về con người. Thế giới như một mê
22
cung, một cạm bẫy mà con người dấn thân. Con người không hiểu được
mình, và ngơ ngác trước thế giới. Vì thế cảm quan hiện sinh thấm đẫm sự
hoài nghi. “Bất kì khuynh hướng nào trong triết học hiện sinh là triết học về
con người trước khi là triết học về vũ trụ. Theo thiên chúa hay không, triết
hiện sinh đều mang nặng tính chất bi đát của kinh nghiệm con người về định
mệnh của mỡnh” [8, 23]
Cảm quan hiện sinh xuất hiện trong thời kì “nền khoa học đã quy cả
thế giới lại chỉ còn đơn giản là một đối tượng khảo sát kĩ thuật và toán học
đã loại bỏ khỏi chân trời của nó cái thế giới cụ thể của sự sống”. [20, 10]
Sự phát triển của khoa học đã đẩy con người vào những đường hầm của
những bộ môn riêng biệt. Càng đi tới trong sự hiểu biết của mình, con người
bị mất đi cái nhìn tổng thể về thế giới và chính bản thân mình. Heidegger đã
gọi đó là sự “quờn mất con người”.
Thế giới thiếu mất vị phán xét tối cao “Chỳa đã chết”. Khi đú, nú
hiện ra trong một tình trạng nhập nhằng đáng sợ. “Chõn lý thần thánh duy
nhất bị tan ró” thành hàng trăm chân lý tương đối mà con người tự cảm
nghiệm lấy. Sự khủng hoảng bao trùm lấy con người. Ám ảnh về ngày tận
thế trở nên rõ ràng. Con người bị cuốn đi, bị xâm chiếm trong một ma lực kì
lạ siêu nhiên. “Người ta sinh ra mà có đòi được sinh ra đâu, bị nhốt trong
cái cơ thể mình không hề lựa chọn và cuối cùng để mà chết” [1, 33] Những
cuộc chiến tranh thế giới, diễn đạt cho sự kinh hoàng khi không cú gỡ xảy ra
trên thế giới mang tính địa phương, tất cả mọi tai họa đều liên quan đến mọi
người và con người ngày càng bị quyết định bởi ngoại cảnh, bởi những tình
thế không ai tránh thoát được.
Con người nhận ra bản chất bất toàn nhỏ bé của mình. Những hậu quả
nặng nề đối với thiên nhiên môi trường tác động trở lại con người. Không
còn sự hoang mang với khát vọng khám phá thế giới, con người hoang mang
khi tìm hiểu chính bản thân mình. Cái chết, ám ảm tha hương lưu lạc, ám
ảnh hiện sinh không rời khỏi con người – đó là cảm quan hiện sinh.
23
Thực ra, cảm quan hiện sinh và hậu hiện đại khó phân biệt rõ ràng.
Cảm quan hậu hiện đại: “đó là một kiểu cảm nhận đời sống đặc thù thể hiện
trạng thái tinh thần của thời đại: nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời
sống, tính áp đặt của cái chính thống, của các phát ngôn lớn, sự đảo lộn
trong các thang bảng giá trị đời sống, sự mất niềm tin, bơ vơ, lạc loài, vong
thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và tình trạng bất an của con người Đấy là
tinh thần chung nhất.” [47] Tinh thần hậu hiện đại, theo Inrasara “không có
cái gì là trung tâm cả!”
Cảm quan hiện sinh hướng về con người cụ thể, trong những hoàn
cảnh cụ thể. Nó mang màu sắc bi đát của con người khi cảm nghiệm cuộc
sống. Con người vốn khao khát là một nhân vị độc đáo, nhưng đồng thời họ
phải chấp nhận những giới hạn nhận thức, sự giòn ải của cuộc sống.
