Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

tìm hiểu tục lệ ăn trầu trong đời sống văn hóa cổ truyền của người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.72 KB, 38 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ

NIÊN LUẬN
TÌM HIỂU TỤC LỆ “ĂN TRẦU” TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Bảo Trang
Sinh viên thực hiện : Trần Thị Mai
Lớp : K49 Lịch sử

Hà Nội -2007
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta có 54 dân tộc sinh sống, đa dân tộc,
đồng thời cũng đa bản sắc dân tộc , mỗi dân tộc có một nét văn hoá
riêng, nhưng do sự giao thoa, tiếp xúc giữa các nền văn hoá, mà các
dân tộc này có những phong tục, tập quán giống nhau. Trong đó có
tục lệ ăn trầu, một phong tục văn hoá truyền thống của người Việt,
không chỉ dân tộc kinh ăn trầu mà ở một số dân tộc khác cũng ăn
trầu, mà còn dùng trầu cau vào các nghi lễ lớn như cưới xin, cúng gia
tiên, đám ma, ngày lễ tết… có lẽ trầu cau là một thứ mà không thể
thiếu được trong văn hoá cổ truyền của dân tộc ta. Mặc dù ngày nay,
một số nghi thức đã mất dần đi, thêm vào đó là những nét văn hoá
hiện đại, tục lệ ăn trầu bắt nguồn từ sự tích trầu cau được trích trong
Lĩnh Nam chích quái, mà Trần Thế Pháp đã nêu ra. Gắn liền với tục
ăn trầu là những hiện tượng văn hoá phong phú mà người xưa thường
làm. Qua tục ăn trầu ta có thể hiểu thêm về nếp sống, một nếp cảm
nghĩ, mối quan hệ tình cảm giữa những người lao động cùng những
ước mơ lành mạnh của họ bắt nguồn từ xa xưa. Ngày nay, số người


ăn trầu ngày càng ít dần, tục ăn trầu sẽ không còn trong xã hội tương
lai, nhưng những giá trị tinh thần chân chính biểu hiện qua tục ăn
trầu thì vẫn tồn tại. Tất cả những vốn quý đó cần được nghiên cứu và
sử dụng nhằm phát huy cao độ những di sản văn hoá quá khứ để góp
phần cải tạo và xây dựng nếp văn hoá mới ở nước ta. Vì vậy em đã
chọn đề tài trên.
Đây là một đề tài mà nhiều nhà sử học hay các nhà văn hoá đã
nghiên cứu và tìm tòi. Nghiên cứu tục lệ ăn trầu của người Việt để
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiểu được một phần trong phong tục văn hóa cổ truyền của người
Việt.
-Nghiên cứu tục lệ ăn trầu của người Việt, em đi sâu và tìm
hiểu tục lệ ăn trầu trong văn hóa cổ truyền của người Việt. Từ đó
hiểu thêm bản sắc văn hóa của người Việt Nam.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I. NGUỒN GỐC TỤC LỆ ĂN TRẦU.
Có từ sự tích trầu cau, có 2 anh em sinh đôi là Tân và Lang, do
một hiểu lầm với người chị dâu là Lưu Liên nên người em là Lang đã
bỏ đi đến một dòng suối vì sầu não, cô đơn mà thác, biến thành phiến
đá vôi.
-Tục ăn trầu có từ rất sớm, nhưng chưa biết từ thời điểm nào.
Phải đợi đến tận cuối thế kỷ XV, sách Lĩnh Nam chính quái của Trần
Thế Pháp ra đời, nó mới được ghi chép thành một truyện tích rõ ràng,
có một nguồn gốc mang nhiều ý nghĩa thâm thuý.
Sau khi đọc sự tích trầu cau trong Lĩnh Nam Chích Quái, ta
nhận thấy một truyện được ghi chép lại không những có kết cấu chặt
chẽ, lại phối hợp được cả những yếu tố hiện thực lẫn huyền ảo một
cách khéo léo  như thế tác giả của nó đã khiến một câu truyện vụn

vặt, còn mờ nhạt trong dân gian trở thành một truyện cổ tích có đầu
đuôi, vừa lý thú hấp dẫn, vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa thâm thuý.
+ Ở giai đoạn đầu truyện có tính hiện thực với dấu vết hiện đại,
với những tên tuổi rõ ràng, có ý nghĩa, với những tình tiết hợp lý, tự
nhiên. Ở giai đoạn cuối, truyện trở nên huyễn hoặc hai anh em họ
Cao và vợ người anh vì không hiểu nhau nên đã tự chia lìa chỉ đến
khi cả ba người cùng chết đi và chết bên nhau, người anh hoá cây
cau, người em hoá phiến đá, vợ người anh hoá cây trầu không, họ
mới có được sự cảm thông hoàn toàn, từ nay họ sẽ mãi mãi gắn bó
bên nhau và kết hợp làm một qua miếng trầu tình nghĩa , một dòng
nước đỏ tươi như máu được tiết ra, tượng trưng cho tình gia đình
muôn đời thiêng liêng, bền chặt.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trần Thế Pháp, cũng như các tác giả đời Lê khác, khi viết lại
sự tích trầu cau nói riêng, dàn dựng lại những truyện huyền thoại dân
gian trong Lĩnh Nam Chích Quái nói chung, hiển nhiên đã có hậu ý
đề cao những giá trị cũ của dân tộc với mục đích phổ biến để giáo
dục con em theo tinh thần 24 điều dụ của Lê Thánh Tông. Có lẽ bắt
đầu từ đấy (cuối thế kỷ XV) các truyện cổ tích, thần thoại nói chung,
truyện trầu cau nói riêng mới được truyền bá rộng rãi trong toàn
quốc.
Riêng trong sự tích Trầu cau, các tác giả muốn giải thích cho
mọi người rằng, dân tộc ta đã có một đời sống văn hoá khá cao ngay
từ xưa từ thời Hùng Vương kia (Theo Đại việt sử lược, vào khoảng
thế kỷ VII trước Tây lịch). Ngay từ thuở đó, xã hội Việt Nam có
truyền thống lấy gia đình làm gốc, anh em biết thương quý nhau, trên
kính dưới nhường, vợ chồng lấy nhau vì tình, vì nghĩa, và người đàn
bà đã biết chọn đời chung thuỷ son sắt với chồng… Không phải đợi
đến khi bọn phong kiến Trung Hoa sang đô hộ nước ta, giáo hoá ta,

