Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại công ty tài chính dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.68 KB, 37 trang )

Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của nền kinh tế Việt Nam là tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đẩy mạnh sự phát triển đất nước và tăng
cường hoà nhập với khu vực cũng như trên thế giới. Để đảm bảo cho sự phát triển
này, vốn cần cho nền kinh tế ví như máu dùng cho cơ thể sống. Trong môi trường
cạnh tranh gay gắt, việc hoàn thiện và phát triển các hoạt động của các tổ chức tín
dụng là phương châm hướng đi cho sự tồn tại và phát triển của nước ta. Xét cho
cùng, đây là sự đáp ứng cho yêu cầu hiện đại hoá, đa dạng hoá về hoạt động,
nghiệp vụ và xu thế hội nhập của nền kinh tế.
Nghiệp vụ bảo lãnh đã được bắt đầu sử dụng rộng rãi trên thế giới từ đầu thập
niên 70 và ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong các giao dịch kinh tế
thế giới. Trong thời đại hiện nay nghiệp vụ bảo lãnh đã bùng nổ và phát triển
mạnh mẽ như một dịch vụ không thể thiếu được trong các giao dịch kinh tế toàn
cầu.
Có thể nói bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng
hiện đại. Nó tuy còn mới mẻ với các tổ chức Tín dụng tại Việt Nam nói chung và
của Công ty Tài chính Dầu khí nói riêng tuy nhiên trong thời gian qua hoạt động
bảo lãnh của hệ thống cá tổ chức tín dụng đã phát triển mạnh mẽ hơn lúc nào hết,
bảo lãnh đã góp phần không nhỏ trong giao dịch kinh tế của cá tổ chức tín dụng và
các doanh nghiệp. Sự phát triển và sự khởi sắc của nghiệp vụ bảo lãnh có rất nhiều
tích cực, khẳng định được vị trí của nó trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên bên
cạnh những mặt đã đạt được, bảo lãnh vẫn còn những mặt hạn chế chưa tương
xứng với vai trò và tiềm năng của mình.
Nghiệp vụ bảo lãnh tại Công ty Tài chính Dầu khí (PVFC) không phải là hoạt
động quan trọng nhất quyết định đến toàn bộ quá trình hoạt động của PVFC.
Nhưng đây là hoạt động tất yếu và đầy tiềm năng của PVFC nói riêng và các tổ
chức tín dụng khác. Sau một thời gian được thực tập tại Công ty Tài chính Dầu
khí, nhận thấy hoạt động bảo lãnh tại công ty vẫn còn nhiều điểm thiếu sót.
Đề tài " Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính
dầu khí" là đề tài em đã chọn trong bài viết này.


SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 1
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
Bài viết được bố cục với 3 phần:
Chương I: Công ty tài chính và hoạt động bảo lãnh của công ty tài chính.
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại công ty Tài chính Dầu khí Việt
Nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Công ty Tài
chính Dầu khí Việt Nam.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 2
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA
CÔNG TY TÀI CHÍNH
1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH:
1.1. Khái niệm về công ty tài chính.
Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức
năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu
tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ
khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán,
không được nhận tiền gửi dưới 1 năm.( Điều 2, chương 1 , nghị định số
79/2002/NĐ-CP)
1.2. Đặc điểm của công ty tài chính.
Tại VN, hiện có đầy đủ các tổ chức trung gian tài chính như NHTM, công
ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư . tuy nhiên do
độ mở nền kinh tế ,việc các tổ chức này mở rộng quy mô hoạt động cũng như phát
triển các loại hình dịch vụ đã làm cho việc phân biệt các loại hình này trở nên khó
khăn đặc biệt là giữa CTTC và NHTM .
Hiện nay, các lĩnh vực hoạt động của CTTC gần giống như ngân hàng chỉ
có một số hạn chế như không có dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm .
Tuy nhiên, việc phân định 2 loại hình này ta có thể dựa vào điểm khác biệt về đặc

điểm theo quy định của Chính phủ.
1.2.1. Bản chất và phạm vi hoạt động.
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức
năng là sử dụng vốn tự có vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu
tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ
khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán,
không được nhận tiền gửi dưới một năm.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 3
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
Trong khi đó, ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan, cụ thể là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán.
1.2.2 Mức vốn pháp định.
Công ty tài chính và ngân hàng đều phải có vốn pháp định, song vốn pháp
định của công ty tài chính thấp hơn ngân hàng. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP,
ngày 22/11/2006 của Chính phủ, công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập
và hoạt động sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ- CP của Chính phủ có hiệu lực và
trước ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 300 tỷ đồng; công ty tài
chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31/12/2008 thì phải có
mức vốn pháp định là 500 tỷ đồng.
Nhưng vốn pháp định đối với một ngân hàng áp dụng cho đến năm 2008
không thấp hơn 1.000 tỷ đồng, tùy theo loại hình ngân hàng và áp dụng cho đến
năm 2010 trở đi không thấp hơn 3.000 tỷ đồng.
1.2.3 Loại hình tổ chức hoạt động.
Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ phân chia
công ty tài chính thành các loại: công ty tài chính nhà nước, công ty tài chính cổ
phần, công ty tài chính trực thuộc các tổ chức tín dụng, công ty tài chính liên
doanh và công ty tài chính 100% vốn nước ngoài. Cách phân chia này hiện không

còn thích hợp với Luật Doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam. Theo dự thảo sửa đổi
Nghị định hướng dẫn của Chính phủ, quy định công ty tài chính chỉ được thành
lập theo một trong ba loại hình sau: công ty tài chính TNHH một thành viên; công
ty tài chính TNHH hai thành viên trở lên và công ty tài chính cổ phần. Xét ở khía
cạnh nào đó thì ngân hàng hoạt động như một doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét về
tính chất và mục tiêu hoạt động, ngân hàng lại được chia thành ngân hàng thương
mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp
tác và các loại hình ngân hàng khác.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 4
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
1.2.4 Thời gian hoạt động.
Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường hợp
cần gia hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp
thuận, nhưng mỗi lần gia hạn không quá 50 năm. Trong khi đó, thời hạn hoạt động
của các ngân hàng lại không bị hạn chế.
1.2.5. Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại.
Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở
mức độ thấp hơn so với ngân hàng. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương
mại nước ngoài và công ty tài chính nước ngoài mới được thành lập công ty tài
chính liên doanh và công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín
dụng nước ngoài chỉ được thành lập công ty tài chính liên doanh hoặc 100% vốn
đầu tư nước ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước
thời điểm nộp đơn.
Trong khi ngân hàng hoạt động rộng và huy động vốn chủ yếu từ công
chúng thì công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm
công ty. Vì thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập
đoàn hay nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ
kinh tế trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra
rủi ro là không lớn.
Một trong những hạn chế của các công ty tài chính so với các tổ chức