Cảm quan hiện sinh thể hiện qua cảm quan về thế giới phi lí, xa lạ và
phân rã; cảm quan về con người ngoại cuộc, con người dần trở thành người
thừa trong xã hội trong một quá trình tha nhõn hoỏ đầy nghiệt ngã, mang ám
ảnh vô minh, hoài nghi, với khát vọng khải huyền bất thành.
Cảm quan hiện sinh có thể được tác giả chủ động tiếp nhận và đưa
vào tác phẩm, cũng có thể là sự thẩm thấu của vô thức.
Trong văn học Việt Nam, cảm quan hiện sinh đã xuất hiện trong
nhiều tác phẩm, trong đó phải kể đến những tên tuổi: Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Thuận….
Trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng cảm quan
hiện sinh trở thành một đóng góp độc đáo.
1.3.3. Vài nét về tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và Đoàn Minh Phượng.
Bối cảnh hiện sinh với nền tảng văn hoá, xã hội, những dấu ấn thời
hậu chiến đã tạo nên cảm quan hiện sinh trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
và Đoàn Minh Phượng
Nguyễn Việt Hà viết không nhiều, không nhanh, viết cho mình trước,
viết những gì gần gũi với mình. Nhưng một độc giả đã kinh ngạc thốt lên:
truyện của Nguyễn Việt Hà thật đến phát sợ.
24
Từ tiểu thuyết: Cơ hội của Chúa (1999) đến Khải huyền muộn (2005),
tập truyện ngắn Của rơi, Nhà văn thì chơi với ai, tản văn Mặt của đàn ông,
đã thể hiện được nột duyờn riờng, một thương hiệu mang tiên Nguyễn Việt
Hà trên văn đàn.
Qua những trang văn có thể hình dung Nguyễn Việt Hà như một
công chức nhợt nhạt nơi công sở, khép nép đi vào phòng sếp, năm nào cũng
nghỉ phép quá hạn, nhưng chất chứa nhiều day dứt và dằn vặt. Con người
này tìm đến rượu để quờn, tỡm đến văn chương để tự thanh lọc chính mình.
Văn chương làm anh sống tốt hơn, anh đã từng tâm sự: “Viết văn là
một dạng tu thân. Tôi tin viết văn làm mình sống trong sáng hơn, tử tế hơn.
Biết đâu, nếu không viết văn, tôi sẽ là một thằng nghiện hỳt!”. Những trang
viết của anh luôn hướng tới sự trong trẻo. Đôi khi nó kết thúc ở chỗ “người
viết không thể và không muốn viết cố nữa.”
Trong Khải huyền muộn, nhà văn từng viết những lời kết: “văn
chương là một công việc linh tinh và lan man, nú luụn lẩn khuất lẫn lộn vào
cuộc sống thật.” “Khi viết tôi không biết cố, vì đơn giản văn chương cũng
chả cần gỡ.” Đối với Nguyễn Việt Hà văn chương là thứ vừa thiêng liêng
vừa là một cái gì quá ư tẻ nhạt, hay bị lặp lại: “Tụi đã thật chán khi phải cố
giữ chuyện tình của Vũ và Cẩm My. Một mô tip vừa sến vừa rỗng tuếch với
sang trọng hoàng tử và xác xơ thôn nữ. Văn chương bị lặp lại đáng sợ như
văn chương nhạt nhẽo.” Những sáng tác của Nguyễn Việt Hà là một sự cố
gắng không ngừng để vượt lên sự tẻ nhạt thường thấy.
Với anh: “Viết tiểu thuyết quan trọng nhất là cấu trỳc.” Nhiều tác giả
viết xong một cuốn sách thì không thể thoát khỏi cái bóng đè của chính
mình. Nguyễn Việt Hà đó luụn ý thức vượt lờn cỏi búng ấy, cho ra đời
những tiểu thuyết độc đáo, nhưng không hề dễ đọc.
Nguyễn Việt Hà là một trong những cây bút viết sắc sảo nhất về đô thị
và tầng lớp trí thức công chức. Anh quan niệm: “Thường người ta hay viết
25