dân ta mới biết thế nào là hiếu đễ, thế nào là biết nghĩa.
Vì sự tích Trầu cau có ý nghĩa sâu sắc như vậy nên tục ăn trầu
của dân ta đã được thăng hoa, trở thành một mỹ tục mang tính chất
đặc thù của một nền văn minh cổ Đông Nam Á.
Mỹ tục ăn trầu này đã gắn liền với những sinh hoạt văn hoá, từ
đời sống vật chất, đến đời sống tinh thần của dân tộc ta. Ngày nay,
qua nhiều sách vở và các tài liệu khảo cổ, người ta được biết trầu cau
là hai loại cây đã xuất hiện rất lâu đời ở các vùng Trung Ấn, Đông
Nam Á và một số quần đảo trên Thai Bình Dương; như trong di chỉ
khảo cổ thuộc văn hoá Hoà Bình, hạt cau đã được tìm thấy trên dưới
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một vạn năm. Tại các nơi đây đã có nhiều dân tộc có tục ăn trầu như
các dân tộc thiểu số xưa ở miền Nam nước Trung Hoa (kể từ lưu vực
sông Dương Tử trở xuống), tức người Trung hoa miền nam ngày nay,
các dân tộc Thái Lan, Miến Điện, các dân tộc Việt - Mên - Lào, kể cả
các dân tộc thiểu số như người Thái, Nùng, Mường, Dao, Thượng…
trên bán đảo Đông Dương, cùng các dân tộc trên quần đảo Nam
Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân; và ở Ấn Độ cũng có nhiều nơi dân
chúng có tục ăn trầu.
Có lẽ người xưa, do kinh nghiệm mà có, đã biết sử dụng vôi,
trầu, cau, cũng như các loại lá, rễ, quả của nhiều thứ cây khác tìm
được để bảo vệ sức khoẻ, phòng ngừa hay trị bệnh. Quả thực, ăn trầu
đã giúp cho cơ thể được ấm nóng, chống lạnh, chống sơn lam thuỷ
khí; ăn trầu lại sạch miệng, răng lợi và xương cốt được bồi dưỡng,
vững mạnh.
Như Giáo sư Trần Quốc Vượng đã nói:
Trầu cau là một loại đặc biệt, không thuộc đồ ăn, đồ uống, cũng
không thuộc đồ hút, với mọi gia đình người Việt chúng ta, Trầu cau
cũng thân thuộc như cơm ăn, nước uống, như bát chè xanh, như điều

thuốc lào”.
Trầu có trong miệng, mỗi miếng trầu gồm một miếng cau khô
hoặc tươi, một miếng lá trầu không quét vôi, một miếng vỏ cây chát
(cây chay, cây vỏ đỏ) ăn trầu có vị cay thơm, nó trừ được mùi hôi
trong mồm, các chất trong lá trầu, hạt cau và vôi có tác dụng làm
chắc chân răng. Mùa đông giá rét, ở những người làm nông nghiệp đó
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
họ thường phải lội xuống nước, làm việc không ngơi nghỉ, nhai trầu
làm cho người ấm lên, đỡ được phần giá buốt.
Theo Giáo sư Trần Ngọc Thêm tục ăn trầu nó tiềm ẩn một triết
lý về sự tổng hợp của nhiều chất khác nhau:
+ Cây cạu vườn cao là biểu tượng của trời (dương).
+ Vôi - chất đá là biểu tượng của đất (âm)
+ Dây trầu mọc lên từ đất quân quýt lấy thân cây biểu tượng
cho vũ trụ trung gian hoà hợp. Sự tổng hợp biện chứng của âm dương
tam tài ấy tạo nên một kết hợp hết sức hài hoà. Miếng trầu có cái tươi
ngọt từ hạt cau, cái cay của lá trầu, cái nồng nàn của vôi, cái bùi của
rễ… Tất cả tạo nên một chất kích thích, làm cho thơm mồm, đỏ môi
và khuôn mặt người ăn bừng bong như say rượu. Ăn trầu có nhai mà
không nốt, nó mang một tính cách linh hoạt khó thấy - không thuộc
loại ăn, mà cũng không thuộc loại uống, cũng không thuộc loại hút”.
Chính vì vậy trầu cau đã trở thành một thứ không thể thiếu
trong sinh hoạt tinh thần của người Việt.
II. TRỒNGTRẦU CAU:
Cây cau thẳng tắp, cây trầu không mềm mại trên mảnh vườn
nho nhỏ của mỗi gia đình người Việt xưa kia, chúng là những thứ cây
quý giá, thể hiện một lối sống thanh bình, yên ả, một cuộc sống định
canh, định cư thuộc nền nông nghiệp lú nước. Trong xã hội Âu Lạc
nền văm minh nông nghiệp khá phát triển cho nên “nhà nào cũng có