ngân hàng là không được làm dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm. Tuy
vậy, các công ty tài chính hiện nay đã khắc phục bằng việc phát triển thêm nhiều
sản phẩm dịch vụ mới như dịch vụ nhận ủy thác vốn, nhận ủy thác đầu tư bao
thanh toán, thu xếp vốn, v.v. cho cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Những dịch vụ
này đã giúp công ty tài chính thực hiện được các dịch vụ khác tương tự như một
ngân hàng thương mại.
Như vậy, có thể thấy lợi ích của công ty tài chính mang lại cho các doanh
nghiệp là rất lớn. Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới, các tập đoàn lớn thường
có ít nhất một công ty tài chính. Công ty tài chính là công cụ để tập đoàn điều tiết
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 5
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả và thuận lợi nhất. Trong phạm vi nội bộ
tập đoàn hoặc nhóm công ty có quan hệ lợi ích gắn bó, công ty tài chính có thể dễ
dàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các công ty thành viên để tập trung vốn
đầu tư. Với tính nội bộ cao trong hoạt động nghiệp vụ công ty tài chính có thể
kiểm soát rủi ro và tập trung vốn lớn cho các dự án quan trọng trong nội bộ tập
đoàn.
Tại Việt Nam, hiện có tới 18 công ty tài chính, phần lớn thuộc các tập
đoàn kinh tế Nhà nước., các Tập đoàn lớn của Việt Nam đều có các công ty Tài
chính riêng như Tập đoàn Dầu khí có Tổng CTCP Tài chính Dầu khí Việt Nam
(PVFC), Tập đoàn điện lực có Công ty Tài chính cổ phần Điện Lực (EVN
Finance), Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam có Công ty TNHH Một thành
viên Tài chính Than – Khoáng sản Việt Nam (CMF)…Ưu điểm của các công ty
tài chính là mang lại một nguồn vốn lớn dài hạn, cung ứng cho nhiều dự án lớn
trọng điểm từ đó thúc đẩy cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động theo chiều sâu
của tổng công ty.Trong đó phải kể đến công ty tài chính dầu khí VN (PVFC).
2. HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH:
2.1. Khái niệm:
Theo NĐ79/2002/NĐ-CP tại điều 20 về bảo lãnh: “Công ty Tài chính được
bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.

Việc bảo lãnh của Công ty Tài chính phải được thực hiện theo quy định tại Điều
58, Điều 59, Điều 60 Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà
nước.”
2.2. Các loại bảo lãnh:
Ngân hàng Nhà nước Việt nam định nghĩa các loại bảo lãnh ( QĐ số
26/2006/QĐ-NHNN về Quy chế bảo lãnh Ngân hàng) như sau:
1. Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh,
về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc
không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 6
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
2. Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo
lãnh, về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường
hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán
của mình khi đến hạn.
3. Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của của tổ chức tín dụng với bên mời thầu,
để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp, khách hàng
phải nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ
tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
4. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của tổ chức tín dụng với bên
nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách
hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi
phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
5. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là cam kết của của tổ chức tín
dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả
thuận vchất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh.
Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên
nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín
dụng sẽ thực hiện thay.

6. Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của tổ chức tín dụng với
bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách
hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi
phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả
không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
7. Bảo lãnh đối ứng :là cam kết của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh đối ứng)
với bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh, trong
trường hợp bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hàng của
bên bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 7
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
8. Xác nhận bảo lãnh: là cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng (bên xác
nhận bảo lãnh) đối với bên nhận bảo lãnh, về việc bảo đảm khả năng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh đối với khách hàng.
2.3. Hình thức phát hành bảo lãnh:
Phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh.
Ký xác nhận bảo lãnh trên các hối phiếu, lệnh phiếu.
Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
2.4. Các điều kiện về bảo lãnh:
Khi Quý khách hàng có nhu cầu bảo lãnh cần có đủ các điều kiện sau:
• Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo
quy đinh của pháp luật.
• Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng, thanh toán với CTTC
• Mục đích đề nghị CTTC bảo lãnh là hợp pháp.
• Cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin và tài liệu liên quan đến
việc bảo lãnh theo yêu cầu của CTTC thực hiện bảo lãnh.
• Thực hiện đúng cam kết của mình đối với bên nhận bảo lãnh và
CTTC thực hiện bảo lãnh.
• Chịu sự kiểm soát của CTTC thực hiện bảo lãnh đối với mọi hoạt
động liên quan đến nghĩa vụ được bảo lãnh.

• Nhận nợ và hoàn trả gốc, lãi cùng chi phí phát sinh mà CTTC thực
hiện bảo lãnh đã trả thay theo đúng thời hạn đã cam kết.
Trường hợp bảo lãnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài (Bên nhận bảo
lãnh hoặc bên được bảo lãnh là tổ chức, cá nhân nước ngoài) ngoài các điều kiện
quy định trên Quý khách hàng còn phải thực hiện các quy định của quản lý vay và
trả nợ nước ngoài, quy định về quản lý ngoại hối và các quy định của pháp luật có
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 8
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
liên quan. Trường hợp bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu khách hàng phải bảo đảm
được các điều kiện theo quy định của Pháp luật.
2.5. Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh của CTTC:
Khi phát sinh nhu cầu có bảo lãnh,khách hàng cần gửi hồ sơ đề nghị
bảo lãnh đến CTTC, hoặc bên nhận bảo lãnh sẽ gửi hồ sơ đến CTTC. Sau một
khoảng thời gian,CTTC tiến hành thẩm định. Nếu đủ điều kiện thì CTTC sẽ có văn
bản chấp thuận bảo lãnh cho khách hàng, và nếu không đủ điều kiện thì khách
hàng cũng sẽ được thông báo lý do cụ thể. Sau đó, bên nhận bảo lãnh sẽ xem xét
và ký hợp đồng tín dụng với khách hàng. Tiếp đó, CTTC thực hiện các hình thức
phát hành bảo lãnh(phát hành thư bào lãnh,giấy xác nhận bảo lãnh…) để khách
hàng thực hiện nhu cầu của mình với bên nhận bảo lãnh.
2.6. Quyền và nghĩa vụ của CTTC thực hiện bảo lãnh:
Theo Điều 59 của Luật Các Tổ Chức Tín Dụng 1997:
1. Tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh có những quyền sau đây:
a) Yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu về khả năng tài chính và những tài
liệu liên quan đến giao dịch được bảo lãnh;
b) Yêu cầu khách hàng phải có bảo đảm cho việc bảo lãnh của mình:
c) Thu phí dịch vụ bảo lãnh theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
d) Kiểm soát việc thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh;
e) Từ chối bảo lãnh đối với các khách hàng không đủ uy tín.
2. Tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh có nghĩa vụ thực hiện cam kết đối với
người nhận bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện

không đầy đủ nghĩa vụ.
2.7. Ưu điểm của nghiệp vụ bảo lãnh:
Đối với khách hàng:
• Với các sản phẩm bảo lãnh đa dạng của CTTC, khách hàng có thể
đáp ứng được các yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 9
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
• Thủ tục đơn giản,nhanh chóng,thuận tiện.
• Tăng tính đảm bảo của khách hàng đối với bên nhận bảo lãnh .
• Tiếp cận nhanh chóng các nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng
thúc đẩy quá trình đầu tư,kinh doanh của khách hàng.
• Giúp các hoạt động trong nền kinh tế phát huy hết tiềm năng của nó.
Đối với CTTC: Tạo thêm nguồn lợi nhuận và mở rộng năng lực hoạt
động.
2.8. Một số rủi ro trong hoạt động bảo lãnh:
Rủi ro về khả năng thanh toán của khách hàng:thanh toán chậm trễ hạn cam kết
hoặc không có khả năng thanh toán ảnh hưởng đến nguồn vốn lưu động của công
ty tài chính.
Thực tế,các CTTC tăng tính cạnh tranh với nhau,thu hút nhiều khách hàng nên
đi sai lệch một số quy định về điều kiện được bảo lãnh của khách hàng như bỏ qua
một số giấy tờ…làm tăng rủi ro cho CTTC khi khách hàng không thực hiện như
đúng cam kết.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 10
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA CÔNG
TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ VIỆT NAM
1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ
 Tên công ty TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ
VIỆT NAM ( PVFC )
 Địa chỉ :72 Trần Hưng Đạo - Q. Hoàn Kiếm - Tp. Hà Nội

 Điện thoai :+84.4. 3942 6800
 Fax :+84.4. 3942 6796 /97
 Email :
 Website :
1.1. Sản phẩm / Dịch vụ
- Dịch vụ đầu tư (Bao gồm: Đầu tư dụ án, đầu tư chứng từ có giá, mua bán sát
nhập DN, ủy thác đầu tư)
- Dịch vụ tài chính doanh nghiệp (Bao gồm: Ủy thác quản lý vốn, tư vấn, đại
lý bảo hiểm, phát triển dự án CDM)
- Dịch vụ tài chính cá nhân (Bao gồm: huy động vốn cá nhân, mua bán kỳ han,
tín dụng cá nhân)
- Thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp (Bao gồm: Tín dụng cho các tổ chức
kinh tế, ủy thác cho vay, thu xếp vốn, bao thanh toán, bảo lãnh, đồng tài trợ)
- Kinh doanh tiền tệ (Bao gồm: Kinh doanh vốn, kinh doanh ngoại hối)
1.2. Lĩnh vực hoạt động: Tín dụng phi ngân hang.
1.3. Doanh nghiệp giới thiệu
Là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí
Việt Nam (PVFC) tiền thân là Cty Tài chính Dầu khí, thành lập 19/6/2000 với
phương châm hoạt động “Vì sự phát triển vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Việt Nam”. Trải qua chặng đường xây dựng và phát triển, đến nay, PVFC đã
trở thành một định chế tài chính mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
và là một trong những tổ chức tín dụng có tốc độ phát triển nhanh, thương hiệu Tài
chính Dầu khí Việt Nam được khẳng định trên thị trường tài chính trong nước và
bước đầu vươn ra thế giới. Nhiều sản phẩm mang tính sáng tạo của PVFC đã lần
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 11
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
lượt ra đời và trở thành những sản phẩm, dịch vụ đặc trưng, góp phần tạo nên nét
riêng của PVFC trên thị trường như: đồng tài trợ, uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư,
tư vấn và môi giới đầu tư, tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
PVFC là một nhà tư vấn tài chính và chuyển đổi cấu trúc tài chính, đưa các doanh

nghiệp ngành Dầu khí gắn với hoạt động của thị trường vốn. Sự phát triển nhanh,
mạnh của PVFC ngày càng thể hiện vai trò là một định chế vững mạnh của Tập
đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Ngày 17/03/2008, PVFC chính thức chuyển
thành Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. Đây là bước chuyển
mình từ Công ty 100% vốn Nhà nước lên Tổng Công ty cổ phần. Sự chuyển mình
này đã thay đổi căn bản cơ chế hoạt động và quản lý doanh nghiệp. Điều kiện
thuận lợi, nền tảng phát triển để PVFC đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, đặt mục
tiêu đến năm 2010 trở thành Tập đoàn Tài chính. Trên lộ trình đi lên Tập đoàn,
PVFC sẽ mở rộng mạng lưới cả trong nước và quốc tế, đa dạng hoá các hoạt động
kinh doanh, củng cố bộ máy vững mạnh, đội ngũ cán bộ năng động và chuyên
nghiệp, hoàn thiện quy chế quản lý giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên,
tập trung phát triển các sản phẩm trọn gói cho khách hàng về tín dụng, đầu tư và
các dịch vụ tài chính. Hai sản phẩm mũi nhọn mà PVFC chú trọng sau cổ phần
hoá là đầu tư tài chính và tư vấn tài chính. Bên cạnh đó, các dịch vụ nền tảng của
PVFC như thu xếp vốn, quản lý vốn và tài sản, nghiệp vụ thẩm định, bao thanh
toán, các sản phẩm dịch vụ cá nhân và dịch vụ tài chính sẽ tiếp tục được duy trì
và cải tiến để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Xu thế hội nhập và toàn cầu
hoá sẽ mang đến cho mọi doanh nghiệp Việt Nam nói chung, PVFC nói riêng
nhiều cơ hội và thách thức, nhưng với niềm tin, khát vọng chinh phục và hướng đi
đúng đắn, PVFC sẽ trở thành “Tập đoàn Tài chính hùng mạnh, có thương hiệu
trong khu vực và quốc tế”. Đây là khát vọng và đồng thời cũng là niềm hãnh diện
của toàn thể các thành viên trong “Ngôi nhà chung PVFC”.
1.4. Công ty thành viên: 1. Cty Cổ phần Bất động sản Tài chính Dầu khí
(PVFCLand) Trụ sở chính: Số 9, CT5, Khu Đô thị mới Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà
Nội. Điện thoại: 84.4.37855650 Fax: 84.4.37855420 2. Cty cổ phần Đầu tư và Tư
vấn Tài chính Dầu khí (PVFC Invest) Trụ sở chính: Tầng 9,10 – Toà nhà 434 Trần
Khát Chân, Hai Bà Trưng, Hà Nội Tel: 04.3972 6126 Fax: 04.3972 6127 3. Cty
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 12
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
Cổ phần Quản lý Quỹ đầu tư Tài chính Dầu khí (PVFC Capital) Trụ sở chính:

