Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

các chính sách và biện pháp thu hút fdi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.25 KB, 27 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cầp thiết của đề tài nghiên cứu.
Sau hơn 25 năm thực hiện chính sách “ Đổi mới” toàn diện mọi mặt của đời sống
kinh tế- xã hội, trọng tâm là chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam đã
nhiều năm duy trì và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, đời sống của
nhân dân ngày càng được cải thiện, môi trường chính trị xã hội được giữ vững. Để đạt
được những thành tựu này, bên cạnh những đóng góp tích cực của các thành phần kinh tế
khác, thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có vai trò hết sức quan
trọng đối với quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam.
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được ban hành năm 1987, đã chính
thức thể hiện quan điểm mở cửa, hội nhập nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khu vực
và thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một nguồn vốn đầu tư quan trọng
của toàn xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, nhằm nâng cao năng lực quản lý và chuyển giao công nghệ tiên tiến trên thế giới;
mở rộng thị trường xuất khẩu và tạo thêm việc làm mới.Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện còn có nhiều mặt bất hợp lý cần được tiếp tục nghiên
cứu và tìm biện pháp tháo gỡ. Cơ cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực và theo địa bàn chưa đáp
ứng được yêu cầu kinh tế xã hội, hiệu quả tổng thể về mặt kinh tế xã hội do đầu tư trực
tiếp nước ngoài mang lại chưa cao, nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam còn thiếu vắng
nhiều công ty xuyên quốc gia có tầm cỡ; trình độ lao động trong các doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài còn yếu so với khu vực… Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là
do nhận thức, quán triệt về tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nội dung
phát triển kinh tế tại các ngành, các cấp còn hạn chế; các chính sách và khung pháp lý về
đầu tư nước ngoài chưa thật đồng bộ, thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà. Từ đó, vấn
đề đặt ra là chúng ta phải có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về chính sách đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong thời gian qua để thấy được những yếu tố tác động: Lợi thế và thách
thức của đất nước, trên cơ sở đó đề ra hệ thống những giải pháp cụ thể, kịp thời nhằm
thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm tới góp phần
thực hiện mục tiêu: Công nghiệp hoá, hiệu đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa


Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển.
1
Nhằm tìm hiểu sâu hơn vấn đề trên, cùng với những lý luận đã được tích lũy trong
qua trình nghiên cứu môn học đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ cùng một số
môn học khác chúng em tiến hành nghiên cứu đề tài: ‘ Các chính sách và biện pháp thu
hút FDI ở Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu.
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài nhằm đưa ra một hướng tiếp cận giúp cho người đọc có thêm 1 góc nhìn về
các chính sách và biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Đồng thời
trên cơ sở những lý luận chung đề tài đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
của các chính sách và biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể.
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về các chính sách và biện pháp thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam
- Phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách và biện pháp thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài của VIệt Nam
- Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao công tác lập kế hoạch, ban
hành chính sách và tiến hành các biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là: Các văn bản pháp luật, các nghị định, thông tư…có liên
quan đến các chính sách và biện pháp thu hút FDI
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian: Từ năm 1987- 2011
+ Số liệu nghiên cứu: Từ năm 1987-2011
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Điều tra trực tiếp thông qua các văn bản, báo cáo đã được công bố. Số liệu thu
thập chủ yếu làm sáng tỏ phần cơ sở lý luận, thực tiễn, ngoài ra còn làm rõ tính hiệu quả

mà các chính sách cũng như các biện pháp thu hút FDI đạt được khi tiến hành triển khai.
4.2. Phương pháp xử lý số liệu
2
Các số liệu sau khi được thu thập sẽ được xử lý trên Microsoft Excel và các phần
mềm đặc trưng có liên quan. Ngoài ra, một số thông tin số liệu sẽ được mô tả dưới dạng
bảng biểu.
4.3. Phương pháp thống kê mô tả
Là phương pháp căn cứ vào một hay một số chỉ tiêu nào đó để tiến hành phân chia
các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ có tính chất giống nhau. Phương pháp
này giúp cho việc tổ chức điều tra, thu thập số liệu, tính toán các chỉ tiêu, giúp cho việc
phân tích tài liệu được khách quan, phản ánh đúng nội dung kinh tế cần nghiên cứu.
5.Nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu còn bao gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về các chính sách và biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Chương II: Phân tích thực trạng và đánh giá tác động của các chính sách và biện
pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam.
Chương III: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các chính
sách và biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1 Chính sách thu hút FDI
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm hệ thống các nguyên tắc,
công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài của một quốc gia trong một thời kì nhất định, nhằm đạt được
những mục tiêu xác định trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia đó.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của dòng vốn đầu tư nước ngoài đối với sự
phát triển kinh tế, nhiều quốc gia đã sử dụng các chính sách khác nhau để thu hút dòn vốn

này những chính sách cơ bản là: sở hữu và đảm bảo đầu tư, lĩnh vực và định hướng đầu
tư, khuyến khích tài chính, kiểm soát ngoại hối, phê duyệt và quản lý đầu tư
1.1.1 Sở hữu và đảm bảo đầu tư
 Sở hữu đầu tư
- Khái niệm: tỷ lệ sở hữu vốn đầu tư nước ngoài có thể được hiểu là mức đóng góp vốn
của các nhà đầu tư nước ngoài trong các dự án ở nước chủ nhà. Tỷ lệ sở hữu phụ thuộc
vào quan điểm, mục tiêu và thường thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của nước nhận
đầu tư.
- Mục đích:
+ Chủ động kiếm soát các hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Điều chỉnh hài hoà lợi ích giữa ĐTNN và đầu tư trong nước.
+ Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo định hướng phát triển của
nước chủ nhà.
+ Hạn chế sự can thiệp của vốn đầu tư nước ngoài đến nền kinh tế-xã hội của nước
chủ nhà.
- Tác động: chính sách sở hữu có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn hình thức đầu tư của
các nhà đầu tư nước ngoài . Đối với nhiều nước, mức sở hữu ĐTNN thường bị khống chế
trong lĩnh vực đầu tư nhạy cảm như dịch vụ, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, tài chính
ngân hàng và các lĩnh vực khác liên quan đến quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, để tăng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều nước đã nới lỏng
hoặc xoá bỏ chính sách sở hữu đối với ĐTNN theo hướng tự do hoá đầu tư.
4
 Đảm bảo đầu tư
Đảm bảo an toàn tài sản cho các nhà ĐTNN là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
đầu tư. Vì hoạt động trong môi trường xa lạ, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên
họ lo sợ tài sản của họ bị nước chủ nhà quốc hữu hóa. Để nhằm tạo lòng tin cho các nhà
ĐTNN, hầu hết các nước đều quy định rất rõ sẽ đảm bảo không quốc hữu hoá tài sản hợp
pháp của các nhà đầu tư. Để thực hiện chính sách này, nước chủ nhà thường ký các Hiệp
định đảm bảo đầu tư với các nhà đầu tư. Hiệp định này bao gồm các nội dung chính sau:
+ Đảm bảo quyền sở hữu tài sản hợp pháp của nhà đầu tư.

+ Đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư
+ Đảm bảo việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài.
+ Đảm bảo cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư.
+ Đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư khi có sự thay đổi về cơ chế chính sách.
+ Cam kết của nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư và
cam kết thực hiện lộ trình mở cửa thị trường đầu tư.
Việc đưa ra các biện pháp đảm bảo đầu tư góp phần tăng thu hút đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài. Đồng thời, là công cụ thể hiện rõ nét nhất thái độ của nhà nước đối
với các nhà đầu tư và thể hiện được tính chất nhất quán pháp luật về đầu tư và pháp luật
chuyên ngành khác.
1.1.2 Lĩnh vực và định hướng thu hút đầu tư
 Lĩnh vực đầu tư
Trong luật pháp thu hút ĐTNN của các nước, nhằm chủ động cơ cấu lại nền kinh tế,
các lĩnh vực mở cửa và khuyến khích thu hút đầu tư thường được quy định rất cụ thể.
Mức độ mở cửa và các khuyến khích ĐTNN tuỳ thuộc vào điều kiện và chiến lược phát
triển của từng nước.
Ở Việt Nam, các địa bàn và lĩnh vực khuyến khích đầu tư là: “sản xuất hàng xuất
khẩu, nuôi, trồng, chế biến nông lâm, thủy sản; Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện
đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; Sử dụng nhiều lao
động, chế biến nguyên vật liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt
Nam; Xây dựng kết cấu hạ tầng vá các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng; Đầu tư
vào các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và các vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn”.
Các lĩnh vực và địa bàn không được đầu tư nếu “gây thiệt hại đến quốc phòng, an
ninh, di tích lịch sử, văn hóa, thuần phong mỹ tục và môi trường sinh thái”.
5
Trước các xu hướng toàn cầu hoá nhiều nước đã tích cực mở cửa thị trường cho
ĐTNN. Trong hiệp định đầu tư, các nước phải cam kết với nhau mở cửa thị trường của
mình, kể cả các lĩnh vực có tính nhạy cảm, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong
và ngoài nước. Tác động của chính sách này có tính chất 2 mặt:
Thứ nhất: nó tạo ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài, nền kinh tế hoạt động

có hiệu quả hơn, người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi từ việc sử dụng có hiệu quả các
nguốn lực sản xuất trong nước và trình độ phát triển của nền kinh tế thế giới.
Thứ hai: nước chủ nhà lại mất công cụ bảo hộ sản xuất trong nước và có thể phải trả
giá đắt cho các vấn đề kinh tế xã hội do tự do hóa đầu tư gây ra. Do đó, chính sách tự do
hóa đầu tư không phải dễ dàng được các nước chấp nhận.
 Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài
Giai đoạn 1: Vào những thập kỷ 50 và 60, trong giai đoạn đầu thu hút đầu tư nước
ngoài, nhiều nước thường khuyến khích đầu tư nước ngoài theo hướng sản xuất thay thế
hàng nhập khẩu. Việc kéo dài các chính sách bảo hộ cao để khuyến khích đầu tư nước
ngoài sản xuất thay thế nhập khẩu đã không đem lại kết quả mong đợi cho nước chủ nhà.
Với sự hạn chế của quy mô thị trường, tính cạnh tranh thấp của sản phẩm thay thế nhập
khẩu đã đẩy các nhà ĐTNN vào tình trạng bế tắc, thua lỗ.
Giai đoạn 2: Từ thập kỷ 70 nhiều nước đã chuyển sang chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài hướng vào xuất khẩu. Các chính sách chủ yếu là những ưu đãi về tài chính, khấu
hao, cung cấp các dịch vụ (cơ sở hạ tầng, điện, nước…), đào tạo lao động, miễn giảm
thuế nhập khẩu (máy móc, thiết bị, nguyên liệu), tỷ lệ sở hữu và các trợ cấp khác
- Ưu điểm của hướng đầu tư nước ngoài vào xuất khẩu:
+ Khắc phục được tình trạng hạn chế quy mô thị trường
+ Lợi thế so sánh nước chủ nhà được khai thác có hiệu quả và thúc đẩy cạnh tranh.
+ Nước chủ nhà nhận được chuyển giao công nghệ hiện đại, kiến thức quản lý tiên
tiến và tiếp cận được mạng lưới phân phối toàn cầu.
-Hạn chế của hướng đầu tư nước ngoài vào xuất khẩu :
+ Liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài với nền kinh tế trong nước còn hạn chế.
+ Giá trị gia tăng của trong tổng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp nước
ngoài chưa cao.
- Giai đoạn 3: Nhằm khắc phục những hạn chế của các chính sách nêu trên, từ cuối thập
kỷ 80 trở lại đây, nhiều nước đã sử dụng kết hợp cả hai chính sách này.
6
1.1.3 Khuyến khích tài chính
Những ưu đãi về tài chính có khả năng mang lại cho nhà đầu tư những nguồn lợi

vật chất đáng kể nên khuyến khích tài chính luôn chiếm vị trí quan trọng trong thu hút
đầu tư nước ngoài. Các khuyến khích tài chính bao gồm:
- Quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp : mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp
và hợp lý sẽ tăng cơ hội cho nhà đầu tư thu được lợi nhuận cao. Để khuyến khích ĐTNN
theo định hướng phát triển của nước chủ nhà, các lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư, các
hình thức đầu tư thường được áp dụng mức thuế suất thấp.
- Quy định về thời gian miễn, giảm thuế đầu tư: thời gian miễn, giảm thuế đầu tư
phụ thuộc vào chính sách cạnh tranh thu hút ĐTNN của các nước. Để tăng hấp dẫn, nước
chủ nhà thường kéo dài thời gian miễn giảm thuế cho các nhà ĐTNN. Thời gian miễn,
giảm thuế đầu tư được tính từ khi dự án kinh doanh có lãi và thông thường được áp dụng
trong khoảng từ 2-10 năm.
- Quy định về miễn, giảm thuế xuất nhập khẩu: được áp dụng đối với máy móc,
thiết bị và nguyên liệu cho các dự án xuất khẩu, công nghệ cao hoặc đầu tư vào các lĩnh
vực, địa bàn được đặc biệt khuyến khích đầu tư.
- Quy định về chính sách tín dụng như ưu đãi vay vốn cho các dự án đầu tư vào
lĩnh vực khuyến khích, trợ cấp các chương trình nghiên cứu và triển khai, cấp tín dụng
với lãi suất thấp cho các hoạt động xuất nhập khẩu.
- Quy định về lệ phí: lệ phí cấp giấy phép đầu tư, cầu phà, đường xá, nhà ga,
chuyển tiền, bưu điện, điện, nước, dịch vụ viễn thông…Các mức lệ phí này thường cao
hơn mức áp dụng cho các công dân ở nước chủ nhà. Điều này đôi khi đã làm nản lòng
các nhà đầu tư nước ngoài. Ngày nay, để tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu
tư, các nước nên dần xóa bỏ chế độ hai giá tức là xóa bỏ dần sự phân biệt giá, phí, lệ phí
giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Quy định về thời gian khấu hao: để khuyến khích thu hút ĐTNN, nhất là vào các
lĩnh vực ưu tiên phát triển, nước chủ nhà thường cho phép các nhà ĐTNN được phép
khấu hao nhanh =>tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm rủi ro nhất là đối với các dự án có
vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài và mức độ rủi ro cao.
1.1.4 Kiểm soát ngoại hối
- Quy định về mở tài khoản ngoại tệ: Việc mở tài khoản ngoại tệ của các doanh
nghiệp nước ngoài tại ngân hàng nước chủ nhà phải được phép của cơ quan quản lý tiền