vườn trồng cau và trầu không. Có lẽ từ đó trở đi việc trồng cau ngày
càng phổ biến cùng với nghề làm vườn, có thể nói trong các gia đình
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
người Việt xưa, đặc biệt là ở nông thôn, trầu cau là một thứ không
thể thiếu được, mà nếu thiếu nó gia đình người Việt cảm thấy thiếu
và trống vắng một cái gì đó. Vì vậy ta có thể nói trồng trầu cau là
một tục lệ của cư dân ngày “xưa”. Nói từ “xưa” có nghĩa là trồng trầu
cau nó chỉ là tục lệ xưa mà thôi, còn ngày nay, tục trồng trầu cau
không còn nữa, mà nó chỉ tồn tại trong một số gia đình ở nông thôn.
Tục trồng trầu cau mặc dù không còn mấy tồn tại trong xã hội
đại Việt này nay. Vậy tại sao nói lại không còn mấy tồn tại như trước
kia nữa, có lẽ do con người ngày nay đã quên mất thói quen ăn trầu
mà xưa kia người ta gọi đó là nhu cầu cần thiết, rồi các phong tục ct
xưa kia cũng mất dần, xã hội biến đổi nó mất dần bản sắc dân tộc,
nhưng đồng thời, nó lại bổ sung thêm những cái mới, mang màu sắc
hiện đại, văn minh, tiến bộ.
Việc trồng trầu cau ngày nay không còn mang sắc thái thể hiện
phong tục ăn trầu của người Việt nữa mà nó tồn tại vì kinh tế, như
vườn trầu ở Hoóc Môn - Bà Điểm, nó đã đi vào lịch sử dân tộc gắn
lion với cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, nay nó đã trở
thành mục đích kinh tế, trồng trầu cau để đem lại lợi nhuận.
Xưa kia trầu cau đã trở thành sản phẩm trao đổi giữa các vùng,
ở chợ đồng bằng, trung du, miền núi sản phẩm cau tươi, cau khô, lá
trầu không, vỏ chay, rễ quạch, chúng là những món hàng phổ biến ở
các chợ cả nông thôn và miền núi, chúng kết hợp lại với nhau cho
một màu sắc thắm tươi, đủ hương vị cuộc đời.
Ở phố, người thượng lưu mới có đất trồng cau, nhưng không
nhiều người chơi cảnh để nuôi dưỡng tâm hồn, để níu giữ chút duyên
8

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quê, để thể hiện cốt cách. “sống thẳng như cau, sống thơm như quế”.
Thậm chí có người còn “chơi” cau Ta lẫn với cau Nhật (lùn)ư, câu
sâm banh “bụng phệ”. Buồng cau, khay trầu chỉ còn là chút lễ nghĩa
tượng trưng trong ngày cưới hỏi. Trái cau được dán têm cánh phượng
màu đỏ, hồng lấp lánh, cách điệu, song không còn “thay chủ” gửi
gắm những thông điệp, ý nghĩa sâu xa như ngày xưa.
Dẫu vậy, các miền quê ở Quảng Nam, vẫn còn xanh mướt
những vườn cau ngút thẳng. Cây cau được trồng rộ khắp nơi, vừa
phục vụ ăn trầu, lễ lạt, vừa xuất khẩu sang nước ngoài, và chuyển
sang dịch vụ cây. Việc gìn giữ và khôi phục nét văn hoá Trầu cau
không phải quá khó với vùng quê này.
Cây cau thẳng, dây trầu mềm, khắp xứ sở Việt Nam đâu mà
không thấy, hàng cau phía trước bên bể nước mưa và giàn trầu trong
mỗi ngôi nhà nơi thôn dã luôn là biểu hiện của sự thái bình. Trong
Nam có 18 thôn vườn trầu, tổng diện tích hàng trăm câu số vuông.
Ngoài Bắc, dọc các thôn xóm ven sông Hồng, ngày xưa tới đâu mà
chẳng nghe câu hát:
“Ru con con ngủ cho rồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh”.
Và ở miền Trung, đâu đâu cũng thấy thấp thoáng bóng cau và
văng vẳng đâu đây câu hát:
“Bồng em mà bỏ vô nôi.
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mau cau Bát Nhị, mua trầu Hội An”.

III. TRẦU CAU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỔ TRUYỀN
NGƯỜI VIỆT:
1. Cách ăn trầu của người Việt.
1.1. Cấu tạo miếng trầu.
Cho đến cách mạng tháng Tám, tục ăn trầu vẫn còn phổ biến
ởnong thôn và thành thị. Thành phần mỗi một miếng trầu thường có:
là trầu có quệt vôi, một miếng cau, một miếng vỏ chay. Nếu không co
vỏ chay người ta chỉ ăn trầu quệt vôi với cau tươi hoặc cau khô.
Không phải ngay từ đầu người Việt đã ăn trầu có cả vỏ chay. Nghiên
cứu so ánh truyện Trầu - Cau - vôi của người Việt và truyện Bơ-lô
Đu-lơ của người Ca-tu (Tây Nguyên) chúng ta có thể nêu lên một giả
thuyết có ý nghĩa về thành phần miếng trầu của người Việt. Các dị
bản về truyện Trầu - cau - vôi của người Việt đều thống nhất một chi
tiết: ba nhân vật tượng trưng cho ba yếu tố: cau trầu, vôi; và từ thời
xưa vua Hùng người Việt ăn trầu quệt vôi với cau. Sách Quế hải ngu
hành chí cho biết thêm: “Người Việt thích ăn trầu, ding bạc và thiếc
làm các hộp nhỏ, một cái đựng vôi, cái đựng dây hay lá trầu; và một
cái đựng cau. Theo truyện Bơ-lô Đu-lơ của người Ca-tu thì từ xa xưa
miếng trầu của người Ca-tu đã gồm có : cau, trầu, vôi, vỏ chay. So
sánh truyện của hai dân tộc ta có thể nghĩ rằng cách ăn trầu kèm thêm
vỏ chay của người Việt bắt nguồn từ ảnh hưởng qua lại giữa người
Việt và cư dân Môn - Khơme cổ đại. Cho đến nay, theo đồng bào
nghiện trầu, ăn trầu thiếu vỏ chay vị đậm kém đi nhiều lắm. Nếu
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không có vỏ chay, người ta tìm một thứ rễ cây khác để thay thế, đó là
rễ cây quạch, ăn riêng thì có vị chát nhưng ăn cùng với trầu quệt vôi
và cau thì miếng trầu đậm đà thêm lên và màu đỏ cốt trầu cũng thắm
hơn. Câu tục ngữ “trầu không rễ như rể nằm nhà ngoài” chính nhằm
khẳng định vị ngon đậm của miếng trầu có thêm rễ cây quạch hoặc

