Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Của Công Ty Cổ Phần May 10 Sang Thị Trường Hoa Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.53 KB, 70 trang )

Khoa Kế hoạch & phát triển
Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Của Công Ty Cổ Phần May 10 Sang Thị Trường
Hoa Kỳ
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: Tổng Quan Về Nền Kinh Tế Hoa Kỳ Và Thị Trường
May mặc Hoa Kỳ
1. Tổng quan về nền kinh tế Hoa Kỳ
* Vài nét về Hoa kỳ:
* Vị trí địa lý: Hoa Kỳ là một quốc gia ở Tây Bán cầu. Hoa Kỳ gồm 48
bang tiếp giáp nhau trên lục địa Bắc Mỹ; Alaska, một bán đảo tạo thành phần
cực tây bắc của Bắc Mỹ và đảo Hawaii, một quần đảo ở Thái Bình Dương.
Quốc gia này cũng có nhiều lãnh thổ thuộc Mỹ ở Thái Bình Dương và vùng
Caribbean. Hoa Kỳ có chung biên giới với Canada và Mexico và một vùng
nước giáp với Nga.
* Diện tích: Theo tổng diện tích bao gồm cả diện tích mặt nước, Hoa Kỳ
hơi lớn hơn hoặc nhỏ hơn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khiến Hoa Kỳ là
quốc gia có diện tích lớn thứ ba thế giới. Tuy nhiên vị trí này còn tùy thuộc
vào việc hai vùng lãnh thổ do Ấn Độ tuyên bố chủ quyền nhưng do Trung
Quốc quản lý và được tính vào diện tích của Trung Quốc. Cả Trung Quốc và
Hoa Kỳ đều xếp sau Canada và Nga về tổng diện tích. Tính theo diện tích đất,
Hoa Kỳ là quốc gia lớn thứ ba thế giới, sau Nga và Trung Quốc. Tính theo
tổng diện tích, Hoa Kỳ:
• 3/10 kích thước châu Phi
• 1/2 kích thước Nam Mỹ
• 1/2 kích thước của Nga
• Gần như bằng Trung Quốc
Báo cáo thực tập tổng hợp 1
Khoa Kế hoạch & phát triển
• Hơi nhỉnh hơn Brazil
• Hơi hơn 1 và ¼ kích thước Australia
• 2 và ½ kích thước của Tây Âu


• Xấp xỉ hơn 14 lần kích thước Pháp
• Xấp xỉ 39 lần kích thước Anh quốc
Dân số: Trên 300 triệu dân. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đa
dạng chủng tộc nhất trên thế giới, do kết quả của những cuộc di dân đến từ
nhiều quốc gia khác trên thế giới.
* Ngôn ngữ: Hoa Kỳ không có một ngôn ngữ chính thức, nhưng tiếng
Anh được khoảng 82% dân số nói như tiếng mẹ đẻ. Tiếng Tây Ban Nha là
ngôn ngữ thông dụng thứ nhì tại Hoa Kỳ, được khoảng 30 triệu người nói
(hay 12% dân số).
* Đơn vị tiền tệ: Dollar Hoa Kỳ (USD)
* Nhà lãnh đạo kinh tế: Tổng thống Obama
* Nền kinh tế Hoa kỳ:
Gần đây đã có nhiều ưu tư về kinh tế Hoa kỳ và nhiều người cho là kinh
tế Hoa kỳ xuống dốc. Ở đầu năm 2009, ta nêu đánh giá sức mạnh và thế yếu
của kinh tế Hoa Kỳ và so sánh với nhiều các kinh tế khác trên toàn cầu. Sau
khi đánh giá lợi ưu thế thì sẽ đánh giá những cố gắng của chính phủ Bush
cùng chính phủ kế tiếp để lấy lại địa vị Hoa Kỳ trên thế giới
Chỗ đứng của kinh tế Hoa Kỳ trên thế giới
GDP: Hạng 1 trên thế giới.
GDP theo đầu người: Hạng 16.
Chi tiêu y tế theo đầu người: Hạng 1.
Sản xuất năng lượng theo đầu người: Hạng 6.
Báo cáo thực tập tổng hợp 2
Khoa Kế hoạch & phát triển
Chi tiêu về nghiên cứu và phát triển (R&D) theo đầu người: Hạng 1.
Tỷ lệ tăng gia dân số so với các nước phát triển G8 : Hạng 1.
Tỷ lệ học đại học: Hạng 7.
Trong 2008: Nếu dựa trên các con số thì GDP của Hoa Kỳ khoảng
14,000 tỷ USD nghĩa là gấp ba lần GDP kinh tế Nhật đứng thứ hai trên thế
giới và gấp 4 lần GDP của Trung Quốc và của Ðức được ước lượng khoảng

3,500 tỷ USD. Nhìn chung thì GDP Hoa Kỳ không những đứng số 1 về
phương diện tổng quát nhưng cũng đứng số 1 về công nghiệp và dịch vụ.
Năm 2005, trị giá về công nghiệp là 1,700 tỷ USD trong khi đó sản xuất công
nghiệp của Nhật trị giá $950 tỷ trong khi đó Trung Quốc ở mức 750 tỷ USD.
Trong thời kỳ kinh tế suy giảm, trị giá công nghiệp sẽ sút nhưng các nước
khác cùng tình trạng.
Mặc dù GDP/đầu người thì Hoa Kỳ đứng thứ 16 nhưng nếu nhìn xâu
hơn và kỹ càng hơn thì Hoa Kỳ còn giữ hàng đầu.
Về nhà đất trung bình nhà của Mỹ rộng hơn gấp hai nhà tại Âu Châu như
tại Ðức, Pháp, Anh trong khi trung bình nhà tại Hoa Kỳ còn rộng hơn Âu
Châu nhiều.
Về mức sống và đắt đỏ thì Hoa Kỳ còn nằm trong các nước hàng đầu.
Một gia đình tại Mỹ chỉ xài 5.7% về ăn uống trong khi đó các nước Âu Châu
hay Canada phải xài 9 đến 14% về ăn uống và một gia đình Nhật phải xài đến
15% lợi tức để trang trải phần ăn uống.
Hoa Kỳ có hệ thống hạ tầng cơ sở rất tốt: xa lộ, đường, đường rầy xe lửa,
cầu, hệ thống cảng, điện, nước, v.v. Hạ tầng cơ sở của Hoa Kỳ đường sắp vào
hạng thứ 9 trên thế giới sau hệ thống hạ tầng của Ðức, Pháp, và 4 nước Âu
Châu khác và Singapore và Hong Kong.
Dự đoán kinh tế Hoa Kỳ năm 2009 như sau:
GDP: Xuống còn 1-1.8%.
Báo cáo thực tập tổng hợp 3
Khoa Kế hoạch & phát triển
Lãi suất: Xuống còn khoảng 3-3.5%.
Lạm phát: Xuống.
Tỷ lệ thất nghiệp: Lên 7-9%.
Dầu khí: Xuống khoảng 45-70 USD/thùng.
Tỷ lệ bán lẻ: Xuống.
Thâm hụt cán cân thương mại: Xuống còn 400-500 USD tỷ hay 3%
GDP.