tệ nước này (thường là Ngân hàng Nhà nước). Nếu cơ quan chức năng nước chủ nhà
7
không quản lý được các tài khoản ngoại tệ thì hiện tượng không kiểm soát được dòng tiền
vào, ra lãnh thổ là điều khó tránh khỏi. Theo quy định ở Việt Nam, tất cả các nhà đầu tư
nước ngoài mở tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam phải được sự
chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Quy định về chuyển đổi ngoại tệ: Các quy định cho phép chuyển đổi ngoại tệ và
chuyển ngoại tệ ra nước ngoài phục thuộc vào tình hình chính sách kinh tế vĩ mô của
từng nước và nới lỏng theo xu hướng tự do chuyển đổi. Ví dụ: các nước Ấn độ, Malaixia,
Singapo không hạn chế mức chuyển đổi giữa các đồng ngoại tệ và đồng bản tệ thì nhiều
nước khác như Trung Quốc, Mexico, Chi Lê lại chỉ cho phép được chuyển đổi từng phần.
Các trường hợp được chuyển ngoại tệ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam của các nhà đầu tư nước
ngoài (sau khi thực hiện các nghĩa vụ thuế) gồm:
+ Lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh
+ Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, sở hữu trí tuệ
+ Tiến gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động
+ Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư
+ Các khoản tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của mình
+ Thu nhập hợp pháp của người lao động nước ngoài làm việc cho các dự án đầu tư.
- Quy định về tỷ giá hối đoái: để chống hiện tượng đầu cơ tiền và ổn định thị
trường ngoại hối, các nhà ĐTNN khi chuyển đổi đồng ngoại tệ và bản tệ phải theo quy
định tỷ giá công bố của ngân hàng Nhà nước. Ở Việt Nam, tỷ giá chuyển đổi phải theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.1.5 Phê duyệt và quản lý đầu tư
Trong quá trình hình thành và triển khai dự án đầu tư, các nhà ĐTNN phải chịu sự
kiểm soát của nước chủ nhà thông qua chính sách phê duyệt và quản lý đầu tư. Chính
sách này bao gồm: cơ quan quản lý ĐTNN, quy trình thẩm định dự án và cấp giấy phép
đầu tư, quản lý dự án ĐTNN sau khi cấp phép.
- Cơ quan quản lý ĐTNN: là tổ chức hoặc các tổ chức của Chính phủ nước chủ
nhà được giao nhiệm vụ quản lý các hoạt động ĐTNN. Tại Việt Nam, Bộ kế hoạch và

đầu tư là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài, giúp Chính phủ quản
lý hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
- Quy trình thẩm định dự án đầu tư là các bước đánh giá hiệu quả tài chính, kinh tế
xã hội của dự án đầu tư nước ngoài để phê duyệt cấp giấy phép đầu tư hoặc có cho phép
đầu tư hay không. Qua thực tế cho thấy, công việc thẩm định dự án thường kéo dài hơn
8
thời gian quy định. Một dự án được phê duyệt phải có được sự đồng ý của các Bộ, ngành
liên quan. Trong nhiều trường hợp, chỉ cần một cơ quan chức năng không đồng ý thì dự
án sẽ không được phê duyệt và điều này đã làm nản lòng các nhà đầu tư. Hiện nay, nhằm
giảm bớt phiền hà ,tăng tính chủ động, giảm ùn tắc và giải quyết kịp thời các nhu cầu của
các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều nước đã áp dụng Chính sách “một cửa và Chính sách
phân quyền thẩm định. Tuy nhiên, nếu trình độ phát triển cúa các địa phương còn thấp,
thiếu kinh nghiệm tiếp nhận đầu tư nước ngoài thì hiệu quả thẩm định dự án sẽ không
được như mong muốn.
- Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài sau khi cấp phép: trong luật pháp nước chủ
nhà về đầu tư nước ngoài đều quy định các hoạt động đầu tư nước ngoài phải thực hiện
đúng như giấy phép và tuân thủ hệ thống chính sách pháp luật hiện hành của nước chủ
nhà. Thông thường các hoạt động kiểm tra, giám sát các hoạt động ĐTNN sau khi cấp
phép do một cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà thực hiện nhằm giảm bớt các thủ
tục phiền hà cho nhà đầu tư.
1.1.6 Các chính sách khác
Bên cạnh các chính sách cơ bản đã phân tích ở trên, nước chủ nhà còn áp dụng
nhiều chính sách quan trọng khác đối với đầu tư nước ngoài như chuyển giao công nghệ,
bảo vệ môi trường, nhập khẩu thiết bị, máy móc, sử dụng đất, quan hệ lao động, hải quan,
nhập cảnh, cư trú, thông tin liên lạc, giải quyết tranh chấp phát sinh. (SV tự tìm hiểu )
4.3 Các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài
4.3.1 Xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư (investment promotion) là các hoạt động giới thiệu, quảng cáo cơ
hội đầu tư và hỗ trợ đầu tư của nước chủ nhà. Các hoạt động này được thực hiện bởi các
quan chức chính phủ, các nhà khoa học, các doanh nhân và dưới nhiều hình thức như các

chuyến thăm viếng ngoại giao cấp chính phủ, các hội thảo khoa học, diễn đàn đầu tư, các
đoàn thăm quan khảo sát, thông qua các phương tiện thông tin, xây dựng các mạng lưới
văn phòng đại diện ở nước ngoài.
Ở nhiều nước, hàng năm nước chủ nhà tổ chức các đoàn do Thủ tướng hoặc Bộ
trưởng dẫn đầu đi các nước hoặc tham gia các diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới để
giới thiệu, quảng cáo môi trường đầu tư của mình nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Tại
các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với đối tác, các thành viên của đoàn thường thông báo cho các
nhà đầu tư nước ngoài về cơ hội đầu tư của nước mình và trả lời các câu hỏi mà các nhà
đầu tư nước ngoài quan tâm. Ngoài ra, nước chủ nhà cũng thường tổ chức hoặc tham gia
9
các diễn đàn đầu tư ở khu vực và trên thế giới. Tổ chức và tạo điều kiện thuận lợi cho các
đoàn (chủ yếu là các doanh nhân) ra nước ngoài thăm quan khảo sát thực tế.
Tóm lại, một môi trường đầu tư dù có nhiều thuận lợi nhưng ít được thế giới bên ngoài
biết đến hoặc hiểu không đầy đủ, sai lệch thì cũng không thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài. Do đó, việc giới thiệu, quảng bá môi trường đầu tư rộng rãi ra bên ngoài là
rất cần thiết và được nhiều nước chú trọng.
4.3.2 Phát triển cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng có vai trò nền móng cho các hoạt động đầu tư, nhất là trong các
ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ sử dụng công nghệ hiện đại. Cơ sở hạ tầng tốt không
chỉ đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, giảm giá thành của sản phẩm mà còn hạn chế
được các rủi ro trong đầu tư. Chính vì thế, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng ở nước chủ
nhà là một trong những mối quan tâm lớn của các nhà đầu tư nước ngoài.
Việc xây dựng hệ thống giao thông, hệ thống kho bãi đòi hỏi một lượng kinh phí
rất lớn và thời gian thu hồi vốn đầu tư dài. Ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam, nguồn vốn đầu tư phát triển hệ thống này chủ yếu được huy động từ các nguồn vốn
ngân sách nhà nước, nhận viện trợ, vay nợ chính phủ (ODA) hoặc khuyến khích đầu tư tư
nhân tham gia chủ yếu dưới các hình thức BOT, BTO, BT.
4.3.3 Xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao
(1) Khu công nghiệp (industrial zones-Izs)
 Khái niệm khu công nghiệp