voe chay, chứng tò người Việt dã tự giác làm tăng vị đạm cho miếng
trầu trong quá trình giao lưu văn hoá với các dân tộc khác
1.2. Bổ cau:
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm 6 mời anh xơi trầu.
Quả cau to có thểbổ làm 6miếng, mỗi khẩu trầu ding 1/6 quả
cau, quảnhỏ hơn, bổ tư. Ở Nam bộ, quả cau to người ta thường bổ
làm 8 miêng, quả cau được dóc vỏ xanh, tiện bỏ chũm rồi mới bổ ra
thành miếng. Dao bổ cau phỉ chọn dao sắc miếng cau mới đẹp do đó
ngôn ngữ Việt có từ “dao cau” để chỉdao sắc và lion dó là sự hình
thành mỹ từ pháp “mắt sắc như dao cau”.
Mùa cau là mùa nắng hanh, người Việt phơi cau để dành ding
quanh năm. Quả cau cũng được bổ thành miếng đem phơi. Trong lúc
phơi phải biết dữ cho hạt khỏi long. Miếng cau có đẹp là miếng cau
còn nguyên hạt không bị long ra khỏi miếng cau, gọi là cau đậu. Cau
đậu là loại cau quí, vì khi miếng cau đã khô hạt dễ long, muốn có cau
đâu lúc phơi cau cần phải công phu.
Cắt vỏ chay hoặc rễ quạch. Vỏ chay được cắt thành miếng
mỏng hình vồ hoặc hình chữ nhật, khi ding mới đem cây vỏ ra cắt để
miếng vỏ khỏi khô.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhiều loại dụng cụ được tạo nên gắn liền với tục ăn trầu.
-Âu đồng hình tròn có nắp đậy kín ding đựng lá trầu chưa têm,
để giữ cho lá trầu được tươi lâu. Đồng có khi được thay bằng thiếc.
Bình vôi và chìa vôi là loại dụng cụ phổ biến của mọi gia đình.
Bình đựng vôi đã tôi, chia vôi cắm ngay trong bình, dài như chiếc
đũa, một đầu nhọn, vừa để quệt vôi vừa để têm trầu, ởnong thôn, con
dao vôi ding để rọc lá trầu, và quệt vôi têm trầu là dụng cụ thông
dụng (hình)

Bình vôi cũng ding để đựng vôi đã tôi. Ống vôi nhỏ có thể bỏ
túi, dặt trên cơi, mang đi mang lại thuận tiện, không như bình vôi để
cố định một nơi. Thường thường, ống vôi được làm bằng thiếc. Nhà
giầu xưa kia ding ống vôi bạc chạm trổ tinh vi.
Khăn trầu, túi trầu là những đồ dùng phổ biến của đồng bào ở
nông thôn từ xưa cho đến Cách mạng tháng Tám, dùng để đựng
những miếng trầu đã têm, những miếng cau, miếng vỏ, ống vôi.
Trong nhân dân lao động, những đồ dùng này được may bằng vải
hoặc lụa theo kiểu giản dị. Khăn trầu, túi trầu củấcc cô gái được giữ
gìn cẩn then. Đối với tầng lớp quí tộc, khăn trầu thường bằng lụa,
nhiễu quí, túi trầu bằng gốm, đoạn là những hàng hiếm, đắt tiền.
Tráp trầu, cơi trầu, hộp đựng trầu bằng gỗ được làm ra từ lâu
đời. Nghề khảm phát triển, những tráp trầu, hộp trầu khảm gắn xà cừ
do bàn tay khéo léo của những người thợ cả tạo nên tiêu biểu cho
trình độ tinh xảo của nghề thủ công dân gian. Những tráp trầu, hộp
trầu sơn mài là sản phẩm độc đáo và quí hơn.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Người Việt đã tổ chức chu đáo việc ăn trầu, gắn liền tục ăn
trầu, một nếp sống văn hoá cao và một trình độ thẩm mỹ tinh tế hình
thành qua các thời kỳ lịch sử.
Tục ăn trầu của người Hà Nội.
Người Hà Nội vốn nổi tiếng sành ăn, sành mặc, Hà Nội là nơi
chắt lọc những tinh hoa, nét đẹp của mọi miền để tạo nên nét đẹp cho
riêng mình. Nét đẹp của Hà Nội thể hiện ngay cả trong tục dùng trầu
- một phong tục mà theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương dung
nước (qua sự tích Trầu cau mà người Việt Nam hầu như ai cũng biết.
Trước kia, người Hà Nội từ 13 tuổi trở lên là biết ăn trầu. Theo
sứ giả nhà Nguyễn vào đời Trần, ở Thăng Long, 61 phố phường đều
trồng rất nhiều cau và trầu không. Người Hà Nội trước đây có dâu:

“Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Dinh.”
Chợ Cầu, chợ Quán là các chợ lẻ, chợ phụ dọc đường, Nam phố
là tên cũ của phố Hàng Bè bây giờ, nơi xưa bán rất nhiều cau tươi,
cau khô. Chợ Dinh gần dinh quan phủ Phụng thiên (quãng phố Phủ
Doãn và ngõ Huyện bây giờ). Ngày nay, người Hà Nội ít ăn trầu hơn
trước nên không còn những phố bán trầu mà tập trung phần lớn ở
những chợ một số ít được đem bán rong. Người Hà Nội rất công phu
trong cách chọn trầu. Cau ngon phải là cau bánh tẻ, không già, không
non, vừa tới hạt (nửa màu nửa hạt). Người sành ăn thường kén mua
cau Đông ở tỉnh Hải Hưng (cũ) . Từ tháng 8 có thêm cau miền Nam
nhưng người ta ít ăn vì loại cau này nhiều hạt không ngon. Mua tràu
phải chọn lá hơi ánh vàng, nhỏ, dày, tươi. Ngày trứơc có trầu không
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
làng Chả ngon nổi tiếng vì lá nhỏ, vừa thơm vừa cay, để có được lá
trầu như vậy, người làng Chả ngày đó trồng cũng rất công phu, dàn
trầu không phải được trồng trên đất trồng gong. Ngày nay người Hà
Nội ăn trầu Hưng Yên, vào dịp lễ hỏi người ta mua trầu Tây Sơn vì lá
to đẹp. Người ăn sành trầu chọn vôi xứ Đoài - Sơn Tây
Bộ đồ ăn trầu của người Hà Nội gồm có: cơi đựng trầubằng
đồng hoặc quả trầu sơn khảm xà cừ, ống vôi chạm bạc, ống nhổ bằng
đồng thau dung quết trầu. Những cụ già ăn trầu còn có thêm cối giã
trầu bằng đồng chạm trổ khá tinh vi chỉ bỏ vừa miếng trầu, miếng
cau, vỏ để giã. Dao bổ cau phải sắc để bổ cau cho đẹp và hạt không
bị vỡ. Cũng chỉ là “Quả cau nho nhỏ, lá trầu xanh” nhưng cách ăn
trầu của người Hà Nội rất duyên dáng, họ ăn trầu không những làm
đỏ môi, răng đen mà còn tạo nét môi cắn chỉ rất đẹp. Người ta không
cho cả cau, trầu và rễ vào cùng một lúc mà ăng từng thứ một. Cau
được nhai dập mới cho trầu vào và sau cùng là rễ quệt thêm một ít

vôi, khi ăn người ta thường lấy tay quệt ngang miệng, lâu dần tạo
thành nét môi cắn chỉ.
Ngày nay, ở Hà Nội hầu như chỉ những người trên 60 tuồi mới
ăn trầu cho nên Hà Nội không còn cảnh mời trầu như A.de Rovodes -
một người Phap nói về việc ăn trầu của người Thăng Long thế kỷ
XII: “Họ có tục đem theo một vài túi con đầy trầu cau đeo ở thắt
lung, họ để mở trong khi qua lại phố phường để mời bạn bè. Khi gặp
họ bắt đầu chào hỏi nhau, rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một
miếng trầu để ăn”. Tuy nhiên, quan niệm “miếng trầu là đầu câu
chuyện” của người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung
vẫn được áp dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Ngày Rằm, mồng Một hoặc
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các ngày lễ Tết hoặc trong những dịp lễ ăn hỏi, cưới xin của các gia
đình Việt Nam vẫn không thể thiếu miếng trầu quả cau trên bàn thờ
tổ tiên.
Trầu cau chỉ là một thứ nhai chơi, tuy đơn sơ nhưng lại có
nhiều ý nghĩa trên lĩnh vực y học, tâm lý học xã hội… dùng trầu cau
còn là một truyền thống văn hoá của dân tộc. Ngày nay, không mấy
ai ăn trầu nhưng nét đẹp đó vẫn được gìn giữ và áp dụng trong cuộc
sống của người dân.
2. Văn hoá người Việt được thể hiện qua cách têm trầu.
Têm trầu được người Việt tiến hành: Lá trầu đã rửa sạch được
dọc ra làm đôi (nếu như lá trầu to), hoặc chỉ dọc bớt cọng già, sau đó
để cuốn lại. Rọc xong quệt vôi lên trên lá trầu, dùng tay cuốn lại, rồi
ghim chặt bằng cọng trầu, miếng trầu đều đặn như chiếc kén xinh
xinh. Từ lúc dọc lá trầu đến khi làm nên những miếng trầu gọi là têm
trầu: têm trầu phải đạt 2 yêucầu: vừa vôi và đẹp mắt.
Qua cử chỉ têm trầu, ăn trầu để phán đoán phong cách, tính nết
cũng như nếp sống của con người. Chính vì lẽ đó, khi đi xem mặt

nàng dâu tương lai, nhà trai đòi bằng đựơc cô gái ra têm trầu, trước là
để xem mặt cô dâu, sau làđể xem cử chỉ têm trầu của cô gái mà phán
đoán tính nết. Miếng trầu têm vụng là người không khéo tay; miếng
trầu nhỏ miếng, cau to là người không biết tính toán làm ăn; miếng
trầu quệt nhiều vôi là người hoang phí không biết lo xa.
Việc “têm” miếng trầu, nhìn miếng trầu được têm thì người
thưởng thức còn đánh giá được sự khéo tay của người têm trầu (ở cái
dáng đẹp hay xấu, ở nếp gấp, ở cánh trầu…). Chàng hoàng tử trong
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
truyện cổ Tấm Cám nhờ nhìn vào miếng trầu được têm khéo léo mà
nhận ra được vợ mình. Trần Quốc Vượng viết: “Ăn miếng trầu, càng
biết được “tính nết” người têm nó. Giản dị hay cầu kỳ. Đậm đà hay
nhạt nhẽo. Do chất lượng và số lượng vôi bôi trên lá trầu. Và khi có
miếng trầu “ở giữa đậm quế hai đầu thơm cay…”
1
.
Trong dân gian, một cơi trầu được têm khéo được dùng để đánh
giá về nề nếp, công - dung - ngôn - hạnh củamột cô con gái trong một
gia đình. Chính vì vậy, chỉ mỗi việc têm trầu, người xưa cũng nghĩ ra
được kiểu dáng cho miếng trầu. Tuỳ vào hoàn cảnh, tình huống
sửdụng mà miếng trầu được têm theo những cách khác nhau gắn với
những ý nghĩa tượng trưng, ngụ ý gửi gắm của người têm: trầu cánh
phượng, trầu cánh quế, trầu cánh dơi, trầu mũi kiếm, trầu mũi mắc…
Như trong ca dao đã ghi lại hình ảnh miếng trầu.
Túi gấm lẫn với túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân.
Têm trầu mũi mác cho chồng đi quân.
Câu ca dao trên, gắn liền với những truyện kể về cuộc khởi
nghĩa bà Triệu (quân ba Triệu mang túi trầu đi đánh giặc, miếng trầu

