Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở việt nam (2012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.55 KB, 33 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU.
Năm 2006 kết thúc, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là có những
bước phát triển nhanh chóng. Hàng loạt sự kiện kinh tế, chính trị quan trọng
đã thể hiện sự tự vươn lên của Việt Nam. Điều đó cho thấy 20 năm đổi mới đã
mang lại cho chúng ta rất nhiều điều. Nhưng hầu như tất cả những nhà kinh tế
lạc quan nhất vẫn tỏ ra lo lắng về nền kinh tế Việt Nam. Bởi lẽ sự phát triển
của chúng ta là tốt nhưng bên trong nó lại chứa những nguy cơ, thách thức
khiến cho sự phát triển không thật sự vững chắc. Một trong những thách thức
đó lại xuất phát từ chính nguồn gốc cho sự phát triển: đó là hoạt động đầu tư
của Việt Nam. Là nước có tốc độ tăng trưởng thuộc top cao nhất thế giới, có
tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP tăng nhanh qua các năm, nhưng thách thức về
hiệu quả sử dụng vốn lại là bài toán khó đối với Việt Nam. Chỉ một so sánh
nhỏ rằng Trung Quốc có tỷ lệ tăng trưởng bình quân cao hơn Việt Nam,
nhưng họ lại có tỷ lệ sử dụng vốn và nguyên vật liệu ít hơn. Hơn nữa sự phát
triển của Việt Nam lại không đi kèm với sự tăng lên tương xứng về tiềm lực
công nghệ và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Điều đó khiến chúng ta
không khỏi lo lắng rằng Việt Nam đang phát triển nhưng không khỏi thua
kém các nước khác một cách tương đối. Vì vậy, việc xem xét lại hoạt động
đầu tư để tìm ra những hạn chế hòng khắc phục và đẩy mạnh hiệu quảt của
hoạt động đầu tư là rất cần thiết và một điều có thể nhận thấy khá rõ ràng
muốn phát triển nhanh và vững chắc cần phải có một cơ cấu đầu tư đảm bảo
cho sự phát triển khoa học công nghệ một cách nhanh chóng. Đây chính là
yêu cầu đặt ra cho việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng
và đầu tư theo chiều sâu trên giác độ toàn bộ nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu về mối quan hệ đó, nhóm chúng tôi đã có sự
xem xét lại hoạt động đầu tư của Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đại
hội VII đến nay, và từ đó rút ra một số kết luận, giải pháp. Đó là nội dung của
bài thảo luận mà nhóm chúng tôi sẽ trình bày cùng các bạn hôm nay.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


CHƯƠNG I: NHỮNG QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ ĐẦU TƯ THEO
CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU.
1.1. Những vấn đề chung về đầu tư và phân loại đầu tư.
1.1.1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển.
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư.
Theo nghĩa rộng đầu tư là sư hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất
định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả
đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và
trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính( tiền
vốn), tài sản vật chất( nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác ) và
nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản
xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản
vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trong mọi
lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế.
Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà nền kinh tế được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế những kết quả trong tương
lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có những hoạt động sử
dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn
nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn
nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển.
1.1.1.2. Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia.
Từ sự phân tích trên đây, xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do
đầu tư đem lại có thể phân biệt các loại đầu tư sau:
Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay
hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước( gửi tiết kiệm,
mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản

xuất kinh doanh của công ty phát hành( mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá
trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình
thức này, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra một
cách nhanh chóng, điều đó khuyến khích người có tiền đầu tư. Đây là một
nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh
lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới
cho nền kinh tế( nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ lam tăng gia tài sản
tài chính của người đầu tư trong qúa trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền
sở hữu hàng hoa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách
hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu
thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát
triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh
doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư phát triển: đó là việc bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm
tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và
mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời
sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng
sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt thiết
bị và bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường
xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã
hội.
1.1.2. Phân loại các hoạt động đầu tư
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư các nhà kinh
tế phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu thức phân

loại và đáp ứng nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu
thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
-Theo bản chất của các đối tượng đầu tư
-Theo cơ cấu tái sản xuất
-Theo phân cấp quản lý
-Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư
-Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư
-Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản
xuất xã hội
-Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ
ra của các kết quả đầu tư
-Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư.
-Theo nguồn vốn
-Theo vùng lãnh thổ
Trong phạm vi nội dung nghiên cứu chúng tôi chỉ đề cập đến hình thức
phân loại hoạt động đầu tư theo cơ cấu tái sản xuất
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.2.1. Tái sản xuất
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng nên không thể ngừng sản xuất. Vì
vậy, mọi quá trình sản xuất xét theo tiến trình đổi mới không ngừng thì đồng
thời là quá trình tái sản xuất. Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại
thường xuyên và phục hồi không ngừng.
Có thể phân loại tái sản xuât theo những tiêu chí khác nhau:
-Căn cứ theo phạm vi, có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất cá biệt
và tái sản xuất xã hội.Tái sản xuất diễn ra trong từng đơn vị kinh tế, từng xí
nghiệp gọi là tái sản xuât cá biệt. Tổng thể của tái sản xuất cá biệt trong mối
liên hệ hữu cơ vơi nhau gọi là tái sản xuất xã hội.
-Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất giản đơn
và tái sản xuất mở rộng

Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô
như cũ. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất nhỏ và là đặc
trưng của nền sản xuất nhỏ.
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn
hơn trước. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuât lớn và là
đặc trưng của nền sản xuất lớn.
Trong lịch sử, việc chuyển từ tái sản xuất giản đơn lên tái sản xuất mở
rộng là một quá trình phát triển lâu dài gắn liền với việc chuyển từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn.Tái sản xuât giản đơn gắn liền với sản xuất nhỏ, năng
suất lao động thấp, chỉ đạt mức đủ nuôi sống con người, chưa có hoặc có rất ít
sản phẩm thặng dư, những sản phẩm làm ra lại đem tiêu dung hết cho cá
nhân.Tái sản xuất mở rộng đòi hỏi xã hội phải đat trình độ năng suất lao động
vượt ngưỡng cửa sản phẩm tất yếu và tạo ra sản phẩm thặng dư ngày càng
nhiều. Sản phẩm thặng dư là nguồn gốc để tích luỹ tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất mở rộng gồm hai hình thức là tái sản xuất mở rộng theo
chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng là sự mở rộng quy mô sản xuất,
tăng thêm sản phẩm làm ra nhờ sử dung nhiều hơn các yếu tố đầu vào,các
nguồn lực của sản xuất, trong khi năng suât và hiệu quả của các yếu tố sản
xuất đó không đổi. Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng chính là hình thức
đầu tư theo chiều rộng.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu là sư tăng lên của sản phẩm chủ
yếu do tăng năng suât lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực, còn các
nguồn lực được sử dụng có thể không thay đổi, giảm hoặc tăng lên, nhưng
mức tăng của chúng nhỏ hơn mức tăng của năng suất lao động và hiệu quả sử
dụng các nguồn lực đó trong xã hội.Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu chính
là hình thức đầu tư theo chiều sâu.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ những căn cứ trên chúng ta sẻ tìm hiểu rõ thêm về hai hình thức đầu

tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu cũng như mối quan hệ của chúng
ở các phần đươi đây.
1.1.2.2. Đầu tư theo chiều rộng
a, Khái niệm
Theo quan điểm tái sản xuất của Mác đầu tư theo chiều rộng là đầu tư
nhằm mở rộng quy mô sản xuât nhưng không làm tăng năng suất lao động.
Đầu tư theo chiều rộng cũng chính là đầu tư mới.
Theo quan điểm ngày nay thì đầu tư chiều rộng là đầu tư trên cơ sở
cải tạo và mở rộng cơ sở vầt chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới các cơ sở
vầt chất với nhưng kĩ thuật công nghệ cơ bản như cũ.
b, Đặc điểm của đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư theo chíều rộng là hoạt động đầu tư trên cơ sở hiện trạng phát
triển thêm về mằt công nghệ không thay đổi công nghệ hiện có.
Tốc độ tăng của lao động thường là lớn hơn tốc độ tăng vốn
Đầu tư theo chiều rộng không dẫn đến tiết kiệm nguyên liệu và
không làm tăng năng suất lao động
Đầu tư chiều rộng có hạn chế trong việc đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực áp dụng công nghệ và kỹ thuật
- Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi lương vốn lớn va vốn này nằm khê
đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Do đó đòi hỏi các nhà đẩu tư cần
có sự lựa chọn kỹ càng để lựa chọn được cơ hội đầu tư mang lại hiệu quả cao
nhât, tức là phải có một quá trình nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố thị trường,
các điều kiện tự nhiên và các yếu tố kinh tế chính trị xã hội trước khi đưa ra
quyết định đầu tư nhằm bao đảm thu hồi vốn và có lãi.Cũng do lượng vốn lớn
nên việc huy động vốn thườn gặp khó khăn và tốn nhiều thời gian.
-Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi thời gian thực hiện đầu tư và thời gian
thu hồi vốn lâu: do phải thi công nhiều hạng mục công trình cho nên quá trình
thực hiện đầu tư thương kéo dài, bên cạnh đó tác động của các yếu tố tự nhiên
như thiên tai, địa hình và các yếu tố tiêu cực cũng ảnh hưởng không ít đến
thời gian thi công.