Tầng 4, Tòa nhà TTTM Vân Hồ, 51 Lê Đại Hành, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Điện
thoại: 84.4.3974 7088 Fax: 84.4.3974 7014
1.5. Hoạt động của PVFC trong thời gian qua:
 Trước bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước đang trong giai đoạn
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, ngành ngân hàng nói chung và Tổng
công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) nói riêng đã bước vào thực
hiện kế hoạch năm 2010 với nhiều khó khăn: biến động tỷ giá, lãi suất, lạm phát
 Tuy vậy, với sự nỗ lực cố gắng của các cấp lãnh đạo, các đơn vị và toàn thể
cán bộ, nhân viên, PVFC đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam và Đại hội đồng cổ đông giao. Kết thúc năm 2010, doanh thu của Tổng Công
ty đạt 6.720 tỷ đồng, bằng 133% kế hoạch năm và tăng 19% so với thực hiện năm
2009; Lợi nhuận trước thuế đạt 639 tỷ đồng, bằng 103% kế hoạch, tăng 4% so với
năm 2009.
 Nét nổi bật trong kết quả thực hiện kế hoạch năm 2010 là PVFC đã nâng
cao chất lượng tài sản – nguồn vốn một cách hiệu quả, đảm bảo tốt tính thanh
khoản trong bối cảnh thị trường khó khăn về vốn. PVFC chính thức tham gia thị
trường mở để đa dạng hóa kênh huy động vốn. Kết hợp gia tăng huy động bằng
các chương trình thi đua về đích và nỗ lực cơ cấu kỳ hạn nguồn vốn.
 Hoạt động tín dụng có bước chuyển biến vượt bậc so với 2009 và là hoạt
động mang lại doanh thu, lợi nhuận chủ yếu cho Tổng công ty. Doanh thu đạt
3.381 tỷ đồng chiếm 50% tổng doanh thu, bằng 161% so với năm 2009. Lợi nhuận
đạt 429 tỷ đồng chiếm 67% tổng lợi nhuận, bằng 40% so với năm 2009. Bên cạnh
đó, PVFC đã tích cực thu hồi được khoản quá hạn trên 800 tỷ đồng nợ xấu từ
Vinashin.
 Năm 2010, PVFC đã đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của mình bằng các
hoạt động dịch vụ như thu xếp vốn, bảo lãnh thanh toán, tư vấn phát hành trái
phiếu doanh nghiệp, tư vấn phát triển các dự án giảm phát thải v.v Cụ thể, PVFC
đã cam kết thu xếp cho các dự án trong ngành dầu khí là hơn 53.000 tỷ đồng; đã tư
vấn phát hành thành công gần 1.000 tỷ trái phiếu doanh nghiệp; đã bán đấu giá
thành công CERs Rạng Đông (2 lần – thu về cho PVN 10,5 triệu EUR); Tư vấn

SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 13
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
phát triển CDM cho PVB, PCB, OBF và PV Gas; Hợp tác với Gazprom khảo sát
cơ hội phát triển CDM cho các dự án trong ngành dầu khí, góp phần phát triển nền
công nghiệp sạch tại Việt Nam.
 Đi cùng với những hoạt động kinh doanh, công tác quản trị rủi ro, pháp
chế, kiểm soát, kiểm toán nội bộ cũng được đổi mới toàn diện, sâu sát với hoạt
động của Tổng công ty đã hỗ trợ tích cực cho các hoạt động kinh doanh trực tiếp.
Công tác quản trị rủi ro được đặc biệt chú trọng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ đã được chính thức áp dụng để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro; Dự án mô hình
quản trị rủi ro hiện đại theo thông lệ quốc tế đã thực hiện đến giai đoạn 3; Công
tác pháp chế và kiểm soát, kiểm toán nội bộ được đổi mới toàn diện, sâu sát với
hoạt động của Tổng công ty. Công tác tổ chức, quản lý điều hành có nhiều đột phá
với việc tái cấu trúc tổng thể hoạt động của Tổng công ty; Điều chỉnh toàn diện về
phân cấp, phân quyền kết hợp với kiểm tra giám sát để nâng cao trách nhiệm cá
nhân; Thay đổi mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ các đơn vị cho phù hợp định
hướng phát triển của Tổng công ty; Thành lập Ban pháp chế và củng cố bộ phận
khách hàng để nâng cao chất lượng hoạt động; Đổi mới toàn diện công tác báo cáo
quản trị, chế độ lương thưởng và nâng cao hiệu quả đào tạo.
 Vào dịp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Tổng công ty, PVFC đã vinh dự
đón nhận Huân chương lao động hạng Nhì, được công nhận trong Tốp 100 Sao
vàng Đất Việt; Tốp 10 Giải thưởng thương hiệu nổi tiếng Quốc gia và Tốp 100
trong 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, đồng thời PVFC được nhận Giải
thưởng Chứng khoán uy tín 2010.
 Trên cơ sở các kết quả đạt được, năm 2011, PVFC sẽ tập trung nâng cao
chất lượng tài sản, nguồn vốn và các dịch vụ tài chính để đảm bảo phát triển an
toàn, bền vững. PVFC phấn đấu doanh thu đạt 6.800 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế
tối thiểu đạt 800 tỷ đồng đồng thời hoàn thành thủ tục tăng vốn điều lệ lên 8.000 tỷ
đồng. Cùng với các biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh, PVFC sẽ tăng
cường kiểm soát và quản trị rủi ro để đảm bảo các quy định về an toàn hoạt động