- Theo cách hiểu thông thường, Khu công nghiệp là một vùng lãnh địa được phân chia và
phát triển có hệ thống theo kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các dịch vụ kỹ thuật cần
thiết, cơ sở hạ tầng phục vụ công cộng phù hợp với sự phát triển của một liên hợp các
ngành công nghiệp.
- Ở Việt Nam, Khu công nghiệp là khu tập trung chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có
dân cư sinh sống. KCN do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập,
trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.
 Các đặc điểm khu công nghiệp:
+ Về chức năng hoạt động: là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
10
+ Về không gian: là khu có ranh giới địa lý xác định, phân biệt với các vùng lãnh thổ
khác và thường không có dân cư sinh sống.
+ Về thủ tục thành lập: được thành lập theo quyết định của Chính phủ hay Thủ tướng
Chính phủ trên cơ sở quy hoạch đã được phê duyệt.
+ Về đầu tư cho xuất khẩu: theo quy định hiện hành, trong KCN có thể có khu vực hoặc
doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu (KCX, doanh nghiệp chế xuất)
Các khu công nghiệp có thể được thành lập và khai thác bởi các doanh nghiệp Việt Nam,
doanh nghiệp có vốn nước ngoài hay liên doanh, gọi chung là Công ty phát triển hạ tầng
khu công nghiệp. Doanh nghiệp quản lý và khai thác KCN có quyền cho thuê đất cho các
doanh nghiệp khác muốn đầu tư vào KCN và cung cấp các dịch vụ khác phù hợp với nội
dung của giấy phép đầu tư.
(2) Khu chế xuất (export processing zones-EPZs)
 Khái niệm khu chế xuất
- Theo cách hiểu thông thường, Khu chế xuất là khu vực địa lý được khoanh vùng với các
quy chế đặc biệt tách khỏi quy chế thương mại, thuế quan của một nước, trong đó chủ
yếu để phát triển các hoạt động công nghiệp chế tạo và hầu hết các sản phẩm của các
ngành công nghiệp này dùng để xuất khẩu. Thuật ngữ này có tên gọi khác nhau giữa các
nước. Ở Malaixia gọi là khu thương mại tự do (FTZs), Hàn Quốc gọi là khu xuất khẩu tự

do (FEZs), Trung Quốc gọi là đặc khu kinh tế (SEZs)…Đa số các nước như Ấn Độ, Đài
Loan, Thái Lan, Việt Nam… gọi là khu chế xuất.
- Ở Việt Nam, Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và
hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; Do Chính
phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
 Đặc điểm khu chế xuất:
Ngoài các đặc điểm giống với KCN như có ranh giới địa lý xác định, không có
dân cư sinh sống, được thành lập theo quyết định của Chính phủ và là khu vực tập trung
các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp dịch vụ phục vụ sản xuất, KCX còn có các đặc
điểm riêng biệt sau đây:
+ Về chức năng hoạt động và mục tiêu thị trường: KCX có chức năng hoạt động chủ yếu
là sản xuất hàng xuất khẩu và cung cấp dịch vụ phục vụ xuất khẩu. Nếu các doanh nghiệp
KCN có thể tiêu thụ hàng hóa tại thị trường trong nước hoặc nước ngoài nhằm khai thác
11
cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài thì doanh nghiệp trong KCX chuyên sản
xuất hàng xuất khẩu hướng tới mục tiêu khai thác thị trường khu vực và thế giới.
+ Về tính chất của hàng rào KCX: không chỉ đơn thuần là xác định mốc giới phân biệt
với các vùng lãnh thổ còn lại của quốc gia mà còn có ý nghĩa là hàng rào hải quan.
Việc trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiêp chế xuất với các doanh nghiệp ở nước
ngoài hoặc với doanh nghiệp chế xuất khác thể hiện rõ tính chất thương mại tự do: không
thuộc diện chịu thuế xuất, nhập khẩu, không phải thực hiện các thủ tục hải quan. Tuy
nhiên, quan hệ trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong thị trường nội địa với các
doanh nghiệp chế xuất được coi là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu và phải tuân thủ các quy
định của pháp luật xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam. Trong trường hợp này, bên mua và
bên bán phải thực hiện các thủ tục hải quan tại khu chế xuất theo pháp luật về hải quan
của Việt Nam và được miễn thủ tục xét duyệt kế hoạch xuất, nhập khẩu.
Doanh nghiệp chế xuất được phép thu mua hàng hóa từ thị trường nội địa. Tuy nhiên bán
sản phẩm ra thị trường nội địa chỉ được cho phép trong các trường hợp đặc biệt. Doanh
nghiệp chế xuất có thể ký hợp đồng gia công hay hợp đồng dịch vụ với các doanh nghiệp

Việt Nam.
(3) Khu công nghệ cao (high tech pats-HPs)
 Khái niệm Khu công nghệ cao
Ngoài những đặc điểm của khu công nghiệp, khu công nghệ cao còn là nơi được đầu tư
cơ sở hạ tầng, dịch vụ kỹ thuật hiện đại và bao gồm cả các cở sở nghiên cứu khoa học,
đào tạo.
Ở Việt Nam, khu công nghệ cao là khu kinh tế - kỹ thuật đa chức năng, có ranh giới xác
định, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, nhằm nghiên cứu - phát triển và ứng
dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ
cao và sản xuất, kinh doanh sản phẩm công nghệ cao. Trong khu công nghệ cao có thể có
khu công nghiệp, khu chế xuất, kho ngoại quan, khu bảo thuế và khu nhà ở.
Khu Công nghệ cao khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ thông tin, truyền
thông, công nghệ phần mềm tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vi điện tử, cơ khí
chính xác, cơ - điện tử, công nghệ vật liệu mới. Doanh nghiệp khu công nghệ cao có
quyền lựa chọn hình thức đầu tư, được giao đất, thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các Khu
công nghệ cao trong phạm vi cả nước. Ban Quản lý Khu công nghệ cao do Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập.
12
 Đặc điểm Khu công nghệ cao:
+ Về chức năng hoạt động: là khu kinh tế - kỹ thuật đa chức năng. Các doanh nghiệp khu
công nghệ cao có thể hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp, sản xuất
hàng xuất khẩu, nghiên cứu, ứng dụng, đào tạo nhân lực và ươm tạo doanh nghiệp công
nghệ cao.
+ Về lĩnh vự đầu tư: các hoạt động kinh tế kỹ thuật, đào tạo… của khu CNC đều liên
quan đến công nghệ cao, bao gồm: sản xuất kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, ươm
tạo doanh nghiệp công nghệ cao và đào tạo nhân lực trình độ cao.
+ Về thành lập và tổ chức hoạt động: được thành lập theo quyết định của Chính phủ, có
ranh giới xác định và hoạt động theo quy chế pháp lý do Chính phủ quy định.
CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP THU
HÚT FDI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM
2.1 Định hướng chung trong thu hút FDI giai đoạn hiện nay
Chính sách mới về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cần tập trung vào
4 định hướng lớn: chất lượng và hiệu quả, phát triển bền vững trên cơ sở xây dựng nền
kinh tế ít cacbon, có sự cam kết chuyển giao công nghệ và lao động có kỹ năng cao.
Theo GS - TSKH Nguyễn Mại, vốn FDI giải ngân trong 5 năm gần đây vẫn duy trì
ở mức ổn định là khoảng 10 tỷ USD/năm, ngay cả trong giai đoạn kinh tế khó khăn của
năm 2011. Điều này cho thấy, môi trường và những chính sách thu hút đầu tư của Việt
Nam vẫn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, để tránh nguy cơ tụt hậu khi thực hiện đầy đủ các cam kết gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), cam kết mậu dịch tự do với ASEAN, Trung Quốc,
Nhật Bản từ năm 2012 và tránh trở thành “bãi rác” công nghệ của thế giới, Việt Nam
phải chuyển trọng tâm thu hút FDI từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa của các nước châu Á
13
sang các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) của Nhật Bản, Hoa Kỳ, các nước thành viên Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).
FDI trong giai đoạn mới phải ưu tiên các ngành công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, tạo
ra đột phá về công nghệ và sức cạnh tranh của đất nước. Bên cạnh đó, cần hạn chế thu hút
các dự án FDI thâm dụng nhiều lao động như gia công dệt may, da giày nhằm tạo điều
kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển các ngành này. Đối với dự án FDI lớn, cần lao
động kỹ thuật cao, nên có cam kết với nhà đầu tư về số lượng và chất lượng lao động.
Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư soạn thảo Đề án Đánh giá
thực trạng FDI và đề ra định hướng chính sách, giải pháp để nâng cấp FDI trong giai
đoạn 2011 - 2020, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quý II/2012”, Đề
án sẽ yêu cầu các địa phương loại bỏ các dự án tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm, quy mô vốn
thấp nhưng sử dụng diện tích đất lớn, kinh doanh không hiệu quả; khai thác, sử dụng
nhiều tài nguyên và có công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng; tập trung vào dự án
công nghệ cao, sạch, công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng xuất khẩu.
Đồng thời, chính sách ưu đãi đầu tư cần đáp ứng yêu cầu thu hút vốn FDI trong

