Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN TỔNG QUAN về dầu NHỜN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.53 KB, 21 trang )

Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
LỜI MỞ ĐẦU
Cách đây 100 năm, thậm chí con người vẫn chưa có khái niệm về dầu nhờn.
Tất cả các loại máy móc lúc bấy giờ đều được bôi trơn bằng dầu mỡ lợn và sau đó
dùng dầu ôliu. Khi dầu ôliu khan hiếm thì người ta chuyển sang sử dụng các loại
dầu thảo mộc khác.
Khi ngành chế biến dầu mỏ ra đời, sản phẩm chủ yếu tại các nhà máy chế
biến dầu mỏ là dầu hỏa, phần còn lại là mazut (chiếm 70 – 90 %) không được sử
dụng và coi như bỏ đi. Nhưng khi ngành công nghiệp dầu mỏ phát triển thì lượng
cặn mazut càng ngày càng lớn, buộc con người phải nghiên cứu để sử dụng nó vào
mục đích có lợi. Lúc đầu người ta lấy cặn dầu mỏ pha thêm vào dầu thảo mộc
hoặc mỡ lợn với tỉ lệ thấp để tạo ra dầu bôi trơn, nhưng chỉ ít lâu sau người ta đã biết
dùng cặn dầu mỏ để chế tạo ra dầu nhờn.
Dầu nhờn là sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Nó được
dùng để bôi trơn cho các thiết bị máy móc, động cơ trong công nghiệp và dân dụng .
Nó làm giảm ma sát cũng như bảo vệ thiết bị khỏi tác động bên ngoài. Duy trì tính
ổn định của động cơ.
Ngày nay với sự phát triển công nghiệp, giao thông, các động các động cơ
ngày càng tối ưu hóa. Do vậy dầu nhờn cũng đang cải thiện để đáp ứng sự phát triển
đó.
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 1
Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ DẦU NH

N
I. Khái niệm
Dầu nhờn được chế luyện từ dầu mỏ, nó có thể có màu đen nâu hay màu lục.
Phạm vi độ sôi khoảng 350°C và tỉ trọng d= 0.88 - 0.95.
II. Công dụng của dầu nhờn
2.1. Bôi trơn máy
Dầu nhờn có nhiều công dụng trong đó công dụng quan trọng nhất là bôi trơn


các bề mặt có chuyển động trượt giữa các chi tiết, làm giảm ma sát, do đó làm giảm
tổn thất cơ giới trong động cơ nên làm tăng hiệu suất có ích của toàn động cơ.
Nguyên nhân của việc giảm ma sát là do khi bôi trơn sẽ có sự thay thế ma
sát trực tiếp giữa các chi tiết máy bằng ma sát nội tại của màng chất bôi trơn thể lỏng
ngăn cách các chi tiết máy. Ma sát nội tại giữa các màng chất lỏng này luôn nhỏ hơn
nhiều so với các dạng ma sát khác.
2.2. Chống ăn mòn kim loại
2.2.1. Nguyên nhân của sự mài mòn kim loại
Nước là nguyên nhân góp phần gây nên sự rỉ sét của các chi tiết được chế tạo
từ kim loại. Một thể tích nhiên liệu đốt cháy trong động cơ sinh ra một thể tích nước.
Mặc dù phần lớn nước ở thể hơi và thoát ra ống xả, tuy nhiên vẫn còn một ít đọng
lại trong lòng xylanh. Hiện tượng này thường xảy ra khi thời tiết lạnh hay khi
động cơ chưa được sưởi ấm, thêm vào đó các sản phẩm phụ sinh ra do nhiên liệu
cháy dở, ngoài ra còn các chất axit được tạo thành do sự oxi hóa dầu, vì vậy khả
năng tạo rỉ sét và ăn mòn càng trở nên trầm trọng. Các chi tiết cần được bảo vệ
chống lại sự ăn mòn và chống rỉ.
2.2.2. Chống ăn mòn kim loại của dầu nhờn
Dầu nhờn sẽ tạo một lớp màng mỏng phủ trên bề mặt các chi tiết ma sát có tác
dụng chống rỉ trong thời gian ngừng hoạt động, nhất là những bộ phận ẩm ướt. Ngoài
ra dầu nhờn còn có tác dụng hạn chế tối đa sự lan truyền các chất axit được sinh
ra từ các loại nhiên liệu nhiều lưu huỳnh trong động cơ diesel.
2.3. Làm mát máy
2.3.1. Mục đích của việc làm mát
Việc làm mát nhằm làm giảm nhiệt độ của các chi tiết máy.
2.3.2. Sự cần thiết của việc sử dụng dầu nhờn
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 2
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
Nhiều người cho rằng việc làm mát động cơ hoàn toàn dựa vào hệ thống nước
làm mát. Trên thực tế hệ thống nước làm mát chỉ thực hiện được 60% công việc làm
mát. Nước chỉ làm mát phần trên động cơ là các đỉnh xylanh, lòng xylanh và các van

