Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Gia nhập WTO những thuận lợi và khó khăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.41 KB, 103 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Đó là quy
luật tất yếu và khách quan. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều thiết lập mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhau
trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế…Để cùng
chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp, giải quyết những vấn đề
chung của trái đất mà từng quốc gia riêng lẻ thì không thực hiện
được. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế thì sự hợp tác này ngày càng
cần thiết hơn bao giờ hết. Nó giúp cho các nước có thể lưu thông
hàng hóa một cách thuận lợi, có thể trao đổi kinh nghiệm, khoa
học kĩ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại để nâng cao năng suất
lao động và tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, giúp
cho việc lưu thông nguồn vốn một cách dễ dàng. Chính vì vậy, mà
hàng loạt các tổ chức thương mại thế giới lần lượt ra đời như
:WTO, NAFTA, ASEAN, EU…
Trong đó WTO là tổ chức thương mại trên thế giới thu hút nhiều
quốc gia gia nhập vào tổ chức này. WTO ra đời nhằm thúc đẩy tự
do thương mại trên toàn cầu. Các nước tham gia WTO sẽ nhận
được nhiều thuận lợi và cơ hội. Đồng thời cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức. Lợi ích của việc gia nhập WTO là
các nước thành viên được mở rộng cơ hội thương mại, được
hưởng các quyền lợi có trong các hiệp định WTO…Với Việt
Nam, thì việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu
vực nói riêng và trên thế giới nói chung là việc làm vô cùng cấp
bách để phát triển vững chắc nền kinh tế nước nhà. Đặc biệt, việc
tham gia WTO sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội và trải nghiệm
mới, tiếp xúc với môi trường làm việc mới để mở rộng thị trường,
từng bước gây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển. Đó cũng
chính là lí do mà chúng tôi chọn WTO là đề tài làm tiểu luận.
2.Mục đích chọn đề tài


Gia nhập WTO đem lại cho chúng ta rất nhiếu cơ hội và
thuận lợi nhưng song song đó cũng tồn tại không ít những khó
khăn và thách thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết cách
vận dụng tối đa những cơ hội đó để sử dụng triệt để vào công cụ
phát triển nền kinh tế vững mạnh, phải biết cách phối hợp những
cơ hội đó với những ưu thế sẵn có của quốc gia để tối đa hóa lợi
ích mà WTO đem lại. Đồng thời phải biết cách hạn chế tối thiểu
những khó khăn và thách thức từ việc gia nhập WTO. Phải biết
cách dung hòa cơ hội và thách thức làm sao để việt nam gia nhập
WTO chỉ hòa nhập không hòa tan. Để làm rõ việc này, chúng ta
cần tìm hiểu cách thức quản lí và hoạt động của WTO. Mục đích
của việc tìm hiểu này là để vạch ra những kế hoạch và hướng đi
cho chúng ta bước vào môi trường WTO một cách tự tin, không đi
nhầm đường. Tạo một nền kinh tế phát triển thực sự vững mạnh.
Cũng như hiểu rõ hơn mối liên hệ giữa nước ta với tổ chức thương
mại lớn nhất thế giới này.
3. Nội dung đề tài
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỔ CHỨC WTO
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của wto
Tổ chức thương mại thế giới có tiền thân là hiệp định
chung về thuế quan và mậu dịch (The general agreement on
tariff and trade - GATT). GATT được thành lập năm 1947 với
23 nước tham gia. Các hiệp định của GATT có hiệu lực từ
11/1948 và đến hết năm 1994, GATT đã trải qua 8 vòng đàm
phán thương mại với các mốc lịch sử như sau:
Vòng đàm phán thứ nhất từ ngày 10/4 – 30/10/1947 tại
geneva – GATT ra đời. Tại vòng đàm phán này, 23 nước sáng
lập đã thỏa thuận cắt giảm thuế quan 45.000 mặt hàng. Hiệp
định GATT đầu tiên có hiệu lực từ 1/1/1948.
Vòng đàm phán thứ 2 diễn ra năm 1949 tại annecy (Pháp)