giai đoạn mới. Cụ thể, về chính sách ưu đãi thuế, hiện chỉ có một số lĩnh vực được ưu đãi
ở mức cao nhất (10% trong thời hạn 15 năm), cần điều chỉnh theo định hướng thu hút đầu
tư giai đoạn mới, gắn với ngành nghề, tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể. Ngoài ra, Bộ KHĐT sẽ
tiếp tục ban hành nghị định riêng về danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư, thống nhất
đối tượng được ưu đãi là “dự án đầu tư mới” theo Luật Đầu tư, thay vì “cơ sở mới thành
lập từ dự án” theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
2.2 Thực trạng chính sách và biện pháp thu hút FDI từ năm 1987 đến nay.
Cuối năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua,
khi nước ta còn trong vòng xoáy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, lạm phát phi mã, sản
xuất và lưu thông chậm phát triển, trong khi các nước “phương Tây” cấm vận đối với
Việt Nam, quan hệ kinh tế đối ngoại hầu như chỉ bó hẹp trong khung khổ Hội đồng
Tương trợ kinh tế với 12 nước xã hội chủ nghĩa (cũ).
Luật Đầu tư nước ngoài 1987 được dư luận quốc tế đánh giá cao. Hoạt động FDI
là khâu đột phá trong hội nhập kinh tế quốc tế nhờ thị trường đầy tiềm năng của Việt
Nam có sức hấp dẫn hàng trăm nhà đầu tư quốc tế, trong đó có các nước đang thi hành
chính sách cấm vận đối với nước ta, điển hình là Mỹ. Mặc dù cuối năm 1994, Tổng thống
Bill Clinton mới bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, nhưng một số nhà đầu tư nước này
thông qua nước thứ ba đã thực hiện nhiều dự án FDI ở nước ta từ năm 1989.
14
Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, ba năm đầu 1988 - 1990, FDI chưa tác
động rõ rệt đến tình hình kinh tế - xã hội nước ta. Nhưng từ năm 1996 luật đầu tư nước
ngoài được sửa đổi và bổ sung đã quy định rõ ràng chi tiết hơn về các chính sách thu hút
đầu tư trược tiếp nước ngoài.
VD: các chính sách về bảo đảm và sở hữu được quy định tại điều 8, điều 20 đến
24 của luật (1996), các chính sách về lĩnh vực và định hướng thu hút đầu tư được quy
định tại điều 3 luật (1996). Các chính sách về khuyến khích tài chính được quy định tại
điều 39 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định số 12CP ngày 18/2/1997 quy
định chi tiết về các chính sách khuyến khích tài chính, quản lý ngoại hối, phe duyệt và
quản lý đầu tư
Chính vì vậy từ năm 1991 đến năm 1997 đã diễn ra làn sóng FDI thứ nhất, với

2.230 dự án và vốn đăng ký 16,244 tỷ USD, vốn thực hiện 12,98 tỷ USD. Trong đó, chỉ
riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt 3,115 tỷ USD, gấp 9,5 lần năm 1991.
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến năm 2004, do tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng kinh tế khu vực, nên trong số 3.968 dự án mới, phần lớn có quy mô nhỏ, vốn đăng
ký năm 1998 chỉ là 5,099 tỷ USD, năm 2000 là 2,838 tỷ USD, năm 2004 là 4,547 tỷ
USD. Trong khi đó, vốn thực hiện trong giai đoạn này là 17,66 tỷ USD, chỉ tăng 36% so
với giai đoạn 1991-1997.
Nhưng năm 2005 lại mở đầu làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam, với vốn đăng ký
6,839 tỷ USD và vốn thực hiện 3,3 tỷ USD. Từ năm 2006 tới nay, Việt Nam đã thu hút
được một lượng lớn vốn FDI. Con số giải ngân cũng khá tích cực .
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, tính chung, từ năm 1988 đến năm
2011, tổng vốn đăng ký còn hiệu lực của 13.496 dự án FDI là 195,9 tỷ USD, vốn thực
hiện là 88,2 tỷ USD, chiếm 43,2% vốn đăng ký.
2. 3 Những tác động tích cực của các chính sách và biện pháp thu hút FDI đối với nền
kinh tế xã hội Việt Nam
Có thể nói, Các chính sách thu hút FDI được thực hiện bởi các biện pháp linh hoạt
kịp thời phù hợp với thực tiễn Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã
hội 1991 - 2000 là 30%, 2001 - 2005 là 16%, 2006 - 2011 là 28%. Các doanh nghiệp FDI
đóng góp vào GDP thời kỳ 2001 - 2005 là 14,5%, tăng lên 20% năm 2010; nộp ngân sách
nhà nước năm 2010 là 3,1 tỷ USD gần bằng cả 5 năm 2001 - 2005 (3,5 tỷ USD). FDI tạo
ra khoảng 40% giá trị sản lượng công nghiệp, có tốc độ tăng khá cao, 2001- 2010 tăng
15
17,4%/năm trong khi toàn ngành công nghiệp tăng 16,3%/năm. Kim ngạch xuất khẩu của
khu vực FDI tăng nhanh, 2001 - 2005 là 57,8 tỷ USD, 2006 - 2010 là 154,9 tỷ USD, bằng
2,67 lần, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (kể cả dầu thô).
Băng các biện pháp cụ thể và đồng bộ trong việc cải thiện môi trường đầu tư
‘‘cứng” và môi trường đầu tư ‘‘mềm”. FDI đã góp phần quan trọng hình thành nhiều
ngành kinh tế, như khai thác, lọc hóa dầu, ô tô, xe máy, điện tử, xi măng, sắt thép, thực
phẩm, thức ăn gia súc; cũng như góp phần hình thành một số khu đô thị hiện đại như Phú

Mỹ Hưng, Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4- 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, văn
phòng cho thuê Lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã
du nhập phương thức kinh doanh hiện đại, công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu ngày
càng cao của các tầng lớp dân cư. Lĩnh vực giao thông vận tải cũng đạt được những thành
tựu đáng ghi nhận, hệ thống cảng ngày 1 hiện đai VD: Cảng Cái Lân, Cảng Đình Vũ, hệ
thống giao thông đương bộ cũng dần đc hiện đại hóa, cầu Phú Mỹ và Hầm Thủ Thiêm là
2 công trình tiêu biểu trong số đó.
Tính đến cuối năm 2011, cả nước đã có 283 KCN, KCX được thành lập trên 58
tỉnh, thành phố cả nước. các KCN, KCX đã thu hút được 4.113 dự án có vốn đầu tư nước
ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 59,6 tỷ USD, tổng vốn đầu tư thực
hiện đạt 27 tỷ USD, bằng 45% tổng vốn đầu tư đăng ký. Hàng năm vốn đầu tư trực tiếp
16
nước ngoài (FDI) vào KCN, KCX chiếm từ 35-40% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của
cả nước, trong đó các dự án FDI về sản xuất công nghiệp trong KCN, KCX chiếm gần
80% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp cả nước.
Khu vực FDI tạo ra hơn 2,3 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp,
trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu
nhập ngày càng tăng, du nhập phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến.
2.4 Những thách thức và cơ hội trong thu hút FDI ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
Bên cạnh những thành công, các chính sách thu hút và hoạt đông của FDI cũng đã
bộc lộ những nhược điểm và khuyết điểm, như chưa phù hợp với quy hoạch phát triển
ngành và vùng kinh tế, một số máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu đã được nhập khẩu,
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Chuyện ô nhiễm ở sông Thị Vải, sông Cầu, sông
Nhuệ là ví dụ điển hình. Vấn đề tham nhũng và các công trình giao thông bị chậm tiến độ
chất lượng kém cũng là vấn đề được dư luận quan tâm.
Cùng với đó, cũng đã xảy ra “cuộc chiến giữa các tỉnh, thành phố chào mời nhà
đầu tư quốc tế” bằng những ưu đãi quá mức thuế, tiền thuê đất, ảnh hưởng tiêu cực đến
phúc lợi chung của cộng đồng. Đã xảy ra tranh chấp lao động trong một số doanh nghiệp
FDI. Gần đây, việc “chuyển giá” của một số doanh nghiệp FDI, gây ra tình trạng “lỗ giả
lãi thật” nổi lên như vấn đề thời sự.

