Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

khảo sát quy trình chăn nuôi lợn nái, lợn con, tình hình bệnh phân trắng lợn con

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 65 trang )

MỤC LỤC
Cs là cộng sự vii
Phần I 1
MỞ ĐẦU 1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
2. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI 2
Phần II 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1 VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỆNH PHÂN TRẮNG LỢN
CON TRONG NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI 3
2.1.1 Những nghiên cứu trong nước 3
2.1.2 Những nghiên cứu trên thế giới 4
2.2 ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ LỢN CON 5
2.2.1. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con 5
2.2.2. Khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn con 6
2.2.3. Đặc điểm thích ứng của lợn con 7
2.2.4. Hệ vi sinh vật đường ruột ở lợn con 8
2.3. BỆNH PHÂN TRẮNG LỢN CON 10
2.3.1. Nguyên nhân 11
2.3.2. Cơ chế gây bệnh 16
2.3.3. Triệu chứng - bệnh tích 17
2.3.4. Biện pháp phòng và trị bệnh 18
Phần III 23
ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG – NGUYÊN LIỆU 23
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 23
3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 23
3.2.1. Tình hình chăn nuôi, thú y và vệ sinh của trại lợn 23
i
3.2.2. Điều tra tình hình bệnh phân trắng lợn con trên đàn lợn theo mẹ từ
năm 2008 đến tháng 4 năm 2010 23


3.2.3. Đánh giá hiệu quả của một số phác đồ điều trị bệnh phân trắng lợn
con 23
3.3. NGUYÊN LIỆU 23
3.4 PHƯƠNG PHẤP NGHIÊN CỨU 25
3.4.1. Phương pháp điều tra dựa vào số liệu do chủ trại cung cấp và qua
quan sát thu thập trực tiếp 25
3.4.2. Xác định bệnh dựa vào triệu chứng lâm sàng và mổ khám quan sát
bệnh tích 25
3.4.3. Điều tra tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con theo độ tuổi 25
3.4.4. Phương pháp Bố trí thí nghiệm xác định hiệu quả của các phác đồ
điều trị bệnh phân trắng lợn con 26
Phần IV 28
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 28
4.1. QUY MÔ CHĂN NUÔI TRANG TRẠI 28
4.1.1. Vài nết cơ bản về hệ thống trại lợn 28
4.1.2. Tình hình chăn nuôi 30
4.2. Công tác thú y 32
4.2.1. Vệ sinh phòng bệnh 32
4.2.2. Phòng bệnh bằng vacxin 34
4.3. TÌNH HÌNH MẮC BỆNH TRÊN ĐÀN LỢN CỦA TRẠI 36
4.4. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, THEO DÕI BỆNH PHÂN TRẮNG LỢN CON
TỪ SƠ SINH ĐẾN 27 NGÀY TUỔI 38
4.4.1. Kết quả điều tra bệnh phân trắng lợn con từ năm 2008 đến tháng 4
năm 2010 38
4.4.2. Kết quả điều tra bệnh phân trắng lợn con qua 4 tháng đầu năm 2010
40
ii
4.4.3. Tình hình mắc bệnh phân trắng lợn con theo lứa tuổi 44
4.5. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THỬ NGHIỆM BỆNH PHÂN TRẮNG LỢN
CON 47

Phần V 54
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 54
5.1. KẾT LUẬN 54
5.2. KIẾN NGHỊ 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các Thầy, Cô giáo trong
khoa Thú y - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã truyền đạt cho tôi những
kiến thức chuyên ngành bổ ích trong suốt khóa học vừa qua.
Với tấm lòng thành kính và biết ơn, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
Thầy giáo TS. Nguyễn Bá Tiếp Bộ môn Giải Phẩu - Tổ Chức, Khoa Thú y-
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và dành
nhiều sự giúp đỡ quý báu để tôi hoàn thành đề tài tốt nghiệp của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn BSTY Lê Văn Thơ – Trạm trưởng Trạm Thú y
huyện Khoái Châu – Hưng Yên và chú Tường Duy Toản – Chủ trang trại, đã
tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Cuối cùng với tình cảm đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình,
bạn bè đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng
như trong thời gian tôi thực hiện đề tài.
Hà Nội, Ngày 30 tháng 5 năm 2010
Sinh viên
iii
Tường Tuấn Anh
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VAC là Vườn ao chuồng

PTH là Phó Thương Hàn
DTL là Dịch Tả Lợn
LMLM là Lở mồm Long Móng
THT là Tụ Huyết Trùng
KST là ký sinh trùng
TT là thể trọng
VTC là viêm tử cung
Cs là cộng sự
vii
Phần I
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt nam là một nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa
nhiều. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nông nghiệp, chính là vậy
nông nghiệp luôn đóng vai trò là một ngành chính và là cơ bản trong cơ cấu kinh
tế của nước ta, Phát triển một ngành nông nghiệp bền vững là một vấn đề cơ bản
và quan trọng trong chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước. Nhằm tạo điều
kiện phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập và nâng cao mức sống cho người
dân, từng bước đưa kinh tế nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Trong nông nghiệp thì trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành không thể tách
rời và thống nhất trong mối quan hệ hữu cơ, cùng tác động và hỗ trợ lẫn nhau.
Tuy nhiên, trong khi ngành trồng trọt đã gặt hái được nhiều kết quả đáng kể, thì
ngành chăn nuôi mới bắt đầu được quan tâm trong thời gian gần đây. Thời gian
gần đây xu hướng chăn nuôi đã có nhiều mặt tiến bộ và phát triển cả về quy mô
đàn, chất lượng và sản phẩm… Hình thức chăn nuôi nông hộ đang dần dần được
thay thế bằng quy mô trang trại nhỏ. Chính vì thế mà vấn đề kỹ thuật chăn nuôi
và công tác phòng trị bệnh cũng ngày được quan tâm và chú trọng hơn.
Đối với các trang trại chăn nuôi lợn nái, vấn đề thường gặp và cũng là vấn
đề nan giải hiện nay là lợn con ỉa phân trắng. Bệnh xuất hiện lúc ồ ạt, lúc lẻ tẻ