theo các quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà Nước. Đầu tư cơ sở hạ tầng
CNTT và hệ thống phần mềm phù hợp với các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại; Khai
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 14
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
thác hiệu quả phần mềm CoreBanking; Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, chỉ
đạo quyết liệt thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Thực hiện hiệu quả công tác an
sinh xã hội.
1.6. Phân tích SWOT:
 Điểm mạnh
• Là một thành viên của tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN), được hưởng lợi
nhiều từ uy tín của tập đoàn, được tín nhiệm trong hoạt động thu xếp vốn cho các
dự án lớn.
• Mạng lưới hoạt động rộng nhất trong các công ty tài chính đặc biệt là mối
quan hệ với các đối tác nước ngoài (trong đó Morgan Stanley là một cổ đông lớn
rất tiềm năng), rất thuận lợi trong việc đứng ra thu xếp vốn cho các dự án trong
nước khi nhu cầu vốn lớn vượt quá khả năng cho vay của PVFC theo quy định
trong quy định 457—đây là một điểm mạnh mà không phải bất kỳ CTTC nào cũng
có được.
• Quy mô vốn điều lệ lớn (lớn hơn cả một số NHTMCP) cũng là một ưu thế
trong hoạt động tín dụng của PVFC giúp PVFC có nhiều cơ hội thu xếp vốn cho
các dự án lớn với nhu cầu vốn cao, hơn nữa cũng đảm bảo an toàn vốn ở mức cao
và tăng khả năng thanh toán.
 Điểm yếu
• Bị hạn chế về các mảng hoạt động so với ngân hàng đó là không được huy
động vốn với kỳ hạn dưới một năm, không được thực hiện dịch vụ thanh toán, cho
thuê tài chính. Trong khi hiện nay đây là các mảng hoạt đông mang lại nguồn thu
đáng kể cho các NHTM.
• Khách hàng chủ yếu là các tổ chức tín dụng (TCTD), các thành viên cuả
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Nguồn vốn huy động được từ khách hàng cá nhân,
các tổ chức kinh tế trong nước còn hạn chế (trung bình chỉ chiếm khoảng 0.5%

Tổng tài sản)
 Cơ hội
• Hàng loạt các dự án thu xếp vốn cho các dự án lớn đã được ký kết.
• Việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Singapo trong thời gian
sắp tới nếu thành công là một cơ hội lớn để PVFC khẳng định, mở rộng và nâng
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 15
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
cao vị thế trên thị trường quốc tế cũng như nâng cao năng lực họat động và dễ
dàng trong việc tạo nguồn vốn phục vụ các hoạt động cho vay, thu xếp vốn một
cách tốt nhất.
• Gói kích cầu thứ hai trị giá 8 tỷ USD tiếp tục được triển khai là cơ hội để
PVFC giải ngân nguồn vốn và thu lợi.
 Thách thức
• Theo quy định mới của Ngân hàng Nhà nước về giới hạn tăng trưởng tín
dụng (từ 25-27%) là một rào cản lớn trong việc giải ngân nguồn vốn của PVFC.
• Cạnh tranh về lãi suất và do đó là thu hút khách hàng là tổ chức kinh tế, cá
nhân so với các NHTM.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA CÔNG TY TÀI
CHÍNH DẦU KHÍ
 Để đáp ứng cho giai đoạn công nghiệp hóa,hiện đại hóa hiện nay, nền kinh
tế Việt Nam cần đẩy mạnh sự phát triển đất nước và tăng cường hoà nhập với khu
vực cũng như trên thế giới.Với mục đích này,yếu tố quan trọng nhất là nguồn vốn
được ví như máu dùng cho cơ thể sống. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, việc
hoàn thiện và phát triển các hoạt động của các tổ chức tín dụng là phương châm
hướng đi cho sự tồn tại và phát triển của nước ta.Nghiệp vụ bảo lãnh đã được bắt
đầu sử dụng rộng rãi trên thế giới từ đầu thập niên 70 và ngày càng khẳng định
được vai trò của nó trong các giao dịch kinh tế thế giới. Trong thời đại hiện nay
nghiệp vụ bảo lãnh đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ như một dịch vụ không thể
thiếu được trong các giao dịch kinh tế toàn cầu. Có thể nói bảo lãnh là một trong
những nghiệp vụ của các công ty tài chính hiện đại. Nó tuy còn mới mẻ với các

công ty tài chính tại Việt Nam nói chung,nhưng trong thời gian qua hoạt động bảo
lãnh của hệ thống cá tổ chức tín dụng đã phát triển mạnh mẽ hơn lúc nào hết, bảo
lãnh đã góp phần không nhỏ trong giao dịch kinh tế của cá tổ chức tín dụng và các
doanh nghiệp. Sự phát triển và sự khởi sắc của nghiệp vụ bảo lãnh có rất nhiều
tích cực, khẳng định được vị trí của nó trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên bên
cạnh những mặt đã đạt được, bảo lãnh vẫn còn những mặt hạn chế chưa tương
xứng với vai trò và tiềm năng của mình.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 16
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
 Nghiệp vụ bảo lãnh tại Công ty Tài chính Dầu khí (PVFC) không phải là
hoạt động quan trọng nhất quyết định đến toàn bộ quá trình hoạt động của PVFC.
Nhưng đây là hoạt động tất yếu và đầy tiềm năng của PVFC nói riêng và các tổ
chức tín dụng khác.
 Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của PVFC (bên bảo lãnh) với bên có
quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
 PVFC phát hành thư bảo lãnh cam kết với bên thụ hưởng (bên nhận bảo
lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo
lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam
kết với bên thụ hưởng
2.1 Các sản phẩm của dịch vụ bảo lãnh của công ty tài chính dầu khí:
* PVFC cung cấp đa dạng các hình thức bảo lãnh nhằm đáp ứng nhu cầu của
khách hàng:
- Bảo lãnh vốn vay: PVFC cam kết sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường
hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
- Bảo lãnh thanh toán: PVFC cam kết sẽ thanh toán thay cho khách trong
trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của
mình khi đến hạn.
- Bảo lãnh dự thầu: PVFC phát hành cho bên mời thầu để bảo đảm nghĩa vụ