têm hình cánh kiếm và mũi mác. Đó là vẻ đẹp độc đáo của miếng trầu
ra trận. Còn têm trầu trong ngày cưới người ta thường têm trầu cánh
phượng. Nhưng không phải ai cũng làm được, đám cưới là một nghi
lễ rất thiêng liêng và quan trọng vì vậy cũng như việc chọn người bê
mâm trầu xin dâu, hay chọn người têm trầu thì không phải cũng làm
được mà người ta phải chọn ra một người phúc hậu (có gia đình yên
ấm hạnh phúc, con đàn cháu đống thì mới được chọn mặt gửi vàng.
1
Vă n hoá Việt Nam tìm tòi v suy ngà ẫm, Nxb Văn học, 2002, tr.293
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Têm trầu sao cho đẹp, cho đủ gia vị chứ không phải chỉ cuộn tròn
viên cho vào miệng, cùng với trầu là cau, với vôi kết hợp lại cho màu
sắc thắm tươi để hưởng vị đắng cay ngọt bùi của cuộc đời.
Cũng như trà đạo của người Nhật Bản, tục ăn trầu của người
Việt Nam cũng đòi hỏi lắm công phu. Dường như tất cả cái tinh hoá
củatụcăn trầu đã được kết đọng lại trong cách têm trầu. Têm trầu là
cả một nghệ thuật. Khi mời trầu, miếng trầu không chỉ gói gọn trong
nó tình cảm nồng thắm mà còn thể hiện cái nết khéo tay, hay mắt của
người têm. Trong các hội làng, bên cạnh trò thi nấu cơm, làm bánh,
dệt cửi, còn có cả thi têm trầu.
3. Cau trầu trong một số nghi lễ.
“Đồ sính lễ quí nhất nước Nam không gì bằng trầu cau…”,
Trầu cau là lễ vật của khá nhiều hình thức nghi lễ hàng năm của
người Việt. Bên cạnh lễ vật khác, Trầu cau thuộc loại lễ vật đơn sơ,
tinh khiết. Ở đây em chỉ phân tích một vài hình thức nghi lễ trong đó
cau trầu là lễ vật chủ yêú.
3.1. Miếng trầu cúng mụ:
Theo tín ngưỡng dân gian, 12 bà mụ là nguồn gốc sinh ra con
người, theo dõi giúpđỡ con người từ lúc trong trong bụng mẹ đến khi

trưởng thành. Em bé cưới nụ cười đầu tiên, người mẹ nựng “mụ dạy”,
em bé bắt đầu hang chuyêbnj, bà khen “mụ dạy khôn”, chạp chững
bước những bước đi đầu tiên em được người lớn khuyến khích “gắng
lên, mụ đỡ…”. Trong năm đầu tiên của cuộc đời, cha mẹ em bé sửa lễ
cúng mụ ba lần, trong dịp:
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Bé ba ngày
- Bé đầy tháng.
- Bé đầy năm.
Để tỏ lòng biết ơn các bà mụ và cầu mong cho bé mau lớn
khôn. Tuỳ theo gia cảnh cỗ cúng có thể thịnh soạn, có thể đơn giản
nhưng nhất thiết có một đĩa trầu gồm 12 miếng dâng lên 12 bà mụ.
Lễ vật chủ yếu là 12 miếng trầu. Trong nhân dân lao động, cùng với
đĩa trầu thường có hương, hoa quả (mùa nào thức ấy) xôi chè ít khi
cúng cỗ mặn. Dây là những ngày vui trong gia đình, họ hàng, bè bạn
đến chơi mưng cháu bé, tặng quà cho cháu. Lễ cúng mụ thường
không kèm theo ăn uống linh đình, xa hơn, lãng phí hơn.
3.2. Trong nghi lễ hôn nhân.
Hôn nhân là một lễ nghi quan trọng trong đời sống mỗi con
người, trong hôn nhân, miếng trầu, quả cau là nền tảng, dân gian ta
có âu: miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người.
Trong mâm cỗ cúng tổ hông - vị thần của hôn nhân bao giờ cũng có
buồng cau và tệp lá trầu, tục lên này không chỉ tồn tại từ xưa nữa mà
nó còng tồn tại cho đến tận ngày nay. Không như các tục lệ khác như
tục lệ cưới xin của người Việt, một số nghi lễ trong cưới xin trong lễ
cưới hay vào các ngày cúng gia tiên, lễ tết như trong dịp lễ tết, ở một
số nơi, vào lúc đón giao thừa người chủ nhà sẽ chọn một người hợp
tuổi để xông nhà cho năm mới để sang năm mới, gia đình có nhiều
niềm vui, ăn nên làm ra, thì người xông nhà đó thường mang trầu cau

đến và trong buồng cau người ta xem có đẹp không, mống lá trầu có
tươi không mà ước đoán rằng đôi lứa ấy có đẹp duyên không, có
được bách niên giai lão không.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tục trầu cau một hôn nhân có ý nghĩa từ trong câu truyện
thương tâm trong sự tích trầu cau, tuy họ chết đi nhưng tình yêu còn
tồn tại mãi mãi bên nhau, giúp họ hóa thân thành miếng trâu đỏ thắm
để nhắc nhở con người phải lấy tình nghĩa làm trọng. Như vậy, tục lệ
trầu cau của người Việt xuất hiện trong hôn lễ người Việt là để khơi
gợi, nhắc nhở mọi người hướng về một cuộc sống đạo lý, nghĩa tình
thủy chung sâu sắc.“Miếng trầu ân nặng là bao .Muốn cho đông liễu,
tây đào là hơn, trầu này trầu ái trầu ân - trăm cô con gái đầu ăn trầu
này” .Trong lễ cưới truyền thống của người Việt gồm có các thủ tục :
+ Kén chọn
+ Giạm ngõ (chạm mặt).
+ Ăn hỏi.
+ Lễ cưới.
Ngày nay các nghi lễ này đã dần được lược bớt đi, đơn giản
hơn, chỉ đi vào những bước chính:
+ Chạm ngõ
+ Ăn hỏi
+ Cưới.
Nhưng có nơi, việc ăn hỏi đã dần mất đi, không còn nữa, trong
các nghi thức trong lễ cưới này, trầu cau là một trong những lễ vật
quan trọng nhất.
a/ Cau trầu trong lễ giạm: là lễ vật đầu tiên để đặt quan hệ
giữa hai họ, trong nghi thức này, đây là cuộc gặp gỡ chính thức đầu
tiên của 2 gia đình, lễ trạm ngõ ngày nay không còn như xưa nữa mà
chỉ là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình, nhà trai đem trầu cau đến nhà