tuỳ thuộc vào sự thay đổi ít, nhiều của các yếu tố chăm sóc, nuôi dưỡng và sự
thay đổi của thời tiết khí hậu. Chính vì vậy mà bệnh lợn con ỉa phân trắng đã
được nghiên cứu từ rất lâu, để từ đó tìm ra nguyên nhân, biện pháp phòng và trị
hiệu quả sao cho đạt kết quả tốt nhất.
Để củng cố và đáp ứng nhu cầu của sản xuất cũng như để góp phần tư liệu
về tình hình dịch bệnh của đàn lợn, nhất là của các trại lợn giống tư nhân tôi tiến
1
hành nghiên cứu đề tài: “Khảo sát quy trình chăn nuôi lợn nái, lợn con, tình
hình bệnh phân trắng lợn con và một số phác đồ điều trị bệnh ở quy mô trang
trại nhỏ” tại trại Ông Tường Duy Toản Xã Liên khê - Khoái Châu - Hưng Yên
2. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
- Nắm bắt được quy trình chăn nuôi lợn lái và lợn con ở quy mô nông hộ
- Nắm được thực trạng bệnh lợn con ỉa phân trắng của trại để từ đó đề ra
phác đồ điều trị phù hợp và hiệu quả.
2
Phần II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỆNH PHÂN TRẮNG LỢN
CON TRONG NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
2.1.1 Những nghiên cứu trong nước
Bệnh phân trắng lợn con là một bệnh xảy ra từ rất lâu và ngày càng phổ
biến ở các trang trại nuôi tập trung và ở các nông hộ. Bệnh xảy ra quanh năm
nhưng thường phát triển mạnh vào lúc giao mùa thay đổi thời tiết đột ngột từ
mùa Đông sang mùa Xuân, Xuân sang Thu. Ngày nay, với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, bệnh đã được khống chế phần nào nhưng việc loại trừ hoàn
toàn gần như là không thể và gặp rất nhiều khó khăn.
Đỗ Ngọc Thuỵ, Cù Hữu Phú (2002), các tác giả đã phân lập E. coli. Ở lợn
mắc bệnh tiêu chảy và đã xác định được các chủng E. coli mẫn cảm cao với các
loại thuốc như Nitrofurazolidon tới 85%, Neomycine tới 80% và Sufonamid là
75%.

Theo Bùi Thị Tho, Phạm Khắc Hiếu, Lê Ngọc Diệp (1999), kiểm tra tính
kháng thuốc của E.coli phân lập từ lợn con bị bệnh phân trắng tại các tỉnh phía
Bắc trong hơn 20 năm từ 1975 – 1995 cho thấy tính kháng thuốc tăng rất nhanh,
tính kháng với nhiều loại kháng sinh cũng tăng rất cao.
Theo Lê Minh Trí (1995), hội trứng tiêu chảy ở lợn con do rất nhiều
nguyên nhân trong đó có nguyên nhân vi khuẩn. Tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào
mức độ nhiễm khuẩn, thức ăn, nước uống, vệ sinh chuồng trại, còn tỷ lệ chết do
tiêu chảy lại phụ thuộc vào tuổi mắc bệnh, sự can thiệp kịp thời, sử dụng phác
đồ điều trị và loại kháng sinh.
Theo Hồ Văn Nam, Trương Quang (1994), cho rằng nguyên nhân gây ra
tiêu chảy ở lợn con ngoài nguyên nhân nhiễm khuẩn, ký sinh trùng, nội khoa
3
còn phụ thuộc vào phương thức chăn nuôi, tình trạng dinh dưỡng, quy trình khai
thác và sử dụng, thời tiết khí hậu và vệ sinh chuồng trại.
Vũ Văn Ngữ (1975), cho rằng do một tác nhân bất lợi nào đó đã làm trạng
thái cân bằng của khu hệ vi sinh vật đường ruột bị phá vỡ. Các vi khuẩn gây
bệnh nhân cơ hội tăng mạnh cả về số lượng và độc lực làm cho các vi khuẩn cá
lợi cho quá trình tiêu hoá không cạnh tranh nổi và giảm đi dẫn tới loạn khuẩn
xảy ra, quá trình hấp thụ bị rối loạn gây tiêu chảy.
Vũ Văn Ngữ và cs (1982), đã phân lập được 24 serotyp O chọn 6 serotyp:
O
141,
O
149,
O
117
O
138,
O
139

có tần suất cao để sản suất vacxin E.coli vô hoạt có bổ
trộ keo phèo, tiêm 2 lần cho lợn mẹ phòng bệnh phân trắng cho lợn con. Lê Văn
Tạo (1993) đã phân lập, chọn chủng E.coli điểm hình từ bệnh phẩm lợn con chết
do bị tiêu chảy để điều chế vacxin chết dưới dạng cho uống. Vacxin dùng cho
lợn sau khi đẻ 2 giờ uống với liều 1ml/con, liên tục trong 3-5 ngày. Kết quả làm
giảm tỷ lệ bệnh từ 30-35% so với bình thường.
Theo Đỗ Trung Cứ và cs (2000), sử dụng chế phẩm Biosubtyp phòng
bệnh tiêu chảy cho lợn con, có thể giảm được 42% số lợn bị tiêu chảy ở giai
đoạn từ 1- 60 ngày tuổi. Trần Thị Hạnh và cs (2000), dùng chế phẩm E.coli sữa
bước đầu có hiệu quả trong việc phòng bệnh tiêu chảy ở lợn con từ 23,5% xuống
còn 13%, làm chậm thời gian nhiễm bệnh, giảm tỷ lệ chết do tiêu chảy và tăng
khối lượng lợn con lúc cai sữa.
2.1.2 Những nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về bệnh tiêu biểu như:
Theo A-Vkovashiki, ở giai đoạn chưa trưởng thành, dạ dày lợn con chưa
có axit HCl tự do nên tác dụng diệt khuẩn của dạ dày chưa cao bên cạnh đó khả
năng tiêu hoá của dạ dầy và ruột ở mức độ thấp. Đây là một nguyên nhân hết
sức quan trọng tạo điều kiện cho bệnh phát triển.
4
Theo Bakhtin (1956), nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con chủ yếu
do vệ sinh chuồng trại, quản lý chăm sóc kém, thức ăn thiếu chất dinh dưỡng và
áp dụng các phương thức chăn nuôi lạc hậu.
Nagy (1990) cho rằng tiêu chảy lợn con trong thời kỳ bú mẹ phần lớn do
các chủng E.coli là O
8
, O
129
, O
138
, O