tham gia dự thầu của khách hàng. PVFC sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong
trường hợp khách hàng vi phạm quy định dự.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: PVFC bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ
các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết.
Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầu đủ các nghĩa vụ trong
hợp đồng, PVFC sẽ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
- Các loại bảo lãnh khác
2.2. Đối tượng khách hàng:
- Các khách hàng có nhu cầu sử dụng các hình thức bảo lãnh.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 17
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
2.3. Lợi ích của khách hàng khi sử dụng sản phẩm:
• Tăng sự tin cậy và khả năng thành công trong giao dịch với đối tác;
• Sản phẩm bảo lãnh phong phú, đáp ứng được các nhu cầu của khách
hàng;
• Thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện;
• Phí cạnh tranh.
2.4. Điều kiện áp dụng sản phẩm:
• Mục đích bảo lãnh hợp pháp;
• Có khả năng tài chính và có đủ năng lực, điều kiện và kinh nghiệm
thực hiện nghĩa vụ được PVFC bảo lãnh trong thời hạn cam kết.
2.5. Cách thức PVFC giao dịch với khách hàng: 2 hình thức
• Trực tiếp:khách hàng có thễ gặp trực tiếp nhân viên giao dịch của
PVFC tại công ty hoặc địa điểm yêu cầu của khách hàng.
• Gián tiếp:Thông qua các phương tiện liên lạc thông tin: Điện thoại,
Fax, Email.
2.6. Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh của công ty tài chính dầu khí:
- Khi phát sinh nhu cầu có bảo lãnh,khách hàng cần gửi hồ sơ đề nghị bảo
lãnh đến CTTC, hoặc bên nhận bảo lãnh sẽ gửi hồ sơ đến CTTC. Sau một khoảng
thời gian,CTTC tiến hành thẩm định. Nếu đủ điều kiện thì CTTC sẽ có văn bản

chấp thuận bảo lãnh cho khách hàng, và nếu không đủ điều kiện thì khách hàng
cũng sẽ được thông báo lý do cụ thể. Sau đó, bên nhận bảo lãnh sẽ xem xét và ký
hợp đồng tín dụng với khách hàng. Tiếp đó, CTTC thực hiện các hình thức phát
hành bảo lãnh(phát hành thư bào lãnh,giấy xác nhận bảo lãnh…) để khách hàng
thực hiện nhu cầu của mình với bên nhận bảo lãnh.
2.7. Thực trạng hoạt động bảo lãnh của PVFC:
 Ngày 6/5/2011, PVFC Sài Gòn và Công ty cổ phần Thương mại Dầu
khí (Petechim) đã ký kết hợp đồng hạn mức tín dụng và bảo lãnh.
- Theo đó, giá trị hợp đồng ký kết bảo lãnh là 100 tỷ đồng. Việc ký kết hợp
đồng là nhằm duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác lâu bền giữa hai Công ty.
Bên cạnh đó, việc cấp hạn mức bảo lãnh và cấp mới hạn mức tín dụng cho
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 18
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
Petechim được PVFC đánh giá dựa trên cơ sở năng lực phát triển của đối tác.
Petechim cũng cam kết sẽ ủng hộ và sử dụng đa dạng các sản phẩm dịch vụ của
PVFC, thắt chặt hơn quan hệ cùng nhau phát triển giữa các thành viên của Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam.
Petechim JSC có với vốn điều lệ 50 tỷ VND, hoạt động trong lĩnh vực mua bán
thiết bị, phụ tùng, vật tư, hoá chất ngành dầu khí.
- Ngoài việc cung cấp sản phẩm tín dụng nói trên, PVFC Sài Gòn sẽ tiếp tục
triển khai các sản phẩm dịch vụ tài chính khác nhằm mang lại lợi ích tối đa cho
Tổng công ty cũng như đáp ứng nhu cầu dịch vụ tài chính ngày càng cao và của
khách hàng.
 Ngày 19/4/2011, tại TP. HCM, PVFC Sài Gòn đã tổ chức lễ kí kết hợp
đồng hạn mức tín dụng cho vay vốn lưu động và bảo lãnh giá trị 200 tỷ đồng với
Công ty Cổ phần Tập đoàn Công nghệ Năng lượng Dầu khí Việt Nam (PV EIC).
PV EIC làcông ty thành viên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
(Petrovietnam). PV EIC thực hiện những loại h.nh dịch vụ đặc thù liên quan đến
giám sát và quản lý chất lượng dự án, các công tác giám định, kiểm định và thẩm
định, bảo vệ giá trị tài sản của Petrovietnam tránh mọi rủi ro; đồng thời, đảm bảo

tuân thủ các yêu cầu về sức khoẻ, an toàn và môi trường trong các hoạt động đầu
khí ở tất cả các khâu từ thượng nguồn đến hạ nguồn.
 Ngoài ra, PFVC còn ký hợp đồng bảo lãnh trong vòng 12 tháng với PTSC
Offshore (trực thuộc Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật dầu khí) với tổng
hạn mức bảo lãnh là 100 tỷ đồng.
3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH
DẦU KHÍ
3.1. Những kết quả đạt được
- Trong những năm gần đây, doanh số bảo lãnh tăng cả về số lượng và chất
lượng. Hoà chung không khí thi đua toàn hệ thống trong cả nước, công ty tài chính
dầu khí Việt Nam đã góp phần khẳng định vị trí của mình trong việc thúc đẩy các
giao dịch trong và ngoài nước phát triển, hỗ trợ đáng kể cho các doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh. Công ty đã giúp nhiều doanh nghiệp thiếu vốn, giúp họ có
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 19
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
điều kiện tiếp cận nguồn vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao doanh
thu.
- Một mặt phát triển doanh số, một mặt nâng cao chất lượng hoạt động bảo
lãnh, kinh doanh trên cơ sở lợi nhuận và an toàn Tiêu chí đó đã giúp công ty
không những kinh doanh hiệu quả mà còn củng cố uy tín của công ty trên thị
trường.
* Công ty đã đạt được những kết quả trên là do:
- Do thực hiện tốt các tiêu chuẩn chất lượng bảo lãnh cũng như coi trọng công
tác thẩm định, kiểm tra giám sát qúa trình hoàn thành hợp đồng của khách hàng.
Trước khi quyết định bảo lãnh, các cán bộ tín dụng phải tiến hành thẩm định hồ sơ
bảo lãnh, đồng thời yêu cầu khách hàng phải đảm bảo như cầm cố, thế chấp tài
sản, ký quỹ 100%.
- Sau khi quyết định bảo lãnh, các cán bộ tín dụng rất coi trọng việc kiểm tra,
giám sát khách hàng, đôn đốc khách hàng thực hiện đúng hợp đồng.
- Những món bảo lãnh mà công ty đã thực hiện giúp khách hàng rất nhiều