còn trục khuỷu, các ổ đỡ, trục cam, các bánh răng, pittong và nhiều chi tiết khác
được làm mát bằng dầu nhờn. Qua số liệu thực nghiệm cho thấy nhiệt độ cháy
thường là 1090 – 1650°C, những phần chính của van có thể lên tới 540 – 1095°C,
nhiệt độ pittông có thể lên tới 540°C. Thiếc (Sn) và chì (Pb) là hai kim loại có nhiệt
độ nóng chảy thấp, được dùng chế tạo các chi tiết trong bạc đỡ. Chúng thường mềm
ra ở 180°C và nóng chảy ở 232°C (Sn) và 327°C (Pb). Vì vậy nếu như không sử
dụng dầu nhờn để tản bớt nhiệt sẽ làm cho kim loại của vòng bi nóng chảy ra và bị
phá hủy.
2.3.3. Nguyên nhân sinh nhiệt của động cơ
Nguyên nhân sinh nhiệt chủ yếu của động cơ là do ma sát giữa các bề mặt của
chi tiết bên trong động cơ và do quá trình cháy của nhiên liệu.
2.3.4. Quá trình làm mát
Dầu nhờn ở trạng thái lỏng chảy qua các bề mặt ma sát và mang theo nhiệt sẽ
làm mát vật liệu. Chức năng làm mát đòi hỏi dầu phải chịu nhiệt cao, không bị biến
chất do tác dụng của oxy trong không khí ở nhiệt độ cao.
2.4. Dầu nhờn làm kín máy
Ở một số động cơ ô tô tại vị trí piston, máy phát, bơm thủy lực làm việc ở áp
suất cao, do đó yêu cầu độ kín cao. Vì vậy dầu nhờn dựa vào khả năng bám
dính và tạo màng lấp kín các khe hở, bảo đảm quá trình làm việc bình thường cho
thiết bị.
2.5. Dầu nhờn làm sạch máy
Dầu nhờn sẽ có tác dụng cuốn trôi các vẩy tróc, sau đó các cặn bẩn sẽ bị giữ lại
tại các bộ phận lọc của hệ thống bôi trơn.
Trong động cơ diesel, khi nhiên liệu cháy tạo ra muội than sẽ bám cặn trên
thành piston gây cháy xecmăng, làm nghẽn các bộ lọc. Trong động cơ dùng
xăng pha chì, khi xăng cháy cũng tạo ra một lượng muội chì. Các hiện tượng
trên góp phần tạo ra hai loại cặn trong dầu nhờn trong quá trình làm việc: cặn bùn
và cặn cứng.
- Cặn bùn được tạo thành do sự kết hợp giữa hơi nước, bụi, sản phẩm xuống
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 3

Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
cấp và nhiên liệu cháy chưa hoàn toàn. Cùng với thời gian cặn bùn sẽ tích tụ nhiều,
đóng cục lại sẽ làm hạn chế sự lưu thông của dầu nhờn.
- Cặn cứng là sản phẩm của quá trình oxi hóa các hợp phần kém ổn định có
trong dầu tại nhiệt độ và áp suất cao. Cặn cứng làm thành lớp áo cứng trêncác chi
tiết có nhiệt độ cao của động cơ. Động cơ không thể làm việc một cách bình thường
nếu cặn cứng tích tụ nhiều trên các chi tiết của máy.
Dầu nhờn với phụ gia tẩy rửa sẽ có tác dụng ngăn cản sự tích tụ của cặn bùn,
cặn cứng, giữ cho bề mặt các chi tiết luôn được sạch sẽ tạo điều kiện cho động cơ
hoạt động tốt.
2.6. Chức năng bảo vệ bề mặt
Sự tiếp xúc các chi tiết máy với các tác nhân gây ăn mòn như: oxy, độ ẩm của
không khí, khí thải hay khí cháy từ nhiên liệu đốt trong động cơ hay các lò đốt, môi
trường làm việc dẫn đến bề mặt vật liệu bị oxy hóa hay bị ăn mòn. Vì vậy dầu nhờn
có tác dụng tạo lớp màng bao phủ bề mặt các chi tiết ngăn cách sự tiếp xúc với các
yếu tố môi trường.
III. Thành phần của dầu nhờn
Dầu nhờn thương phẩm bao gồm hai hợp phần là dầu gốc (base lubes) và phụ
gia (additives). Dầu gốc được sử dụng nhiều nhất là các phân đoạn dầu khoáng gốc
dầu mỏ, được chế biến theo công nghệ truyền thống. Ngoài ra còn có thể dùng
một số loại dầu gốc tổng hợp hay dầu gốc động thực vật.
3.1. Dầu gốc chế biến từ dầu mỏ
Dầu gốc chế biến từ dầu mỏ có nhiều chủng loại. Tuy vậy chúng được sản xuất
từ quy trình pha trộn trên cơ sở bốn loại nguyên liệu là:
- Phân đoạn dầu nhẹ (light fraction) : sôi trong khoảng 350 – 400°C.
- Phân đoạn dầu trung bình (midle fraction): sôi trong khoảng 400 – 450°C.
- Phân đoạn dầu nặng (heavy neutral): sôi trong khoảng 450 – 500°C.
- Phân đoạn dầu cặn (bright stock): sôi khoảng trên 500°C.
Thông thường có bốn loại dầu gốc tương ứng với bốn phân đoạn chưng cất
nói trên là : dầu gốc SN 150, dầu gốc SN 300, dầu gốc SN 450, và dầu gốc cặn BS

150.
Với: SN (Solvent Neutral – chỉ dầu trung tính làm sạch bằng dung môi).
BS (Bright Stock – dầu cặn).
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 4
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
150; 300; 450 chỉ độ nhớt quy ước ở 100°F (37,8°C).
Cần lưu ý rằng bốn phân đoạn dầu nhờn với độ sôi đã chỉ ra ở trên chỉ mang
tính chất tương đối. Trong sản xuất, tùy thuộc loại dầu thô đem chế biến cũng
như những yêu cầu về kĩ thuật và kinh tế người ta có thể chia bốn phân đoạn dầu
nhờn theo những phạm vi độ sôi khác nhau sao cho hợp lý và kinh tế nhất.
3.1.1. Thành phần hydrocacbon của dầu gốc
Thành phần chủ yếu của dầu bôi trơn là các hợp phần hydrocacbon, bao gồm
các nhóm khác nhau:
a. Nhóm hydrocacbon naphtalen – parafin
Đây là nhóm hydrocacbon chủ yếu có trong dầu bôi trơn, hàm lượng của chúng
có thể lên tới 40 – 80% tùy thuộc loại dầu mỏ. Nhóm này có cấu trúc chủ yếu là
hydrocacbon vòng naphtalen, có kết hợp với nhánh alkyl hoặc iso-alkyl. Số cacbon
trong phân tử có thể từ 20 – 70 nguyên tử cacbon. Loại hydrocacbon này có tính bôi
trơn tốt, có tính ổn định hóa học tốt, do đó chúng là thành phần tốt của dầu bôi
trơn.
Ngoài ra còn có các hydrocacbon dạng n-parafin và iso-parafin với hàm
lượng không lớn.
b. Nhóm hydrocacbon thơm và naphtalen thơm
Nhóm này bao gồm các hợp chất trong dãy đồng đẳng của benzen, naphtalen.
Đôi khi còn có đồng đẳng của phenantren và antraxen. Một hợp phần nữa là các
hydrocacbon hỗn tạp, bao gồm trong phân tử cả vòng thơm và naphtalen. Nhóm
hydrocacbon này dễ bị oxy hóa tạo ra các hợp chất keo nhựa, đồng thời có tính bôi
trơn thay đổi nhiều theo nhiệt độ, do đó chúng là hợp phần làm giảm chất lượng dầu
thương phẩm.
c. Nhóm hydrocacbon rắn