Kinh tế Mỹ tiếp tục mất đi hàng trăm ngàn việc làm, nâng tỷ lệ thất
nghiệp lên mức cao nhất từ năm 1983. Theo số liệu do Bộ Lao Động Mỹ công
bố trong tháng ba vừa qua, đã có thêm 663 ngàn việc làm bị cắt giảm, nâng tỷ
lệ thất nghiệp lên 8,5%.
Như vậy là từ khi tình trạng suy thoái kinh tế bắt đầu tháng 12 năm
2007, Hoa Kỳ đã mất 5,1 triệu chỗ làm, trong số này có 3,3 triệu đã bị dẹp bỏ
chỉ trong vòng năm tháng gần đây nhất.
Ngành công nghiệp, vốn bị khó khăn từ hơn hai năm qua, đã mất thêm
305 000 chỗ làm trong tháng ba, trong khi đó lĩnh vực dịch vụ, nơi làm việc
của khoảng 85 % người lao động ngoài nông nghiệp ở Hoa Kỳ đã dẹp thêm
358 000 chỗ làm trong tháng ba. Lĩnh vực duy nhất tạo việc làm là ngành giáo
dục và dịch vụ y tế với 8000 chỗ làm.
Tình hình đen tối trong lĩnh vực công ăn việc làm phần nào làm giảm
nhẹ cảm tưởng lạc quan gần đây là cuộc khủng hoảng ở Hoa Kỳ đã xuống đến
tận cùng và không thể trở nên trầm trọng hơn. Nhất là tháng hai vừa qua các
đơn đặt hàng trong ngành công nghiệp đã bất ngờ tăng lên lần đầu tiên từ sáu
tháng qua. Cùng lúc có những dấu hiệu cho thấy là niềm tin của người tiều
dùng bắt đầu được hồi phục.
Báo cáo thực tập tổng hợp 4
Khoa Kế hoạch & phát triển
Tuy nhiên trong mấy dự báo sau cùng công bố hồi tháng hai, Ngân hàng
Trung ương Mỹ đã dự đoán là tỷ lệ thất nghiệp sẽ là từ 8,5 % đến 8,8 % trong
năm 2009. Nhưng với nhịp độ phát triển hiện nay của thất nghiệp, nhiều nhà
phân tích cho rằng tỷ lệ thất nghiệp sẽ là hai số trong năm 2010 và chắc chắn
sẽ là trên 9 % trong năm nay.
2. Thị trường may mặc Hoa kỳ
Thị trường hàng may mặc Hoa Kỳ
• Xuất khẩu hàng may mặc dệt kim của nhiều nước ASEAN như Việt
Nam, Thái Lan, Campuchia, Inđônêxia, Philippin và Lào tăng lên, trong khi
xuất khẩu của Brunei và Singapore giảm đi. Hiện Việt Nam là nước đứng thứ

7 về xuất khẩu hàng may mặc dệt kim vào thị trường Hoa Kỳ.
Sau khi hạn ngạch hàng dệt may được bãi bỏ, nhập khẩu từ các nước
xuất khẩu hàng dệt may có chi phí thấp như Trung Quốc và Ấn Độ tăng
mạnh. Bên cạnh hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, hàng may mặc dệt kim nhập
khẩu từ Ấn Độ cũng tăng 37,91%, lên 937 triệu USD.
Năm 2005, nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ đạt
37,514 tỉ USD, tăng 6,3% so với năm 2004. Trung Quốc cũng là nước đứng
đầu về xuất khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ với kim
ngạch xuất khẩu đạt 10,231 tỉ USD, tăng 54,57% so với năm 2004, chiếm
27,27% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi của Hoa Kỳ. Tiếp
theo là Mêhicô và Ấn Độ với kim ngạch xuất khẩu tương ứng đạt 3,841 tỉ
USD và 2,121 tỉ USD. Trong khi xuất khẩu của Mêhicô giảm 7,13%, thì xuất
khẩu của Ấn Độ lại tăng tới 32,75% so với năm 2004.
Do xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ tăng quá nhanh, ngày
8/11/2005, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã ký hiệp định hạn chế xuất khẩu 34 mặt
hàng dệt may của Trung Quốc sang Hoa Kỳ trong thời hạn 3 năm. Hiệp định
này có hiệu lực từ 1/1/2006, quy định hạn ngạch đối với một số mặt hàng dệt-
Báo cáo thực tập tổng hợp 5
Khoa Kế hoạch & phát triển
may của Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong 3 năm từ năm 2006 đến
năm 2008. Trong số các mặt hàng may mặc có sơ mi cotton dệt kim, tất, sơ mi
nam và bé trai dệt thoi, áo dệt kim, quần cotton, áo bơi, bộ complê len, sơ mi
dệt kim từ sợi nhân tạo, quần từ sợi nhân tạo và quần từ tơ tằm/sợi thực vật.
Hiệp định này đã đáp ứng các yêu cầu từ phía các nhà sản xuất hàng dệt-may
Hoa Kỳ, nhưng cũng gặp không ít ý kiến phản đối từ phía Hiệp hội Nhập
khẩu hàng dệt-may cũng như Hiệp hội các nhà bán lẻ Hoa Kỳ, do những biện
pháp hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc, sẽ làm tăng giá sản phẩm dệt-may
trên thị trường Hoa Kỳ, khi các nhà nhập khẩu buộc phải tìm kiếm các nhà
xuất khẩu có mức giá cao hơn từ các nước xuất khẩu châu Á và Trung Mỹ.
• Dung lượng thị trường

Doanh thu bán lẻ hàng may mặc trên thị trường Hoa tăng khoảng
2,1%/năm trong giai đoạn 2004 – 2008, lên 121,2 tỉ USD.
Mặc dù mức tăng tiêu thụ ít nhiều bị ảnh hưởng của xu hướng suy giảm
thu nhập, nhưng giá sản phẩm dệt-may cũng có xu hướng giảm do nhiều nhà
sản xuất Hoa Kỳ đã chuyển cơ sở sản xuất ra nước ngoài, để giảm chi phí
cũng như do tỉ trọng hàng may mặc giá rẻ nhập khẩu từ các nước có chi phí
sản xuất thấp gia tăng. Các sản phẩm mang nhãn mác riêng của nhà sản xuất
cũng như của các tập đoàn bán lẻ nổi tiếng vẫn là lựa chọn ưu tiên của người
tiêu dùng Mỹ.
• Kênh phân phối
Kênh bán lẻ hàng may mặc lớn nhất trên thị trường Hoa Kỳ là các chuỗi
cửa hàng bán lẻ. Các chuỗi cửa hàng chuyên doanh như “Gap” đã tăng doanh
thu nhờ chiến lược tập trung vào các mặt hàng thời trang thông dụng cho các
đối tượng tiêu dùng từ 20 – 30 tuổi. Nhiều nhà bán lẻ cũng áp dụng chiến
lược tập trung cho một số nhóm đối tượng tiêu dùng riêng biệt như hàng thời
trang “cấp tiến” hay các đối tượng tiêu dùng trẻ. Hiện chi tiêu cho hàng may
Báo cáo thực tập tổng hợp 6
Khoa Kế hoạch & phát triển
mặc của nhóm trẻ vị thành niên chiếm tới 20% tổng mức chi tiêu cho hàng
may mặc của Hoa Kỳ.
Thị trường bán lẻ hàng may mặc của Hoa Kỳ có xu hướng “phân mảng”
khá rõ nét. 5 nhà bán lẻ lớn nhất chiếm tới 28,1% tổng dung lượng thị trường,
trong đó Gap chiếm 12,1%; TJX (Marshall’s, TJ Max, A.J.Wright) chiếm
7,4%; Limited Brands (Limited, Express, Victoria’s Secret) chiếm 4,2%;
Burlington chiếm 2,7% và Charming Shoppes (Lane Bryant, Fashion Bug,
Catherine’s), chiếm 2%.
Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, bán hàng qua mạng Internet
đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2008, khoảng
10% hàng may mặc sẽ được tiêu thụ qua mạng.
* Tiềm năng của thị trường Hoa Kỳ