141
, O
147
, O
149
, O
157
những nhóm này được
phân lập từ phân của lợn con bị tiêu chảy. Bệnh tiêu chảy ở lợn con là do vi
khuẩn E.coli có độc tố đường ruột gây ra. Khả năng vi khuẩn cố định được ở
ruột là nhờ yếu tố bám dính K
88
, K
99
và 987P.
2.2 ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ LỢN CON
Ở lợn con, cấu tạo cơ thể cũng như chức năng của các cơ quan, bộ phận
cơ thể, chức năng của hệ thống thần kinh, thể dịch chưa hoàn chỉnh, nhất là cơ
quan tiêu hóa dẫn đến chưa đảm nhiệm được chức năng tiêu hóa rất dễ gây rối
loạn trao đổi chất. Mặt khác, sự thích ứng của lợn con với điều kiện ngoại cảnh
còn kém dẫn đến rối loạn tiêu hóa gây tiêu chảy, còi cọc, chậm lớn và thiếu
máu. Hiểu rõ được điều này giúp cho người chăn nuôi có những biện pháp tốt để
chăn nuôi tốt và hạn chế tối đa các bệnh ở lợn con nhất là bệnh phân trắng lợn
con.
2.2.1. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con
Lợn con theo mẹ có giai đoạn không có HCl trong dạ dày. Giai đoạn này
được coi là giai đoạn thích ứng cần thiết tự nhiên. Nhờ sợ thích ứng này cơ thể
mới có khả năng hấp thu được kháng thể miễn dịch đưa vào cùng sữa đầu của
lợn mẹ, trong giai đoạn đó dịch vị không có hoạt tính phân giải protein mà chỉ
có hoạt tính làm vón sữa đầu, Albumin và Globulin được chuyển xuống ruột và

thẩm thấu vào máu.
Tuy nhiên lợn con 14-16 ngày tuổi tình trạng thiếu HCl trong dạ dày
không còn là sự cần thiết cho sinh lý bình thường nữa (Đào Trọng Đạt và
cs, 1986). Việc tập cho lợn ăn sớm, đặc biệt là cai sữa sớm đã rút ngắn được giai
đoạn thiếu HCl, hoạt hóa hoạt động tiết dịch, tạo khả năng xây dựng nhanh
5
chóng các đáp ứng miễn dịch, tạo khả năng xây dựng nhanh chóng các đáp ứng
miễn dịch của cơ thể. Vì vậy, trong quá trình nuôi dưỡng lợn con theo mẹ cần
chú ý đến những thời kỳ phát triển của lợn. Lợn con sau khi sinh cần cho bú sữa
đầu càng sớm càng tốt, bởi vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể, chất khoáng,
vitamin. Sau đẻ 19 ngày lượng sữa mẹ giảm dần nhưng nhu cần của lợn con lại
tăng lên. Đây là giai đoạn rất khó khăn đối với lợn con. Để khắc phục tình trạng
này cần tập cho lợn con ăn sớm, vừa để bổ sung chất dinh dưỡng, vừa có tác
dụng kích thích tăng tiết dịch, tăng hàm lượng HCl và enzyme, vừa kích thích sự
phát triển của dạ dày và ruột để thích ứng với chế độ dinh dưỡng của lợn con sau
cai sữa.
Về mặt cơ bản thì lợn con theo mẹ có 5 điểm bất lợi thuộc các yếu tố nội
tại khiến lợn con thích ứng kém với môi trường là (1) Điều hòa thân nhiệt kém,
(2) dự trữ năng lượng cơ thể kém, (3) hệ thống enzyme tiêu hóa chưa hoàn
chỉnh, (4) thiếu sắt và (5) hệ thống miễn dịch và hormone chưa phát triển.
2.2.2. Khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn con
Phản ứng miễn dịch là khả năng đáp ứng với chất lạ đối với cơ thể. Phần
lớn các chất lạ chính là mầm bệnh. Các mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể lợn con
tương đối dễ dàng do chức năng các tuyến chưa hoàn chỉnh. Trong hệ thống tiêu
hóa của lợn con, lượng enzyme tiêu hóa và lượng HCl tiết ra còn chưa đủ để đáp
ứng cho quá trình tiêu hóa, gây rối loạn trao đổi chất, tiêu hóa kém, hấp thu
kém. Giai đoạn này mầm bệnh như Salmonella, E.coli, Proteus… dễ dàng xâm
nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa và gây bệnh.
Ở lợn con, các yếu tố miễn dịch không đặc hiệu như bổ thể, Profecdin và
Lysozin được tổng hợp còn ít, khả năng thực bào của gia súc còn rất yếu nhất là