19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tự do đi lại tiếp tục
qúa trình tìm hiểu nhau trước khi đi đến hôn nhân, và nếu nhà gái
nhận trầu cau của nhà trai là nhận lời gả con gái sau lễ giạm thì cô
gái đã là người có nơi có chốn, không tìm hiểu ai nữa. Nếu cô vẫn
thầm yêu người khác cũng chỉ còn luyến tiếc mà thôi.
“Yêu nhau chẳng nói khi đầu
Để cho thầy mẹ nhận trầu người ta”.
Sau khi nhận trầu cau, mà do một nguyên nhân nào đó mà hai
người không đến với nhau được, nhà gái trả lại trầu cau cho nhà trai.
b. Cau trầu trong lễ ăn hỏi: là lễ vật mà nhà trai đem đến nhà
gái để biếu họ hàng, lễ ăn hỏi này là một thông báo chính thức về sự
kết giao của hai gia đình và hai họ, đánh dấu một sự chuyển đoạn
quan trọng trong quan hệ hôn nhân: cô gái được hỏi đã trở thành vợ
chưa cưới của chàng trai đi hỏi. Trong nghi thức này lễ vật thường là:
cau tươi, bánh cốm, chè, tượi, bánh xu xê (phu thê) đó là những lễ
vật tối thiểu tỏng tục lễ cưới cổ truyền trong các lễ vật đó thì trầu cau
luôn đặt lên hàng đầu, đứng thứ nhất trong các lễ vật, có nghĩa là nó
mang một vai trò quan trọng trong nghi thức này. Quả cau tuy là lễ
vật để nhà gái đem biếu họ hàng, bnos không lớn lăm, và không có
giá trị về vật chất nhiều nhưng nó lại mang nhiều ý nghĩa, là thông
điệp báo tin với họ hàng, làng xóm rằng đám cưới sẽ diễn ra, xưa kia
nó thay cho lời mời (thay cho thiếp mời ngày nay). Trong nghi thức
này, nhà trai phải mang đến nhà gái hàng trăm, có khi hàng ngàn quả
cau. Trong thời kỳ xã hội phong kiến suy tàn, tục thách cưới trở
thành một tục lệ hạ thấp phẩm giá người con gái, thì số lượng cau
trong lễ ăn hỏi lại phản ánh mặt hạn chế của phong tục. Từ chỗ quả
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cau có giá trị như một lời báo hỉ đến lúc hàng ngàn quả cau cùng với
những ràng buộc khác gây công mắc nợ cho người lao động thì một
phong tục có thể rất ý nghĩa tốt đẹp ban đầu.
c/ Cơi trầu xin dâu: là cơi trầu nhà trai đem đến nhà gái lúc
đón dâu, đầy là nghi thức tổ chức lễ cưới, là đỉnh điểm của cả quá
trinh tiến tới hôn nhân, là hình thức liên hoan, báo hỷ, mừng hạnh
phúc cô dâu, chú rể, nó có ý nghĩa rất thiêng liêng, do đó cả xưa và
nay mọi người đều rất coi trọng. Trong nghi thức này, cơi trầu
thường được tô điểm rất đẹp, trầu têm cánh phượng, cau bổ khéo, xếp
trên cơi sao cho màu sắc hài hòa. Trong lễ đón dâu, một bà đứng tuổi
đại diện mẹ chồng bưng cơi trầu nói xin dâu. Đây là ngày cô gái từ
biệt cha mẹ về nhà chồng “Cơi trầu nên dâu nhà người” có ý nghĩa
như vậy.
4. Trầu cau trong giao tế xã hội.
1.1. Mời trầu tiếp khách.
-Theo phong tục cổ truyền của nhân dân ta, khi khách đến nhà,
lúc nào cũng phải có trầu mời khác. Nếu không, đó là điều ân hận
đầu tiên của gia chủ. Nó được ghi lại trong câu ca cao.
“Rễ quạch còn chửa đi đào,
Trầu không chưa có, thuốc lào chưa mua”.
Nhờ có miếng trầu, chủ và khách cảm thấy gần gũi, thân mật
nên từ xưa đã có câu. “Miếng trầu là đầu câu chuyện, sau miếng trầu
đến bát nước chè xanh, đậm đà hương vị thơm ngon, đãi khách miếng
trầu và bát nước chè xanh gắn liền với đời sống hàng ngày của người
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lao động nông nghiệp. Người dân nông nghiệp thường lao động chân
tay mệt nhọc, sau một ngày làm việc bán mặt cho đất, bán lưng cho
trời, cuộc sống vất vả là thế, nhưng họ vẫn cảm thấy vui vẻ, mỗi buổi
tối đi làm về họ thường ngồi quây quần bên nhau; đến thăm hỏi nhau