Hoa Kỳ đã cung cấp một thông tin thú vị, đó là các nhà nhập khẩu Hoa
Kỳ đánh giá rất tốt về sản phẩm Việt Nam và sẵn sàng mua hàng Việt Nam.
Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ luôn muốn tìm kiếm các nguồn cung cấp
mới và hơn lúc nào hết, khi đã trở thành thành viên của WTO, các nhà xuất
khẩu Việt Nam cần chủ động tìm đến các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ để tìm cơ
hội. Các nhóm hàng được các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ quan tâm và kỳ vọng ở
các nhà xuất khẩu Việt Nam là đồ gỗ gia dụng, giày da, thực phẩm, hàng may
mặc, hàng thủ công mỹ nghệ và quà tặng lưu niệm. Ngoài ra, hàng dệt gia
đình (các loại màn cửa, bao gối, chăn, ga…) cũng có thể xuất khẩu và tiêu thụ
tốt tại Hoa Kỳ. Hàng thủ công của các dân tộc thiểu số, có tính chất đặc
biệt… cũng có thể là một mặt hàng xuất khẩu thế mạnh, nếu các nhà xuất
khẩu Việt Nam nắm bắt tốt thị hiếu.
Hoa Kỳ là một thị trường hỗn hợp, đa dạng nhu cầu về chủng loại, chất
lượng và giá cả hàng hóa. Vì thế các nhà xuất khẩu chỉ cần nắm bắt được nhu
cầu và phân khúc thị trường là không sợ thất bại. Là một quốc gia công
Báo cáo thực tập tổng hợp 7
Khoa Kế hoạch & phát triển
nghiệp, người Mỹ thích sự sẵn sàng, thuận tiện, nhanh chóng. Chẳng hạn, với
mặt hàng quà tặng, người Mỹ chuộng những sản phẩm có sẵn bao bì đóng
gói, đến mua là có ngay, chứ không cần phải mất thời gian chờ đợi và đó là
điều các nhà xuất khẩu cần phải nắm bắt.
Khi hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã có hiệu lực, Việt Nam
được hưởng ưu đãi MFN đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. như
vậy triển vọng tăng mạnh khối lượng xuất khẩu hàng hoá sẽ rất lớn. Điều đó
ngành may mặc sẽ có điều kiện thu được ngoại tệ lớn, góp phần không nhỏ
trong việc phục vụ các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Xuất khẩu hàng dệt may những tháng đầu năm xuất khẩu vào thị
trường Mỹ, dù sụt giảm chút ít so với một số thị trường khác, song đây vẫn
tiếp tục là số 1 của hàng dệt may Việt Nam với kim ngạch chiếm 57% tổng
giá trị xuất khẩu mặt hàng này. Tiếp theo Mỹ là các thị trường EU chiếm

18%, Nhật Bản với 9%.
Sự đánh giá cao từ các khách hàng nhập khẩu dành cho chất lượng sản
phẩm và việc bảo đảm thời gian giao hàng của các nhà xuất khẩu Việt Nam
đã đẩy lượng đơn đặt hàng tăng nhiều trong năm nay. Trong đó, lượng đơn
hàng giá trị cao cũng tăng, doanh nghiệp sản xuất giảm bớt một phần khó
khăn do nhiều doanh nghiệp đặt hàng tăng giá gia công và giá xuất khẩu
khoảng 10-15%.
Theo Tổng cục Thống kê, 8 tháng đầu năm 2008, hàng dệt may đạt kim
ngạch xuất khẩu đạt trên 6,04 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
Dệt may vẫn duy trì ngôi vị thứ hai trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam, sau dầu thô.
Các Nhà Nhập Khẩu Hoa Kỳ Hạn Chế Mua Hàng Trung Quốc: Đây là
một tiềm năng rất lớn cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị
trường này.
Báo cáo thực tập tổng hợp 8
Khoa Kế hoạch & phát triển
Xuất khẩu hàng may mặc Trung Quốc sang Hoa Kỳ giảm sút nghiêm
trọng trong năm 2008 do chi phí sản xuất cao hơn, đồng NDT tăng giá nhanh
và cạnh tranh tăng lên từ Việt nam trong khi quota đối với phần lớn các cat
nhậy cảm vẫn được duy trì cho tới cuối năm. Nhập khẩu hàng may mặc của
Hoa Kỳ từ Trung Quốc đã giảm 15% trong tháng 12/07, có thể cho thấy khả
năng chuyển các đơn hàng sang các nước khác trong thời gian tới. Và Việt
Nam chúng ta sẽ co cơ hội rất lớn để kí kết các đơn hàng này.
* Nhiều nhà xuất khẩu trên thế giới xuất khẩu vào Hoa kỳ
Giá nhập khẩu đối với mặt hàng dệt may đang có xu hướng tăng lên. Các
nước xuất khẩu hàng dệt may chính sang Hoa Kỳ là Trung Quốc, Mexico, Ấn
Độ, Việt Nam, Indonesia… Trung Quốc là nước cung cấp nhóm hàng này lớn
nhất cho Hoa Kỳ cả về số lượng lẫn kim ngạch.
Nhập khẩu dệt may từ Mexico, nước cung cấp lớn thứ hai của Hoa Kỳ,
năm 2007 giảm cả về số lượng và kim ngạch. Trong khi đó, mặc dù mới chỉ