gồm 33 nước tham gia đã ký hiệp định giảm thuế bình quân
35% cho 5000 mặt hàng.
Vòng đàm phán thứ 3 diễn ra năm 1950 tại Torquay
(Anh), các bên nhất trí trao đổi 8700 nhượng bộ thuế quan dẫn
đến việc cắt bỏ 25% so với mức năm 1948.
Vòng đàm phán thứ 4 diễn ra năm 1956 tại geneve nhất trí
cắt giảm thuế quan trị giá 2,5 tỷ USD.
Vòng đàm phán thứ 5 diễn ra năm 1958 (gọi là vòng
Dellon) gồm có 45 nước tham gia đàm phán kéo dài đến tháng
1/1962, kết quả đạt 4400 nhượng bộ thuế quan trị giá 4,9 tỷ
USD.
Vòng đàm phán thứ 6 diễn ra năm 1964 ( gọi là vòng
kennedy) dẫn đến việc ký vào năm 1967 một hiệp định giữa 50
nước, chiếm 75% mậu dịch thế giới.
Vòng đàm phán thứ 7 diễn ra năm 1973 tại tokyo với 99
nước tham dự thỏa thuận giảm thuế quan trị giá 300 tỷ USD,
đạt mức thuế quan từ 0,7% đến 0,4% đối với các hàng chế tạo
của 9 thị trường công nghiệp lớn nhất thế giới.
Năm 1982, hội nghị bộ trưởng GATT tại Geneve khẳng
định lại các nguyên tắc GATT và đưa ra một chương trình làm
cơ sở để GATT tổ chức vòng thương mại mới.
Năm 1986, Các bộ trưởng GATT bắt đầu GATT-8 tại
Punta del este (Uruquay). Vòng đàm phán gồm 123 nước tham
gia và kéo dài đến năm 1993. Vòng đàm phán này làm trị giá
thương mại tăng lên đến gần 4.000 tỉ USD, thuế quan nhập
khẩu bình quân chỉ còn 3.9%.
Ngày 15/4/1994 tại Marrakesh (Maroc), thành lập tổ chức
thương mại thế giới. Như vậy WTO đi vào hoạt động từ ngày
1/1/1995 là một tổ chức hoạt động độc lập với hệ thống Liên
Hiệp Quốc.

Vòng đàm phán Doha (11/2001 – 7/2004) là vòng đàm
phán thứ 9 được phát động tại hội nghị Bộ trưởng WTO tại
Doha của quarta, gồm nội dung chính là: Đàm phán về nông
nghiệp và dịch vụ. Vòng đàm phán này thực chất là đòi giảm
trợ cấp đối với nông sản ở các nước công nghiệp phát triển như
mỹ, EU, nhật…, giúp các nước nghèo có điều kiện cạnh tranh
nông sản bình đẳng với các nước giàu có. Vấn đề tiếp cận thị
trường hàng công nghiệp ở các nước đang phát triển (NAMA).
Hiện tại, thuế nhập khẩu o 73 các nước công nghiệp phát triển
là dưới 5%, ở các nước đang phát triển là dưới 15%. Các nước
công nghiệp phát triển muốn các nước đang phát triển giảm
thuế nhập khẩu hơn nữa. Giải quyết các vấn đề tồn đọng về
thuận lợi hóa thương mại và minh bạch hóa sự mua sắm của
chính phủ.
Ngoài ra, vòng đàm phán Doha còn giải quyết các vấn đề
như: quyền của các nước nghèo được nhập khẩu với giá rẻ hoặc
được cấp bằng sáng chế sản xuất những loại dược phẩm chữa
trị được bệnh AIDS, sốt rét…
Đến tháng 7/2007. vòng đàm phán vẫn chưa kết thúc vì các
vấn đề mở cửa thị trường nông sản, vấn đề tiếp cận các loại
thuốc rẻ của cac 1nước nghèo chưa được giải quyết.
• Bộ máy cơ cấu tổ chức của WTO
1.2.1 Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan
giải quyết tranh chấp và Cơ quan kiểm điểm chính sách
thương mại
1.2.1.1 Hội nghị Bộ trưởng WTO
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng
diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả
các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một nước hoặc
một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu).

Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề
trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO.
1.2.1.2 Đại hội đồng WTO
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ
quan: Đại Hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng
Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng
thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm
đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các
nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm
họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.
1.2.1.2.1 Đại Hội đồng
Là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva,
được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện
(thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành
viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng
(vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc
của WTO.
1.2.1.2.2 Hội đồng Giải quyết Tranh chấp
Được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán quyết về
giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ
trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên
(cấp đại sứ hoặc tương đương).
1.2.1.2.3 Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại
Được nhóm họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương
mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách
thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn,
việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những
thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng
hơn.
1.2.1.3 Các Hội đồng Thương mại

WTO có 3 hội đồng (Council) được thành lập để giám sát
việc thực thi 3 hiệp định thương mại đa phương là: Hội đồng
GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS. Tất cả các nước
thành viên đều có quyền tham gia vào hoạt động của 3 hội đồng
này. Ba hội đồng nói trên báo cáo trực tiếp các công việc của mình
lên Đại hội đồng WTO. Hội đồng Thương mại Hàng hóa: chịu
trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động
liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa. Hội đồng Thương
mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi
của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các
hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ. Hội đồng
Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến
Thương mại: chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm
vi của Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên
quan đến Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ
chức quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
Ngoài ra còn có các cơ quan được các Hội đồng của WTO
thành lập với tư cách là cơ cấu trực thuộc (subsidiary bodies) để
giúp các hội đồng này trong việc thực hiện các chức năng kỹ
thuật, ví dụ như “Uỷ ban về thâm nhập thị trường”, “Uỷ ban về trợ
giá nông nghiệp” và các "Nhóm công tác" (Working group) được
thành lập trên cơ sở tạm thời để giải quyết những vấn đề cụ thể, ví
dụ như các “Nhóm công tác về việc gia nhập WTO” của một số
nước
1.2.2 Tổng giám đốc và Ban thư ký WTO
Khác với GATT 1974, WTO có một ban thư ký rất quy mô,
bao gồm khoảng 635 viên chức và nhân viên thuộc biên chế chính
thức của WTO. Đứng đầu ban thư ký WTO là Tổng giám đốc
WTO. Tổng giám đốc WTO do Hội nghị Bộ trưởng bổ nhiệm với

nhiệm kỳ 4 năm. Ngoài vai trò điều hành, Tổng giám đốc của
WTO còn có một vai trò chính trị rất quan trọng trong hệ thống
thương mại đa phương. Chính vì vậy mà việc lựa chọn các ứng cử
viên vào chức vụ này luôn là một cuộc chạy đua ác liệt giữa các
nhân vật chính trị quan trọng, cấp Bộ trưởng, Phó Thủ tướng hoặc
Tổng thống (Trong số các ứng cử viên vào chức vụ Tổng giám
đốc đầu tiên của WTO có ông Salinas, cựu Tổng thống Mêhicô).
Quyền hạn và trách nhiệm của Tổng giám đốc do Hội nghị Bộ
trưởng quyết định. Biên chế Ban thư ký WTO do Tổng giám đốc
quyết định. Tổng giám đốc và thành viên Ban thư ký WTO có quy
chế tương tự như của viên chức các tổ chức quốc tế, hoạt động
độc lập và chỉ tuân theo các quyết định và tôn chỉ của WTO. Họ
được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ tương tự như viên chức
của các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc. Cũng như những
người tiền nhiệm trước kia trong GATT, Tổng giám đốc WTO có
vai trò hết sức quan trọng, dẫn dắt các vòng đàm phán thương mại
đa biên và giải quyết tranh chấp ( Ông Rugiero, Tổng giám đốc
sắp mãn nhiệm của WTO đã đóng vai trò trung gian hoà giải rất
tích cực và có hiệu quả trong vụ tranh chấp giữa Mỹ và EU liên
quan đến việc áp dụng các đạo luật Helms-Burton và D’Amaton-
Kennedy năm 1997). Vị trí đặc biệt của Tổng giám đốc WTO thể
hiện một trong những nét đặc trưng trong ngoại giao đa phương
ngày nay khi trên thực tế các quan chức lãnh đạo cao cấp của các
tổ chức quốc tế ngày càng đóng vai trò "điều hành" (managing)
nhiều hơn là "chấp hành" (executive).
1.3. Nguyên tắc hoạt động của WTO
1.3.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Được thể qua 2 quy chế:
1.3.1.1. Quy chế đãi ngộ tối huệ quốc: Most Favoured
Nation(MFN)