Do vốn lớn nên việc sản xuất bù đắp cho lượng vốn bỏ ra mât rất
nhiều thời gian cho nên thời gian thu hồi vốn lâu.
-Đầu tư theo chiều rộng có tính chất phức tạp và độ mao hiểm cao:
tính chất phức tạp do phải xây dựng va lắp ghép nhiều hạng mục công trình.
Trong quá trình thực hiện đầu tư, cũng do quá trình xây dựng phức tạp cộng
với vốn lớn va tác động tiêu cực của các yếu tố khách quan và chủ quan cho
nên đầu tư chiều rộng có độ mạo hiểm cao hơn.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
c. Vai trò của đầu tư theo chiều rộng
Đầu tư theo chiều rộng có vai trò hết sức quan trọng.
Đối với toàn bộ nền kinh tế: đầu tư theo chiều rộng là nhân tố làm
tăng quy mô của nền kinh tế, tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng với quy mô
lớn hơn trước trên cơ sở xây dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế, nhiểu
khu, cụm công nghiệp trên khắp cả nước.Do đó nó còn thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thúc đẩy ,tạo điều kiện và hỗ trợ các vùng
kinh tế chậm phát triển, vùng sâu vùng xa được tham gia vào quá trình phát
triển kinh tế của đất nước một cách tích cực hơn, mạnh mẽ hơn.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư chiều rộng đi cùng vơi việc có
thêm nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh được xây dựng thêm khiến cho quy mô
sản xuất của các doanh nghiệp được mở rộng, đưa năng suất tăng lên cho
phép khai thác hiệu quả theo quy mô. Nó còn góp phần tào ra nhiều việc làm
mới, giải quyêt công ăn việc làm cho người lao động ở các địa phương; làm
tăng doanh thu của các doanh nghiệp, góp phần làm tăng ngân sách nhà nước,
đóng góp vào đà tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đầu tư chiều rộng có
hiệu quả càng nhiều thi doanh nghiệp càng có điều kiện về vốn, lao động tài
nguyên ,công nghệ để phát triển sản xuất.
1.1.2.3. Đầu từ theo chiều sâu
a. Khái niệm
Theo quan điểm tái sản xuất của Mác, đầu tư theo chiều sâu là đầu tư

nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Theo quan điểm ngày nay, đầu tư theo chiều sâu là hoạt động đầu tư
được thực hiện trên cơ sở cải tạo nâng cao, đồng bộ hoá, hiện đại hoá, cơ sơ
vật chất kỹ thuật hiện có, hoặc xây dựng lại hoặc đầu tư mới một dây chuyền
công nghệ, xậy dựng một nhà máy mới nhưng kỹ thuật công nghệ phải hiện
đại hơn kỹ thuật công nghệ hiện có hoặc kỹ thuật trung bình của ngành,vùng
nhằm duy trì năng lực đã có.
b. Đặc điểm của đầu tư theo chiều sâu
Đầu tư theo chiều sâu phải gắn với công nghệ và đổi mới công nghệ.
Hay nói một cách khác nội dung chủ yếu của đầu tư chiều sâu là đổi mới công
nghệ nâng cao trình độ sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ mới. Tuy nhiên
không thể đồng nhất được hai khái niệm đó mà chỉ có thể hiểu đầu tư chiều
sâu và đổi mới công nghệ có quan hệ mật thiết, hữu cơ và luôn luôn đi liền
với nhau. Đặt vấn đề đầu tư chiều sâu nhằm mục đích tạo ra năng lực sản xuất
mới bằng cách áp dụng biện pháp và quy trình tiến bộ hơn, nâng cao chất
lượng sản phẩm hay đầu tư vào khâu trọng yếu trong quá trình sản xuất ra sản
phẩm… tất cả những điều đó đều là kết quả cụ thể của đổi mới công nghệ.
Đầu tư chiều sâu là nhân tố quyết định đổi mới công nghệ, táo điều kiện và
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khả năng cho đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ là nội dung, phương
thức tiến hành hoạt động đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
Với đầu tư chiều sâu thì tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng về lao
động trong điều kiện nước ta cũng như các nước phát triển và đang phát triển
trên thế giới thì sức ép về lao động lại là vấn đề cấp bách. Đặc điểm này đòi
hỏi phải lựa chọn phương án đầu tư sao cho vừa kết hợp được công nghệ
truyền thống với công nghệ hiến đại vừa giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư chiều sâu làm giảm chi phí sản xuất tăng năng suất lao động và
nâng cao hiệu quả đầu tư

- Khối lượng vốn đầu tư không lớn: Thông thương đầu tư chiều sâu
được thực hiện theo trọng điểm, do đó chỉ tập trung vào một số yếu tố nhât
định như đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động hoặc trang bị thêm
máy móc hoặc thay thế cac nguyên liệu đầu vào mới hay áp dụng công nghệ
mới, do đó khối lượng vốn đầu tư đòi hỏi không lớn va có thể thực hiện dễ
dàng nhanh chóng hơn so với đầu tư chiều rộng.
-Thời gian thực hiện đầu tư chiều sâu tương đối ngắn so với đầu tư
chiều rộng do khối lượng công việc ít đa dạng hơn. Do đó hình thức đầu tư
theo chiều sâu ít mao hiểm hơn và có độ rủi ro thấp hơn so với đầu tư theo
chiều rộng.
- Do chỉ tập trung đầu tư cho một số hạng mục công trình cho nên hình
thức này sẽ thuận lợi hơn cho việc quản lý; tuy nhiên do công việc có tính
phức tạp về mặt công nghệ cho nên đòi hỏi phải thi công với kỹ thuật cao.
- Đầu tư theo chiều sâu thu hồi vốn nhanh: Thông thường trong quá
trình thực hiện đầu tư việc sản suất vẫn có thể song song, thêm vào đó do khối
lượng vốn đầu tư tương đối nhỏ khiến cho việc thu hồi vốn diễn ra nhanh
chóng.
c. Vai trò của đầu tư theo chiều sâu.
Đối với nền kinh tế nói chung: Đầu tư theo chiều sâu là điều kiện
không thể thiếu được trong điều kiện ngày nay để thực hiện chiến lược công
nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế. Không chỉ mở rộng quy mô của nển kinh
tế về măt lượng tức là đầu tư theo chiều rộng mà song song với nó phải tiến
hành đầu tư theo chiều sâu để nâng cao mặt chất của nền kinh tế, tức là phải
tăng năng suất lao động trên cơ sơ cải tạo nâng cao trình độ của đội ngũ nhân
công, sử dụng có hiệu quả các nguồn nhiên liệu khan hiếm trên cơ sở tìm các
loại nguyên vật liệu mới có hiệu quả thay thế và tăng cường hàm lượng công
nghệ trong các sản phẩm của nền kinh tế trên cơ sơ đổi mới máy móc công
nghệ.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược tồn tại,
phát triển lâu dài của doanh nghiệp.