chiếm 13,6% về kim ngạch và 14,9% về số lượng của thị trường nhập khẩu
dệt may của Hoa Kỳ, song sản phẩm dệt may đến từ các nước Đông Nam Á,
Ấn Độ, Pakistan đang tăng mạnh.
* Xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trên thị trường Hoa kỳ
Trong xu thế toàn cầu hoá, sản phẩm chỉ có thể khẳng định vị trí và năng
lực cạnh tranh của mình bằng chính chất lượng. Những đặc tính cơ bản ảnh
hưởng đến chất lượng hàng dệt may bao gồm: nhãn mác, kiểu dáng, kích cỡ,
độ bền và sự tiện lợi khi sử dụng.
Người tiêu dùng Mỹ rất thực tế, họ luôn cân nhắc và tính toán sao cho
công việc mình làm đem lại hiệu quả cao nhất. Về thị trường tiêu thụ hàng dệt
may, cho dù người tiêu dùng Mỹ coi trọng vấn đề nhãn mác, giới trẻ đặc biệt
thích tiêu dùng đồ hiệu nhưng họ cũng rất nhạy cảm với giá cả, tuy nhiên họ
Báo cáo thực tập tổng hợp 9
Khoa Kế hoạch & phát triển
vẫn có thể trả nhiều tiên cho những sản phẩm có chất lượng tốt mang tính
sang tạo.
Về chất lượng sản phẩm: Theo thói quen mua hàng truyền thống, người
tiêu dùng thường đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua thương hiệu, nhãn
mác sản phẩm. Thương hiệu nổi tiếng mang ý nghĩa quan trọng để tạo nên
sức hấp dẫn của sản phẩm, song ngày nay người tiêu dùng Mỹ không quá coi
trọng thương hiệu nữa, chỉ có khoảng 32% hách hàng luôn chú ý vào nhãn
mác sản phẩm trước khi họ quyết định mua hàng. Người tiêu dùng Mỹ quan
tâm tới chất lượng nhiều hơn, 60% người tiêu dùng tìm hiểu kỹ chất lượng sợi
trước khi quyết định mua hàng, chỉ 17% khách hàng sử dụng những sản phẩm
may mặc của một hãng sản xuất duy hất mà họ cho là nổi tiếng thế giới, tỷ lệ này
rơi vào các ngôi sao điện ảnh, ca sĩ, người mẫu hoặc những người nổi tiếng.
Thời trang và thị hiếu về màu sắc: Tính cách người dân Mỹ phóng
khoáng, điều này cũng có ảnh hưởng lớn tới sự lựa chọn sản phẩm của họ. Họ
mua hàng phần nhiều theo cảm hứng, thế nên nếu không tìm thấy loại sản
phẩm mà mình ưa chuộng thì có thể mua một loại sản phẩm khác để thay thế.

Tuy nhiên khả năng thích ứng với các loại sản phẩm khác nhau cũng tuỳ
thuộc vào lứa tuổi, khi tuổi càng cao thì khả năng thích ứng này càng giảm.
Người tiêu dùng Mỹ rất phong phú: Trong xu hướng tiêu dùng người Mỹ
có sở thích mua những sản phẩm mang phong các cổ điển hơn những sản
phẩm mốt thời thượng, mặc dù tỷ lệ khách hàng thích dùng sản phẩm mốt
thời thượng khá cao, chiếm khoảng 20% tổng số người tiêu dùng hàng dệt
may, đứng thứ nhì thế giới chỉ sau Đức (30%), hơn hẳn các trung tâm thời
trang lớn như Anh và Italia (tỷ lệ này là khoảng 15%), Pháp (17%). Quần áo
mang phong cách cổ điển chiếm giữ thị phần đáng kể tại thị trường Mỹ -
khoảng 79%, chứng tỏ thị trường tiềm năng này có nhu cầu rất phong phú, đối
tượng phục vụ khá rộng: giới sành điệu và cả những ngưòi bình dân.
Báo cáo thực tập tổng hợp 10
Khoa Kế hoạch & phát triển
Người Mỹ rất nhạy cảm với những thay đổi theo mùa vụ: Người tiêu
dùng có thói quen là họ quyết định mua hàng theo thời vụ. Bắt đầu mỗi mùa
tiêu thụ, họ sẽ đi mua hàng ngay chứ không chờ đến cuối mùa mới mua với
giá rẻ hơn. Cho nên, yếu tố giao hàng đúng thời hạn, bắt kịp thời vụ cũng rất
quan trọng trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ.
Do nhiều nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại với nhiều sắc tộc, nhiều tôn
giáo, tín ngưỡng vì vậy thị hiếu người dân Mỹ rất đa dạng. Với hàng hoá là
những đồ dùng cá nhân như dày dép, quần áo người Mỹ thích sự đơn giản,
thoải mái. Thị trường mỹ khá dễ tính về sản phẩm may song lại rất khó tính
về sản phẩm dệt và chất lịệu sản phẩm dệt. Người Mỹ thích vải sợi bông
cotton không nhàu, khổ rộng. Ngưòi Mỹ đang có xu hướng thay đổi tiêu dùng
từ các loại sản phẩm dệt thoi sang các sản phẩm dệt kim vì những ưu điểm
mới của sản phẩm này
3. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ
Hoa kỳ_ nước có nền khoa học công nghệ rất phát triển và nguồn vốn
dồi dào vào bậc nhất trên thế giới, một thị trường đầy tiềm năng. Việc xuất
khẩu hàng dệt may sang thị trường này là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp

làm ăn với các đối tác Hoa Kỳ. Giải quyết thị trường đầu ra rất lớn cho doanh
nghiệp.
Việt Nam đang cố gắng mở rộng và xâm nhập vào thị trường thế giới.
Với lợi thế về nguồn nhân công giá rẻ và những kinh nghiệm lâu năm với các
thị trường lớn như EU, Canada, Nhật Bản….vậy nên Hoa kỳ - một thị trường
đầy tiềm năng này hoàn toàn chúng ta có thể xâm nhập và mở rộng được.
Các sản phẩm dệt may được sản xuất tại Hoa Kỳ chủ yếu tập trung ở một
số nhóm hàng chính như thêu ren, đồ dùng trong nhà như thảm, rèm cửa và
vải bọc cho các sản phẩm nội thất. Các công ty lớn của Hoa Kỳ chủ yếu
chuyên sâu vào các dòng sản phẩm chất lượng cao, trong khi đó các công ty
Báo cáo thực tập tổng hợp 11
Khoa Kế hoạch & phát triển
vừa và nhỏ lại thành công với những sản phẩm dệt may hàng loạt. Mặc dù
ngày càng “tự động hoá” trong sản xuất nhưng số lượng lao động sử dụng
trong ngành dệt may của Hoa Kỳ vẫn rất lớn với thu nhập hàng năm khoảng
gần 170.000 USD.
Các nguyên liệu chính được sử dụng trong ngành sản xuất vải sợi của
Hoa Kỳ là len, bông (cotton) và sợi nhựa tổng hợp. Vải chiếm 40% doanh thu
của ngành sản xuất dệt may Hoa Kỳ, chỉ sợi chiếm 20%, các loại thảm chiếm
20%, và chăn màn, rèm cửa chiếm 20%.
Nhu cầu nhập khẩu: Với những mặt hàng chính như quần áo may sẵn,
hàng thêu ren, trang trí và vải sợi, nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ chỉ tăng
1,8% trong năm 2007. Trong đó các sản phẩm dệt tăng 4,5%, hàng thêu ren
tăng 3,5%, tuy nhiên nhập khẩu vải giảm 2,9% và sợi giảm 9,8%. Hàng thêu
ren vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn nhất trong tổng sản lượng nhập khẩu hàng
dệt may với 43,9%. Mặc dù vậy, các sản phẩm từ vải dệt đang ngày càng trở
nên quan trọng trong những năm qua với thị phần tăng đều theo các năm từ
16,8% năm 1997 lên đến 33,7% năm 2007.
Về chất liệu, cotton hiện vẫn rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ. Năm 2007,
số lượng nhập khẩu mặt hàng quần áo chất liệu cotton chiếm 60,2% tổng số