Là quy chế mỗi nước thuộc WTO phải dành cho sản phẩm
dịch vụ nhập khẩu từ một quốc gia khác đối xử không kém ưu đãi
hơn so với sản phẩm dịch vụ nhập khẩu từ một quốc gia thứ ba.
Mỗi thành viên phải đối xử với các thành viên khác bình đẳng.
Nguyên tắc này rất quan trọng vì vậy nó được ghi nhận tại điều
đầu tiên của GATT.
1.3.1.2. Nguyên tắc đối xử quốc gia: National
Treatment(NT)
Hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu phải được đối xử như hàng
sản xuất trong nước. Theo nguyên tắc này, bất kì một sản phẩm
nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và
các phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa sẽ được
hưởng sự đối xử ngang bằng và phải được cung cấp các điều kiện
tương tự như với sản phẩm trong nước. Vì thế các nước thành viên
không được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ sản xuất trong nước và
không được phân biệt đối xử với hàng hóa nhập khẩu từ các quốc
gia thành viên khác.
Đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước được điều tiết bởi quy
luật giống nhau, môi tường đầu tư như nhau, điều kiện cạnh tranh
như nhau.
Cá nhân và các nhà đầu tư nước ngoài phải được bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ tương tự như cá nhân và nhà đầu tư trong nước.
1.3.2. Nguyên tắc điều kiện hoạt động thương mại ngày
càng thuận lợi, tự do hơn thông qua đàm phán
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi nước phải xây dựng lộ trình cắt
giảm thuế và các biện pháp phi thuế quan theo thỏa thuận đã thông
qua ở các vòng đàm phán đa phương và song phương để tạo thuận
lợi cho quá trình tự do hóa thương mại. Tuy nhiên trong quá trình
đàm phán mở cửa thị trường, do trình độ phát triển kinh tế của mỗi
nước khác nhau, sức chịu đựng của mỗi nền kinh tế trước sức ép

của nước ngoài tràn vào khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận
lợi mà cũng đưa ra những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng
bước nền sản xuất trong nước. Vì vậy, các hiệp định của WTO đã
được thông qua với quy định cho phép các nước từng bước thay
đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hóa từng bước.
1.3.3. Nguyên tắc xây dựng môi trường kinh doanh dễ dự
đoán
Đây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Các nước thành
viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự đoán trước
được về các cơ chế chính sách,quy định thương mại của mình
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh nước
ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách nội
dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà dể từ đó
doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu
tư của mình. Nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
Về các thỏa thuận cắt giảm thuế quan: Bản chất của thương
mại trong WTO là các thành viên ưu đãi, nhân nhượng thuế quan
cho nhau. Song để các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam
kết và không thay đổi theo hướng không tăng thuế suất, sau khi
đàm phán, mức thuế suất đã thỏa thuận sẽ được ghi vào một bản
danh mục thuế. Được gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Một
nước chỉ có thể mức thuế đã cam kết ràng buộc chỉ khi đã đàm
phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do sự
tăngbópthuế đó gây ra.
Về các biện pháp phi thuế quan: Biện pháp phi thuế quan là
biện sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế dịnh lượng khác như quản lí
hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, lạm
dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, làm thương mại thiếu lành
mạnh, minh bạch. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này phải
được loại bỏ hoặc chấm dứt. Bên cạnh đó, WTO có cơ chế giám

sát chính sách thương mại của các nước thành viên thông qua Cơ
chế rà soát chính sách thương mại.
1.3.4. Nguyên tắc tạo ra môi trường kinh doanh mang
tính cạnh tranh bình đẳng
Nguyên tắc này được đưa ra để hạn chế tác động tiêu cực của
cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp, tài trợ xuất
khẩu… hoặc các biện pháp bảo hộ khác. WTO cũng cho phép các
nước áp dụng các biện pháp trả đũa, tự vệ như áp dụng thuế đối
kháng, thuế chống bán phá giá… khi các nước thông qua hoạt
động xuất khẩu có hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt
hại đến nền kinh tế của mình.
1.3.5. Nguyên tắc dành một số ưu đãi về thương mại cho
các nước đang phát triển thông qua các biện pháp
Giành ưu đãi về thuế nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường
các nước công nghiệp phát triển. Không phải thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của WTO như các nước công nghiệp phát triển. Thời gian
điều chỉnh chính sách kinh tế và thương mại phù hợp với quy dịnh
của WTO dài hơn.
Chương 2: NỘI DUNG CHÍNH CÁC HIỆP ĐỊNH CỦA WTO
2.1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT)
Các nguyên tắc và nội dung cơ bản của GATT: GATT gồm 4
phần và 38 điều, nội dung có thể tóm gọn trong các nguyên tắc sau
đây:
Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại, hay là
đối xử tối huệ quốc (Most Favored Nation): Đây là nguyên tắc
quan trọng nhất, quy định các nước thành viên dành cho nhau ưu
đãi tối huệ quốc về thuế xuất nhập khẩu và đối xử bình đẳng trong
thương mại. Nguyên tắc này có hai ngoại lệ là: Các nước tham gia
các khối mậu dịch tự do hay liên minh thuế quan khu vực như EU,