7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sau một thời gian mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm chiếm lĩnh một
thị phần lớn hơn của sản phẩm trên thị trường, hay sau nhiều chu kì kinh
doanh máy móc thiết bị của doanh nghiệp đã bị hao mòn thì cac doanh nghiệp
đệu cần phải tiến hành đầu tư chiều sâu nhằm đổi mới lại thiết bị, tăng cường
hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cho các yếu tố đầu vào. Có như thế sản phẩm
của doanh nghiệp làm ra mới luôn luôn được đổi mới và nâng cao về chất
lượng, qua đó mơi có thể cạnh trạnh đươc với các đối thủ và có được chỗ
đứng vững chắc trên thị trường.
Nhờ đầu tư chiều sâu thì doanh nghiệp có thể nâng cao năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó có điều kiện giảm chi phí sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm nhờ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thương trường.
1.1.3. Nội dung của đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.
1.1.3.1. Đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư chiều rộng là đầu tư xây dựng mới nhà của, cấu trúc hạ tầng
theo thiết kế được phê duyệt lần đầu làm tăng thêm lượng tài sản vật chất
tham gia vao qua trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tính kỹ thuật của các
công trình tài sản đó vẫn dựa trên những thiết kế có sẵn chưa được cải tạo và
hiện đại hoá.
Đầu tư chiều rộng là hoạt động mua săm máy móc thiết bị đê đổi mới
thay thế cho những thiết bị cũ theo một dây chuyền công nghệ đã có từ trước.
Đầu tư chiều rộng là mở rộng quy mô sản xuất mà không làm tăng
năng suất lao động. Đó là đầu tư cho cả bốn yếu tố của đầu vào là lao động,
vốn, công nghệ, và tài nguyên một cách tương xứng như nhau, theo một tỷ lệ
như cũ để sản xuât theo công nghệ hiện tại.
Như vậy thực chất của đầu tư chiều rộng là để mở rộng quy mô sản
xuất nhằm sản xuất một khối lượng sản phẩm lớn hơn nữa trên cơ sở xây
dựng mới thêm các hạng mục công trình như nhà xưởng sản xuất, thuê thêm

nhiều nhân công để đáp ứng khối lượng yêu cầu tăng thêm của sản xuất va
đào tạo cơ bản cho họ có thể đáp ứng được công việc.
1.1.3.2. Đầu tư theo chiều sâu
- Đầu tư chiều sâu nhăm làm tăng năng suất lao động. Đó là việc cải tạo
nâng cấp, đồng bộ hoá, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ hiện có thay thế
dây chuyền công nghệ cũ.Có thể đầu tư cho mổt trong bốn yếu tố sản xuất hay
đầu tư cho cả bốn yếu tố đó.Việc này gồm: đào tạo công nhân sẵn có để nâng
cao trình độ cho họ có thể thích ứng với công nghệ mới ( có thể đào tạo trực
tiếp tại các doanh nghiệp hoặc liên kết đào tạo với các trung tâm dạy nghề,
các trường kỹ thuật), trang bị thêm máy móc, sử dụng thêm các loại nguyên
liệu đầu vào mới hay công nghệ mới để tăng sản lương, giảm chi phí sản xuất
với đội ngũ công nhân hiện tại.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Đầu tư chiều sâu là hoạt động phát triển nguồn nhân lực và đầu tư để
tổ chức lại bộ máy quản lý, phương pháp quản lý của doanh nghiệp. Đầu tư
chiều sâu là mặt “chât” cho nên chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả của bộ
máy quản lý là một nhân tố hết sức quan trọng, quyết định cho hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
* Xét về mặt đầu tư cho tài sản cố định: nội dung đầu tư cho chiều sâu
bao gồm:
- Đầu tư mở rộng là việc xây dựng thêm hoặc mua sắm thêm
những đối tượng tài sản cố định mới nằm trong thành phần tài sản cố định có
sẵn nhằm tăng cường khối lượng sản xuất.
- Xây dựng lại là việc đầu tư để bố trí lại toàn bộ hoặc một bộ
phận các dây chuyền sản xuất ở cơ sở cho phù hợp với điều kiện sản xuất
mới.
- Hiên đại hoá là thực hiện tổng thể các biện pháp kỹ thuật nhằm
cơ khí hoá, tự động hoá các bộ phận sản xuất đang hoạt động, thay thế những
thiết bị cũ đã hao mòn hoặc lạc hậu bằng các thiết bị mới có năng suât, hiệu

quả cao hơn.
Duy trì năng lực đã có của các cơ sở đang hoạt động là thực hiện các
biện pháp nhằm bù đắp những tài sản cố định đã bị loại bỏ do hao mòn hoặc
lạc hậu bằng các thiết bị mới có năng suất và hiệu quả cao hơn.
1.2. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều
sâu.
1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư
theo chiều sâu.
Bản chất mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều
sâu là mối quan hệ biện chứng giữa mặt chất và mặt lượng. Sự thay đổi về
lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận đọng và phát triển của sự
vật.Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không tách rời
nhau.Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của
sự vật.Ở một giới hạn nhất định,khi lượng của sự vật thay đổi,nhưng chất của
sự vật có thể chưa thay đổi cơ bản.Khi lượng của sự vật được tích lũy vượt
quá giới hạn nhất định được gọi là độ,thì chất cũ sẽ mất đi,chất mới thay thế
chất cũ.Chất mới ấy tương ứng với lượng mới tích lũy được.
Trong hai hình thức trên,đầu tư theo chiều rộng chính là làm tăng mặt
lượng,đầu tư theo chiều sâu nhằm tạo ra những biến đổi về chất của quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Do đó, chúng ta phải nắm bắt được
thời điểm nào thì nên sử dụng hình thức nào và khi nào thì không nên sử dụng
hình thức đó.Khi có chính sách đầu tư hợp lý chúng sẽ thu được kết quả tốt
thỏa mãn yêu cầu mà kế hoạch đặt ra.Thật vậy trong hoạt động kinh doanh
nếu thị trường có yêu cầu ngày càng tăng số lượng sản phẩm,mà chúng ta
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không tập trung vào đầu tư theo chiều rộng thì sẽ không đáp được nhu cầu của
người tiêu dùng, sẽ tạo cơ hội cho đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
Và ngược lại, khi thị trường yêu cầu được yêu cầu được cung cấp mặt hàng
trên nhưng với chất lượng cao hơn, mẫu mã phong phú hơn, mà doanh nghiệp

không có kế hoạch đầu tư theo chiều sâu kịp thời thì sản phẩm do doanh
nghiệp đó sản xuất ra sẽ lạc hậu, không tiêu thụ được.
Tiêu chí dùng để phân biệt 2 hình thức đầu tư này là quan hệ giữa tốc
độ tăng vốn với tốc độ tăng năng suất lao động, là trình độ thiết bị công nghệ
đưa vào đầu tư. Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư mới hay mở rộng sản xuất.
Trong trường hợp này, với một số vốn ban đầu nhất định sẽ làm cho lao động
tăng nhanh hơn nhưng trình độ kỹ thuật- công nghệ không tiên tiến, hoạt động
hơn kỹ thuạt công nghệ hiện có. Còn đầu tư theo chiều sâu là đầu tư được
thực hiện trên cơ sở cải tạo , mở rộng và nâng cấp, đồng bộ hóa, hiện đại hóa
cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có hoặc có thể đầu tư một dây chuyền công nghệ ,
xây dựng một nhà máy mới, nhưng kĩ thuật công nghệ phải hiện đại hơn kĩ
thuật công nghệ hiện có hay bình quân chung của ngành, địa phương.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai hình thức đầu tư này chỉ mang tính
chất tương đối bởi trong hình thức đầu tư này thường chứa đựng hình thức
đầu tư kia, và ngược lại. Khi áp dụng hình thức này sẽ không làm hạn chế
hình thức kia mà là điều kiện và tiền đề để hình thức đầu tư kia phát triển. Khi
một doanh nghiệp có kế hoạch thực hiện đầu tư, họ sẽ đứng trước một quyết
định khó khăn,đó là đầu tư vào đổi mới công nghệ tăng năng suất lao đọng
hay đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên như đã nói ở trên hai việc
này thường đi kèm với nhau, do vậy doanh nghiệp cần phải kết hợp một cách
hợp lí nhất hai hình thức đầu tư này. Mặt khác nguồn lực đầu vào cho hoạt
động đầu tư là hạn chế, nếu đầu tư vào chiều rộng thì sẽ thôi hay giảm bớt
nguồn lực cho đầu tư theo chiều sâu và ngược lại. Hai cách thức đầu tư này có
những đặc điểm, quy trình thực hiện tương đối giống nhau. Tuy nhiên đầu
tư theo chiều rộng mang tính chất tạo mới những điều kiện sản xuất kinh
doanh trong khi những điều kiện kĩ thuật khác giữ nguyên. Còn đầu tư theo
chiều sâu thì lại đi từ những thứ có sẵn và đổi mới, phát triển chúng lên một
trình độ cao hơn hiện tại. Tuy đối lập song hai hình thức này tạo thành một
mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất đó
thể hiện ở tác động ngang nhau của chúng.