lượng hàng dệt may của Hoa Kỳ.
Theo thống kê của Bộ thương mại Hoa Kỳ, xuất khẩu dệt may của Trung
Quốc sang Hoa Kỳ đang giảm xuống, thị phần của Trung Quốc đang thu hẹp
lại, tạo cơ hội cho các sản phẩm dệt may đến từ Ấn Độ, Indonesia và Việt
Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang
Hoa Kỳ tăng hơn 20%, Ấn Độ tăng 8,2%, trong khi đó Trung Quốc chỉ tăng
0,2%, thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng 14,8% năm 2007.
Báo cáo thực tập tổng hợp 12
Khoa Kế hoạch & phát triển
4. Các hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa kỳ
Mặc dù giá nguyên liệu tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, Việt
Nam vẫn xuất khẩu được 2,4 tỉ USD kim ngạch sản phẩm dệt may sang thị
trường Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
Hoa Kỳ hiện là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, tiếp đó
là EU (780 triệu USD) và Nhật Bản (360 triệu USD).
Hiện nay, Hội đồng Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đang xếp Việt
Nam nằm trong top 5 nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ. Theo Bộ
Công Thương Việt Nam, mặc dù trong thời gian gần đây thị trường dệt may
trên thế giới có nhiều biến động, song ngành dệt may của Việt Nam vẫn đặt ra
chỉ tiêu doanh thu xuất khẩu năm 2008 đạt 9,5 tỉ USD, trong đó xuất khẩu
sang Hoa Kỳ đạt 5,4 tỉ USD. Kim ngạch này sẽ đưa Việt Nam trở thành nhà
xuất khẩu dệt may lớn thứ 2 vào Hoa Kỳ, chỉ sau Trung Quốc (6,1 tỉ USD).
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đang
tăng cường xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao và các loại sản phẩm mới
nhằm tăng thêm lợi nhuận và giảm thiểu những tác động xấu của hệ thống
giám sát hàng dệt may của Hoa Kỳ.
Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may khoảng 40%, ngành dệt
may của Việt Nam có nhiều triển vọng tốt trong hoạt động xuất khẩu trong
tương lai.
Các doanh nghiệp Việt Nam phải tập trung hơn nữa vào việc đổi mới cơ

cấu, mẫu mã sản phẩm, phát triển các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng
cao. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội Dệt may
Việt Nam và Bộ Công Thương theo dõi sát diễn biến, cũng hư chấp hành
nghiêm túc các yêu cầu của phía Hoa Kỳ, để tránh tình hình bất lợi đối với
hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Báo cáo thực tập tổng hợp 13
Khoa Kế hoạch & phát triển
Thời điểm đầu năm 2007 lo ngại Hoa Kỳ áp dụng cơ chế giám sát đối
với hàng dệt may Việt Nam sẽ dẫn đến nguy cơ hàng dệt may Xuất Khẩu của
Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá, các nhà Nhập Khẩu Hoa Kỳ đã rút
hợp đồng làm các Doanh Nghiệp dệt may Việt Nam rất khó khăn.
Việc trở lại của những khách hàng lớn từ Hoa Kỳ đó là biểu hiện có dấu
hiệu tốt, bởi các cơ quan quản lý của Việt Nam cùng các Doanh Nghiệp dệt
may đã chủ động áp dụng các biện pháp và hạn chế được tác động của cơ chế
giám sát của phía Hoa Kỳ.
Tốc độ tăng trưởng hàng dệt may Xuất Khẩu của Việt Nam cũng ở mức
độ vừa phải mà phía Hoa Kỳ chấp nhận được. Do đó, khả năng hàng dệt may
Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá ít xảy ra.
Nhận thức được mối nguy hại nếu để phía Hoa Kỳ áp dụng biện pháp
chống bán phá giá, các Doanh Nghiệp đã chấp hành tốt những yêu cầu từ phía
cơ quan quản lý, do đó không để xảy ra trường hợp gian lận.
Các đơn hàng dệt may từ các nhà NK Hoa Kỳ đã tạo việc làm cho nhiều
DN, nhiều hợp đồng đã được ký kết và điều đáng quan tâm là trong những
đơn hàng quay trở lại với ngành dệt may, có rất nhiều hợp đồng không thuộc
nhóm mặt hàng nằm trong diện bị giám sát từ phía Hoa Kỳ. Điều đó cho thấy
các DN đã chủ động tìm được những mặt hàng mới để XK vào thị trường này
chứ không phụ thuộc vào những Cat "nóng" vốn được coi là những mặt hàng
XK chủ lực của ngành dệt may VN đối với thị trường Hoa Kỳ.
Năm 2008, xuất khẩu dệt may Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng mạnh.
Dệt may Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với

năm 2007.
Đặc biệt, vấn đề khó khăn nhất vẫn là những rào cản đến từ thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ. Năm 2008 là một năm “căng thẳng”
đối với ngành dệt may với những “rào cản” đến từ thị trường chủ lực Hoa Kỳ.
Báo cáo thực tập tổng hợp 14
Khoa Kế hoạch & phát triển
5. Các chính sách thương mại của Hoa kỳ
* Quy định về nhãn hiệu thương mại ở Mỹ.
Luật về nhãn hiệu ở Mỹ khác của ta ba điểm:
- Luật ở đó xuất phát từ ba nguồn: (I) những bản án do các toà án tuyên,
gọi là thông luật, (II) luật cho các tiểu bang ban bố, (III) luật do Quốc hội liên
bang ban hành. Ở nước ta chỉ có một nguồn là Bộ luật dân sự.
- Luật của liên bang tiếp nối truyền thống của thông luật nên nó duy trì
một số quy định của thông luật. Điều này làm cho điều kiện để cho nhãn hiệu
được bảo hộ ở bên Mỹ khác với của ta. Ở Việt Nam, chủ nhãn hiệu đặt ra một
nhãn hiệu, xin đăng ký bảo hộ, nếu không có ai đăng ký trước thì nhãn hiệu
được bảo hộ. Điều này được gọi là bảo hộ theo ngày ưu tiên. ở Mỹ phải sử
dụng nhãn hiệu trong giao thương (đã dùng hay dự định sẽ dùng) thì mới xin
bảo hộ được và nếu không dùng là mất, dù thời gian bảo hộ vẫn còn.
- Người vi phạm nhãn hiệu ở Mỹ chịu nhiều hình phạt hơn.
Ngoài sự khác biệt này thì việc đăng ký sử dụng và bảo vệ không khác
nhau lắm.
* Quy định về chống bán phá giá, trợ giá của Mỹ.
Vấn đề bán phá giá, trợ giá và các biện pháp chống trợ giá của Mỹ được
điều chỉnh bởi Luật thuế1930 và năm 1995, được sửa đổi thành Luật Hiệp
định vòng đàm phán Urugoay khi kết thúc vòng đàm phán Urugoay /GATT.
Trợ giá là trường hợp các nhà sản xuất được Chính phủ trợ cấp trực tiếp
hoặc gián tiếp và việc nhập khẩu hàng hoá được trợ cấp đó gây ảnh hưởng
hoặc đe doạ gây ảnh hưởng tới nền công nghiệp sản xuất sản phẩm tương tự
của Mỹ.