khi gia súc chưa nhận được sữa đầu. Chính vì vậy việc cho lợn con bú sữa đầu là
rất cần thiết để tăng khả năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh.
Trong quá trình đáp ứng miễn dịch, trên bề mặt kháng nguyên có thể tập
trung nhiều Lymphocyte tham gia miễn dịch tế bào hoặc kháng thể là các
6
globulin miễn dịch. Với lợn con mức độ đáp ứng miễn dịch được xác định
không những phụ thuộc vào sự có mặt của kháng thể mà còn phụ thuộc vào mức
độ sẵn sàng chủ động của hệ thống miễn dịch đối với các yếu tố lạ khi xâm
nhâm nhập vào cơ thể (Nguyễn Như Thanh, 2001).
Chính vì cấu tạo đặc biệt và khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn như vậy
nên ở giai đoạn lợn con theo mẹ nếu không được đáp ứng đầy đủ về mặt dinh
dưỡng và chất miễn dịch thì rất dễ mắc phân trắng lợn con. Tuy nhiên, vẫn còn
một yếu tố quan trọng nữa là sự phát triển của hệ vi sinh vật trong đường ruột
lợn con, chúng có những đặc thù riêng. Việc cân bằng khu hệ vi sinh vật có lợi
trong đường ruột nhằm khắc phục, hạn chế sự loạn khuẩn trong quá trình phát
triển và trưởng thành của cơ thể lợn con là rất quan trọng. Sử dụng chế phẩm
sinh học để phòng và trị tiêu chảy cho lợn con là rất cần thiết.
2.2.3. Đặc điểm thích ứng của lợn con
Sự thích ứng của lợn con trong điều kiện môi trường sống thay đổi rất
kém, đặc biệt ở giai đoạn lợn con vừa được đẻ ra và từ nuôi dưỡng bằng sữa mẹ
đến chế độ cho lợn con tập ăn sớm.
Mặt khác, sự chưa thành thục và thiếu hoàn chỉnh về chức năng của các
cơ quan nội tạng, nhất là bộ máy tiêu hóa có sự liên quan mật thiết đến sự phát
triển của hệ vi sinh vật có lợi và có hại trong đường ruột và sức đề kháng của cơ
thể chống lại bệnh tật. Sự cân bằng nhiệt của lợn con cũng phải tự thiết lập để
thích ứng với môi trường bên ngoài chứ không thể nhờ vào sự cân bằng nhiệt
của cơ thể mẹ như lúc còn là bào thai, điều này cũng làm cho lợn con tiêu tốn
một lượng năng lượng khá lớn.
Lợn con khi mới sinh, quá trình chuyển hóa, cân bằng năng lượng, chưa
kịp thích nghi nên dễ bị tác động bởi môi trường bên ngoài vì vậy mà cần phải

có một quá trình thích nghi, tạo điều kiện thích hợp trong quá trình sống để
chúng có thể làm quen và thích nghi dần với môi trường sống mới.
7
Nhờ quá trình oxy hóa mô mỡ nên lợn con điều chỉnh được nhân nhiệt
của mình so với môi trường bên ngoài. Khả năng điều chỉnh thân nhiệt khác
nhau ở lợn con là do mức độ phát triển khác nhau của mô mỡ của từng cá thể,
từng loại gia súc (Đào Trọng Đạt, 1986). Mặt khác, sau khi sinh ra lợn con còn
phải chống chịu với các yếu tố bất lợi của môi trường, chúng rất nhạy cảm với
các yếu tố đó nên thường rơi vào trạng thái Stress dẫn tới mất năng lượng,
không giữ được thân nhiệt từ đó suy giảm miễn dịch dễ mắc các bệnh về đường
ruột và hô hấp.
Lợn con có nhu cầu cao về dinh dưỡng, axit amin là nguyên liệu chủ yếu
cho sự sinh trưởng và phát dục của lợn con. Tốc độ sinh trưởng của gia súc non
rất nhanh, trong vòng 10-14 ngày thể trọng tăng gấp 1,3 lần, sau 2 tháng tuổi
khối lượng lợn con có thể tăng 14-15 lần so với lúc sơ sinh. Nếu cai sữa mẹ
không đảm bảo đủ chất lượng, trong khẩu phần ăn thiếu đạm, sự sinh trưởng của
cơ thể sẽ bị chậm lại hoặc ngừng lại, khả năng chống chịu với mầm bệnh suy
giảm nên cơ thể rất dễ bị nhiễm bệnh.
Trong nuôi dưỡng và chăm sóc lợn con thường xuyên xuất hiện hiện
tượng lợn con bị tiêu chảy, một trong những bệnh gây thiệt hại cho người chăn
nuôi do những đặc điểm sinh lý chưa hoàn thiện của lợn con. Vì vậy, nuôi
dưỡng lợn con cần phải đầu tư nhiều công sức mới đạt được hiệu quả tăng trọng
và tỷ lệ nuôi sống cao.
2.2.4. Hệ vi sinh vật đường ruột ở lợn con
Trong đường ruột của gia súc nói chung, có rất nhiều loại vi khuẩn sinh
sống và phát triển. Số lượng và thành phần của chúng ở từng đoạn ruột là không
giống nhau, tăng dần từ tá tràng đến trực tràng và biến động theo lứa tuổi.
Nguyên nhân là do sự thay đổi pH và thành phần chất chứa trong từng đoạn ruột
và ở mỗi lứa tuổi. Theo Nguyễn Tài Lương (1982), những vi khuẩn đường ruột
chứa những chức năng nhất định trong quá trình tiêu hóa và có vai trò sinh lý

quan trọng đối với cơ thể. Trạng thái sinh lý bình thường giữa cơ thể vật chủ và
8
hệ vi sinh vật trong đường ruột cũng như các loại vi sinh vật với nhau trong tập
đoàn của chúng luôn luôn ở trạng thái cân bằng, sự cân bằng này là cần thiết cho
sức khỏe vật nuôi.
Khái niệm họ vi khuẩn đường ruột chỉ tất cả các vi khuẩn có mặt trong
ống tiêu hóa (Vũ Văn Ngữ, 1979). Đây là một họ lớn, bao gồm các vi khuẩn
Gam (-) sống trong ống tiêu hóa của người và động vật. Chúng có thể gây bệnh
hoặc không gây bệnh, hiếu khí hoặc yếm khí tùy tiện.
Vi khuẩn đường ruột Salmonella spp mà đại diện là Salmonella
cholerasuis đã được Salmon và Smith phân lập năm 1885 từ lợn mắc bệnh tiêu
chảy. Cùng năm đó, Escherich đã phát hiện ra vi khuẩn đường ruột và ông đã
đặt tên là Escherichia coli. Friet Landa phân lập được Klebsiella, Proteus được
Hauser phân lập năm 1885 và Shigella do Shiga phát hiện năm 1988 (trích dẫn
của Nguyễn Vĩnh Phước, 1974). Kohler và cs (1988), cho biết bệnh viêm ruột
hoại tử ở lợn con do Clostridium perfrigens.
Những hệ sinh vật có hại ở gia súc sơ sinh chưa hình thành, vì vậy chưa
có vi khuẩn ức chế và tiêu diệt sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh đường tiêu
hóa, gia súc non dễ bị nhiễm bệnh đây là đặc điểm quan trọng cần chú ý.
Hệ sinh vậy có hại hay gặp trong đường ruột là vi khuẩn Salmonella spp,
E.coli, một số chủng Clostridium spp, Shigella. Cho đến nay nhiều công trình
nghiên cứu khoa học đã cho biết nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc non gồm 3
loại chính là E.coli, Clostridium perfrigens, Salmonella spp.
Trực khuẩn ruột già Escherichia coli thuộc họ Enterobacteriaceae, nhóm
Escherichae, giống Escherichia coli. Trong các vi khuẩn đường ruột giống
Escherichia coli là phổ biến nhất và chúng xuất hiện rất sớm trong đường ruột
của người, động vật sơ sinh, thường ở phần sau của ruột đôi khi còn thấy ở niêm
mạc của nhiều bộ phận trong cơ thể (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978), (Nguyễn Như
Thanh, 2001).
9