NAFTA, AFTA… có quyền áp dụng với nhau một biểu thuế, một
hàng rào phi quan thuế riêng. Và các nước đang phát triển được ưu
đãi riêng, được các nước phát triển dành cho Hệ thống ưu đãi phổ
cập (GSP) với thuế suất thấp hơn thuế suất tối huệ quốc.
Nguyên tắc có đi có lại: Một nước quyết định mở cửa thị
trường của mình (hạ thuế nhập khẩu, bỏ bớt các quy định đối với
hàng nhập) có quyền đòi hỏi các thành viên khác có những nhượng
bộ tương tự.
Nguyên tắc công khai và cạnh tranh lành mạnh: Yêu cầu các
nước thành viên không được tăng và từng bước giảm hàng rào phi
thuế quan, thừa nhận quyền đánh thuế chống phá giá và chống trợ
cấp xuất khẩu.
Nguyên tắc khước từ một số nghĩa vụ của GATT: Cho phép mỗi
thành viên có quyền áp dụng biện pháp cấp thiết (như hạn chế
nhập khẩu hoặc đình chỉ những nhượng bộ về quan thuế) để bảo vệ
ngành công nghiệp trong nước đang bị thương tổn, hoặc do khó
khăn về cán cân thanh toán.

Nguyên tắc ưu tiên cho hàng hoá của các nước đang phát
triển: Ngoài hệ thống GSP, còn có các ưu đãi về tiếp cận thị
trường, hoặc ít bị ràng buộc bởi nguyên tắc có đi có lại.
2.2. Hiệp định chungvề thương mại dịch vụ (General
Agreement on Trade in Services _GATS)
2.2.1. Giới thiệu
Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS) là tập
hợp đầu tiên và duy nhất những quy định đa biên điều chỉnh
thương mại dịch vụ thế giới. Hiệp định được kí kết sau khi kết
thúc vòng đàm phán Uruguay và bắt đầu có hiệu lực từ ngày
1.1.1995. GATS bao gồm 3 phần: văn bản chính của hiệp định nêu
ra những nghĩa vụ và quy định chung, phần phụ lục bao gồm các

quy định được áp dụng cho các lĩnh vực khác nhau và các cam kết
cụ thể của các nước nhằm bảo đảm mở cửa thị trường nội địa, kể
cả những chỉ dẫn đối với trường hợp các nước tạm thời từ bỏ
nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Mục đích của việc thiết lập hiệp định là nhằm mở rộng phạm
vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương sang lĩnh vực
dịch vụ chứ không chỉ điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại
hàng hóa như trước.
2.2.2. Các nghĩa vụ và quy định chung
Hiệp định GATS được áp dụng cho tất cả các loại dịch vụ
được trao đổi trên thế giới như các dịch vụ ngân hàng, viễn thông,
du lịch, các dịch vụ chuyên nghiệp... Hiệp định đưa ra bốn phương
thức trao đổi dịch vụ là cung cấp qua biên giới (việc cung cấp dịch
vụ được tiến hành từ lãnh thổ quốc gia này sang lãnh thổ quốc gia
khác); tiêu dùng ngoài lãnh thổ (người tiêu dùng hay doanh nghiệp
sử dụng dịch vụ tại một nước khác); hiện diện thương mại (doanh
nghiệp nước ngoài lập chi nhánh hay công ty con ở một nước) và
hiện diện thể nhân (các cá nhân rời khỏi một nước để sang cung
ứng dịch vụ ở một nước khác).
Đối xử tối huệ quốc (MFN) trong khuôn khổ GATS: nếu
một nước mở cửa một lĩnh vực cho cạnh tranh nước ngoài thì nước
đó sẽ phải dành cơ hội đồng đều cho các nhà cung ứng dịch vụ của
các nước thành viên WTO. GATS cho phép các nước tự dành
quyền tiếp tục đối xử ưu đãi hơn đối với một số nước nào đó trong
một lĩnh vực dịch vụ nhất định bằng cách liệt kê các “ngoại lệ đối
với nghĩa vụ MFN” đồng thời với các cam kết ban đầu của mình.
Để bảo vệ MFN, các nước đã quyết định ngoại lệ chỉ được chấp
nhận một lần duy nhất và không có bổ sung thêm.
Các cam kết mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia: Cam kết
của các nước về mở cửa thị trường nội địa và mức độ mở cửa trong