Bán phá giá là việc hàng hoá nhập khẩu được bán với giá thập hơn với
giá công bằng, gây ảnh hưởng hoặc đe doạ gây ảnh hưởng đến ngành công
Báo cáo thực tập tổng hợp 15
Khoa Kế hoạch & phát triển
nghiệp trong nước của nước nhập khẩu sản xuất mặt hàng tương tự. Mỹ có
quyền áp đặt thuế chống phá giá lên hàng nhập khẩu để bù lại mức phá giá.
Luật thuế chống phá giá: Luật thuế chống phá giá được sử dụng rộng rãi
hơn luật thuế chống trợ giá. Thuế chống phá giá được áp dụng đối với hàng
nhập khẩu khi nó được xác định là hàng nước ngoài được bán “phá giá” vào
Hoa Kỳ, hoặc sẽ bán phá giá ở Hoa Kỳ với giá “thấp hơn giá trị thông
thường”.
Luật thuế chống phá giá được sử dụng rộng rãi hơn luật thuế chống trợ
giá. Thuế chống phá giá được áp dụng đối với hàng nhập khẩu khi nó được
xác định là hàng nước ngoài được bán “phá giá” vào Hoa Kỳ, hoặc sẽ bán phá
giá ở Hoa Kỳ với giá “thấp hơn giá trị thông thường”. Thấp hơn giá trị thông
thường có nghĩa là giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ thấp hơn giá bán của hàng hóa
đó ở nước xuất xứ hoặc ở nước thứ 3 thay thế thích hợp.
Thuế chống phá giá được áp dụng khi có đủ hai điều kiện (1) DOC phải
xác định hàng nước ngoài đang được bán phá giá hoặc có thể sẽ được bán phá
giá ở thị trường Hoa Kỳ, và (2) USITC phải xác định hàng nhập khẩu được
bán phá giá đang gây thiệt hại vật chất hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất hoặc
ngăn cản hình thành ngành công nghiệp tương tự tại Hoa Kỳ.
Cũng giống như trường hợp luật thuế chống trợ giá, các thủ tục điều tra
về bán phá giá được tiến hành khi có đơn khiếu kiện của một ngành công
nghiệp hoặc do DOC tự khởi xướng.
Thuế chống bán phá giá sẽ được ấn định bằng mức chênh lệch giữa “giá
trị thông thường” và mức giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. DOC sẽ xác định giá trị
thông thường của hàng nhập khẩu bằng một trong ba cách. Theo thứ tự ưu
tiên là:
(1) Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa,

(2) Giá bán hàng hóa sang thị trường thứ ba,
Báo cáo thực tập tổng hợp 16
Khoa Kế hoạch & phát triển
(3) “Giá trị tính toán” của hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất cộng với
các khoản lợi nhuận, tiền hoa hồng bán hàng, và các chi phí hành chính khác
như đóng gói.
Hiện nay, vấn đề khó khăn nhất vẫn là những rào cản đến từ thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hoa kỳ. Thị trường Hoa kỳchiếm tới 55%
tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may. Tuy nhiên, đến nay Hoa kỳ vẫn tiếp tục
duy trì chương trình giám sát. Quyết định mới đây cho thấy, Hoa kỳ không
giảm bớt số mặt hàng nằm trong diện giám sát và cũng không nêu các tiêu
chí, điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng
dệt may Việt Nam
Một cơ chế tự giám sát vẫn sẽ tiếp tục được duy trì. Thay cho chế độ
giấy phép xuất khẩu là việc kết nối dữ liệu thông tin giữa các cơ quan quản lý
như Hải quan, Bộ Công thương, Doanh Nghiệp; duy trì chế độ báo cáo... và
sử dụng công cụ Tổ cơ động giám sát dệt may một cách có hiệu quả.
Trong hoàn cảnh này, cách duy nhất mà Việt Nam có thể chủ động đối
phó là Doanh Nghiệp và các cơ quan Chính phủ Việt Nam phải hợp tác trong
một cơ chế tự điều tiết xuất khẩu. Việt Nam nên quan tâm đến các đơn hàng
giá cao, tránh những đơn hàng giá thấp gây chú ý cho các cơ quan kiểm soát
Hoa Kỳ.
Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ cho phép sử dụng các phương pháp
kinh tế thị trường để xác định giá trị bình thường trong các trường hợp kinh tế
phi thị trường nếu như ngành công nghiệp liên quan ở nước bị kiện chứng
minh được là ngành công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Các tiêu
chí để xác định ngành công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường gồm:
·Hoàn toàn không có sự can thiệp của chính phủ vào việc định giá và số
lượng sản xuất;
·Ngành công nghiệp không phải do nhà nước sở hữu;

Báo cáo thực tập tổng hợp 17
Khoa Kế hoạch & phát triển
·Tất cả các chi phí đầu vào kể cả vật chất và phi vật chất (trừ một phần
không đáng kể) tạo thành tổng giá trị hàng hóa phải được thanh toán theo giá
thị trường.
Trên thực tế, những tiêu chí này rất khó thỏa mãn và rất hiếm có trường
hợp một ngành công nghiệp ở nước có nền kinh tế phi thị trường được coi là
hoạt động theo cơ chế thị trường để được áp dụng các phương pháp kinh tế thị
trường trong điều tra bán phá giá vào Hoa Kỳ.
Báo cáo thực tập tổng hợp 18
Khoa Kế hoạch & phát triển
Chương II: Thực Trạng Xuất Khẩu Hàng May Mặc Của Công
Ty Cổ Phần may 10 sang Thị Trường Hoa kỳ
I. Khái quát chung về Công ty cổ phần may 10
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty May 10
Công ty cổ phần May 10 tiền thân là các xưởng may quân trang đặt tại
chiến khu Việt Bắc. Các xưởng may ra đời năm 1946 trong những ngày sục
sôi không khí toàn quốc kháng chiến. Vào thời điểm đó, các xưởng may này
có nhiệm vụ sản xuất quân trang bộ đội trong công cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Từ những xưởng may nhỏ bé, với nhà xưởng, thiết bị thô sơ, trình độ
quản lý lạc hậu, sản xuất theo kế hoạch nhà nước giao, đến nay May 10 đã trở
thành một trong những doanh nghiệp may mặc hàng đầu Việt Nam. Hiện tại
May 10 có 14 xí nghiệp thành viên đặt tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình,
Nam Định, THanh Hoá,Quảng Bình…. Với hơn 8000 lao động, nhà xưởng
khang trang, máy móc thiết bị hiện đại. Cho đến ngày nay Công ty đã trải qua
các giai đoạn phat triển:
* Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946-1954) :
Sau cách mạng tháng 8/1945 do nhu cầu quần áo, mũ… phục vụ bộ đội
hình thành nên các tổ may. Ngày 19/12/1946 sau lời kêu gọi toàn quốc kháng

chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh các xưởng, các nhà máy ở thủ đô Hà Nội
nhất loạt rời lên núi rừng Việt Bắc tổ chức thành hai hệ xưởng sản xuất quân
trang: hệ chủ lực và hệ bán công xưởng. Gọi là hệ chủ lực vì trong các xưởng
này thợ may hầu hết là bộ đội và công nhân quốc phòng. Còn hệ bán công
xưởng là loại xưởng chỉ có một số ít thợ thuộc diện công nhân quốc phòng
làm nòng CSE cốt cho sản xuất, còn lại là thợ thuê từ ngoài vào làm.
Báo cáo thực tập tổng hợp 19
Khoa Kế hoạch & phát triển
Trong thời gian từ năm 1947 đến năm 1949, miền Tây tỉnh Thanh
Hoá thuộc liên khu IV có xưởng chủ lực Yên Sinh đóng ở Cầu Vàng,
huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thuộc Liên khu 3 có cơ sở kéo sợi, dệt vải,
may quần áo… Năm 1947, nghành Quân nhu Liên khu V đã tổ chức 2
xưởng may: Xưởng May tháng 8 ở Quảng Ngãi có 105 công nhân do
đồng chí Nguyễn Duy Triên phụ trách, một tổ sửa chữa may khâu và
máy dệt do đồng chí Nguyễn Đương phụ trách. Năm 1948, Bình trị Thiên
tổ chức 2 xưởng may quân trang ở Đại Lược (Bắc Thừa Thiên) và Mỹ
(Nam Thừa Thiên).
Trong những năm 1951 – 1952, Nha Quân nhu đã tiến hành giải thể các
bán công xưởng may ở Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh BÌnh. X30 – nguyên là
xưởng may của Liên khu III đóng ở Cầu Vàng (Yên Định – Thanh Hoá) và
một số cơ sở may khác được sát nhập vào xưởng may chủ lực X40 (đến năm
1956 xưởng X40 sát nhập với xưởng X10).
Tại chiến khu Việt Bắc, ba xưởng May nhỏ AK1, BK1, CK1 Sáp nhập
lại thành xưởng May Hoàng Văn Thụ, sau đó ít lâu lại đổi tên thành xưởng
May 1 mang bí số là X1. Trong số công nhân may của xưởng X1 ở Việt Bắc
có một số thợ thuê ở làng Cổ Nhuế (ngoại thành Hà Nội) tình nguyện bỏ làng
theo kháng chiến. Họ được Nha Quân nhu tuyển mộ, tập hợp rồi tổ chức
thành nòng cốt của X1. Đến năm 1952, Xưởng X1 ở Việt Bắc được đổi thành
Xưởng May 10 với bí số là X10. Đây chính là tiền thân của Công ty cổ phần
May 10 ngày nay.

* Giai đoạn 1954 – 1960:
Năm 1954 kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, Xưởng May 10
được lệnh trở về Hà Nội để có điều kiện sản xuất tập trng hơn. Đồng thời,
Cục Quân nhu cũng quyết định ghép Xưởng May 40 ở Thanh Hoá vào Xưởng
May 10. Với việc ghép hai đơn vị và trở về Thủ Đô, May 10 đã bước vào một
giai đoạn phát triển mới cao hơn. Sau một thời gian tìm hiểu, xã Hội Xá thuộc
Báo cáo thực tập tổng hợp 20
Khoa Kế hoạch & phát triển
tỉnh Bắc Ninh cũ, nay là Phường Sài Đồng, quận Long Biên, thành phô Hà
Nội được chọn làm cơ sở mới của May 10, vì nơi đây đáp ứng được 2 điều
kiện cơ bản:
Thứ nhất, Hội Xá là cửa ngõ Thủ Đô, tuận tiện về giao thông (sát đường
quốc lộ số 5 và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, gần sân bay Gia Lâm).
Thứ hai, Hội Xá có khu đất hoang (trước là bãi pháo cua quân đội Pháp
và Nhật) rộng gần 20 ha, đủ để xây dựng xí nghiệp lớn, lại không ảnh
hưởngđến sản xuất của bà con nông dân quanh vùng.
Tháng 10/1955, Tổng cục hậu cần tiến hành biên chế cho Xưởng May 10
số lượng 564 cán bộ, công nhân viên. Ngày 26/7/1956, Xưởng May 10 và
Xưởng May 40 được hợp nhất.
Cuối quý IV năm 1956, một bộ phận của May 10 được tách ra để thành
lập Xưởng May 20 chuyên may đo quần áo cán bộ trung, cao cấp của quân
đội đóng ở khu vực Hà Nội. Riêng Xưởng May 10 được Tổng cục hậu cần
giao nhiệm vụ may sẵn quần áo cấp phát từ cấp uý trở xuống.
Đến cuối năm 1956 đầu năm 1957, quy mô Xưởng May 10 được mở
rộng, máy móc được trang bị nhiều hơn với 253 chiếc máy bay, trong đó có
236 chiếc chạy bằng điện . Nhiệm vụ chủ yếu của Xưởng May 10 vẫn là may
quân trang cho quân đội. Yêu cầu về số lượng mặt hàng tuy có nhiều và phức
tạp hơn so với thời kỳ kháng chiến, nhưng với sự cố gắng của toàn bộ cán bộ
công nhân, Xưởng May 10 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, sản xuất
thêm được nhiều loại hàng quân trang đáp ứng nhu cầu của các binh chủng

trong quân đội.
* Giai đoạn từ bao cấp đến làm quen với hạch toán kinh tế (1961
-1964):
Nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, tháng 2/1961, xưởng May 10 được chuyển về bộ Công nghiệp nhẹ.
Báo cáo thực tập tổng hợp 21
Khoa Kế hoạch & phát triển
Toàn bộ nhà Xưởng, máy móc thiết bị va 1092 cán bộ công nhân Xưởng May
10 được Tổng cục hậu cần, Cục Quân nhu bàn giao về đơn vị quản lý mới.
Ngày 20/2/1961, đồng chí Trần Quí Hai (Chủ nhiệm Tổng Cục Hậu Cần)
thay mặt Quân uỷ Trung ương Bộ Quốc phòng tặng “cờ thi đua khá nhất ”
cho tập thể chiến sĩ Xưởng May 10. Từ thời điểm này, nhiệm vụ của Xí
nghiệp là sản xuất theo kế hoạch của Bộ Công nghiệp nhẹ giao. Tuy chuyển
đổi cơ quan chủ quản, nhưng hàng năm, Xí nghiệp May 10 vẫn dành từ 90 –
95% năng lực sản xuất quan trang phục vụ quan đội, 5 – 10% năng lực sản
xuất còn lại cho mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu và dân dụng.
Trong thời kỳ thuộc quân đội quản lý, May 10 sản xuất theo chế độ cung
cấp, ít tính toán chi ly, thiếu thì xin thêm, thừa thì để lại, vốn hết bao nhiêu
cũng được, có cấp trên lo, miễn đảm bảo kế hoạch và thời gian giao hàng cho
quân đội. Sau khi chuyển sang Bộ Công nghiệp nhẹ, chế độ bao cấp dần được
thay thế bằng cơ chế sản xuất kinh doanh có tính toán đến hiệu quả kinh tế,
phải thực hiện hạch toán lỗ, lãi rõ ràng. Đây là sự chuyển đổi không hề dễ
dàng, vì nhiều cán bộ, công nhân May 10 đã quen với nếp sản xuất theo cơ
chế bao cấp trong nhiều năm liền.
Như vậy là chỉ sau ba năm (từ tháng 2/1961 đến tháng 1/1964), kể từ khi
chuyển sang bộ Công nghiệp nhẹ quản lý, May 10từ một đơn vị sản xuất theo
chế độ bao cấp, cách làm ăn vốn theo nếp cũ, đã kịp thích ứng với cơ chế
quản lý mới, sản xuất đã tính đến hiệu quả kinh tế: giá thành sản phẩm phải
rẻ, chất lượng phải tốt. Thời gian đầu Xí nghiệp gặp không ít khó khăn về tổ
chức, nhất là về mặt tư tưởng. nhưng chính truyền thống xây dựng và trưởng