Các hydrocacbon rắn có trong nguyên liệu sản xuất dầu bôi trơn khoảng 40 –
50%. Phần lớn những hợp chất này được loại khỏi dầu bôi trơn nhờ quy
trình tách lọc parafin. Tùy kĩ thuật tách lọc mà nhóm hydrocacbon rắn này được
tách triệt để hay không, nhưng dù sao chúng vẫn còn tồn tại trong dầu với hàm lượng
nhỏ sự có mặt của nhóm hydrocacbon này làm tăng nhiệt độ đông đặc, giảm khả
năng sử dụng dầu ở nhiệt độ thấp, nhưng lại làm tăng tính ổn định của độ nhớt theo
nhiệt độ và tính ổn định chống oxi hóa.
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 5
Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
Nhóm này có hai loại hydrocacbon rắn là parafin rắn có thành phần chủ yếu là
alkan có mạch cacbon lớn hơn 20 và xerezin là hỗn hợp các hydrocacbon
naphten có mạch nhánh alkyl dạng thẳng hoặc dạng nhánh và một lượng không đáng
kể hydrocacbon rắn có vòng thơm và mạch nhánh alkyl.
Ngoài những thành phần chủ yếu kể trên trong dầu bôi trơn còn có các hợp chất
hữu cơ chứa lưu huỳnh, nitơ, oxy tồn tại ở các hợp chất nhựa, asphalten. Đây là
những thành phần làm giảm chất lượng của dầu bôi trơn, chúng có màu sẫm, dễ bị
biến chất, tạo cặn trong dầu khi làm việc ở nhiệt độ cao và áp suất cao. Tuy nhiên
sự có mặt của chúng với hàm lượng nhỏ sẽ làm tăng tính bám dính của dầu nhờn đối
với bề mặt kim loại giúp cho khả năng chống ăn mòn, mài mòn các chi tiết máy.
4.2. Dầu nhờn tổng hợp
Dầu nhờn tổng hợp có nguồn gốc là sản phẩm của những phản ứng hóa học .
Dầu nhờn tổng hợp ra đời do sự đòi hỏi phát triển của công nghiệp chế tạo động cơ
và các loại thiết bị. Chế độ làm việc của các bề mặt ma sát, các chi tiết máy ngày
càng khắc nghiệt và phức tạp hơn. Trong điều kiện đó dầu nhờn gốc khoáng
biểu hiện những nhược điểm không dễ khắc phục như tính ổn định hóa học, tính
ổn định nhiệt không cao, khả năng làm việc ở nhiệt độ thấp không tốt, không đáp
ứng đòi hỏi bôi trơn tốt trong phạm vi nhiệt độ rộng,… Do đó từ những năm 30
của thế kỷ 20, người ta đã đề xuất việc sử dụng một số hợp chất hữu cơ để bôi trơn,
đó là dầu nhờn tổng hợp.
Nhờ tính ưu việt của dầu nhờn tổng hợp là có thể làm việc trong phạm vi nhiệt

độ rộng hơn, trơ về mặt hóa học, ít tiêu hao, tiết kiệm năng lượng, không gây độc hại,
…mà dầu nhờn tổng hợp ngày càng có nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác
nhau như dùng làm dầu nhờn động cơ, dầu bánh răng,…
Dầu nhờn tổng hợp gồm bốn nhóm chủ yếu là hydrocacbon tổng hợp, các este
hữu cơ, các este photphat và các polyglycol.
3.2.1. Nhóm hydrocacbon tổng hợp
Hydrocacbon tổng hợp được sản xuất nhờ quá trình polyme hóa các olefin,
alkyl hoá các olefin hay các clo – parafin bằng benzen, ngưng tụ - khử clo các dẫn
xuất clo – parafin, trên thực tế thường dùng các chất như polyisobuten, các oligome
của các olefin, các polyalkylbenzen… Bản chất hóa học của chúng là các
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 6
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
hydrocacbon khá tinh khiết.
Hydrocacbon tổng hợp là loại dầu tổng hợp phát triển nhanh nhất, chúng thường
được sản xuất từ các nguyên liệu lấy từ dầu thô. Khác với dầu bôi trơn gốc khoáng,
các hydrocacbon có giới hạn sôi hẹp, nhiệt độ đông đặc thấp, độ nhớt ít thay đổi theo
nhiệt độ. Về chất lượng nhóm dầu tổng hợp này không thua kém dầu chế biến
bằng công nghệ hydrocracking. Ngoài ra khả năng tiếp nhận phụ gia của chúng
khá tốt. Một trong những loại dầu tổng hợp thuộc nhóm này được dùng phổ biến là
dầu polyalphaolefin (PAOs) dùng bôi trơn trong động cơ ô tô và trong công nghiệp,
rất phổ biến ở Mỹ và Châu Âu.
3.2.2. Nhóm các este hữu cơ
Các este hữu cơ dùng làm dầu nhờn tổng hợp bao gồm các este diaxit và các
este polyol có công thức hóa học như sau:
O O
R
O
C (CH
2
)

n
C
O
R
R: gốc hydrocacbon
Este diaxit
CH
2
OH
HO
CH
2
C
CH
2
OH
CH
2
OH
polyglycol
Các este diaxit được điều chế từ phản ứng của diaxit với rượu chứa một nhóm
hydroxyl.
Dầu tổng hợp gốc este diaxit có nhiệt độ đông đặc rất thấp, độ bền nhiệt cao và
khả năng tẩy rửa tốt. Chúng được dùng chủ yếu làm dầu gốc hoặc một thành
phần của dầu gốc trong pha chế các dầu động cơ ô tô và dầu máy nén khí.
Các este polyol được điều chế từ polyglycol và monoaxit no. Các axit điển
hình được dùng có từ 5 – 10 nguyên tử cacbon lấy từ nguồn dầu động thực vật. Dầu
tổng hợp gốc este polyol có nhiệt độ đông đặc -30 tới -70°C, chỉ số độ nhớt
120 – 160, độ bền nhiệt khá cao. Chúng được dùng phổ biến nhất để pha chế
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 7

Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
dầu máy bay phản lực kiểu mới, pha chế dầu động cơ ôtô, máy nén khí,…
3.2.3. Nhóm este photphat
Ưu điểm của este photphat là tính chịu nhiệt cao hơn nhiều so với dầu khoáng
và tính bôi trơn cũng tốt hơn. Một lượng đáng kể sản phẩm này được dùng làm chất
bôi trơn cho máy nén những nơi ở nhiệt độ cao, tránh sự bén lửa thường xảy ra đối
với những loại dầu khoáng thông thường. Cấu trúc điển hình của este
photphat
như sau:
O
(A r)
R

O
P
O
R
(Ar)
O
R (Ar)
R: nhóm alkyl
Ar: nhóm th
ơ
m
3.2.4. Nhóm polyalkyl glycol
Nhóm polyalkyl glycol (PAGs) là những hợp chất polyme được tổng hợp trên
cơ sở các monome, mà chất đơn giản nhất trong nhóm này là etylen glycol, ngoài ra
còn có những polyme của etylen hoặc propylen oxit hoặc của cả hai. Cũng có dạng
polyglycoete như:
H – ( OCH

2
– CH
2
)
n
– OH
Các polyalkyl glycol có hai loại là tan trong nước và không tan trong nước
Polyalkyl glycol tan trong nước được dùng rộng rãi làm dầu phanh (dầu thắng)
thủy lực, làm chất lỏng thủy lực chịu lửa trong gia công cắt gọt kim loại, trong chế
biến cao su tổng hợp…
Polyalkyl glycol không tan trong nước dùng pha chế các loại dầu thủy lực công
nghiệp, dầu bôi trơn các máy nén lạnh kiểu trục vít…Chúng được sử dụng tốt ở nhiệt
độ môi trường thấp, đồng thời cũng đảm bảo bôi trơn ở nhiệt độ rất cao.
Ngoài ra còn có các nhóm dầu tổng hợp khác như các hợp chất chứa halogen
chủ yếu là: flo, clo, các hợp chất hữu cơ chứa silic như: este silicat, silicon và silan,
các amin thơm, những dẫn xuất của cacbamit, các hợp chất dị vòng chứa nitơ, bo,
photpho…Tóm lại dầu nhờn gốc tổng hợp ngày càng phát triển về chủng loại và
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 8
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
tăng nhanh về khối lượng sử dụng.
IV. Phân loại dầu nhờn
4.1. Phân loại dầu nhờn theo độ nhớt
[5]
Theo phương pháp này, các nhà sản xuất dầu nhớt thống nhất dùng cách phân
loại của hiệp hội kỹ sư ôtô Mỹ SAE (Society of Automotive Engineers). Cách phân
loại của SAE tùy thuộc vào sản phẩm dầu đó là đơn cấp hay đa cấp. Dầu đa cấp có
độ nhớt thỏa mãn ở nhiều điều kiện nhiệt độ khác nhau còn dầu đơn cấp chỉ đáp ứng
ở một nhiệt độ
nào đó.
"10W-30" của Castrol được bán ở Mỹ

Hệ thống phân loại của SAE khá phức tạp, nó liên quan tới nhiều khái niệm
khác nhau. Đối với dầu đa cấp, sau chữ SAE là các ký hiệu như 5W, 10W hay
15W, 20W. Những số đứng trước chữ "W" dùng để chỉ khoảng nhiệt độ mà loại
dầu động cơ đó có độ nhớt đủ để khởi động xe lúc lạnh. Để xác định nhiệt độ khởi
động theo ký tự này, chỉ cần lấy 30 trừ đi các số đó nhưng theo nhiệt độ âm. Ví dụ,
dầu 10W sẽ khởi động tốt ở âm 20°C, dầu 15W khởi động tốt ở âm 15°C. Các
loại dầu động cơ ở các nước hàn đới thường là loại 5W, 10W, 15W nhưng đa số
các sản phẩm ở Việt Nam chỉ là loại 15W hay 20W. Mặc dù không có ý nghĩa
quan trọng khi khởi động vì thời tiết ở Việt Nam thường không quá lạnh, nhưng để
đạt được các yêu cầu khởi động lạnh, các nhà sản xuất phải thêm vào các chất phụ
gia nên dầu có số càng nhỏ thì giá dầu càng cao. Đứng sau chữ "W" ở loại dầu đa
cấp có thể là chữ 40, 50 hoặc 60. Đây là ký tự dùng để chỉ khoảng độ nhớt ở 100°C
của các loại dầu nhờn. Thông thường, số càng lớn thì độ nhớt càng lớn và ngược lại.
Với những động cơ hoạt động ở vùng nhiệt độ cao, chỉ số này phải cao hơn, khoảng
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 9
Hình 1: Ký hiệu chỉ loại dầu nhờn
Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
trên 60. Do sự thay đổi nhiệt độ nên tùy thuộc mùa mà người ta dùng loại 40 hoặc
50. Trong mùa đông, trời lạnh, nhiệt độ động cơ thấp nên chỉ cần dùng loại nhỏ như
30, 40. Ở mùa hè, nhiệt độ động cơ cao nên có thể dùng loại 50. Do đặc tính của dầu
đa cấp nên người ta thường gọi nó là "dầu bốn mùa". Khi có chữ "W", chúng ta có
thể hiểu nó dùng được cho cả mùa đông và mùa hè.
Ngoài loại đa cấp, nhiều nhà sản xuất cho ra cả loại dầu đơn cấp và chỉ có ký
hiệu như SAE 40, SEA 50. Loại dầu này thường được dùng cho các loại động cơ 2
kỳ, máy nông nghiệp, công nghiệp
4.2. Phân loại dầu theo tính năng
Khi phân loại theo tiêu chuẩn này, các nhà sản xuất thống nhất phân theo tiêu
chuẩn của Viện dầu mỏ Mỹ API (American Petroleum Institute). API phân ra
theo cấp S (Service) dùng để dành dầu cho động cơ xăng và C (Commercial) cho các
động cơ diesel. Với động cơ xăng, API phân ra nhiều loại với thứ tự tiến dần từ SA,