Vi khuẩn E.coli gây bệnh thường có một hay nhiều yếu tố gây bệnh khác
nhau ở những chủng vi khuẩn E.coli không gây bệnh không tìm thấy những yếu
tố này. Trong những năm gần đây những hiểu biết về những yếu tố gây bệnh và
vai trò của chúng trong quá trình gây bệnh đường ruột đã tăng lên rất nhanh, do
vậy vi khuẩn E.coli đã xếp loại theo hướng gây bệnh và dựa trên khả năng sản
xuất các yếu tố gây bệnh.
Vi khuẩn Clostridium spp gây bệnh thường thấy trong thức ăn, môi
trường và nước uống, lợn ăn phải Clostridium spp vào ruột sản sinh độc tố, sinh
sôi nảy nở rất nhanh và gây bệnh tiêu chảy. Lợn chết có bệnh tích viêm ruột,
thoái hóa gan và thận.
Clostridium perfingens typ C gây bệnh viêm ruột hoại tử cho lợn ở lứa
tuổi 1- 14 ngày tuổi đặc biệt xảy ra trầm trọng ở giai đoạn từ 1-7 ngày tuổi, tỷ lệ
chết cao có thể tới 50% phân là chất chứa mầm bệnh.
Clostridium perfingens sản sinh ra 12 loại độc tố khác nhau trong đó có
các loại α, β, ε và iota là độc tố gây chết chủ yếu (Donel, 1986).
Nhiều công trình nghiên cứu khảng định vi khuẩn Salmonella spp có vị trí
quan trọng trong bệnh tiêu chảy ở gia súc. Tiêu chảy ở lợn do Salmonella
cholerasuis gây ra. Bệnh lây nhiễm từ môi trường (đất, nước, thức ăn không hợp
vệ sinh) vào đường tiêu hóa, vi khuẩn tiết ra độc tố gây bệnh cho lợn, bệnh có
thể lây nhiễm từ mẹ sang con.
2.3. BỆNH PHÂN TRẮNG LỢN CON
Bệnh phân trắng lợn con là một hội chứng bao gồm nhiều nguyên nhân.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Lê Thị Tài (2000), bệnh phân trắng lợn con là một bệnh
truyền nhiễm cấp tính làm chết nhiều lợn con đang bú mẹ, thể hiện đặc trưng
bằng triệu chứng ỉa chảy phân trắng - vàng kèm theo cả bại huyết.
Các tác giả Lê Thị Tài, Đoàn Thị Kim Dung, Phương Song Liên (2002)
cho rằng, bệnh xuất hiện vào những ngày đầu sau khi sinh và suốt trong thời kỳ
bú mẹ. Tỷ lệ mắc bệnh có thể lên tới 50- 90%, trong đó tỷ lệ chết có thể lên tới
10
60-70% nếu bệnh không được can thiệp kịp thời. Bệnh có thể xảy ra quanh năm,

nhưng thường bùng phát mạnh khi thời tiết thay đổi đột ngột, vào giai đoạn đoạn
giao mùa.
2.3.1. Nguyên nhân
Bệnh lợn con phân trắng đã và đang được rất nhiều sự quan tâm, nghiên
cứu và đưa ra các nhận định khác nhau về nguyên nhân gây bệnh của các tác
giả. Tuy nhiên thì nguyên nhân gây bệnh vẫn tập trung vào hai hướng chính sau:
Nguyên nhân nội tại
Theo các tác giả Nguyễn Văn Thanh, Bùi Thị Tho, Bùi Tuấn Nhã (2004),
khi mới sinh, cơ thể lợn con còn chưa phát triển hoàn thiện về tiêu hóa lẫn hệ
miễn dịch. Trong dạ dày lợn con thiếu axit HCl do đó pH dạ dày cao (pH=3 - 4),
tạo điều kiện cho vi khuẩn phất triển.
Khi thiếu HCl tự do, pepsinozen tiết ra không trở thành men pepsin hoạt
động được. Khi thiếu men pepsin sữa mẹ không được tiêu hóa và bị kết tủa dưới
dạng casein, gây rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy phân trắng.
Hơn nữa khi mới sinh thì các trung tâm điều tiết nhiệt của lợn con chưa
hoàn chỉnh, do đó không kịp thích nghi với sự thay đổi bất thường của thời tiết,
khí hậu. Lượng mỡ dưới da của lợn con mới sinh chỉ có khoảng 1%. Lúc khí hậu
thay đổi, lợn con mất cân bằng giữa hai quá trình sản nhiệt và thải nhiệt. Đặc
điểm này lý giải tại sao bệnh này hay xảy ra ồ ạt, hàng loạt khi khí hậu thời tiết
thay đổi bất thường.
Theo Sử An Ninh (1991), bệnh phân trắng lợn con có liên quan đến trạng
thái stress lạnh và ẩm làm cho lợn con không giữ được mối cân bằng hoạt động
của hệ thống: Hạ khâu não – Tuyến yên – Tuyến thượng thận làm biến đổi hàm
lượng Fe
2+
,
Na
+
và K
+