thành trong kháng chiến của tập thể cán bộ công nhân May 10 đã giúp Xí
nghiệp từng bước vượt qua các kho khăn, luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu
kế hoạch sản xuất Nhà Nước giao và xứng đáng là một trong những lá cờ đầu
nghành may mặc trong xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo thực tập tổng hợp 22
Khoa Kế hoạch & phát triển
* Giai đoạn 1965 – 1975 :
Năm 1965, giặc Mỹ thua đau ở chiến trường Miền Nam và đã liều lĩnh
đem không quân ồ ạt đánh phá Miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của
Miền Bắc cho Miền Nam. Không quân Mỹ tập trung đánh bom vào những
tuyến đường giao thông huyết mạch của Miền Bắc, các cơ sở kinh tế, cơ quan
xí nghiệp hòng làm tê liệt nền kinh tế, đưa Miền Băc” trở lại thời kỳ đồ đá”.
May 10 nằm trong khu vực kinh tế - quân sự quan trọng, sát quốc lộ 5 nối Hà
Nội với Thành Phố cảng Hải Phòng, gần Tổng kho 205 của Tổng cục Hậu
cần, Tổng kho xăng dầu, Sân bay Gia Lâm…. Khu vực này chính là mục tiêu
đánh phá hang đầu của Không quân Mỹ.
Thực hiện phong trào do Bộ Công nghiệp nhẹ phát động, May 10 đã cử
một bộ phận cán bộ lãnh đạo và công nhân viên lành nghề lên Hà Bắc, xây
dựng Xí nghiệp May X200 tại Đáp cầu - Bắc Ninh để tăng them năng lực sản
xuất cho quốc phòng. Sau này Xí nghiệp May X200 tách ra hạch toán độc lập
và nay là Công ty Cổ phần may Đáp Cầu.
Ngoài việc chiến đấu bảo vệ sản xuất, May 10 hàng năm đều thực hiện
đúng nghĩa vụ quân sự đối với Tổ quốc. Thời gian này, Xí nghiệp hoàn thành
tốt hai đợt tuyển quân: đợt một gồm 8 công nhân viên chức, đợt hai gồm 9
cháu là con em cán bộ của Xí nghiệp.
Trong trời gian 1973 – 1975, Xí nghiệp May 10 được cấp trên giao
nhiệm vụ sản xuất quân trang số lượng lớn phục vụ quân giải phóng và bộ đội
Miền Bắc. Cả Xí nghiệp sống lại không khí tưng bừng, náo nhiệt như thời
gian chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ 20 năm về trước. Cả xí nghiệp hăng
say sản xuất vì tiền tuyến lớn, làm việc không biết mỏi, không quản ngày

đêm. Các tổ, các phân xưởng thực hiện để động viên mình: “ Ngày không giờ,
tuần không thứ”. “Hễ bộ đội cần đến quân trang là May 10 có ngay.”
Báo cáo thực tập tổng hợp 23
Khoa Kế hoạch & phát triển
* Giai đoạn từ 1975 đến 1986:
Sau khi Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, xí
nghiệp May 10 chuyển sang bước ngoặt mới trong nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh. Đó là chuyển từ may quân trang phục vụ quân đội sang làm hàng xuất
khẩu. Thị trường chủ yếu là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Quy trình và tiêu chuẩn chất lượng làm hàng xuất khẩu rất phức tạp, khắt khe.
Từ kiểu dáng, màu mắc, đường kim, mũi chỉ đến bao gói sản phẩm đều được
quy định chặt chẽ trong hợp đồng và buộc Xí nghiệp phải thực hiện chuẩn
xác. Nhiều khó khăn mới nảy sinh: tay nghề của người lao động chưa cao,
thiết bị máy móc của Xí nghiệp so với các nước có kỹ thuật tiên tiến trên thế
giới còn lạc hậu. Công tác quản lý kinh doanh còn non yếu dẫn đến năng suất
thấp. chất lượng sản phẩm chưa thoả mãn được thị hiếu của khách hàng.
Mặt khác trong những năm này, nền kinh tế non trẻ Việt Nam bị tàn phá
nặng nề của chiến tranh, chế độ quan liêu bao cấp kìm hãm sự phát triển, xuất
hiện nhiều tư tưởng chủ quan duy ý chí, đời sống của nhân dân lao động chưa
được cải thiện…. Thực tế này đã ít nhiều ảnh hưởng đến lòng tin và nhiệt tình
lao động của công nhân, viên chức. Nhằm tháo gỡ khó khăn, Đảng ủy cùng
Ban giám đốc Công ty đã chủ động đề ra định hướng hoạt động và cùng lúc
phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp:
Khơi dậy phong trào thi đua ái quốc mà Bác Hồ phát động
Đổi mới thiết bị và công nghệ hiện đại
Tiếp cận thị trường may mặc thế giới để tìm bạn hàng mới.
Bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ và trình độ quản lý cho đội nhũ cán bộ
công nhân.
Vay vốn ngân hàng, tận dụng vốn tự có , tranh thủ sự giúp đỡ của khách
hàng để trang bị thiết bị mới.

Báo cáo thực tập tổng hợp 24
Khoa Kế hoạch & phát triển
Mở nhiều lớp đào tạo công nhân mới, bồi dưỡng tay nghề cho công nhân
cũ nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật, cử cán bộ đi học tập trung hoặc tại chức
để nâng cao trình độ quản lý.
Kết quả là sản lượng , chất lượng sản phẩm cứ tăng dần hàng năm. Đặc
biệt, năm 1984, hai mặt hàng xuất khẩu sang Công hoà dân chủ Đức và
Bungari đượcđặt gia công tăng gấp đôi so với năm 1983. Xí nghiệp được
Tổng Công ty Xuất nhập khẩu hàng Dệt May gửi công văn khen ngợi vì đã
đảm bảo tốt các yêu cầu, quy định về tiêu chuẩn, quy cách chất lượng sản
phẩm, thời hạn giao hàng.
Từ năm 1975 đến năm 1985, mỗi năm xí nghiệp May 10 đã xuất ra thị
trường các nước xã hội chủ nghĩa từ 4 đến 5 triệu áo sơ mi. Mức tăng trưởng
bình quân hàng năm 30%, nộp ngân sách tăng từ 10 – 15%/ năm, thu nhập
bình quân tăng từ 5 – 10%/ năm.
* Giai đoạn từ 1986 đến nay :
Năm 1986 được xem là một mốc son lịch sử đôi với nền kinh tế Việt
Nam. Từ sự tỏng kết tình hình thực tiễn, phân tích những bài học thành công
và những tồn tại của giai đoạn 1976 – 1985, những nhận thức mới về xu thế
cvà con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội lần thư VI
của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới mà trước hết là sự đổi mới tư duy kinh
tế.
Là một doanh nghiệp Nhà nước gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phát triển
của đất nước, Xĩ nghiệp May 10 quán triệt tinh thần đổi mới trong tư duy kinh
tế và đường hướng hoạt đông sản xuất kinh doanh. Chú trọng sản xuất và kinh
doanh hàng may mặc xuất khẩu, những năm 1986 – 1990 May 10 đẩy mạnh
xuất khẩu vào thị trường Liên Xô và Đông Âu theo nội dung các Nghị định
thư hàng hoá ký kết giữa Việt Nam và các nước trong hội đồng tương trợ kinh
tế SEV.
Báo cáo thực tập tổng hợp 25

×