1.2.2. Sự tác động 2 chiều giữa hai hình thức đầu tư này
Trong nền kinh tế , muốn tăng trưởng và phát triển được đều phải thực
hiện một cách hiệu quả việc tái sản xuất. Thực chất đây là quá trình đầu tư
cho sản xuất và đầu tư cho phát triển. Mọi quá trình sản xuất đều phải không
ngừng đổi mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Tái sản xuất
vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Việc mở rộng sản xuất sẽ là điều kiện cần cho tổng sản phẩm quốc dân tăng
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thêm và là yếu tố thúc đẩy quá trình phát triển. Nền kinh tế càng phát triển
càng có nhiều điều kiện tốt hơn cho đầu tư.
Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là hai hình thức đầu tư
theo cơ cấu tái sản xuất. Hai hình thức này tuy có sự khác biệt tương đối song
chúng luôn gắn liền với nhau, đi kèm thúc đẩy lẫn nhau. Đầu tư theo chiều
rộng được tiến hành khi bắt đầu sản xuất kinh doanh, hoặc trong quá trình
sản xuất kinh doanh muốn mở rộng quy mô. Đến một thời điểm nào đó, khi
dây chuyền sản xuất đã cũ, khó tiếp tục duy trì năng suất hiện có, chúng ta
nên tiến hành đầu tư theo chiều sâu. Khi yêu cầu của hãng là tăng thị phần,
tăng chỗ đứng cho sản phẩm và vị thế của mình, hoặc khi muốn cải thiện hay
duy trì năng lực, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm và doanh nghiệp, tạo đà
cho một sự phát triển ổn định lâu dài. Hai hình thức này gắn kết, bổ sung cho
nhau để cùng đưa ra các giải pháp kĩ thuật cải tiến phù hợp với doanh nghiệp
để đạt công suất cao nhất có thể và đem lại lợi ích tối đa. Không một doanh
nghiệp nào có thể sử dụng một trong hai biện pháp riêng lẻ mà phải sử dụng
chúng một cách linh hoạt, kết hợp giữa đầu tư theo chiều sâu và đầu tư theo
chiều rộng nhằm thu được hiệu quả cao nhất.
Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng để đầu tư theo chiều sâu có hiệu
quả. Doanh nghiệp khi mới hình thành và hoạt động đều phải bắt đầu đầu tư
theo chiều rộng . Đó là chuẩn bị các điều kiện để tiến hành sản xuất kinh
doanh như xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm các máy móc thiết bị , đào tạo và

tuyển dụng nguồn nhân lực. Đây là nền tảng không thể thiếu và hết sức quan
trọng nó chính là đòn bẩy là giai đoạn tiền đề giúp cho các doanh nghiệp có
những bước tiến tiếp theo. Việc tiến hành đầu tư theo chiều rộng phải đảm
bảo tiến độ, khi những điều kiện khởi đầu được hoàn thành tốt, kịp thời thì
việc sản xuất theo kế hoạch sẽ thu được những lợi thế rõ rệt. Tuy nhiên, khi
quá trình sản xuất kinh doanh đi vào ổn định , chúng ta cần đầu tư tiếp để
hoàn thiện bộ máy cho năng suất cao, ổn định.
Và ngược lại đầu tư theo chiều sâu là yếu tố quan trọng để có quyết
định đầu tư theo chiều rộng một cách cụ thể. Đầu tư theo chiều sâu là việc
tiến hành cải tạo, nâng cấp dây chuyền công nghệ, đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực…Những biện pháp này sẽ làm tăng năng suất lao
động , sản xuât được nhiều sản phẩm với chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn.
Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng doanh thu,
chiếm lĩnh thị trường. Hoạt động đầu tư theo chiều rộng chỉ đem lại hiệu quả
trong một giới hạn nhất định của công nghệ , trình độ sản xuất. Nếu đầu tư
theo chiều rộng quá mức sẽ dẫn tới mâu thuẫn với trình độ quản lí , trình độ
sản xuất , khả năng công nghệ …làm cho doanh nghiệp cồng kềnh mà không
đạt hiểu quả thậm chí còn giảm năng suất.
Có thể lấy một ví dụ về việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đầu tư theo
chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu , đó là công ty gạch ngói Mĩ Xuân. Trước
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kia đây là công ty phát trỉên khoáng sản 6 thuộc tổng công ty khoáng sản 5 ,
Năm 1996 công ty phát triển khoáng sản 6 đầu tư xây dựng nhà máy Mĩ Xuân
với công suất thiết kế là 25 triệu viên sản phẩm quy chuẩn /năm , tổng vốn
đầu tư là 22,5 tỉ đồng. Một năm sau nhà máy đi vào sản xuất sản phẩm sản
xuất ra luôn trong tình trạnt “cháy” sản phẩm. Do đó năm 2001 nhà máy đã
đầu tư thêm 10,5 tỉ đồng để mở rộng công suất thiết kế lên 37 triệu viên/năm.
Nhờ việc đầu tư mở rộng này mà doanh thu liên tục tăng: năm 2004 là
33.050tr đồng (tăng 1% so với 2003) . Năm 2005 là 39.959tr đồng (tăng

21%).Đến 2005 công ty đã đầu tư dây chuyền hiện đại sản xuất ngói xi măng
mầu với công nghệ phủ màu ướt của Italy , công suất thiết kế là 2triệu viên
/năm với vốn đầu tư gần 10 tỉ đồng , sản phẩm này nhanh chóng chiếm được
thị trường, Nâng doanh thu 2006 lên 44 tỉ đồng(tăng 15%) .Nhờ có sự thành
công đó công ty không ngưng mở rộng thị trường ra cả nước, do vậy đến nay
công ty đã có tới 300 đại lí và cửa hàng đặc biệt có trên 90% sản phẩm từ dây
chuyền ngói mới tiêu thụ ở TP HCM. Cuối 2006 công ty lại tiếp tục đầu tư
dây chuyền sản xuất thứ 3 với công suất thiết kế 25tr viên gạch ngói/năm tổng
giá trị đầu tư là 23tỷ đồng.
Đây là ví dụ khá điển hình thể hiện mối quan hệ rõ nét giữa đầu tư theo
chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu . đầu tư theo chiều rộng là bước đầu tạo
vốn cho công ty đầu tư theo chiều sâu. Nhờ có sự thành công trong đầu tư
theo chiều sâu công ty lại tiếp tục đầu tư theo chiều rộng mở rộng quy mô sản
xuất ngày càng thu được lơi nhuận lớn hơn.
Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu không bao giờ tách rời
nhau hỗ trợ, bổ sung thúc đẩy lẫn nhau. Hoạt động sản xuất kinh doanh của
bất kì doanh nghiệp nào muốn tăng trưởng và phát triển đều phải đầu tư mở
rộng sản xuất . Và quá trình đầu tư đó phải biết kết hợp một cách hợp lí hình
thức đầu tư theo chiều sâu và hình thức đầu tư theo chiều rộng .
1.2.3. Mối quan hệ mật thiết giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư
theo chiều sâu trong sự tác động của môi trường
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là
vấn đề không thể thiếu trong sự phát triển của mỗi nền kinh tế. Việc xem xét
chúng có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau song để vấn đề được làm sáng
tỏ hơn ở đây trong bài viết này xem xét dưới góc độ của doanh nghiệp.
1.2.3.1. Sự tác động từ yếu tố cung cầu thị trường
Cung cầu là hai yếu tố mật thiết có tác động đan xen, chi phối quá trình
đầu tư. Trong đó , cầu thị trường là yếu tố cần có, chi phối việc ra quyết định.
Khi cầu về sản phẩm cao, sản phẩm không đáp ứng đủ so với mong muốn của
thị trường. Lúc đó, phải đánh giá được nhu cầu thị trường mong muốn cũng