trong máu, hậu quả là giảm sức đề kháng của lợn con, nhất
là lợn con, đặc biệt là lợn con sơ sinh dẫn đến hiện tượng ỉa chảy.
Nói đến nguyên nhân do vi khuẩn gây bệnh phân trắng lợn con phải kể
đến vi khuẩn E.coli. E.coli là vi khuẩn đường ruột có ở khắp mọi nơi, lây lan
11
chủ yếu bằng con đường tiêu hóa, ít khi qua con đường không khí, qua niêm
mạc mắt và qua nhau thai.
Tiêu chảy ở lợn con sơ sinh do vi khuẩn E.coli thường thấy ở lợn con sơ
sinh đến 4 ngày tuổi. Các chủng gây bệnh đều sản sinh độc tố đường ruột nên
được gọi là ETEC. ETEC bám vào màng nhầy của ruột non của lợn con sơ sinh
bằng một hay nhiều kháng thể bám dính F
4
(K
88
), F
5
(K
99
) hoặc F
41.
Chúng phát
triển ở tế bào biểu mô ruột non và sản xuất một hay nhiều độc tố ruột STa (ST
1
),
STb (ST
2
) hoặc LT.
Tiêu chảy ở lợn con trong các thời kỳ bú mẹ phần lớn được gây ra do O
8,
O

138
, O
129,
O
147,
O
141,
những nhóm này được phân lập từ phân của lợn tiêu chảy
(Nagy và cs,1990).
Nguyễn thị Hội (1982), đã phân lập được các chủng E.coli gây tiêu chảy ở
lợn con theo mẹ và cho biết: Khi nghiên cứu về kháng nguyên O của 5430
chủng E.coli được phân lập ở 8 tỉnh thành, thấy các Serotyp gây bệnh chủ yếu
trên lợn là O
138
, O
139,
O
117,
O
147,
O
141,
O
149
. Và trên cơ sở đó xác định serotyp đã
chọn 7 chủng để chế tạo vacxin E.coli phòng bệnh phân trắng lợn con.
Lê Văn Tạo (1995), đã phân lập và xác định được typ của các chủng
E.coli gây bệnh phân trắng lợn con và đã chọn được 7 chủng E.coli mang các
yếu tố gây bệnh như K
88

, Enteroxin, Hly và R để chế tạo vacxin.
Nguyên nhân do ngoại cảnh
Gầy đây có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã thống nhất bệnh
phân trắng lọn con xảy ra là do nhiều nguyên nhân kết hợp với nhau và chúng có
liên quan đến hàng loạt các yếu tố. Do đó, việc phân chia nguyên nhân chỉ là
tương đối, nhằm mục đích xác định nguyên nhân nào là chính, nguyên nhân nào
là phụ để có biện pháp phòng trị có hiệu quả.
Qua các tài liệu chúng tôi có thể chia thành các nguyên nhân bao gồm:
Điều kiện thời tiết khí hậu, tình trạng nuôi dưỡng, vi khuẩn mà chủ yếu là E.coli
và do virus
12
- Do điều kiện thời tiết khí hậu
Những điều kiện phát sinh bệnh phân trắng lợn con như:
+ Thời gian bệnh phát sinh mạnh thường vào lúc độ ẩm không khí cao.
Bệnh phân trắng lợn con thường phát triển mạnh khi độ ẩm không khí trong
chuồng nuôi tăng cao, bệnh càng trầm trọng khi thời tiết lạnh và ẩm. Chính vì
thế việc sưởi ấm cho lợn con có tác dụng làm cho lợn con tăng sức đề kháng với
bệnh. Theo nhiều tác giả thì việc sưởi ấm là biện pháp cơ bản nhất, không những
trong vụ đông xuân giá rét mà ngay cả trong những ngày hè ấm áp.
Theo các tác giả Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phương, Lê Ngọc Mỹ,
Huỳnh Văn Kháng (1996), khi được đẻ ra, lợn con chịu ảnh hưởng trực tiếp của
môi trường sống như nóng, lạnh, mưa, hanh khô, ẩm thấp thất thường do cơ thể
lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, nên các phản ứng thích nghi và bảo vệ rất
yếu. Vì vậy, khi thời tiết thay đổi đột ngột, lợn con dễ bị cảm lạnh, đó cũng là
điều kiện thuận lợn để bệnh phân trắng lợi con phát triển.
Trong các yếu tố về khí hậu thì quan trọng nhất là độ ẩm và nhiệt độ. Độ
ẩm thích hợp cho lợn con vào khoảng 75 – 85%. Do đó, trong những tháng mưa
nhiều thì số lượng lợn con bị phân trắng tăng lên rõ rệt, có khi tới 90% tổng toàn
đàn. Vì vậy, việc làm khô chuồng là vô cùng cần thiết, nền chuồng ẩm thấp, khó
thoát nước trong mùa nóng bức làm bệnh phân trắng lợn con bùng phát mạnh