Nhiều bài báo đã đề cập các vấn đề đó, bài này chỉ lưu ý thêm hai thông tin:
Một là, theo báo cáo “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2010” của Cơ quan
Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) và Dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam
(VNCI) trên cơ sở khảo sát 1.155 doanh nghiệp của 47 quốc gia, đại diện cho 21% số
doanh nghiệp FDI đang hoạt động thì “doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có quy mô tương
đối nhỏ và có lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ cho các công ty đa quốc gia lớn hơn,
do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của giá trị sản phẩm”; khoảng 5% doanh nghiệp
FDI hoạt động trong ngành công nghệ hiện đại, 5% vào dịch vụ khoa học - công nghệ,
3,5% vào dịch vụ tài chính, quản lý đòi hỏi kỹ năng cao.
Hai là, khi trả lời câu hỏi doanh nghiệp có ý định cân nhắc đầu tư ở nước khác hay
chỉ tập trung đầu tư ở Việt Nam, thì 55% doanh nghiệp tham gia phỏng vấn cho biết, có
cân nhắc đầu tư ở nước khác, trong đó 30% sang Trung Quốc, 10% sang Thái Lan, 8%
sang Campuchia, 6% sang Indonesia, 4% sang Philippines và 4% sang Lào.
17
Mặc dù các tư liệu điều tra chọn mẫu chỉ có tính tham khảo, nhưng cũng báo động
rằng, nước ta đã chậm chuyển đổi định hướng chính sách FDI từ đầu thế kỷ XXI. Môi
trường đầu tư tuy đã được cải thiện, nhưng so với nhiều nước trong khu vực thì chưa đủ hấp
dẫn nhà đầu tư có tiềm năng lớn. Đối với Việt Nam, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư càng gay
gắt hơn khi theo xếp hạng năm 2011, Trung Quốc vẫn dẫn đầu, Indonesia, Malaysia và
Singapore lọt vào top 10 quốc gia có môi trường đầu tư tốt nhất thế giới; và khi trong số 5
nước mới nổi BRICS, thì 4 nước đã lọt vào danh sách 10 quốc gia có nền kinh tế hàng đầu
thế giới, là Trung Quốc (thứ 2), Brazil (thứ 6), Nga (thứ 9) và Ấn Độ (thứ 10). Với dân số
gần 3 tỷ người, 4 nước này là những thị trường hấp dẫn FDI nhất thế giới.
Năm 2012, tình hình kinh tế quốc tế biến động theo chiều hướng không thuận lợi,
giá cả thị trường thế giới có xu hướng giảm, nợ công ở nhiều nước vẫn là nguy cơ lớn. Bà
Christine Lagarde, Giám đốc quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng: “Kinh tế thế giới đang
ở trong trạng thái hiểm nghèo”.
Tuy vậy, cũng có dự báo về khả năng phục hồi kinh tế của các nước lớn, khu vực
Đông Á vẫn dẫn đầu tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch thành trung tâm phát triển
kinh tế thế giới.

Trong bối cảnh đó, Báo cáo đầu tư quốc tế 2011 của Diễn đàn Thương mại và Phát
triển của Liên hiệp quốc ( UNCTAD) dự báo FDI quốc tế năm 2012 là 1.700 tỷ USD, cao
hơn năm 2011 (1.400-1.600 tỷ USD). Trong khi đó, con số này của năm 2013 là 1.900 tỷ
USD, bằng năm cao nhất - 2007. Lần đầu tiên FDI vào các nước đang phát triển và đang
chuyển đổi chiếm gần 50% FDI thế giới.
Việt Nam được chuyên gia kinh tế đánh giá là quốc gia dễ bị tổn thương nhất
trong các nền kinh tế châu Á trước sự biến động của kinh tế thế giới, vì tình trạng lạm
phát cao, doanh nghiệp chưa đủ mạnh, thâm hụt ngân sách lớn và hoạt động của hệ thống
ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Năm 2012, nền kinh tế nước ta vừa phải khắc phục
hậu quả của năm 2011, vừa bắt đầu tái cơ cấu kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới. Việt
Nam đồng thời đứng trước thời cơ lớn khi quan hệ đối ngoại với các nước lớn như Mỹ,
Nhật Bản, EU, Ấn Độ được nâng cấp; ASEAN đang tiến tới Cộng đồng chung. Việt Nam
không chỉ được nhiều nhà đầu tư nhận định là có ưu thế về ổn định chính trị, an ninh xã
hội, mà trước tình hình thiên tai, như động đất và sóng thần ở Nhật Bản, lũ lụt kéo dài
nhiều tháng ở Thái Lan, cũng đã được nhiều doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn là địa
điểm đầu tư thích hợp để bảo đảm hoạt động sản xuất và kinh doanh lâu dài.
18
Cần khẳng định rằng, FDI tiếp tục là nguồn vốn quốc tế quan trọng đối với Việt
Nam, khi viện trợ phát triển (ODA) đang có xu hướng giảm, khi đầu tư gián tiếp khá bấp
bênh. Chính phủ cần đưa ra thông điệp rõ ràng về định hướng FDI mới chuyển sang
chính sách nâng cấp FDI, coi trọng hơn chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Chính sách nâng cấp FDI được hình thành theo các hướng ưu tiên dự án công nghệ cao,
công nghệ thân thiện với môi trường, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ hiện đại, xây dựng
khu kinh tế đặc biệt, thiết lập mối liên kết giữa các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) hàng
đầu thế giới từ các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) với doanh
nghiệp trong nước nhằm làm cho các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi nhờ vào
hợp tác, phân công về công nghệ và thị trường với TNCs; khuyến khích TNCs hợp tác
với các cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề trình độ cao, các tổ chức nghiên cứu khoa
học để nâng cao trình độ và năng lực của các đơn vị đó.
19