như khả năng đáp ứng để có kế hoạch cụ thể. Trong ngắn hạn , các nhà đầu tư
sẽ thực hiện việc đầu tư theo chiều rộng (mở rộng quy mô các yếu tố đầu vào
như nguyên liệu , lao động…) nhằm tận dụng lợi thế theo quy mô đáp ứng
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhu cầu thị trường . Bên cạnh đó để có thể đáp ứng được nhu cầu trong dài
hạn nhà đầu tư không thể không quan tâm tới việc nâng cao năng năng suất
lao động nhằm đáp ứng số lượng sản phẩm nhiều hơn với nguồn nguyên liệu
đầu vào vẫn không thay đổi. Ngược lại, nếu cầu sản phẩm thấp , hoạt động
đầu tư sẽ bắt đầu từ việc cải tiến công nghệ , tăng chất lượng sản phẩm hoặc
tìm ra sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu mới của khách hàng, hoặc có thể đầu tư
theo chiều rộng đưa sản phẩm mới ra đời tạo ra nhu cầu mới .
Tương tự như cầu, cung cũng có tác động trực tiếp đến việc quyết định
đầu tư . Việc đầu tư theo chiều rộng sẽ được áp dụng khi các nhà sản xuất
không đáp ứng đủ nhu cầu trên thị trường . Còn ngược lại, khi cung thị trường
quá cao đòi hỏi các nhà cung ứng đầu tư theo chiều sâu .
Cung và cầu là hai yếu tố quan trọng tác động đến quyết định đầu tư
theo chiều rộng hay đầu tư theo chiều sâu , chúng cũng có ảnh hưởng rất lớn
đến việc phát huy hiệu quả của hoạt động đầu tư . Dưới sự tác động qua lại
giữa cung và cầu, các nhà đầu tư phải hoạch định được sự biến đổi không
ngừng giữa chúng để có những quyết định đầu tư hiệu quả, chính xác. Có
những ý kiến cho rằng cầu có tác động quan trọng nhất, nó quyết định việc
sản xuất của mỗi doanh nghiệp. Thật vậy, khi cầu sản phẩm ở mức cao, việc
đầu tư làm tăng khối lượng (đầu tư theo chiều rộng ) hay làm tăng chất lượng
( đầu tư theo chiều sâu ) sẽ là những biện pháp tốt nhất để kích cầu, giúp các
doanh nghiệp bán được nhiều sản phẩm hơn, tăng doanh thu . Tuy nhiên ,
chúng ta không nên quá đề cao cầu mà quên đi sự tác động cũng hết sức quan
trọng của tình hình cung cấp hàng hóa trên thị trường. Khi cung ở mức cao,
các doanh nghiệp sẽ gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ. Nếu cạnh tranh quá găy
gắt sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư cảu các doanh nghiệp, làm cho họ thích đầu tư

vào các sản phẩm khác mà lượng cung trên thị trường đang ở mức độ ít hơn.
Việc này nếu thành công doanh nghiệp sẽ đạt được doanh thu cao nhờ khả
năng đi đầu về mặt hàng mới . Nhưng nó cũng đem lại những rủi ro khi mà
sản phẩm mới chưa được khách hành chấp nhận , hay chi phí cho việc quảng
cáo , marketing sản phẩm mới sẽ cao hơn khi sản xuất sản phẩm cũ. Hoặc
doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức đầu tư theo chiều sâu nhằm nâng cao
tính cạnh tranh của sản phẩm , khi mà khả năng đẩy mạnh chất lượng ,mẫu
mã…của sản phẩm nằm trong khẳ năng hiện có , và doanh nghiệp có tiềm
năng về mặt này hơn các đối thủ cạnh tranh.
1.2.3.2. Đặc tính của sản phẩm
a. Vòng đời của sản phẩm
Đối với những loại hàng hóa , dịch vụ có tuổi thọ ngắn như lương thực
thực phẩm , vật dụng sinh hoạt, các sản phẩm khác của ngành công nghiệp
chế biến …được sử dụng trong thời gian ngắn, việc thay đổi mẫu mã, chất
lượng sản phẩm phải được tiến hành một cách thường xuyên nếu như các nhà
sản xuất không muốn sản phẩm của mình bị đào thãi , lãng quên trên thị
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trường . Do đó họ thường áp dụng các hình thức đầu tư theo chiều sâu , làm
cho sản phẩm sản xuất ra ngày một tốt hơn, mẫu mã phong phú hơn. Trong
khi đó, với những mặt hàng mang tính chất lâu bền, được sử dụng trong thời
gian dài và thường có giá trị lớn hơn rất nhiều so với các hàng hóa nêu trên thì
việc các hãng phải cạnh tranh nhau chính là về chất lượng sản phẩm . Những
sản phẩm này thường hay thu hút được sự quan tâm, chú ý nhất định của
khách hành, và trong quyế định tiêu dùng họ luôn có sự cân nhắc nên các
hãng luôn có sự cân nhắc nên các hãng muốn cạnh tranh với nhau thông qua
chất lượng sản phẩm là hiệu quả nhất. Vì thế việc nâng cao trình độ tay nghề
người lao động cũng như cải tiến kĩ thuật là những vấn đề không thể thiếu, có
tính chất sống còn đối với mỗi doanh nghiệp . Với những sản phẩm có tuổi
thọ dài thường có giá trị cao nên việc đầu tư theo chiều rộng cần kết hợp với

đầu tư theo chiều sâu để tăng tính cạnh tranh
b. Chu kì sống của sản phẩm
Do đặc tính của từng loại sản phẩm mà ta cần có hình thức đầu tư cho
phù hợp nhằm mục đích bảo đảm hiệu quả đầu tư. Với những sản phẩm có
chu kì sản phẩm ngắn việc đầu tư theo chiều sâu sẽ không đạt được hiệu quả
tối ưu, sự đầu tư đó sẽ không nhiều khả năng đem lại hiệu quả trước khi sản
phẩm đó rơi vào quên lãng . Trong khi đó những mặt hàng mang tính chất lâu
bền, tồn tại trong thời gian dài và thường có giá trị lớn hơn rất nhiều so với
các loại hành hóa nêu trên thì việc các hãng phải cạnh tranh nhau chính là về
chất lượng sản phẩm. Do đó các công ty sản xuất loại sản phẩm này sẽ chú
trọng đến các biện pháp đầu tư theo chiều sâu nhiều hơn.
Chu kì sống của sản phẩm là khoảng thời gian kể từ khi hàng hóa được
tung ra trên thị trường cho đến khi nó phải rút lui khỏi thị trường . Sự tồn tại
chu kì sống của sản phẩm là hiển nhiên, hy vọng về sự tồn tại lâu dài với hiệu
quả cao đối với mỗi loại sản phẩm là chính đáng khi ta bỏ ra nguồn lực để đầu
tư . Nhưng hy vọng đó chỉ đạt được khi doanh nghiệp biết được diễn biến của
chu kì sống , đặc điểm của nó , đồng thời có những điều chỉnh chiến lược đầu
tư cho thích hợp . Có bốn giai đoạn trong chu kì sống của sản phẩm , trong
mỗi giai đoạn có những hình thức khác nhau để gia nhập thị trường một cách
phù hợp nhằm đạt được hiệu quả đầu tư .
- Giai đoạn hình thành sản phẩm : Trong giai đoạn này, sản phẩm vừa
được tung ra thị trường, khách hàng bắt đầu làm quen với sản phẩm , chưa có
nhiều nhà cung cấp. Khi đó, đầu tư sản xuất sản phẩm này chủ yếu sử dụng
những công ngệ sẵn có chưa cần thiêt phải đổi mới.
- Giai đoạn phát triển : sau một thời gian , đã có nhiều người sử dụng
và ưa thích sản phẩm , thị trường có xu hướng cần ngày một nhiều hơn số sản
phẩm được đáp ứng, ta nên cần tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất . Ben cạnh
đó cũng cần có sự nghiên cứu nhằm cải tiến kĩ thuật để có thể đáp ứng với số
lượng lớn hơn, sản phẩm có chất lượng tốt hơn.
14