các lĩnh vực cụ thể thông qua các cuộc đàm phán. Các cam kết này
được liệt kê lại trong các “danh mục” các ngành sẽ được mở cửa,
mức độ mở cửa đối với mỗi ngành (những hạn chế đối với sự tham
gia của đối tác nước ngoài được nêu rõ nếu cần) và các hạn chế có
thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (tức khi một số ưu đãi
được dành cho các công ty trong nước nhưng không dành cho các
công ty nước ngoài). GATS cũng không cấm độc quyền của nhà
nước và độc quyền của tư nhân. Theo cách tiếp cận của GATS đối
với các cam kết, các nước thành viên không bị buộc phải đưa ra
cam kết về tất cả các ngành dịch vụ. Một chính phủ có thể không
muốn cam kết về mức độ cạnh tranh nước ngoài trong một ngành
nhất định, bởi họ cho rằng đó là một chức năng cơ bản của chính
phủ hoặc vì bất cứ lý do gì khác. Trong trường hợp này, các chính
phủ chỉ tuân thủ những nghĩa vụ tối thiểu như đảm bảo sự minh
bạch trong cách thức điều tiết ngành dịch vụ này và không được
phân biệt đối xử giữa các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài với
nhau.
Tính minh bạch: Theo GATS, các chính phủ phải công bố
tất cả các luật, quy định xác đáng và thiết lập các điểm thông tin
trong các cơ quan hành chính của mình. Từ các điểm thông tin này,
các công ty và chính phủ nước ngoài có thể lấy thông tin liên quan
đến các qui định điều chỉnh ngành dịch vụ này hay ngành dịch vụ
khác. Các nước thành viên cũng phải thông báo cho WTO tất cả
những thay đổi về qui định điều chỉnh các ngành dịch vụ là đối
tượng của các cam kết cụ thể.
Khách quan và hợp lý: Hiệp định quy định chính phủ các
nước phải điều tiết các ngành dịch vụ một cách hợp lý, khách quan
và công bằng. Khi đưa ra một quyết định hành chính tác động đến
dịch vụ thì chính phủ cũng phải lập cơ chế công minh cho phép
xem xét lại quyết định này. GATS không buộc các nước phải dỡ

bỏ mọi quy định trong bất cứ ngành dịch vụ nào. Các cam kết tự
do hoá không làm phương hại đến quyền của các nước được ấn
định những chuẩn mực về chất lượng, độ an toàn hay giá cả cũng
như quyền được đưa ra các qui định nhằm theo đuổi bất cứ mục
tiêu chung nào mà họ cho là phù hợp.
Thanh toán và chuyển tiền quốc tế: Một khi đã cam kết mở
cửa một ngành dịch vụ cho cạnh tranh nước ngoài thì về nguyên
tắc chính phủ không được hạn chế việc chuyển tiền ra nước ngoài
dưới danh nghĩa chi trả cho các dịch vụ đã tiêu dùng (“giao dịch
vãng lai”) trong ngành này. Chỉ có một trường hợp ngoại lệ duy
nhất được quy định trong GATS đó là một nước có thể áp dụng các
hạn chế khi gặp khó khăn về cán cân thanh toán, nhưng ngay cả
trong trường hợp này thì các hạn chế chỉ có thể được áp dụng tạm
thời và phải tuân thủ những hạn chế và điều kiện khác.
2.3. Hiệp định liên quan đến thương mại về sở hữu trí tuệ
( Trade Related Intellectual Property Rights-TRIPs)
2.3.1. Giới thiệu
Hiệp định TRIPS đòi hỏi mọi quốc gia thành viên của WTO
phải xây dựng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ theo các tiêu chuẩn
tối thiểu thống nhất. Một cách tổng quát, các tiêu chuẩn tối thiểu
ấn định trong Hiệp định TRIPS nhằm bảo đảm cho mỗi quốc gia
thành viên có một hệ thống sở hữu trí tuệ đầy đủ và có hiệu quả.
Các lĩnh vực của sở hữu trí tuệ được điều chỉnh là: quyền tác
giả và quyền liên quan; nhãn hiệu hàng hoá, bao gồm cả nhãn hiệu
dịch vụ; chỉ dẫn địa lý, bao gồm cả tên gọi xuất xứ; kiểu dáng công
nghiệp; patent, bao gồm cả bảo hộ giống cây trồng mới; thiết kế bố
trí mạch tích hợp; và thông tin không được tiết lộ, bao gồm cả bí
mật thương mại và dữ liệu thử nghiệm.
2.3.2. Nội dung
Hiệp định quy định các tiêu chuẩn tối thiểu về từng yếu tố