ăn miếng trầu, uống bát nước chè xanh, tinh thần thoải mái, người dễ
chịu. Đó là một nếp sống ấm cúng của bà con nông dân ta trong làng
xóm. Ngày nay, những hình thức sinh hoạt này không còn như trước
nữa nhưng ở một số vùng, địa phương hình thức này vẫn giữ được.
Người ta còn mời trầu để làm quen và để tỏ lòng tin cậy. Một
người phương Tây đến Việt Nam thế kỷ 17 nhận xét: “Người Việt
Nam đi đâu cũng có túi trầu mang theo. Gặp nhau, sau câu chào hỏi,
cởi túi trầu, người nọ lấy miếng trầu ở túi người kia, rồi vừa ăn trầu
“của nhau” vừa trò chuyện… Mến yêu, tin cậy, lịch sự biết bao! đó
là nét giao tiếp đặc sắc của Việt Nam. Trong tục lệ mời trầu xưa kia
là người Việt, người ta mời nhau miếng trầu để nói chuyện thân mật
với nhau hơn. Và giáo sư Trần Quốc Vượng đã so sánh mời trầu tiếp
khách với mời thuốc lá để tiếp khách giữa xã hội xưa và nay. Theo
giáo sư thì “miếng trầu đơn giản thế thôi; trầu, cau, vôi, nếu có thể
thêm tí vỏ, viên thuốc lào (với người ăn trầu thuốc”), ấy thế mà
miếng trầu nó mang đậm “cá tính con người”, người ta têm trầu là để
mời trầu, mời người khác ăn trầu. Điếu thuốc lá công nghiệp ngày
nay thật phi cá tính. Ăn miếng trầu người ta biết được tính nết” của
người têm nó: và ông còn cho rằng, ăn trầu không hại sức khỏe còn
hút thuốc là thì ngược lại và ông đưa ra ưu điểm của việc ăn trầu như,
ăn trầu chắc răng, bền rằng, chống rét, kích thích nhè nhẹ hệ tuần
hoàn, kích thích thần kinh, ăn trầu hông đôi má, thêm duyên, ăn trầu
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hơi say say, câu chuyện tâm tình cởi mở rồi từ đó ông đưa ra một câu
hỏi: “người xưa cởi mở hơn người nay, một phần vì thế chăng?
-Mời trầu để bắt chuyện làm quen.
“Tiện đây ăn một miếng trẩu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là.
Xưa kia au biết ai đâu

Chỉ vì điếu thuốc, miếng trầu nên quen.
Nhất là khi đến chỗ xa lạ, muốn được đón nhận vui vẻ, người
khôn ngoan phải có cơ trầu đem ra mời chào mọi người để gây thiện
cảm, nếu vì một lẽ gì mà thiếu sót thì họ vô cùng áy náy, băn khoăn,
xa xưa quan họ tiếp khách, đi mời khách, hoặc đi chơi hội thường có
miếng trầu - trầu têm cánh phượng. Vì quan niệm “miếng trầu là đầu
câu chuyện”.
4.2. Trầu cau là món quà biếu thông dụng:
Như đã nói ở trên, mặc dù trầu cau không là món quà biếu có
giá trị vật chất nhưng nó là tục lệ của người Việt. Như khi trẻ con
đến tuổi đi học, cha mẹ đem vài chục cau đến xin thầy đồ cho nhập
môn, hay để tỏ lòng biết ơn thày lang chữa khỏi bệnh tật hiểm nghèo,
người nhà bệnh nhân đem trầu cau đến biếu, người không hay chữ
đem trầu cau đến biếu xin cho đôi câu đố:
“Đem một cơi trầu kêu với cụ
Xin dăm ba chữ để thờ ông”
(Nguyễn Khuyến)
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thời xưa dân vào cửa quan phải có cơi trầu hoặc vài trái cau,
thợ cả đến xin việc cũng phải có chẽ cau tươi, xin chữ ký các chức
sắc trong làng, trong tổng phải có trầu cau, khao vọng phải có trầu
trình làng, trong quan hệ gia đình, đi xa về con biếu cha mẹ chẽ cau,
cây vỏ, đi chợ về nàng dâu mua cho mẹ chồng trầu vàng, rễ tía, hàng
xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau, mỗi khi có công việc quả biếu
thường là cau, trầu. Nhiều khi chỉ một chẽ 5 ba quả cau đã là quí, đối
với những nhà giàu có, điều đó có thể là nhiều hơn nhưng ở đây
người ta thường không căn cứ vào số lượng mà chính là ở tấm lòng
ăn ở với nhau.
4.3. Mời trầu là cách ngỏ tình yêu giữa nam và nữ.

Miếng trầu còn là vật giao duyên. Chàng trai và cô gái gặp
nhau, mời trầu là để ướm lời thử lòng.
“ Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghĩa cử về sau mà chào”.
Với hương vị của trầu, cau, vôi luôn luôn gợi cho nam nữ liên
tưởng đến những chuyện tình yêu, chuyện duyên phận lứa đôi.
“Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên”.
Trong hình thức này, người con trai thường chủ động mời trầu
trước và lợi dụng lúc mời trầu để tán tỉnh người con gái, nếu người
con gái đó từ chối không nhận trầu thì dù sự từ chối ấy lịch sự, tế nhị
đến đâu cũng phải hiểu đó là sự từ chối tình yêu, nếu người con gái
đó tỏ ý ngần ngại, muốn hiểu thêm tình ý đối phương thì
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
“Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì trả ơn.
Trong trường hợp này, người con trai phải trấn an và thổ lộ rõ
tình ý đứng đắn, muốn xây dựng gia đình của mình, nếu người con
gái thấy hợp ý, lòng ưa rồi thì người con gái mới nhận trầu.
Cách giao duyên trên vừa kín đáo, vừa duyên dáng, và miếng
trầu lúc này không phải là một vật chất đơn thuần nữa mà nó còn là
một biểu tượng của tình yêu.
4.4.Ăn trầu còn gắn liền với tục nhuộm răng đen của người việt
có thể nói rằng ăn trầu và nhuộm răng đen có mối liên hệ gần
gũi với nhau. Từ ngàn xưa con người đã có tục nhuộm răng đen,
không như ngày nay người ta coi hàm răng trắng là cái đẹp thì ngày
xưa người ta coi răng đen là cái đẹp . Vậy nên ,để có một hàm răng
đẹp các thiếu nữ xưa đến tuổi trưởng thành đều học ăn trầu
“Răng đen ai nhuộm cho mình.

Để duyên mình đẹp, để tình anh say”.
Người thôn nữ má hồng, răng đen đã trở thành hình ảnh làm si
mê mê biết bao chàng trai, như câu ca xưa thường nói.
“Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen”.
25

×