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Giai đoạn bão hòa : Lúc này sản phẩm đã tràn ngập thị trường , do đó
muốn đầu tư đạt hiệu quả thì nên lựa chọn hình thức đầu tư theo chiều sâu .
Việc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào nhằm cải
tiến sản phẩm , cho ra những sản phẩm tốt hơn là cần thiết để cạnh tranh với
những sản phẩm cùng loại đang chiếm thị trường cao .
- Giai đoạn suy thoái : Đây là giai đoạn mà mức tiêu thụ các loại sản
phẩm bắt đầu giảm sút rõ rệt . Vì thế vấn đề đặt ra trong họat động đầu tư lúc
này là làm sao kết hợp hài hòa các hình thức đầu tư . Việc đổi mới , cải tiến
công nghệ để tìm ra sản phẩm mới có khả năng được thị trường chấp nhận .
Và nếu cần thiết sẽ mở rộng cơ sở để vừa thu hẹp dần quy mô của sản phẩm
củ , vừa mở rộng quy mô của sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu của thị
trường
1.2.3.3. Môi trường vĩ mô :
Môi trường vĩ mô bao gồm rất nhiều yếu tố như môi trường kinh tế ,
chính trị văn hóa tác động trực tiếp hay gián tiếp , tại một thời điểm hay trong
một thời gian dài , ảnh hưởng đến giai đoạn chuẩn bị hay giai đoạn thực hiện
hoặc vận dụng các kết quả trong hoạt động đầu tư .
a. Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng nhiều mặt
tới các nguồn lực đầu vào cần thiết cho các nhà sản xuất kinh doanh và chúng
có thể gây ảnh hưởng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư . Đặc biệt là những
ngành phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường tự nhiên như ngành nông ngiệp ,
lâm nghiệm , khai thác chế biến thủy hải sản …thì việc mở rộng , phát triển
các ngành này luôn phải gắn liền với việc nghiên cứu môi trường tự nhiên.
Mặt khác môi trường tự nhiên là điều kiện tiên quyết để đánh giá cơ hội đầu
tư . Tài nguyên thiên nhiên khoáng sản , nguyên liệu là yếu tố đầu vào không
thể thiếu cho rất nhiều ngành nhất là ngành công nghiệp khai khoáng. Và toàn
bộ nền kinh tế muốn duy trì và phát triển được thì phải đáp ứng đủ nguồn
nguyên liệu cho tất cả hoạt động kinh tế .

Sự khác biệt giữa điều kiện tự nhiên ở các vùng làm cho hoạt động đầu
tư phải có sự nhạy bén linh hoạt . Chúng ta phải biết được nơi nào, khi nào thì
đầu tư theo chiều rộng , ở đâu và vào lúc nào thì cần phải đổi mới và cải tiến
kĩ thuật
b. Môi trường kinh tế xã hội
- Môi trường kinh tế trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế
chung về cơ cấu ngành , vùng kinh tế. Tình hình đó có thể tạo nên tính hấp
dẫn về thị trường và kích thích việc tiêu thụ sản phẩm . Môi trường tác động
đến các hoạt động đầu tư thông thường sẽ tỉ lệ với quy mô của hoạt động đầu
tư .
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Môi trường chính trị là một trong các yếu tố có ảnh hưởng mạnh tới
quyết định đầu tư của các doanh nghiệp . Môi trường chính trị bao gồm hệ
thống luật và các văn bản dưới luật , các công cụ chính sách của Nhà nước, tổ
chức bộ máy và cơ chế điều hành của chính phủ và các tổ chức chính trị xã
hội. Sự tác động của môi trường chính trị tới các quyết định đầu tư phản ánh
sự can thiệp của chủ thể quản lí vĩ mô tới hoạt động đầu tư .
Môi trường văn hóa : văn hóa được định nghia là một hệ thống giá trị,
quan niệm, niềm tin, truyền thống và các chuẩn mực , hành vi đơn nhất với
một nhóm người cụ thể nào đó được chia sẻ một cách tập thể. Văn hóa là một
vấn đề khó nhận biết và hiểu một cách thấu đáo, mặc dù nó tồn tại ở khăp mọi
nơi và thường xuyên tới toàn bộ quá trình chuẩn bị , tiến hành đầu tư . Văn
hóa tác động trực tiếp đến những người thực hiện hoạt động đầu tư và sau đó
tác động đến việc lựa chọn những người tiêu dùng sản phẩm đầu tư đó .
- Lực lượng lao động : Là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình đầu
tư , khi nguồn lao động ở một vùng hay một ngành phù hợp và đáp ứng được
những yêu cầu sẽ kích thích được hoạt động đầu tư của ngành đó, vùng đó.
Với vai trò như vậy việc đầu tư vào lực lượng lao động là lĩnh vực đầu tư
không thể thiều trong mỗi doanh nghiệp .Việc đầu tư có thể là theo chiều rộng

nguồn lao động như tăng các cơ sở đào tạo … cũng như kết hợp với việc đầo
tạo lại nhằm nâng cao tay nghề, trình độ của lao động, sử dụng công nghệ mới
.
Tóm lại , môi trường vĩ mô cũng hết sức rộng lớn và ảnh hưởng nhiều
mặt tới hoạt động đầu tư của doanh nghiệp . Chúng bao gồm các yếu tố , các
lực lượng mang tính chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới
toàn bộ quá trình chuẩn bị cũng như thực hiện đầu tư . Các yếu tố này tồn tại
khách quan và chúng ta rất khó có thể kiểm soát chúng . Vì vậy cần có sự
nghiên cứu, theo dõi một cách chặt chẽ , đầy đủ các điều kiện này mà từ đó có
những định hướng hợp lí nhằm kết hợp hài hòa hai hình thức đầu tư theo
chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu . Và từ đó có những hoạt động đầu tư cho
phù hợp với từng thời điểm , từng giai đoạn .
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ THEO
CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SẦU Ở VIỆT NAM.
2.1. Tình hình chung về đầu tư ở Việt Nam
Dưới góc độ toàn xã hội có thể nói hoạt động đầu tư ở Việt Nam ngày
càng có những bước tiến bộ .
Khi nói đến đầu tư vấn đề trước tiên phải bàn tới là nguồn vốn. Và để
giải quyết được vấn đề này chính sách đầu tư của Việt Nam đã dần hoàn thiện
. Luật doanh ngiệp và luật đầu tư chung có hiệu lực là biểu hiện cho nỗ lực
của Việt Nam trong việc tạo lập một môi trường đầu tư thuận lợi. Điều đó sẽ
là động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế , các nhà đầu tư đẩy mạnh đầu tư
ở Việt Nam .Song không phải chờ đến khi hai luật này có hiệu lực mà ngay từ
giai đoạn đầu của thời kì đổi mới , hoạt động huy động vốn đã đạt những kết
quả tốt. Và theo đà của nhu cầu đầu tư , lượng vốn đầu tư toàn xã hội có sự
tăng tiến về lượng , và cả sự chuyển biến tốt về cơ cấu vốn đầu tư .Tỉ trọng
đầu tư toàn xã hội so với GDP đều tăng qua các năm. Điều đó góp phần
không nhỏ cho tốc độ tăng trưởng cao và đều đặn của Việt Nam .