SB, SC tới mới nhất là SM. Đối với động cơ diesel, API chia thành CA, CD, CC tới
CG, CH và CI. Càng về sau, chất lượng sản phẩm càng tốt do các nhà sản xuất phải
thêm vào những chất phụ gia đặc biệt để thích nghi với những công nghệ động cơ
mới.
4.3. Phân loại theo ý nghĩa sử dụng
Theo ý nghĩa sử dụng, dầu nhờn có hai loại chính đó là:
- Dầu nhờn sử dụng cho mục đích bôi trơn (gọi là dầu động cơ).
- Dầu nhờn không sử dụng cho mục đích bôi trơn (dầu công nghiệp).
Trong thực tế dầu động cơ chiếm một tỉ lệ khá lớn trong công nghiệp sản
xuất dầu bôi trơn nói chung (khoảng 40%) và được sử dụng phổ biến.
V. Các chỉ tiêu chất lượng của dầu nhờn
Yêu cầu phẩm chất của dầu nhờn
- Dầu nhờn phải bôi trơn tốt trong mọi điều kiện
- Độ nhớt ít thay đổi theo nhiệt độ và áp suất.
- Có tính ổn định chống oxy hóa tốt.
- Không có lẫn tạp chất và nước
5.1. Khối lượng riêng và tỉ trọng
Khối lượng riêng (Density) đo bằng g/cm
3
hay kg/m
3
là khối lượng của
một đơn vị thể tích. Tỉ trọng (relative density) là tỉ số khối lượng riêng của một
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 10
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
chất ở nhiệt độ nào đó, so với khối lượng riêng của nước ở 4°C. Ký hiệu d
t/4
, trong
đó t°C là nhiệt độ tại đó xác định tỉ trọng. Thông thường dùng tỉ trọng tiêu chuẩn ở
20°C ký hiệu d

20/4
.
Khối lượng riêng và tỉ trọng là một tính chất cơ bản và cùng với những tính chất
vật lý khác nó đặc trưng cho từng loại phân đoạn sản phẩm dầu mỏ cũng như
dùng để đánh giá phần nào chất lượng của dầu thô. Với dầu bôi trơn, khối lượng
riêng ít có ý nghĩa để đánh giá chất lượng. Tuy nhiên một giá trị bất thường nào đó
của khối lượng riêng cũng giúp ta phán đoán về sự có mặt trong dầu một phần nhiên
liệu, dung môi, thậm chí một chất khí nào đó.
5.2. Màu sắc của dầu nhờn
Chỉ tiêu màu của các dầu nhờn được sử dụng chủ yếu trong việc kiểm tra quá
trình pha chế. Đối với người tiêu dùng đó cũng là chỉ tiêu mang tính cảm quan có
tác động đến tâm lý, vì người ta ưa dùng những loại dầu nhờn sáng màu. Thông
thường các loại dầu thương phẩm có màu nâu – vàng với ánh xanh lá cây hoặc xanh
lơ.
5.3. Độ nhớt của dầu nhờn
Độ nhớt là một tính chất cơ bản và quan trọng nhất của dầu nhờn, là đại lượng
kiểm tra sự thay đổi dầu trong quá trình sử dụng. Độ nhớt của dầu thay đổi theo
nhiệt độ. Khi nhiệt độ cao, độ nhớt giảm và ngược lại. Nếu dầu nhờn có độ nhớt quá
lớn sẽ làm trở lực tăng, các chi tiết của động cơ sẽ bị mài mòn khi khởi động và khả
năng lưu thông của dầu nhờn kém. Nếu dầu nhờn có độ nhớt nhỏ sẽ làm cho khả
năng bám dính lên các chi tiết của động cơ kém, dầu nhờn dễ bị đẩy ra khỏi bề mặt
bôi trơn hơn.
Độ nhớt của các nhóm hydrocacbon thay đổi theo thứ tự sau:
Nhóm hydrocacbon parafin< nhóm hydrocacbon thơm < nhóm naphtalen
Độ nhớt của dầu nhờn thường được đo bằng poazơ (P), centipoazơ (cP)
(đối với độ nhớt động lực), hoặc stoc (St), centistoc (cSt) (đối với độ nhớt động học).
5.4. Chỉ số độ nhớt
Chỉ số độ nhớt là trị số chuyên dùng để đánh giá sự thay đổi độ nhớt của dầu bôi
trơn theo nhiệt độ, đây cũng là một đặc tính quan trọng nữa của dầu nhờn. Dầu nhờn
được coi là bôi trơn tốt khi độ nhớt của nó ít bị thay đổi theo nhiệt độ, ta nói rằng

