Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

giải pháp quản lý vốn các công ty cổ phần tại tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.59 MB, 104 trang )






LUẬN VĂN:

Giải pháp hoàn thiện quản lý vốn nhà
nước trong các CTCP của tỉnh Nghệ An











MỞ ĐẦU
1. Tính cần thiết của đề tài
Trong những năm qua cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, việc đa dạng hóa
hình thức sở hữu là một trong những vấn đề mấu chốt của đổi mới trong lĩnh vực kinh tế.
Từ chỗ chỉ công nhận hai thành phần kinh tế cơ bản (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể), đến nay mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư, sản xuất, kinh doanh theo các
hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh theo các
hình thức sở hữu khác nhau được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình
đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp; chuyển các DNNN kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách


nhiệm hữu hạn hoặc CTCP; bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; xóa bỏ bao cấp
của nhà nước đối với doanh nghiệp đã làm cho các thành phần kinh tế phát triểm và góp
phần ổn định xã hội. Một trong những nội dung của đa dạng hóa hình thức sở hữu là vấn
đề sắp xếp, đổi mới các công ty nhà nước (trước đây thường gọi là DNNN).
Việc đổi mới, sắp xếp các công ty nhà nước đã được bắt đầu từ năm 1992, hiện nay,
Chính phủ đang tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp ở các Tập
đoàn kinh tế, các Tổng Công ty. Quá trình đổi mới, sắp xếp các doanh nhà nước đã thu được
nhiều kết quả đáng khích lệ, song vẫn tồn tại những vấn đề hậu sắp xếp, đổi mới cần phải
được quan tâm, giải quyết trên cả nước nói chung và ở Nghệ An nói riêng.
Ở Tỉnh Nghệ An, công tác CPH các DNNN về cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên, vốn
nhà nước trong các doanh nghiệp không thuộc đối tượng cần nắm giữ vẫn chiếm tỷ lệ khá
cao. Cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nói chung và trong các CTCP
nói riêng đã được đề cập ở nhiều văn bản. Tuy vậy, vấn đề này còn có nhiều ý kiến khác
nhau cần đi đến thống nhÊt nhằm đưa ra cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các CTCP làm
sao để có hiệu quả cao nhất.
Đối với tỉnh Nghệ An, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang
diễn ra hết sức mạnh mẽ thì việc nâng cao năng lực quản lý vốn nhà nước trong các CTCP

của tỉnh nhằm đảm bảo cân đối các nguồn vốn, tạo ra sức cạnh tranh cho doanh nghiệp,
góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An là rất cần thiết.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện quản lý vốn nhà nước
trong các CTCP của tỉnh Nghệ An” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến quản lý vốn nhà nước ở các doanh nghiệp, đã có nhiều công trình
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, theo phạm vi nghiên cứu khác nhau. Các công trình
nghiên cứu về vốn nhà nước chủ yếu đề cập đến quá trình đổi mới cơ chế quản lý nói
chung và quá trình đổi mới sắp xếp lại DNNN từ thời kỳ bao cấp đến nay. Gần đây nhất,
đã có một số công trình nghiên cứu như: “Đổi mới quản lý vốn nhà nước tại các CTCP
trên địa bàn Hà Nội” (luận văn thạc sĩ kinh tế của Ngô Văn Mơ); “Đổi mới quản lý vốn

nhà nước tại DNNN ở nước ta hiện nay” (luận văn thạc sĩ Ngô Thị Ngọc Anh); “Đổi mới
quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay”
(luận văn thạc sĩ Trần Công Tỏ) Tuy nhiên, những đề tài này chưa đề cập sâu vai trò của
người đại diện quản lý phần vốn nhà nước trong mô hình Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước (SCIC) cũng như mối quan hệ giữa chủ sở hữu và quyền kinh doanh
của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO).
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Từ lý luận, thực tiễn, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm đổi
mới cơ chế, t¹o lËp môi trường pháp lý nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước
trong các CTCP thuộc tỉnh Nghệ An.
Nhiệm vụ: Với mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề lý luận về quản lý vốn nhà nước.
- Đánh giá, phân tích thực trạng quản lý vốn nhà nước trong các CTCP ở tỉnh Nghệ
An; tìm ra các nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý vốn nhà nước trong
các CTCP. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn
trong các CTCP Nghệ An, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Luận văn tập trung nghiên cứu cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các CTCP và tình
hình thực hiện quản lý vốn nhà nước tại các CTCP được chuyển đổi từ công ty nhà nước
thuộc tỉnh Nghệ An từ năm 2001 đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; Nghị quyết và các
giải pháp tổ chức thực hiện cơ chế chính sách của của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Nghệ
An nhằm phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: tổng hợp, phân
tích, thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn v.v

6. Ý nghĩa và những đóng góp của luận văn
Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các công
ty nhà nước chuyển đổi sang hoạt động cổ phần, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh
tế-xã hội theo hướng bền vững của tỉnh Nghệ An.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan quản lý nhà nước về kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn nhà nước tại
các CTCP trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Ngoài ra, luận văn còn đưa ra một số kiến nghị nhằm
tăng cường sự phối hợp giữa cổ đông (SCIC) với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương và
doanh nghiệp có vốn nhà nước, nhằm góp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước của tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.