Cơ cấu Đầu tư phân theo các thành phần kinh tế ;
Bảng 1: Mức tăng GDP ở Việt Nam qua các năm.
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư theo các thành phần kinh tế ở Việt Nam
qua các năm.
( Nguồn: Tổng cục Thống kê )
Cũng từ biểu đồ có thể thấy Việt Nam đã có sức hấp dẫn ngày càng
tăng đối với các nhà đầu tư nước ngoài .Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tăng cả về tỉ trọng và số lượng . Việt Nam đang trở thành điểm đầu tư
của một số tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới như Intel , Microsoft…
Hoạt động đầu tư ngày càng khởi sắc có thể coi là nguồn gốc cho sự
tăng trưởng của Việt Nam trong nhiều năm. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ
bản , tập trung một số những công trình trọng điểm quốc gia là nét tiến bộ
trong hoạt động đầu tư .
2.2. Những hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực dễ nhận thấy là hoạt động đầu tư vẫn tồn
tại rất nhiều điểm đáng lo ngại. Hiệu quả đầu tư vẫn còn hạn chế. Để có thể
thấy rõ điều này chúng ta xem xét sự đóng góp của các nhân tố tổng hợp đến
ngành công nghiệp từ đó rút ra những nhận định chung bởi lẽ công nghiệp có
thể nói là sự biểu hiện rõ nét và tập trung về hoạt động đầu tư .
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (năng suất các nhân tố tổng
hợp viết tắt tiếng anh là TFP) là tỷ lệ tăng lên của kết quả sản xuất do nâng
cao năng suất tổng hợp chung (năng suất tính chung cho cả vốn và lao động).
Đây là chỉ tiêu phản ánh đích thực và khái quát nhất hiệu quả sử dụng
nguồn lực sản xuất, làm căn cứ quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng
cũng như tính chất phát triển bền vững của kinh tế, là cơ sở để phân tích hiệu

quả sản xuất xã hội, đánh giá sự tiến bộ khoa học công nghệ của một ngành,
một địa phương hay mỗi quốc gia.
Xét về quan hệ tính toán, tốc độ tăng TFP là phần trăm còn lại của tỷ lệ
tăng lên của kết quả sản xuất nói chung, sau khi trừ đi phần trăm tăng kết quả
sản xuất do tăng vốn và tăng lao động đóng góp.
Phù hợp với quan hệ đó, có công thức tính tốc độ tăng TFP (i
TFP
) như
sau:
i
TFP
= i
y
(a.i
K
+ b.i
L
); (1)
Trong đó:
i
y
Tốc độ tăng kết quả sản xuất
i
K
Tốc độ tăng của vốn hoặc tài sản cố định
i
L
Tốc độ tăng của lao động
a và b là các hệ số đóng góp vốn và lao động (a+b = 1). Các hệ số này
có thể được tính theo phương pháp hàm sản xuất Cobb-Douglass hoặc

phương pháp hạch toán.
Khi áp dụng công thức 1, nhất thiết phải có số liệu về 3 chỉ tiêu: giá trị
tăng thêm (GTTT) đối với từng ngành hoặc tổng sản phẩm trong nước (GDP)
đối với nền kinh tế quốc dân (KTQD) theo giá so sánh, vốn hoặc giá trị tài sản
cố định (TSCĐ) theo giá so sánh và lao động để tính các tốc độ tăng i
y ,
i
K
và i
L
Đối với các hệ số a và b: Nếu tính theo phương pháp hàm sản xuất
Cobb-Douglass thì chỉ cần có số liệu của 3 chỉ tiêu trên là đủ, nhưng đòi hỏi
thông tin phải liên tục nhiều năm và xu thế biến động của các chỉ tiêu qua các
năm phải tuân theo những quy luật nhất định. Còn nếu a và b tính theo
phương pháp hạch toán thì số liệu về GTTT hoặc GDP, vốn hoặc giá trị
TSCĐ và lao động không nhất thiết phải có liên tục nhiều năm, nhưng phải có
thêm thông tin về thu nhập của lao động được hạch toán đầy đủ (ở đây gọi là
thu nhập đầy đủ) và GTTT hoặc GDP tính theo giá hiện hành.
Công thức tính hệ số đóng góp của:
Thu nhập đầy đủ của lao động
b = ; (2a)
GTTT hoặc GDP
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lao động (b) và của vốn (a) như sau:
Từ đó
a = 1-b vì a+b = 1; (2b)
Trong các chỉ tiêu để tính tốc độ tăng TFP như đã nêu trên thì giá trị
tăng thêm hoặc GDP theo giá so sánh và lao động làm việc có thể tính toán
được một cách thuận tiện trên cơ sở hệ thống số liệu thống kê hàng năm hiện

có. Số liệu này đảm bảo độ tin cậy cần thiết và cho phép sử dụng để nghiên
cứu xu thế biến động của chúng cũng như để tính toán các chỉ tiêu khác liên
quan. Trong quá trình sử dụng tuỳ theo nhu cầu cụ thể phải tiến hành xử lý,
tính toán bổ sung cho phù hợp. Riêng chỉ tiêu vốn hoặc giá trị TSCĐ, ở nước
ta hiện nay, nguồn số liệu theo dõi được để tính toán còn gặp nhiều khó khăn.
Về nguyên tắc, tổng số vốn hoặc giá trị TSCĐ của từng ngành hay toàn bộ
nền KTQD phải được tổng hợp từ số liệu của các doanh nghiệp, đơn vị, cơ sở
theo quy trình từ dưới lên trên. Song thực tế hiện nay chỉ có ngành công
nghiệp mới có thể thực hiện được theo cách tiếp cận đó. Còn các ngành khác
đều chưa có điều kiện. Đối với toàn nền KTQD có thể xác định số vốn hoặc
giá trị TSCĐ hiện có bằng phương pháp gián tiếp trên cơ sở vốn đầu tư làm
tăng TSCĐ hoặc giá trị tích luỹ TSCĐ qua các năm. Phương pháp xác định
gián tiếp này đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Các số liệu về thu
nhập đầy đủ và GTTT hoặc GDP theo giá hiện hành để tính các hệ số được
tính toán trên cơ sở số liệu hiện có trong báo cáo thống kê công nghiệp hàng
năm và số liệu có trong bảng IO của Tổng cục Thống kê.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng số liệu để tính toán tốc độ tăng TFP
có đặc điểm riêng, giữa giá trị TSCĐ và kết quả sản xuất có độ trễ thời gian
(tăng thêm TSCĐ phải sau một thời gian mới mang lại kết quả sản xuất), và
trong đó hàng năm TSCĐ lại tăng lên không đều đặn. Điều đó ảnh hưởng
đáng kể đến kết quả tính toán tốc độ tăng TFP. Cho nên số liệu về tốc độ tăng
TFP tính cho từng năm chỉ có tính chất bổ sung phục vụ cho phân tích sâu và
nghiên cứu xu thế tăng giảm của tốc độ tăng TFP. Còn để đánh giá hiệu quả
chung, phân tích chất lượng tăng trưởng, đánh giá tiến bộ khoa học công nghệ
một cách khái quát và có tính chất chất chính thống thì phải là số liệu tính
bình quân cho nhiều năm, và ít nhất cũng phải là 5 năm.
Dưới đây đi sâu tính toán và phân tích tốc độ tăng TFP của công nghiệp
Việt Nam từ năm 1991 đến 2003 (xe m bảng 1).
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Tốc độ tăng (%) Hệ số đóng góp
Tốc độ tăng GTTT
do tăng
Tốc độ
Năm GTTT TSCĐ
Lao
động
Của
TSCĐ
Của lao
động
TSCĐ đóng
góp
LĐ đóng góp Tăng TFP
i i y ik iL a b a ik biL iTFP
A 1 2 3 4 5 6=4x2 7=5x3 8=1-(6+7)
1991 12,96 12,28 -0,13 0,550 0,450 6,75 -0,06 6,27
1992 17,61 10,61 -0,49 0,548 0,452 5,81 -0,22 12,01
1993 14,20 12,92 3,72 0,547 0,453 7,07 1,69 5,45
1994 13,20 15,17 2,22 0,532 0,468 8,07 1,04 4,09
1995 13,02 17,18 7,56 0,520 0,480 8,94 3,63 0,46
1996 13,49 18,29 2,95 0,531 0,469 9,71 1,38 2,39
1997 12,69 17,47 2,26 0,528 0,472 9,22 1,07 2,39
1998 9,73 13,35 3,99 0,524 0,476 7,00 1,90 0,83
1999 8,99 12,53 6,17 0,525 0,475 6,58 2,93 -0,53
2000 13,78 10,90 11,83 0,520 0,480 5,67 5,68 2,43
2001 16,72 15,83 11,39 0,517 0,483 8,19 5,50 3,03
2002 13,77 13,94 12,24 0,511 0,489 7,12 5,98 0,67
2003 13,44 12,91 11,38 0,511 0,489 6,60 5,56 1,28
B/q 91-03 13,33 14,08 5,68 0,528 0,472 7,44 2,68 3,21