hơn.
- Do điều kiện nuôi dưỡng
Ngoài điều kiện về các yếu tố bên ngoài, điều kiện về nuôi dưỡng cũng
đóng vai trò quan trọng với lợn con mới sinh, đặc điểm thích nghi còn kém, các
cơ quan nhất là cơ quan tiêu hóa chưa phát triển đầy đủ. Do vậy, nếu yếu tố dinh
dưỡng không tốt, không hợp lý cũng là nguyên nhân chính gây bệnh.
Bên cạnh đó bệnh phân trắng lợn con còn do thành phần sữa mẹ có nhiều
chất khô, mỡ khó tiêu tích trong dạ dày, vi khuẩn E.coli tác động phân hủy sữa
thành axit gây viêm dạ dày - ruột. Mặt khác, do lượng sắt của lợn con từ bào thai
13
chưa đầy đủ, khi ra ngoài lại không được sữa mẹ cung cấp Co, B
12
nên sinh bầm
huyết, dẫn đến cơ thể suy yếu, không hấp thụ được đầy đủ chất dinh dưỡng.
Trạng thái rối loạn trao đổi protein có thể xuất hiện do thiếu hụt protein
trong thức ăn, do tỷ lệ các axit amin trong khẩu phần không cân đối, do hệ tiêu
hóa của lợn mẹ hấp thụ kém, dẫn đến lợn con khi bú mẹ sẽ không đủ đảm bảo
chất dinh dưỡng. Do đó, nếu chăm sóc không tốt, cung cấp không đủ chất dinh
dưỡng cũng làm gia tăng khả năng mắc bệnh.
Trong sữa đầu hàm lượng vitamin A, D, B, C cao hơn rất nhiều so với sữa
thường. Ngoài ra trong sữa đầu có MgSO
4
. Có tác dụng tẩy rửa các chất cặn bã
trong đường tiêu hóa của lợn sơ sinh làm tăng nhu động ruột, làm quá trình tiêu
hóa tốt. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm lượng kháng thể γ_globulin. Do vậy, mà
việc cho lợn con bú sữa đầu đủ là rất cần thiết để cung cấp hàm lượng kháng thể
đáng kể chống lại sự xâm nhiễm của các vi khuẩn gây bệnh, đồng thời tăng sức
đề kháng cho vật nuôi.
Mặt khác, ở giai đoạn sơ sinh lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh về giải
phẫu và sinh lý nên quá trình tiêu hóa và hấp thu kém, điều hòa thân nhiệt kém,

hệ thống miễn dịch chưa hoạt động, nên việc tạo sữa tốt cho lợn con bú rất quan
trọng và sự tạo sữa của lợn mẹ khác nhau ở các giai đoạn là khác nhau, 1-3 ngày
đầu sau khi sinh có quá trình tiết sữa đầu có hàm lượng protein rất cao 18 -19%,
protein huyết thanh là 34 – 38% protein tổng số. Do đó, phải có quá trình tập ăn
thích hợp cho lợn con.
14
- Nguyên nhân do vi khuẩn E.coli
Nhiều tác giả đã nghiên cứu và đã chứng minh được vai trò của E.coli
trong bệnh phân trắng lợn con.
Lê Văn Tạo và cs (2006), đã phân lập từ phân của lợn con mắc bệnh phân
trắng được 75 chủng E.coli thuộc 13 serotyp kháng nguyên là O
111,
O
86,
O
26
, O
149
,
O
1
, O
55
, O
124
, O
127
, O
8


Cũng theo Lê Văn Tạo (2006), bệnh thường xảy ra ở lợn con đặc biệt là
lợn con sơ sinh từ 1-21 ngày tuổi, tập trung chủ yếu trong 13 ngày đầu, có con
mắc rất sớm ngay khi sinh ra được 2-3 giờ và mắc muộn hơn sau khi đã tròn 4
tuần tuổi. Bệnh thường xảy ra khi thời tiết thay đổi, khí hậu rét, mưa nhiều, độ
ẩm không khí cao, bệnh hay xảy ra ở các đàn lợn mẹ đẻ lần đầu, lợn mẹ chửa
không chăm sóc đầy đủ chuồng nuôi mất vệ sinh, vi khuẩn E.coli có sẵn trong
ruột hoặc cảm nhiễm từ ngoài vào gặp điều kiện thích hợp tiếp nhận được các
yếu tố gây bệnh trở thành gây bệnh. Với các yếu tố gây bệnh có được, trước hết
vi khuẩn bám dính vào tế bào nhung mao ruột non bằng kháng nguyên bám dính
vào tế bào nhung mao xâm nhập và cư trú ở ruột non, phát triển và nhân lên rồi
sản sinh ra độc tố đường ruột, độc tố này sẽ phá hủy tố chức thành một và làm
thay đổi cân bằng trao đổi muối – nước, chất điện giải. Nước không được hấp
thu từ ruột vào mà rút nước từ cơ thể tập trung vào ruột và dạ dày, sữa không
tiêu bị vón lại sinh ra tiêu chảy, phân có màu trắng. Khả năng xảy ra bệnh trong
một đàn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
. Khả năng tiếp xúc của lợn sau đẻ với E.coli, sự ô nhiễm E.coli trong nơi
sinh của lợn.
. Điều kiện chăm sóc lợn mẹ
. Nhiệt độ chuồng nuôi
. Hàm lượng kháng thể được truyền qua sữa đầu của lợn con
Bệnh phân trắng lợn con là bệnh truyền nhiễm có điều kiện cho nên lây
lan không mạnh. Các Serotyp E.coli thường phân lập được từ bệnh phẩm lợn
15
con bị bệnh phân trắng là O
9
, O
111
, O
149
. Khi đàn lợn bị bệnh nếu không can thiệp

kịp thời tỷ lệ chết cao tới 60 – 70%, đặc biệt lợn con mắc bệnh vào tuần tuổi
đầu. Những lợn con khỏi bệnh thường bị còi cọc, phát triển chậm trong giai
đoạn sau, gây thiệt hạn cho người chăn nuôi.
- Nguyên nhân do virus
Trên thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu vai trò của virus trong
bệnh lợn con phân trắng. Một số nhà khoa học công bố Rotavirus thuộc họ
Reovindae gây bệnh phân trắng lợn con. Bệnh hay xảy ra ở lợn con từ 1 – 5
ngày tuổi, tỷ lệ chết cao 50 – 100%. Có triệu chứng điển hình là phân nhão như
hồ rồi đến phân lẫn nhiều nước màu vàng hoặc xám chứa nhiều chất vón.
2.3.2. Cơ chế gây bệnh
Bệnh phân trắng lợn con có liên quan tới trạng thái Stress như thời tiết ẩm
lạnh hoặc nóng ẩm đột ngột, thức ăn cho lợn mẹ thay đổi bất thường về lượng
đạm và chất béo, chất khoáng và vitamin.
Hệ thống dạ dày – ruột đặc biệt mẫn cảm với Stress. Ngay ở giai đoạn báo
động của quá trình Stress, nhu động ruột tăng, thậm chí gây ra ỉa chảy cấp tính.
Nếu tác nhân Stress tác động với cường độ mạnh, kéo dài thì chắc chắn xảy ra
viêm dạ dày - ruột. Tiếp theo quá trình viêm của dạ dày – ruột bởi Stress, các vi
khuẩn có trong đường tiêu hóa đã làm bệnh trầm trọng hơn, tổn thương nặng
hơn.
Các tác nhân Stress sẽ tạo điều kiện “mở đường” cho vi khuẩn phát triển,
nhất là vi khuẩn E.coli.
Vi khuẩn E.coli bằng cách trực tiếp hay gián tiếp xâm nhập vào đường
ruột của lợn. Trong ruột khi có đủ các điều kiện thuận lợi vi khuẩn nhân lên với
số lượng lớn, sản sinh yếu tố kháng khuẩn Colicin (Col V). Yếu tố này tiêu diệt
hoặc hạn chế sự phát triển của các vi khuẩn đường ruột khác, đặc biệt là các vi
khuẩn có lợi như: B.subtylis, các vi khuẩn lactic, trở thành vi khuẩn có số lượng
lớn trong đường ruột. Khi số lượng đã lớn và chiếm ưu thế vi khuẩn tràn lên ruột
16
non. Ở ruột non nhờ kháng nguyên bám dính, vi khuẩn bám dính vào lớp tế bào
biểu mô, nhung mao ruột, nhờ yếu tố xâm nhập, vi khuẩn xâm nhập vào trong