dầu có chỉ số độ nhớt cao. Ngược lại, nếu độ nhớt thay đổi nhiều theo nhiệt độ có
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 11
Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
nghĩa là dầu có chỉ số độ nhớt thấp.
5.5. Tính bay hơi của dầu nhờn
Thành phần chính yếu của dầu nhờn là các hydrocacbon có nhiệt độ sôi cao, do
đó chúng rất khó bay hơi. Tuy vậy người ta vẫn phải đánh giá tính bay hơi của dầu
nhờn vì có thể có những thành phần nhẹ lẫn trong dầu.
5.6. Tính bảo vệ kim loại của dầu nhờn
Các hợp phần hydrocacbon của dầu nhờn không có tính ăn mòn, nhưng một số
tạp chất lẫn trong dầu có tính ăn mòn kim loại, cần phải hạn chế đến mức tối
thiểu. Để đánh giá tính ăn mòn và khả năng bảo vệ bề mặt kim loại của dầu nhờn,
cần xác định các chỉ tiêu trị số axit tổng, kiềm tổng và kiểm nghiệm mảnh đồng
a. Trị số axit tổng (Total acid number (TAN)) là chỉ tiêu đánh giá tính axit của
dầu, đặc trưng bởi số miligam kali hydroxit (KOH) cần thiết để trung hòa toàn bộ
lượng axit có trong 1gam dầu.
b. Trị số kiềm tổng (Total base number (TBN)) là số mg KOH tỉ lượng tương
đương với lượng axit HCl (hoặc HClO
4
) cần thiết để trung hòa các bazơ chứa trong
1gam dầu. Tính kiềm là chỉ tiêu rất cần thiết để xét đoán chất lượng dầu nhờn,
nhằm đảm bảo trung hòa các hợp chất axit tạo thành trong quá trình sử dụng, tránh
hiện tượng rỉ sét trên bề mặt các chi tiết kim loại.
Axit tan trong nước biểu hiện sự có mặt của axit vô cơ, được phát hiện định tính theo
sự đổi màu của chất chỉ thị đối với lớp nước tách khỏi dầu nhờn khi làm kiểm
nghiệm. Quy định tuyệt đối không được có axit vô cơ trong dầu.
c. Kiểm nghiệm ăn mòn mảnh đồng
Hình 2: Thang đo ăn mòn mảnh đồng
Tiêu chuẩn này quy định có 4 cấp màu sắc mẫu từ 1 đến 4 (hình 2):
- Cấp 1 có 2 mức: 1a và 1b.

- Cấp 2 có 5 mức: 2a, 2b, 2c, 2d, 2e.
- Cấp 3 có 2 mức: 3a và 3b.
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 12
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
- Cấp 4 có 3 mức: 4a, 4b, 4c.
Kiểm nghiệm này nhằm phát hiện sự có mặt của các hợp chất lưu huỳnh hoạt
động (lưu huỳnh tự do, sunfua…) có mặt trong dầu nhờn.
Theo phương pháp này, mảnh đồng được đánh bóng và ngâm ngập trong mẫu
dầu. Người ta gia nhiệt đến nhiệt độ nhất định và giữ trong thời gian quy định. Nhiệt
độ và thời gian thử nghiệm tùy thuộc vào từng loại dầu. Khi kết thúc thử nghiệm,
mảnh đồng được lấy ra, rửa sạch đem so với bảng tiêu chuẩn ASTM (American
Society for Testing and Materials – hiệp hội thử nghiệm và nguyên liệu của Hoa
Kỳ) về ăn mòn mảnh đồng sẽ có kết luận cụ thể về tính ăn mòn của dầu nhờn.
5.7. Độ sạch của dầu nhờn
Độ sạch của dầu nhờn được đánh giá qua hiện tượng nhiễm bẩn dầu bởi các tạp chất từ
bên ngoài như nước, nhiên liệu, tạp chất cơ học. Độ sạch của dầu nhờn được đánh
giá qua các chỉ tiêu như: nước trong dầu, hàm lượng tro và sunfat, hàm lượng cặn
cacbon, cặn không tan.
5.8. Độ ổn định oxi hóa (Oxidation Stability)
Độ ổn định của dầu bôi trơn biểu hiện khả năng của dầu chống lại những tác
động bên ngoài làm thay đổi chất lượng của dầu nhờn. Dầu có độ ổn định cao thì
thành phần hóa học và tính chất của nó ít thay đổi.
Các hợp phần hydrocacbon thơm, naphten hoặc hỗn hợp thơm – naphten đa vòng
có nhánh alkyl ngắn rất dễ bị oxi hóa tạo thành các chất nhựa, asphalten, do đó chúng
là những hợp phần không tốt trong dầu nhờn.
5.9. Tính tạo bọt của dầu bôi trơn
Hiện tượng tạo bọt của dầu nhờn có ảnh hưởng lớn đến hiệu suất bôi trơn và
quá trình làm việc của các động cơ, hệ thống truyền động, hệ thống thủy lực, hệ thống
bánh răng cao tốc. Bọt tạo thành do dầu bị khuấy trộn cơ học khiến một lượng
không khí hòa tan vào dòng chảy của dầu.

5.10. Tính tạo nhũ và tính tách nhũ của dầu nhờn
Nước và hơi nước hiện diện trong dầu sẽ làm cho dầu bị nhũ hóa, nhất là những
loại dầu có chứa phụ gia. Phần nước này sẽ gây han gỉ và làm giảm tính ổn định oxi
hóa, cũng như giảm tính bôi trơn của dầu.
VI. Công nghệ sản xuất dầu nhờn gốc từ mazut
6.1. Giới thiệu về mazut
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 13
Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
Sơ đồ 1: Các phân đoạn của dầu mỏ và ứng dụng
Mazut là phần cặn của quá trình chưng cất ở áp suất khí quyển có nhiệt độ sôi
cao hơn 350°C. Phần cặn này có thể đem đi đốt hoặc làm nguyên liệu để sản xuất
dầu nhờn gốc. Với mục đích sản xuất dầu nhờn gốc thì ta đi đem chưng cất chân
không, ta thu được phân đoạn có nhiệt độ sôi khác nhau như: Phân đoạn dầu nhờn
nhẹ ( LVGO: Light Vacuum Gas Oil ) có nhiệt độ sôi từ 300°C - 350°C. Phân
đoạn dầu nhờn trung bình (MVGO: Medium Vacuum Gas Oil) có nhiệt độ từ 350°C
- 420°C. Phân đoạn dầu nhờn nặng (HVGO: Heavy Vacuum Gas Oil) có nhiệt độ từ
420°C - 500°C.
Thành phần của các phân đoạn này gồm những phân tử hydrocacbon có số
cacbon trong phân tử từ C
21- 40
, những hydrocacbon trong phân đoạn này có trọng
lượng phân tử lớn ( 1000 – 10000), cấu trúc phức tạp, bao gồm:
- Các parafin mạch thẳng và mạch nhánh.
- Các hydrocacbon napten đơn hay đa vòng thường có gắn nhánh phụ là các
parafin.
- Các hydrocacbon thơm đơn hay đa vòng chủ yếu chứa mạch nhánh
ankyl, nhưng chủ yếu là 1 đến 3 vòng.
- Các hợp chất lai hợp mà chủ yếu là lai hợp giữa napten và parafin, giữa napten
và hydrocacbon thơm.
- Các hợp chất chứa các nguyên tố oxy, nitơ, lưu huỳnh cũng chiếm phần lớn