Bảng 3: Tính toán tốc độ tăng TFP của công nghiệp Việt Nam
Với kết quả tính toán tốc độ tăng TFP cũng như tốc độ tăng GTTT do
tăng TSCĐ và tăng lao động của công nghiệp trên đây có thể tính toán tỷ phần
đóng góp của nó đối với tốc độ tăng giá trị tăng thêm của từng năm và bình
quân giữa các năm giai đoạn 1991-2003 (như bảng 2).
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tỷ phần đóng góp trong kết quả tăng lên của GTTT
Tốc độ Do tăng TSCĐ và LĐ
Năm
Tăng
GTTT
Tổng
số
Chia ra do
tăng TSCĐ
Tăng LĐ Tăng TFP
A 1 2 = 3+4 3 4 5
1991 12,96 51,65 51,11 -0,46 48,35
1992 17,61 31,78 33,02 -1,25 68,22
1993 14,20 61,64 49,76 11,87 38,36
1994 13,20 69,03 61,16 7,88 30,97
1995 13,02 96,49 68,61 27,88 3,51
1996 13,49 82,27 72,00 10,27 17,73
1997 12,69 81,12 72,70 8,42 18,88
1998 9,73 91,43 71,92 19,50 8,57
1999 8,99 105,87 72,23 32,64 -5,87
2000 13,78 82,36 41,14 41,22 17,64
2001 16,72 81,87 48,97 32,90 18,13
2002 13,77 95,16 51,71 43,45 4,84

2003 13,44 90,48 49,09 41,40 9,52
B/q 91-03 13,33 75,90 55,77 20,12 24,10
Bảng 4: Tỷ phần đóng góp của tốc độ tăng các nhân tố đến tốc độ
tăng GTTT
Qua số liệu tính toán được của các bảng 1 và 2 cũng như biểu diễn kết
quả tính toán qua sơ đồ 1 về tốc độ tăng TFP của công nghiệp Việt Nam từ
1991 đến 2003, ta nhận thấy:
Công nghiệp Việt Nam từ năm 1991 đến 2003 có TFP ở phần lớn các
năm tăng lên (12 năm tăng và 1 năm giảm) song tăng không đều và tăng còn
thấp. Năm 1992 tăng cao nhất (12,01%), tiếp đến năm 1991 (6,27%) và năm
1993 (5,45%), các năm 1995, 1998 và 2002 tăng ở mức dưới 1% (từ 0,46%
đến 0,83%). Riêng năm 1999 tốc độ tăng TFP giảm 0,53%. Tuy nhiên TFP
của công nghiệp nên tính bình quân chung giữa các năm thời kỳ 1991-2003
thì vẫn tăng (3,21%).
Xét theo xu thế tăng thì từ năm 1991-1997 TFP tăng khá hơn, đến năm
1998 giảm đi và đặc biệt thấp ở năm 1999, từ năm 2000-2003 TFP bắt đầu
tăng lên nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng giai đoạn 1991-1997, và do vậy tốc
độ tăng bình quân năm thời kỳ 1996-2003 thấp hơn mức bình quân chung cả
thời kỳ 1991-2003 (1,62% so với 3,31%).
Xét về cơ cấu đóng góp đối với tốc độ tăng của giá trị tăng thêm ta thấy
những năm từ 1991 đến 1997 (trừ 1995) tăng TFP đóng góp khá lớn (từ
17,73% đến 68,22%). Năm 1998 đến 1999 đóng góp ít hơn (riêng năm 1999
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đóng góp “âm”). Và đến những năm 2000 trở đi tỷ lệ đóng góp có cao hơn
nhưng vẫn kém những năm đầu.
Khi tính bình quân năm thời kỳ 1991-2003 của công nghiệp tăng do
TFP có mức đóng góp 24,10%; đứng vị trí thứ 2 sau mức đóng góp của tăng
TSCĐ (55,77%) và ở vị trí cuối cùng là mức đóng góp của tăng lao động
(20,12%).

Có thể nói rằng trong hơn chục năm qua sản xuất của công nghiệp Việt
Nam có phần lớn các năm có tốc độ tăng GTTT đạt trên 10%. Duy có 2 năm
1998 và 1999 chỉ tiêu này đạt 9,73% và 8,99% (do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính trong khu vực) và cũng chính là 2 năm có TFP thấp. Riêng
năm 1999 TFP giảm 0,53%. Trên cơ sở tính toán và phân tích tốc độ tăng TFP
cho thấy tốc độ tăng trưởng về giá trị tăng thêm trên đây của công nghiệp chủ
yếu vẫn là do mở rộng quy mô sản xuất bằng cách đầu tư thêm vốn tức là để
làm tăng giá trị TSCĐ. Tác động của các yếu tố đổi mới sản xuất, nâng cao
trình độ khoa học công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng lao
động, v.v (các nhân tố chất lượng) có làm tăng TFP, tức là góp phần làm
tăng giá trị tăng thêm, nhưng còn ở mức khiêm tốn. Điều đó cũng có nghĩa
chất lượng tăng trưởng trong công nghiệp tuy đã có tiến bộ, song cũng còn
hạn chế. Việc đầu tư trong sản xuất công nghiệp còn nặng về đầu tư theo
chiều rộng hơn là chú ý đến đầu tư theo chiều sâu.
So với mức đạt được chung của nền kinh tế quốc dân, tốc độ tăng trong
công nghiệp cao hơn (3,21% so với 1,71%). Tuy nhiên, về cơ cấu đóng góp
vào mức tăng lên của kết quả sản xuất (giá trị tăng thêm đối với công nghiệp
và GDP đối với nền KTQD) thì tỷ phần tương đương nhau (24,10% so với
22,97%). Đồng thời có xu thế biến động của tốc độ tăng TFP qua các năm
cũng tương tự như nhau.Qua đây có thể thấy giá trị tăng thêm của ngành công
nghiệp chủ yếu do mở rộng quy mô sản xuất tăng các yếu tố đầu vào mà chưa
chú trọng đến việc cải tiến và đổi mới công nghệ , tăng năng suất. Như vậy
việc đầu tư trong sản xuất công nghiệp còn nặng về đầu tư theo chiều rộng mà
chưa chú trọng đến đầu tư theo chiều sâu. Tình hình này lại càng phổ biến
hơn trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp - dịch vụ
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 5 : Tăng sản lượng và đóng góp của năng suất của yếu tố đầu
vào Ngành sắt thép
Bảng 6 : Tăng sản lượng và đóng góp của năng suất của yếu tố đầu

vào ngành vật liệu xây dựng
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 7: Tăng sản lượng và đóng góp của năng suất của yếu tố đầu
vào ngành Dệt may – Da giầy
Từ đó có thể đưa ra một số nhận xét về mối quan hệ giữa đầu tư theo
chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu:
Thứ nhất : chú trọng đầu tư theo chiều rộng xem nhẹ đầu tư theo chiều
sâu
Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công
nghiệp. Muốn vậy chúng ta phải có một tiềm lực khoa học công nghệ tương
xứng . Thế nhưng việc quá chú trọng cho mở rộng đầu tư theo chiều rộng
(tăng quy mô đầu tư mà không chú trọng đến phát triển khoa học công nghệ
đã khiến cho chiến lược phát triển công nghiệp của Việt Nam gặp khó khăn.
Quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đã thực hiện hơn một thập kĩ nhưng
nội lực của ngành công nghiệp Việt Nam vẫn còn đáng lo ngại. Thậm chí
ngay các doanh nghiệp vẫn luôn cho “công nghệ nước ngoài , nguyên liệu
ngoại nhập” là đảm bảo cho hàng hóa được đánh giá tốt, vậy thì công nghệ
của Việt Nam có vị thế như thế nào trong quá trình phát triển?
Như vậy chậm đầu tư đổi mới công nghệ, không phát huy hết thế mạnh
trong nước đã làm cho chúng ta không nâng cao tiềm lực công nghệ trong
nước. Và vị thế của nước chế biến , xuất khẩu sản phẩm thô, gia công cho các
25

×