lớp tế bào biểu mô tại đây vi khuẩn phát triển và nhân lên lần thứ nhất làm phá
hủy lớp tế bào này gây ra viêm ruột. Cũng từ đây vi khuẩn sản sinh độc tố
đường ruột, độc tố này tác động vào quá trình trao đổi muối – nước làm cho
nước và chất điện giải không được hấp thu từ ruột vào cơ thể. Nước tập trung
vào ruột làm cho ruột căng lên, sức căng của ruột và quá trình viêm ruột kích
thích vào hệ thần kinh thực vật ở ruột tạo nên những cơn nhu động ruột mạnh
đẩy nước và phân ra ngoài gây nên tiêu chảy.
2.3.3. Triệu chứng - bệnh tích
Triệu chứng
Bệnh thường xảy ra ở lợn con, có con mắc rất sớm, thường sau khi sinh 2-
3 giờ và mắc muộn khi 20 – 21 ngày tuổi.
Lợn con mắc bệnh đa số thân nhiệt không tăng, nếu tăng thì sau 2 – 3
ngày là hạ xuống bình thường, cũng có con thân nhiệt hạ xuống do ỉa chảy, mất
nước nhiều.
Trong 1 – 2 ngày đầu lợn vẫn bú và chạy nhảy như thường, sau đó con vật
ít bú hay bỏ bú, gầy tóp nhanh chóng, lông xù, đuôi rũ, da nhăn nheo nhợt nhạt,
hai chân sau run rẩy và dúm lại, đuôi và kheo dính đầy phân. Khi con vật ỉa rặn
nhiều làm lưng uốn cong, bụng tóp lại, thể trạng đờ đẫn, nằm nhiều hơn. Có con
ỉa chảy mất nước nhiều thì hố mắt trũng xuống, niêm mạc mắt, mũi, mồm nhợt
nhạt, chân lạnh. Thần kinh co giật từng cơn, cảm giác ở da bị mất. Vật bệnh từ
5 – 7 ngày tuổi, cơ thể quá kiệt sức dẫn đến chết. Nếu gia súc qua khỏi thì còi
cọc, chậm lớn dễ mắc các bệnh kế phát khác.
Ngoài việc chẩn đoán dựa vào triệu chứng thì bệnh còn được xác định chủ
yếu dựa vào trạng thái thay đổi của phân qua các giai đoạn của bệnh:
- Giai đoạn đầu kể từ 12 – 24 giờ trước khi bị bệnh, lợn con đi ỉa khó
khăn, táo bon, phân đen nhỏ như hạt đỗ đen.
17
- Giai đoạn tiếp theo, phân táo bón chuyển sang sền sệt, màu vàng, sau 2 –
3 ngày phân chuyển thành màu vàng trắng hay trắng xám, sau có thể là vàng.
Phân ngày một lỏng hơn, số lần ỉa chảy cũng ngày càng nhiều, có khi 15 – 20

lần/ ngày, phân có mùi tanh khắm, trong phân có lẫn những hạt sữa chưa tiêu lổn
nhổn như vôi, hay có lẫn nhiều bọt khí. Có trường hợp mới mắc bệnh, đến ngày
thứ ba phân đã loãng như nước, tháo ra tung tóe, lúc này lợn mất nước nặng, lợn
rơi vào trạng thái hôn mê, hấp hối và chết, tỷ lệ chết cao có thể là 40 – 70%.
- Giai đoạn khỏi bệnh, lợn đi ỉa chảy phân từ trạng thái màu trắng xám
chuyển thành xám đen hay đen, phân đặc dần thành khuôn như phân lợn khỏe.
Bệnh tích
Lợn chết do mất nước nghiêm trọng, xác chết khô, gan màu nâu đen. Dạ
dày chứa những đám nhồi máu. Ruột non trương giãn to và xuất huyết. Niêm
mạc ruột bị hoại tử từng đám. Trong ruột già có thể thấy từng đám máu. Viêm
ruột là hiện tượng phổ biến, viêm thành ruột, xuất huyết ở màng treo ruột. Dạ
dày chứa một ít sữa đông đặc, vón có thể có máu, mùi tanh. Trong ruột chứa
phân mầu vàng hay xám. Hạch màng treo ruột sưng.
Một số trường hợp có thể thấy viêm phổi, xoang ngực, xoang bụng và
màng phổi sưng chứa dịch thẩm xuất.
2.3.4. Biện pháp phòng và trị bệnh
2.3.4.1. Phòng bệnh
Bệnh lợn con ỉa phân trắng xảy ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Để
công tác phòng bệnh có hiệu quả chúng ta phải kết hợp nhiều biện pháp kết hợp
cùng một lúc:
- Vệ sinh và chăm sóc tốt
+ Tạo ra tiểu khí hậu chuồng nuôi ấm về mùa đông, thoáng mát về mùa
hè, khô ráo sạch sẽ nhất là trong đợt nồm và mưa to.
18

×