bảo hộ cơ bản, đó là đối tượng được bảo hộ, các quyền được cấp
và các ngoại lệ được phép đối với các quyền đó và thời hạn bảo hộ
tối thiểu. Các nguyên tắc cơ bản về đối xử quốc gia (cấm Thành
viên phân biệt đối xử giữa công dân của mình với công dân của các
Thành viên khác) và về đối xử tối huệ quốc (cấm Thành viên phân
biệt đối xử giữa công dân của các Thành viên khác), được áp dụng
chung cho tất cả các đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi điều
chỉnh của Hiệp định. Các nghĩa vụ này không chỉ áp dụng đối với
các tiêu chuẩn về nội dung của việc bảo hộ mà còn áp dụng cả đối
với những vấn đề liên quan đến khả năng đạt được, xác lập, phạm
vi, việc duy trì và thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như những
vấn đề ảnh hưởng đến việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ được điều
chỉnh cụ thể trong Hiệp định.
Nguyên tắc MFN: một nước thành viên của WTO giành
những ưu đãi, ưu tiên hoặc miễn trừ áp dụng quyền sở hữu trí tuệ
có liên quan đến thương mại cho công dân của một quốc gia thì
cũng phải giành những điều kiện tương tự cho công dân của tất cả
các nước thành viên khác thuộc WTO.
Nguyên tắc NT: Mỗi nước thành viên cho các công dân của
nước khác những đối xử không kém thuận lợi hơn về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại so với công dân nước
mình.
Các trường hợp ngoại lệ không phải áp dụng các nguyên tắc
trên là đươc quy định cụ thể trong: Công ước Pari về bảo hộ sở
hữu công nghiệp, Công ước Berne vê bảo hộ các tác phẩm văn học
và nghệ thuật, công ước Roma về bảo hộ người biểu diễn, người
sản xuất bản ghi âm va các tổ chức phát thanh truyền hình, hiệp
ước Washington về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp.
Thời hạn cần thiết để chuyển đổi luật quốc gia phù hợp với
TRIPs là:

Một năm sau khi TRIPs có hiệu lực đối với nước công nghiệp
phát triển
Các nước đang phát triển là 5 năm (sau 1995)
Các nước kém phát triển là 11 năm (sau 1995)
2.3.3. Việt Nam và TRIPs
Sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995, bao gồm 61 điều luật
về sở hữu trí tuệ (thuộc Phần thứ sáu - Quyền sở hữu trí tuệ và
chuyển giao công nghệ) với nội dung thừa nhận quyền dân sự
(quyền tài sản và quyền nhân thân) đối với các thành quả sáng tạo
trí tuệ được coi là bước khởi đầu có ý nghĩa quan trọng, đặt nền
móng cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện về sở
hữu trí tuệ của Việt Nam. Những năm sau đó, hàng loạt Nghị định
của Chính phủ đã lần lượt được ban hành trực tiếp điều chỉnh hoặc
liên quan tới bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhằm thi hành
các quy định về sở hữu trí tuệ trong Bộ luật Dân sự, và những văn
bản đó lại được cụ thể hoá hoặc hướng dẫn thi hành bởi các Thông
tư của các Bộ, ngành và các văn bản của cơ quan cấp dưới Bộ. Hệ
thống các văn bản hướng dẫn, giải thích như trên không chỉ cụ thể
hoá, mà còn bổ sung những quy định còn thiếu hoặc sửa chữa
những quy định không phù hợp của các văn bản cấp trên. Các
nguồn luật khác (Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Thương mại,
Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự,...)
đóng vai trò hỗ trợ, bổ sung cho các văn bản pháp luật riêng về sở
hữu trí tuệ. Nhờ cấu trúc kiểu “bọc lót” như vậy, hệ thống pháp
luật về sở hữu trí tuệ hiện hành của Việt Nam (xem phần Phụ lục)
đã bao gồm các quy phạm pháp luật căn bản đạt được tiêu chuẩn
về “tính đầy đủ" như quy định của các điều ước quốc tế về sở hữu
trí tuệ.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành về sở hữu trí tuệ của
Việt Nam còn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về “tính hiệu quả”.