CHƯƠNG III
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC CHÍNH
SÁCH VÀ BIỆN PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT
NAM
Có rất nhiều các giải pháp trong hệ thống các giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp,
trong phạm vi đề án xin đề xuất một số giải pháp như sau:
3.1. Hoàn thiện hơn nữa luật đầu tư nước ngoài và các văn bản dưới luật, xây dựng
hệ thống quản lý đầy đủ và đồng bộ.
3.1.1. Vấn đề thuế.
Các doanh nghiệp Việt Nam và các ông nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
hiện đang áp dụng hệ thống thuế, áp dụng hệ thống thuế bao gồm 10 loại thuế và một số
loại lệ phí, như thuế môn bài, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế
tài nguyên, thuế nhà đất, lệ phí tước bạ, lệ phí chứng thực… Nhưng theo quy định của
luật đầu tư nước ngoài, có sự khác biệt đáng kể giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài về thuế lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế nhập khẩu và tiền thuê
đất.
3.1.1.1.Thuế lợi tức.
Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chịu thuế xuất là 25% (không áp dụng
đối với dầu khí và các tài nguyên khác). Đối với một số dự án khuyến khích đầu tư thì
được giảm thuế lợi tức trong thời gian tối đa là 4 năm, khi kinh doanh có lãi được giảm
50% trong thời hạn là 4 năm tiếp theo. Đối với một số dự án trường hợp đặc biệt, thời
gian miễn giảm thuế lợi tức tối đa là 8 năm. Tuỳ thuộc lĩnh vực đầu tư mà một số dự án
được hưởng thuế suất lợi tức ưu đãi là 10%, 15% và 20%. Cũng trên địa bàn và lĩnh vực
này, tối đa các doanh nghiệp trong nước phải chịu với mức thuế bình quân cao hơn 5 -
10% . Như vậy, ở đây có sự chênh lệch khá lớn. Bên cạnh đó những quy mô về thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài còn chung chung, chưa cụ thể cho các khối lượng giá trị
của tiền áp dụng mức thuế còn cao (3%) và không linh hoạt.Từ hai thực tế trên, nhà nước
cần điều chỉnh lại mức thuế lợi tức giữa đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước (tức
doanh nghiệp trong nước và xí nghiệp có vốn nước ngoài) sao cho chênh lệch thấp hơn
đồng thời giảm thuế lợi nhuận chuyển ra nước ngoài là 2% (của một số nước trong khu

20
vực từ 1,5 đến 2%). Đối với những xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nếu sử dụng giá
trị lợi nhuận để tái đầu tư thì nhà nước và các cơ quan chức năng cần kịp thời có chính
sách ưu đãi khác.
3.1.1.2 Thuế xuất nhập khẩu.
Khi xuất nhập khẩu, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần phải nộp
thuế xuất nhập khẩu theo luật xuất nhập khẩu. Điều 47 của LĐTNN quy định " chính phủ
quy định việc miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với các hàng hoá đặc biệt
cần khuyến khích đầu tư khác", và điều 63 NĐ12/CP hướng dẫn chi tiết của điều 47
trong luật xuất nhập khẩu. Hiện nay việc nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ, phương
tiện vận tải để xây dựng cơ bản thành xí nghiệp của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài được miễn giảm thuế nhập khẩu hoặc chịu thuế từ 0,53%. Kiến nghị và Nhà nước
cần phải điều chỉnh định kỳ (thường là 1 năm) về danh mục nhập khẩu được miễn giảm
thuế, đồng thời phải nâng cao hơn nữa thuế nhập khẩu. Đối với những loại trong nước đã
sản xuất được, có khả năng đáp ứng cả về số lượng lẫn chất lượng.
3.1.2. Biện pháp bảo đảm đầu tư
Pháp luật về đầu tư của Việt Nam quy định các đảm bảo đối với đầu tư nước
ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế như: Không quốc hữu hoá, trưng thu, trừ những
trường hợp đặc biệt do vi phạm nghiêm trọng về an ninh quốc gia, lợi ích công cộng. Việt
Nam không cam kết đảm bảo đối với rủi ro không chuyển đổi được các khoản thu nhập
từ đồng tiền Việt Nam ra đồng tiền nước ngoài và không công nhận và không đảm bảo
quyền sở hữu về đất như các nước khác.
Tóm lại, vấn đề là phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật đầu tư, các văn bản pháp
lý, tăng cường hiệu lực của các cơ quan nhà nước liên quan đến luật đầu tư nước ngoài.
Trước tình hình đó xin đề xuất thêm một số biện pháp sau:
+ Rà soát lại việc phân bổ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan nhà nước đối với
các công đoạn thẩm định và được cấp giấy phép đầu tư cùng các giấy tờ có liên quan đặc
biết là giữa Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI) và UBND các cấp, các địa phương.
+ Thể chế hoá chính sách đầu tư trực tiếp của ngành và địa phương, ban hành các
tài liệu hướng dẫn đầu tư của từng ngành, từng địa phương cụ thể.

+ Chấn chỉnh lại các họat động xúc tiến đầu tư, coi đây là loại hình kinh doanh
độc lập. Nên tìm hiểu sâu về các đối tác nước ngoài và tuyên truyền giới thiệu về các đối
tác Việt Nam.
21
+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tham khảo luật đầu tư nước ngoài của các nước
trên thế giới đặc biệt là các nước trong khu vực.
+ Tăng cường kiểm soát về việc thực hiện pháp luật, xử lý nghiêm minh các
trường hợp vi phạm luật, nhằm khắc phục tình trạng thực hiện luật còn tuỳ tiện theo cảm
hứng và cố tình sai phạm.
+ Mở rộng thêm các hình thức đầu tư: cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được
thành lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ;cho phép các doanh
nghiệp liên doanh ,doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được chuyển thành doanh
nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài .
+ Luật phải đảm bảo tính khoa học ,đầy đủ, hạn chế việc ban hành quá nhiều các
văn bản dưới luật.Tiến tới việc xây dựng một luật chung cho các nhà đầu tư trong và
ngoài nước tạo sự ổn định và bình đẳng trong đầu tư ,dự thảo và ban hành các văn bản
pháp luật kinh tế phải đồng bộ .
+ Tham gia các công ước quốc tế để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ,bảo vệ thương
hiệu hàng hoá nhằm có sự thống nhất giữa Việt Nam và quốc tế ,tạo cơ hội cho sản phẩm
Việt Nam gia nhập thị trường quốc tế .
3.2. Ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiền đề cơ bản cho sự tăng trưởng và phát
triển của đất nước, cho việc thu hút FDI.
Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách và cơ chế quản lý tài chính - tín
dụng .
3.2.1. Kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, đổi mới chính sách lãi suất và tỷ giá,
phát triển thị trường tài chính.
- Đổi mới cơ chế phát hành trên cơ sở căn cứ vào mức cầu về phương tiện thanh
toán trong nền kinh tế, và khả năng cung vèe phương tiện thanh toán của ngân hàng trung
ương. Việc điều hành cung ứng tiền cho nền kinh tế phải linh hoạt dựa vào "Tín hiệu thị
trường".

- Đổi mới lãi suất theo hướng tự do hoá lãi suất và tôn trọng nguyên tắc lãi suất tín
dụng cao hơn mức lạm phát, lãi suất tiền vay cao hơn lãi suất tiền gửi, bảo đảm cho ngân
hàng trung ương khống chế mức tối đa lãi suất cho vay và mức tối thiểu về lãi suất huy
động vốn. Áp dụng đấu thầu qua việc bán các loại chứng khoán của chính phủ.
- Thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước. Phải tính đến cung
- cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái, tính đến sức mua của đồng tiền Việt Nam và của
ngoại tệ liên quan. Quản lý ngoại hối chặt chẽ trên cơ sở xác định tỷ giá hối đoái hợp lý,
22
quản lý ngoại tệ, xây dựng quy chế quản lý ngoại hối, quản lý nợ nước ngoài theo dõi cán
cân thanh toán.
3.2.2. Đổi mới chính sách quản lý giá theo nguyên tắc thị trường với các giải pháp
sau:
- Xử lý tốt mối quan hệ hợp lý giữa giá trong nước và giá quốc tế trên cơ sở áp
dụng các hình thức tác động gián tiếp điều chỉnh quan hệ cung cầu hàng xuất, nhập khẩu
như chính sách thuế quản lý hạn ngạch nhập khẩu, bảo hộ giá đối với những nông sản
phẩm xuất khẩu quan trọng với kim ngạch lớn và thường xuyên. Đảm bảo mối tương
quan hợp lý giữa giá hàng hoá và dịch vụ.
- Xác định danh mục hoá cần thực hiện chính sách giá bảo hộ để có biệnpháp hình
thức phù hợp.
3.3. Thực hiện cải cách hành chính.
Với việc xây dựng một cơ chế thực hiện, áp dụng những chính sách luật pháp
vào đời sống kinh tế xã hội, cải cách hành chính có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hiện nay,
ở Việt Nam, thủ tục hành chính còn rườm rà, sự không thống nhất giữa quá nhiều đầu
mối quản lý dẫn đến sự chồng chéo và kém hiệu quả. Để tránh cồng kềnh và tránh lãng
phí bộ máy hành chính, cần thực hiện một số biện pháp sau:
Tạo quy chế phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ với cán bộ tổng hợp,cán bộ quản lý
các ngành, uỷ ban nhân dân tỉnh , quy định rõ thẩm quyền quản lý, trách nhiệm của từng
cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài .
Tạo sự chuyển biến rõ ràng mạnh mẽ cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài . Quy định rõ ràng ,công khai và thực thi triệt để ,dứt khoát các thủ tục hành