trong việc phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Rất nhiều dự án xây dựng
quan trọng đã được hoàn thành tốt, đúng thời hạn. Nhiều doanh nghiệp đã vay
được vốn nước ngoài, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi có sự bảo
lãnh của công ty. Tất cả điều đó giúp cho hoạt động bảo lãnh tại công ty đạt được
chất lượng cao.
3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
- Bảo lãnh là một nghiệp vụ mới được đưa vào sử dụng tại công ty tài chính
dầu khí Việt Nam nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những khó khăn.
Song với những cố gắng của các nhân viên, dịch vụ bảo lãnh đã trở thành một
trong những dịch vụ được khách hàng sử dụng ngày càng nhiều hơn.
- Doanh số bảo lãnh không ngừng tăng trong 3 năm vừa qua. Với hoạt động
của mình, công ty đã giúp một số doanh nghiệp tìm được nguồn vốn vay thích
hợp, đáp ứng nhu cầu về vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt
động bảo lãnh đã giúp cho rất nhiều công ty xây dựng có đủ điều kiện tham gia dự
thầu và hoàn thành tốt công trình. Đặc biệt với sự thay đổi về cơ cấu đối tượng
khách hàng, không phân biệt các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp ngày càng
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 20
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
được công ty quan tâm, giúp đỡ phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo uy
tín trên thị trường.
- Tóm lại, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh đã và đang đóng góp một phần khá
lớn vào tổng doanh thu của công ty, góp phần nâng cao uy tín của công ty trên địa
bàn hoạt động.
- Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động công ty không tránh khỏi gặp những
khó khăn, tồn tại một số hạn chế đòi hỏi phải tìm hiểu nguyên nhân gây ra để có
phương hướng giải quyết thích hợp. Sau đây là một số hạn chế trong hoạt động
bảo lãnh tại công ty tài chính dầu khí Việt Nam.
3.2.1. Những hạn chế trong hoạt động bảo lãnh
- Hoạt động bảo lãnh tại công ty vẫn chưa thể đáp ứng tối đa nhu cầu của
khách hàng. Hiện nay tại công ty đã thực hiện một số trong tất cả các loại bảo lãnh

mà trong quy chế bảo lãnh đã ban hành. Ngoài ra, công ty còn thực hiện thêm một
số loại bảo lãnh mới song thực tế nhu cầu bảo lãnh của khách hàng rất đa dạng và
ngày càng tăng. Nhưng do gặp khó khăn trong quá trình thực hiện bảo lãnh đã hạn
chế việc công ty đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng.
- Mặt khác, hiện nay có những nhu cầu bảo lãnh còn khá mới lạ không
những đối với công ty mà còn với nhiều tổ chức tín dụng khác. Nên công ty đã gặp
không ít khó khăn do chưa có quy chế nào quy định rõ, khiến công ty chưa thể sử
dụng loại hình đó.
* Chưa cân đối về cơ cấu bảo lãnh.
- Sau khi xem xét cơ cấu bảo lãnh theo các đối tượng khác nhau, ta thấy rằng
tại công ty có sự mất cân đối không chỉ giữa các loại bảo lãnh mà còn giữa các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp quốc doanh, giữa bảo lãnh trong
xây lắp và trong thương mại.
- Trong cơ cấu bảo lãnh theo loại hình, bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh đảm
bảo chất lượng sản phẩm vẫn còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Trong khi hai loại bảo
lãnh này lại tiềm ẩn số lượng khách hàng rất lớn.
- Bên cạnh đó là sự chưa cân đối giữa các đối tượng khách hàng. Đây là do
bảo lãnh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có độ rủi ro cao, do truyền thống
hoạt động tại nước ta vẫn ưu tiên cho doanh nghiệp quốc doanh hơn. Song thực tế
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 21
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
hiện nay, không phủ nhận có những công ty cổ phần, công ty TNHH làm ăn rất
hiệu quả, số vốn lên tới hàng trăm tỷ đồng. Họ có mối quan hệ làm ăn rất rộng với
rất nhiều đối tác trong nước và nước ngoài. Do đó, công ty cũng phải chú trọng
hơn tới thành phần kinh tế này.
- Giữa bảo lãnh trong xây lắp và trong các lĩnh vực kinh doanh khác có sự
chưa cân đối khá lớn.
* Còn sai sót trong quá trình theo dõi các món bảo lãnh.
- Trong quá trình thực hiện một món bảo lãnh, các cán bộ tín dụng không phải
lập sổ theo dõi bắt buộc nên sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh có một số cán bộ tín

dụng theo dõi bảo lãnh không chặt chẽ dẫn đến một vài món bảo lãnh đã phát hành
nhưng chưa chuyển đến phòng kế toán qua mạng. Kết quả là kế toán chưa nhập
ngoại bảng, ảnh hưởng đến việc thu phí khách hàng sau đó.
* Một số trường hợp thời gian thực hiện bảo lãnh còn chưa đạt tiêu chuẩn.
- Mặc dù các cán bộ tín dụng đã tuân thủ nghiêm túc các quy định về thời gian
song có trường hợp khách hàng vẫn phàn nàn do chờ đợi lâu để thực hiện song
một món bảo lãnh. Đây có thể do một số món bảo lãnh có số tiền bảo lãnh lớn, các
cán bộ nhân viên phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định bảo lãnh. Mà quy trình
bảo lãnh đôi khi còn phức tạp gây phiền hà cho khách hàng.
- Việc quản lý TSBĐ tại PVFC hiện nay còn nhiều hạn chế, có thể kể đến
như: PVFC chưa xây dựng được hệ thống đánh giá, chấm điểm TSBĐ. TSBĐ
được định giá tại các đơn vị theo các cách thức khác nhau và chưa được chuẩn
hóa; PVFC chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung về TSBĐ trên phạm vi toàn
hệ thống. Sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, TSBĐ sẽ được theo dõi trên ngoại
bảng tại từng đơn vị; PVFC chưa kiểm soát được tính chính xác của các thông số
về TSBĐ trong việc tính toán dự ph.ng rủi ro và tỷ lệ an toàn vốn theo yêu cầu của
NHNN.
- Những hạn chế trong hoạt động bảo lãnh tại công ty tài chính dầu khí Việt Nam
hiện nay vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Đó là do có những nguyên nhân
chủ yếu khiến công ty gặp khó khăn khi giải quyết những hạn chế trên.
3.2.2 Nguyên nhân
3.2.2.1 Nguyên nhân khách quan
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 22
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
* Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ.
- Hiện nay, công ty tài chính dầu khí Việt Nam đang hoạt động dưới sự điều
chỉnh của luật các TCTD và hệ thống các luật, văn bản dưới luật của chính phủ và
NHNN ban hành. So với trước đây thì hệ thống các văn bản này đã có những thay
đổi hợp lý hơn, tạo điều kiện hơn cho công ty cũng như doanh nghiệp hoạt động
song nó vẫn chưa thực sự mở ra những hành lang pháp lý thực sự thông thoáng và