Các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các biện pháp chế tài
dân sự, hành chính, hình sự còn chưa đầy đủ và chưa thực sự rõ
ràng, minh bạch. Quy định về thẩm quyền và trách nhiệm cũng
như cơ chế hoạt động của hệ thống các cơ quan thực thi hành chính
chưa hợp lý. Do đó quan hệ về sở hữu trí tuệ mang bản chất dân sự
chưa được chú trọng xử lý bằng trình tự dân sự mà, ngược lại, bị
hành chính hoá và hình sự hoá một cách bất hợp lý. Một số quy
định trong hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam còn
chưa đáp ứng được những đòi hỏi thực tiễn, đặc biệt là chưa thật
sự rõ ràng, chi tiết nên khó áp dụng trong thực tiễn.
2.4. Hiệp định các biện pháp thương mại có liên quan đến
đầu tư (Agreement on trades Related Invesment Measures-
TRIMs)
2.4.1. Giới thiệu
TRIMS có hiệu lực từ ngày 1.1.1995.Đây là một hiệp định
mà các nước thành phải kí kết thực hiện với mục đích tạo thuận lợi
cho hoạt động đầu tư quốc tế và chỉ áp dụng các biện pháp có liên
quan đến thương mại hàng hóa. Mục tiêu chính của hiệp định là
nhằm thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá đầu tư và thương
mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước
tham gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, trên cơ sở đảm bảo
tự do cạnh tranh. Ngoài ra, hiệp định cũng có tính đến các nhu cầu
cụ thể về thương mại, phát triển và khả năng tài chính của các
nước thành viên đang phát triển, nhất là các nước thành viên kém
phát triển.
2.4.2. Nội dung cơ bản của TRIMS
TRIMS cấm áp dụng một số biện pháp bị coi là vi phạm
nguyên tắc “đãi ngộ quốc gia” và các biện pháp có tác dụng hạn
chế thương mại bao gồm các biện pháp:
Yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá (vi phạm điều III.4, GATT 1994):

Doanh nghiệp nước ngoài mua hoặc sử dụng các sản phẩm có xuất
xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, dù yêu cầu
đó được xác định theo sản phẩm nhất định, theo số lượng hoặc giá
trị sản phẩm hay theo một tỷ lệ trên khối lượng hoặc giá trị sản
lượng sản xuất của doanh nghiệp.
Yêu cầu cân bằng thương mại (vi phạm điều III.4 và XI.1,
GATT 1994): Doanh nghiệp nước ngoài chỉ được mua hoặc sử
dụng các sản phẩm nhập khẩu được giới hạn trong một tổng số tính
theo khối lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này
xuất khẩu.
Hạn chế về giao dịch ngoại hối (vi phạm điều XI.1, GATT
1994): Hạn chế doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu sản phẩm để
sử dụng trong hoặc có liên quan đến sản xuất của mình bằng việc
hạn chế khả năng tiếp cận và sử dụng ngoại hối đến một mức nhất
định so với các nguồn thu ngoại hối của doanh nghiệp này.
Hạn chế về xuất khẩu (vi phạm điều XI.1, GATT 1994): Hạn
chế doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu các
sản phẩm dưới hình thức sản phẩm cụ thề, hay số lượng hoặc giá
trị sản phẩm hay theo một tỷ lệ về số lượng họăc giá trị sản lượng
sản xuất trong nước của doanh nghiệp.
Nhằm bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp đã thành lập đang
chịu tác động của một số biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại, Hiệp định TRIMs có một điều khoản quy định cho phép nước
thành viên trong giai đoạn chuyển đổi được áp dụng những biện

×