chính ở mọi khâu , mọi cấp .Xử lý công bằng và sửa đổi nhanh chóng những sai sót trong
thủ tục hành chính .Xúc tiến việc thực hiện nhanh chóng cơ chế một cửa một dấu trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng và trong kinh doanh nói chung.
3. 4.Về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
Đội ngũ công tác đầu tư là chìa khoá để giải quyết mọi vấn đề sản xuất và
kinh doanh của các chủ đầu tư . Đây là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của
hoạt động quá trình thực hiện luật đầu tư trong thời gian đã bộc lộ rất nhiều yếu kém về
hiểu biết của cán bộ, công nhân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Đây là vấn đề hết sức cấp bách để giải quyết theo các biện pháp sau:
- Tăng cường mở các lớp bồi dưỡng dưới nhiều hình thức và quy mô khác nhau để
đào tạo và bồi dưỡng kiến thức và đầu tư nước ngoài, cho cán bộ công nhân Việt Nam.
23
- Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý các cấp, đặc biệ là cấp nhà nước, kết hợp đào
tạo trong và ngoài nước.
- Cán bộ chuyển ngành phối hợp với các địa phương và với sự giúp đỡ của UBNN
về hợp tác và đầu tư , mở rộng các lớp đào tạo cán bộ tham gia hội đồng quản trị và các
cán bộ chủ chốt của xí nghiệp liên doanh.
- Coi trong biện pháp khuyến khích thích đáng , kịp thời đối với cán bộ để liên
quan đến đầu tư, công nhân, đặc biệt là các lao động lành nghề.
- Phải chuẩn bị đào tạo hướng nghiệp cho cán bộ từ trước trên cơ hình thành các
chuyên đề và môn học về đầu tư nước ngoài giảng dạy ở một số trường đại học.
- Sớm thống nhất tiêu chuẩn hoá trình độ cán bộ làm việc ở các chức vụ khác nhau
trong các doanh nghiệp liên doanh.
Đối với bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài tập trung vào 2 vấn đề lớn là
thẩm định dự án và quản lý các dự án được cấp giấy phép, các biện pháp cụ thể là:
- Phân cấp và quy trách nhiệm cụ thể đối với các ngành liên quan , giảm bớt các
đầu mối phê chuẩn cấp giấy phép đầu tư kinh doanh. Xây dựng quy trình thẩm định dự án
bảo đảm chất lượng quốc tế và thông lệ quốc.
- Trển khai và hướng dẫn cách thức xây dựng dự án đầu tư và phát hành mẫu hồ
sơ cho một ngành trọng trách. Tăng cường kiểm tra theo dõi quá trình triển khai các dự

án, các báo cáo thường kỳ của doanh nghiệp liên doanh, xử lý các sai phạm xảy ra.
3.5. Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật
Bước vào thực hiện mở cửa kinh tế, cơ sở vật chất hạ tầng của Việt Nam còn yếu
kém và chưa đầy đủ. Sau hơn 10 khôi phục, Việt Nam bước đầu đã có những kết quả khả
quan, tuy nhiên so với hiện nay còn chưa đạt với yêu cầu đặt ra. Có hai giải pháp khả thi
giải quyết vấn đề này:
Thứ nhất, cố gắng giải quyết tốt mối quan hệ kinh tế - chính trị với các quốc gia,
các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế để có được những khoản viện trợ,
khoản vay với chế độ ưu đãi để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Bên cạnh đó huy động
các nguồn lực trong nước (ngân hàng nhà nước, tiêt kiệm dân cư) để đưa vào giải quyết
các công trình trọng điểm.
Thứ hai, tìm ra những vị trí địa lý, kinh tế xã hội thuân lợi đề quy hoạch, xây dựng
với quy mô thích hợp nhằm tiếp nhận nguồn vốn và công nghệ cao của nước ngoài, từ đó
xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất hoàn chỉnh và hiện đại. Đặc khu kinh tế được coi là
24
thích hợp với Việt Nam hiện nay là: Khu chế xuất, khu thương mại tự do, khu công
nghiệp kỹ thuật cao.
3.6. Bảo vệ môi trường.
Đây là vần đề rất lớn cần được quan tâm từ đầu vì nếu không có những biện pháp
bảo vệ ngay từ đầu thì sau này sẽ phải trả giá rất lớn. Những giải pháp cụ thể là:
Trước hết, không thể ảo tưởng về sự tự nguyện của các chủ đầu tư trong việc bảo
vệ môi trường. Đối với họ, lợi ích kinh tế là trên hết và nơi đầu tư không phải là nơi họ
sinh sống thường xuyên, lâu dài. Từ đó cần gắn vấn đề bảo vệ môi trường ở mức độ phù
hợp thành điều kiện kiên quyết khi xét duyệt cấp giấy phép đầu tư, tiến tới xây dựng và
thông qua luật về môi trường để buộc nhà đầu tư thực hiện.
Thứ hai, cần nhanh chóng thiết lập các cơ quan chuyên môn về kiển tra môi
trường tại địa bàn trung tâm các dự án đầu tư nước ngoài để theo dõi thường xuyên và xử
lý kịp thời các trường hợp vi phạm hoặc quá giới hạn cho phép.
Thứ ba, về mặt nhà nước cần sớm phê chuẩn những công ước quốc tế về bảo vệ
môi trường, trên cơ sở đó vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam .

Thứ tư, tăng cường kiểm xoát việc nhập khẩu và chuyển giao công nghệ trong hợp
tác đầu tư.
Đối với những công nghệ độc hại cần có danh mục cấm hoặc chỉ số giới hạn cho
phép để kiểm tra.Những giải pháp để bảo vệ môi trường thuộc loại có tính chiến lược lâu
dài và nhìn chung không mâý tốn kém trong tổ chức thực hiện nhưng nó lại rất dễ bị các
ngành, các cấp và các nhà doanh nghiệp coi nhẹ. Trong khi đó môi trường cũng là một lợi
thế so sánh của những nước đi sau trong phát triển kinh tế, chính vì vậy chúnh ta cần thực
sự coi trọng hơn nữa tới các giải pháp nhằm bảo vệ môi trường.
Nhìn chung, toàn bộ những giải pháp coi việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn tới được đề suất trong khuôn khổ một tổng thể cấu trúc
bao gồm cả ở cấp độ vĩ mô và cả vi mô, cả những giải pháp dài hạn lẫn những giải pháp
tương đối ngắn hạn. Tất cả tạo ra một hệ thống đồng bộ với tính cách là môi trường thuận
lợi cho sự vận động của đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
25

×