trong phân đoạn dầu nhờn. Các hợp chất chứa kim loại cũng gặp trong phân
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 14
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
đoạn này.
6.2. Quy trình công nghệ sản xuất dầu nhờn gốc từ mazut
[3]
6.2.1. Chưng cất chân không
Nguyên liệu của quá trình này là phần cặn của quá trình chưng cất ở áp suất khí
quyển (mazut). Mục đích của công đoạn này là để tách lấy các phân đoạn riêng biệt
dựa vào khoảng nhiệt độ sôi hay độ nhớt.
6.2.2. Các quá trình trích ly, chiết tách bằng dung môi
Mục đích của quá trình trích ly là chiết tách các cấu tử không mong muốn chứa
trong các phân đoạn dầu nhờn mà bằng chưng cất không thể loại ra được. Các cấu
tử tạp sẽ làm cho dầu nhờn sau một thời gian bảo quản hay sử dụng bị biến đổi màu
sắc, tăng độ nhớt, xuất hiện các hợp chất có tính axit không tan trong dầu, tạo
thành cặn vựa, cặn bùn trong dầu.
6.2.3. Quá trình tách sáp
Sáp là một hỗn hợp chủ yếu là các parafin phân tử lớn và một lượng nhỏ các
hydrocacbon khác có nhiệt độ nóng chảy cao và kém hòa tan trong dầu nhờn ở nhiệt
độ thấp. Vì thế chúng cần được tách ra khỏi dầu nhờn. Có nhiều phương pháp để
tách sáp như:
- Tách sáp bằng phương pháp kết tinh.
- Tách sáp bằng dung môi chọn lọc.
6.2.4. Quá trình làm sạch bằng hidro
Đa số quá trình làm sạch hidro thường dùng xúc tác coban – molipden (Co –
Mo). Mục đích của quá trình này là nhằm chuyển hóa các hợp chất có các nguyên tố
O, N, S thành nước, ammoniac, sunfuahydro. Các hydrocacbon thơm một
phần bị
hydro hóa thành naphtalen.
Maz

ut
Chưng cất chân không
Dầu cất nhẹ
Dầu cất trung
Dầu cất nặng
Cặn gudron
Phần chiết
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 15
Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
Chiết bằng dung môi
Tách asphan bằng propan
Dầu cất nhẹ
Dầu cất trung
Dầu cất nặng
Dầu cặn
CHƯƠNG II: DẦU NHỜN SINH HỌC
I. Khái niệm
Dầu nhờn sinh học là thuật ngữ dùng để chỉ những chất bôi trơn có hai đặc
điểm là dễ phân hủy sinh học và không độc cho sinh vật và môi trường sống. Dầu
nhờn sinh học được tổng hợp từ alkyl este của các axit béo với polyol thích
hợp như:
trimethylolpropan, pentaerythriol (PT) với xúc tác thích hợp
.[21]
Hình 3: Dầu nhờn sinh học
II. Ưu điểm và nhược điểm của dầu nhờn sinh học
2.1. Ưu điểm
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 16
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
Dầu nhờn sinh học có nhiều ưu điểm hơn so với dầu khoáng. Do đi từ nguyên
liệu ban đầu là dầu mỡ động thực vật nên dầu nhờn sinh học là một loại hợp chất hoàn

toàn có khả năng tái chế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi mà trữ lượng dầu mỏ trên
thế giới sẽ cạn dần trong tương lai và giá cả của nó đang gia tăng như hiện nay.
Dầu nhờn sinh học có khả năng phân hủy sinh học cao nên ít độc hơn cho sinh vật
cũng như ít gây ô nhiễm môi trường như dầu khoáng.
- Hệ số ma sát của dầu nhờn sinh học thấp hơn dầu khoáng.
- Khả năng bay hơi của dầu nhờn sinh học thấp hơn dầu nhờn khoáng đến 20%.
- Chỉ số độ nhớt của dầu nhờn sinh học cao hơn dầu nhờn khoáng.
- Điểm chớp cháy của dầu nhờn sinh học cao hơn dầu nhờn khoáng.
2.2. Nhược điểm
Dầu nhờn sinh học có chiều hướng dễ bị oxi hóa do các liên kết đôi trong mạch
cacbon của các axit béo. Nhiều nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực sản xuất dầu nhờn
từ dầu thực vật trong đó chủ yếu là những thay đổi về phương pháp hóa học và chất
phụ gia.
Dầu nhờn sinh học có giá thành cao hơn so với dầu khoáng vì tác chất làm nên
dầu nhờn sinh học là những polyol rất đắt tiền. Nhưng vì những ưu điểm vượt trội
của nó, nhất là ưu điểm về mặt môi trường, nên trong tương lai, chắc chắn dầu nhờn
sinh học sẽ cạnh tranh được với dầu khoáng.
III. Vấn đề sử dụng và nghiên cứu dầu nhờn sinh học trong và ngoài nước
Đặc tính khó phân huỷ của các loại dầu bôi trơn hiện đang đe dọa nghiêm trọng
đến đất đai và các nguồn nước, nhất là ở đô thị và khu công nghiệp. Hiện nay, dầu
khoáng tinh chế chỉ đạt 40% yêu cầu phân hủy sinh học, những biện pháp dùng thêm
phụ gia để tăng khả năng phân hủy sinh học đều chưa mang lại kết quả như mong
muốn. Trước tình hình đó, các nhà khoa học đã nghiên cứu một loại dầu bôi trơn hợp
sinh thái mà nguyên liệu chính là các loại dầu thực vật.
Trên thế giới hiện có hai xu hướng sử dụng dầu thực vật làm chất bôi trơn: thứ
nhất là sử dụng một loại dầu thực vật tinh chế làm thành phần chính và kết hợp với
một số phụ gia. Thứ hai là sử dụng hỗn hợp dầu thực vật được biến tính hóa học và
các este của axít béo trong dầu thực vật với các alcol béo kết hợp với phụ gia phù hợp.
Phương pháp này có thể tạo ra được các loại dầu bán tổng hợp.
Dầu nhờn được làm từ dầu thực vật như đậu tương, ngũ cốc, mang lại nhiều khả

SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 17
Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
năng tự phân huỷ và an toàn hơn đối với môi trường. Các nhà nghiên cứu đang tiếp
tục nghiên cứu những sản phẩm sinh học có từ thập kỷ 80 này, nhưng lúc đầu
chúng không được sử dụng vì không tốt bằng các sản phẩm dầu mỏ hoặc do giá thành
đắt hơn. Hơn một thập kỷ qua, sự tiến bộ về mặt công nghệ đã cải thiện được
việc sản xuất dầu nhờn sinh học, và trong 5 năm qua với việc giá dầu tăng cao và sự
cần thiết về an toàn năng lượng, chúng đã trở thành mặt hàng cạnh tranh giá với dầu
nhờn gốc dầu mỏ truyền thống.
Trên thế giới, các nhà khoa học đã tổng hợp được dầu nhờn sinh học từ methyl
ester của dầu cọ.
[24]
Đó là phản ứng transester hóa giữa metyl este của dầu cọ với
trimethylolpropan, theo các nhà khoa học thì đây là một sản phẩm có khả năng
phân hủy sinh học cao so với dầu nhờn có nguồn gốc từ dầu mỏ. Các nhà khoa học đã
thực hiện thành công phản ứng, tạo ra được 98% trieste trong sản phẩm chỉ trong thời
gian 1 giờ.
Nghiên cứu của nhà hoá học Girma Biresaw làm việc tại cơ quan nghiên cứu
nông nghiệp (ARS) thuộc bộ nông nghiệp Mỹ đã nghiên cứu sản xuất dầu nhờn sinh
học từ dầu thực vật và ông cũng cho biết dầu nhờn sinh học cũng cần chất phụ gia để
chống lại sự thuỷ phân, nâng cao khả năng chống ăn mòn và hạn chế sự phát triển
của vi khuẩn.
Trong nước, một nhóm nhà khoa học của đại học quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu
về vấn đề sử dụng dầu thực vật để sản xuất chất bôi trơn tại Việt Nam. Các loại dầu
được khảo sát là dầu dừa, dầu lạc, dầu thầu dầu, dầu hạt cao su, dầu sở. Dầu thô được
xử lý bằng kiềm và than hoạt tính để loại bỏ tạp chất. Kết quả cho thấy trong 5 loại
dầu trên, chỉ có 3 loại là dầu là thầu dầu, dầu lạc và dầu sở là có thể đáp ứng được các
yêu cầu về độ bền oxy hóa, độ nhớt, điểm đông, ăn mòn tương đương với dầu
khoáng. Dầu dừa mặc dù có độ bền oxy hóa tốt nhưng điểm đông tương đối cao
và độ nhớt hơi thấp, dầu hạt cao su có độ bền oxy hóa kém và không thể dùng làm dầu

gốc nếu không được biến tính hóa học. Hướng nghiên cứu mới tạo ra sản phẩm dầu
bôi trơn có nguồn gốc từ dầu thực vật đang được các nhà khoa học Việt Nam tiếp tục
nghiên cứu. Nguyên liệu sản xuất dầu thực vật Việt Nam tương đối dồi dào, việc
nghiên cứu, tạo ra sản phẩm mới này sẽ mang lại giá trị kinh tế cao cho các loại cây
lấy dầu nguyên liệu ở Việt Nam, phù hợp với xu hướng chung của thế giới là phát
triển kinh tế trong môi trường sinh thái bền vững.
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 18
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận này, các tính chất cũng như thành phần của dầu nhờn đã được
nêu ra. Các công dụng của dầu nhờn đối với động cơ, máy móc trong công nghiệp và
dân dụng.
Phương pháp sản xuất dầu nhờn từ chưng cất cặn dầu mỏ và tổng hợp là chủ yếu.
Nhưng hiện nay người ta đang nghiên cứu sản xuất dầu nhờn từ nguyên liệu sinh học
để tận dụng các phế thải từ động thực vật.
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 19
Bài tiểu luận GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Thái Doãn Tĩnh, Hóa Học Hữu Cơ, NXB Giáo dục 1968.
(2) Đỗ Thị Mỹ Linh, Bài giảng môn học Hóa Đại Cương A
3
, Khoa Khoa Học
– Trường Đại Học Cần Thơ 2005.
(3) Lê Văn Hiếu, Công nghệ chế biến dầu mỏ, NXB khoa học kĩ thuật Hà Nội
– 2000.
(4) Võ Hiền Ánh Ngọc, LVTN “Nghiên cứu quy trình sản xuất dầu diesel sinh
học từ mỡ cá Basa”, Cần Thơ 12/2006.
(5) Nguyễn Như Lan, LVTN “Khả năng điều chế dầu Diesel sinh học, dầu
nhờn sinh học và chất hoạt động bề mặt sinh học từ mỡ cá Basa” Cần Thơ
12/2007.

(6) Phạm Thị Anh, LVTN “Phương pháp ly trích, thu nhận và làm giàu axit
docosahesaenoic trong mỡ cá basa”, Thành phố HCM 2006.
(7) Vũ Tam Huề, Nguyễn Phương Tùng, Hướng dẫn sử dụng nhiên liệu dầu
mỡ, NXB Khoa Học Kĩ Thuật 2000.
(8) Lưu Văn Hy, Chung Thế Quang, Nguyễn Phước Hậu, Huỳnh Kim Ngân ,
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 20
Bài tiểu luận dầu nhờn GVHD: ThS. Nguyễn Văn Toàn
Đỗ Tấn Dân, Nhiên liệu dầu nhờn và chất tải nhiệt, NXB Giao thông vận tải.
(9) Chu Phạm Ngọc Sơn, Dầu mỡ trong sản xuất và đời sống, NXB Thành
Phố Hồ Chí Minh 1983.
(10) Nguyễn Duy Ái, Nguyễn Tinh Dung, Trần Thành Huế, Trần Quốc Sơn,
Nguyễn Văn Tòng, Một số vấn đề chọn lọc của hóa học, tập 3, NXB Giáo Dục.
SVTH: Nguyễn Văn Thành Trang 21

×