hợp lý. Do vậy, hệ thống các văn bản này vẫn cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khi thực hiện bảo lãnh.
- Hoạt động bảo lãnh ra đời chưa lâu, do đó các văn bản luật, dưới luật quy
định về nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chưa thống nhất. Cho đến hiện giờ vẫn chưa có
luật hay nghị định về bảo lãnh ở các công ty tài chính. Do đó khi đưa các văn bản
luật này vào thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn. Tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động,
kinh nghiệm và thói quen, các công ty sẽ cụ thể hoá các văn bản.
- Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật vẫn chưa bổ sung thêm các loại hình bảo
lãnh mới mà nhu cầu về chúng đang ngày càng tăng.
* Cơ chế hoạt động bảo lãnh vẫn còn phức tạp.
- Doanh nghiệp tìm đến công ty xin bảo lãnh phải tuân theo những thủ tục
rườm rà, mất khá nhiều thời gian. Khi được chấp nhận bảo lãnh, thương vụ kết
thúc, doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với những thủ tục phiền hà trong việc xử lý
tài sản thế chấp và giải toả bảo lãnh. Mặc dù hiện nay công nghệ cũng đang được
nâng lên đáng kể nhưng vẫn còn phiền hà gây tâm lý ngại ngần cho các doanh
nghiệp mỗi khi họ cần đến công ty, bởi thế rất có thể những thủ tục ấy khiến các
doanh nghiệp mất khả năng đầu tư và cạnh tranh với đối thủ khác. Điều này rõ
ràng không có lợi cho doanh nghiệp và cả công ty nhưng khắc phục nó không phải
một sớm một chiều. Công ty cần quan tâm cải thiện vấn đề này, đặc biệt là những
doanh nghiệp xin bảo lãnh với mức nhỏ, cần có thủ tục linh hoạt hơn giúp họ
nhanh chóng có đủ nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra thông
suốt.
* Trình độ và năng lực quản lý của các DN còn thấp.
- Các doanh nghiệp Việt nam hiện nay trình độ và năng lực quản lý còn thấp.
Điều này không những ảnh hưởng tới công tác tổ chức điều hành hoạt động sản
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 23
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên
xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới quá trình doanh nghiệp
đến xin bảo lãnh.
- Trước hết, do trình độ quản lý còn yếu kém nên các doanh nghiệp thường

không nắm chắc các quy định về bảo lãnh như yêu cầu về hồ sơ xin bảo lãnh, tài
sản đảm bảo khiến cho công ty mất nhiều thời gian để xem xét liệu đã đủ điều kiện
thực hiện món bảo lãnh chưa. Chính điều này đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của
bản thân doanh nghiệp do mất nhiều thời gian. Nếu công ty xem xét qua loa thì có
thể dẫn đến rủi ro cho chính mình.
- Các doanh nghiệp Việt nam nhất là các doanh nghiệp mới thường không có đủ
điều kiện về tài sản đảm bảo. Với những doanh nghiệp nhà nước, phần lớn nằm
trong tình trạng lạc hậu, khó thanh khoản, nhiều tài sản như công xưởng, đất đai lại
thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên khó khăn trong việc thanh lý.
- Trong khi khách hàng mới thường phải ký quỹ hoặc thế chấp 100%. Các tài
sản này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên vấn đề thanh lý là không khó
khăn nhiều. Nhưng với món bảo lãnh có giá trị lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
lại không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản thế chấp có giá trị tương đương. Vì thế
làm mất cơ hội kinh doanh của cả doanh nghiệp và công ty.
* Về huy động vốn: công ty tài chính không được huy động vốn có kỳ hạn
dưới 12 tháng trong khi các công ty tài chính phải thực hiện chức năng quản trị
nguồn vốn nhàn rỗi của tập đoàn.
* Quy định về phát triển mạng lưới đối với các công ty tài chính khắt khe hơn
so với ngân hàng thương mại.
* Thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển nhưng ở mức độ chưa cao và
có nhiều tồn tại cần khắc phục
3.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan
- Các tập đoàn kinh tế chưa có định hướng phát triển công ty tài chính và chưa
có cơ chế vận hành phù hợp. Cơ cấu tổ chức công ty tài chính chưa hợp lí, còn có
sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh, với các trung gian
tài chính khác trong tập đoàn. Các giải pháp hỗ trợ của tập đoàn và các đơn vị
thành viên trong tập đoàn chưa đồng. Vai trò và vị thế các công ty tài chính chưa
được phát huy triệt để.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 24
Môn: Các tổ chức tài chính trung gian GVHD: Th.S Trần Đình Uyên

- Các giải pháp phát triển hoạt động của công ty tài chính nói chung và nghiệp
vụ bão lãnh nói riêng chưa đồng bộ và chưa thực sự hiệu quả, chưa khai thác được
tiềm năng lợi thế của tập đoàn và cổ đông chiến lược nước ngoài; công tác phát
triển khách hàng còn nhiều hạn chế; chưa chú trọng đầu tư phát triển các sản phẩm
dịch vụ thế mạnh, các sản phẩm đặc thù; công tác quản trị rủi ro chưa tương xứng
với yêu cầu và quy mô hoạt động, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính tiền
tệ diễn biến khó lường như hiện nay; các giải pháp hỗ trợ khác như chính sách
nhân sự, công nghệ thông tin chưa theo kịp yêu cầu phát triển.
- Những hạn chế tại công ty là do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan gây
ra. Do đó để nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh, công ty cần có các giải pháp
thích hợp. Em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động bảo lãnh tại công ty tài chính dầu khí Việt Nam.
SVTH: Trần Minh Hải Lớp K14QHN1 MSSV: 142522695 Trang 25

×