Chương 1
VỐN NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƯỚC
TẠI CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC CÔNG TY
CỔ PHẦN
1.1.1. Vốn và các loại hình về vốn
1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của vốn
* Khái niệm
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất đối với quá trình tăng trưởng

và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển có nhu cầu vốn
rất lớn để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, nhận thức và vận
dụng đúng đắn phạm trù vèn sẽ là tiền đề thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm
năng để đầu tư phát triển nền kinh tế hội nhập tốt vào nền kinh tế thế giới.
Trong lịch sử phát triển kinh tế, khái niệm vốn được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau.
Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái kinh tế trước C.Mác đã dày c«ng
nghiên cứu vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là phạm trù kinh tế.
Kế thừa, chọn lọc tư tưởng của các nhà tiền bối, khi nghiên cứu sự chuyển hoá của
tiền thành tư bản, C.Mác đã khẳng định: "Như vậy là giá trị được ứng ra lúc ban đầu không
những được bảo tồn trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm
một giá trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy biến giá trị đó
thành tư bản" [17, tr.228].
Khẳng định trên của C.Mác đã vạch rõ bản chất và chức năng của tư bản (vốn)
trong phát triển kinh tế. Bản chất của tư bản là giá trị; chức năng của tư bản là sinh lời.
Tuy nhiên, để giá trị trở thành tư bản và tư sản sinh lời phải trải qua sự vận động. Thông
qua sự vận động, tư bản sinh sôi nảy nở và lớn lên không ngừng.
Ngày nay, do yêu cầu cao của sự phát triển, vốn không chỉ là yếu tố cần thiết đối
với quá trình sản xuất của các nước phát triển mà còn là yếu tố đóng vai trò quan trọng của
hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Vì vậy, phạm trù vốn trong phát

triển kinh tế vẫn được các nhà kinh tế học tiếp tục nghiên cứu và tiếp cận nó trên nhiều
bình diện khác nhau.
Dưới góc độ tài chính - tiền tệ, trong ấn phẩm Chú giải thuật ngữ kế toán Mỹ, tác
giả Hồ Văn Mộc và Điêu Quốc Tín cho rằng, vốn là "tổng số tiền biểu hiện nguồn gốc
hình thành của tài sản được đầu tư trong kinh doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức" [16,
tr.29].
Dưới góc độ nhân tố đầu vào, trong tác phẩm Lịch sử tư tưởng kinh tế,
I.Đ.Udanxốp và F.I.Pôlianxki kết luận: Vốn là "một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho
sản xuất (lao động, đất đai, vốn). Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được chế tạo để phục

vụ sản xuất (tức là máy móc, công cụ, thiết bị, nhà cửa, kho dự trữ thành phẩm hoặc bán
thành phẩm" [13, tr.11].
Ở Việt Nam, cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học cũng chỉ ra rằng: Vốn
là "tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh nhằm sinh lợi" [32, tr.1126].
Những cách tiếp cận trên đây về vốn đã nêu rõ tính đa dạng, nhiều hình thái tồn tại
của vốn. Vốn có thể coi là tiền hay tài sản được giá trị hoá. Mặt khác, với tư cách là vốn
thì tiền hay tài sản phải được đầu tư vào hoạt động sản xuất - kinh doanh để tạo ra hàng
hoá, dịch vụ nhằm mục tiêu có thu nhập trong tương lai. Nghĩa là, vốn luôn gắn với sự vận
động vµ đảm nhiệm chức năng sinh lời.
* Bản chất của vốn
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn bản chất của vốn cần nhận thức ë nh÷ng gãc ®é sau:
Thứ nhất, về các hình thái biểu hiện của vốn
- Xét về mặt trừu tượng, vốn là hình thành giá trị. Giá trị của nó được ứng ra để
chuyển hoá nó thành các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất, trải qua quá trình sản xuất,
giá trị lớn lên không ngừng.
- Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất phong phú, đa dạng, bao gồm: tài sản
hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Những tài sản này tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, đồng thời làm tăng giá
trị.
Như vậy, về mặt nhận thức, có thể thấy rằng, vốn tồn tại dưới nhiều hình thái cụ
thể: tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Nhưng, hình thái giá trị - tiền tệ

với tư cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hoá nhất trong nền kinh tế thị trường. Thị trường
không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả
năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh
doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với quy mô ngày càng được
mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Sự vận động của vốn trên thị trường tuân thủ quy
luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Song, với khả năng nhận thức, con người có
thể nắm bắt, vận dụng quy luật khách quan, tạo ra những kênh huy động vốn một cách có
hiệu quả, đáp ứng mục đích sản xuất - kinh doanh của mình.

Thứ hai, vốn là hàng hoá đặc biệt
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là hàng hoá. Muốn phát triển sản xuất -
kinh doanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn đầu tư được xem là cơ sở phát sinh
quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường. Như vậy, vốn hiển nhiên là đối tượng trao đổi,
mua bán trên thị trường. Với tư cách là hàng hoá, vốn có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử
dụng; có chủ sở hữu và là một trong những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
Tính đặc biệt của "hàng hoá vốn" thể hiện ở chỗ: vốn có khả năng sinh lời. Với tư cách
là hàng hoá đặc biệt, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn tách rời nhau. Đặc điểm này của
vốn không có ở các loại hàng hoá thông thường. Chủ sở hữu vốn sẽ nhận được một khoản lợi
tức (giá bán hay lãi suất quyền sử dụng vốn) khi bán quyền sử dụng vèn cho người mua (các
nhà đầu tư). Nhà đầu tư khi mua quyền sử dụng vốn phải bỏ ra một khoản gọi là chi phí (giá
mua quyền sử dụng vốn). Nhờ có sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn
làm cho vốn trở nên linh hoạt trong lưu thông và sinh lời.
Thứ ba, vốn có mối quan hệ mật thiết với thời gian
C.Mác viết:
tiền chỉ được đem nhượng lại với điều kiện, một là, nó sẽ quay trở về điểm
xuất phát sau một kỳ hạn nhất định, và hai là, nó sẽ quay trở về điểm đó với tư
cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là sau khi đã thực hiện được cái giá trị sử
dụng của nó, thực hiện được các khả năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư
[18, tr.525].
Như thế, chủ sở hữu vốn nhượng lại quyền sử dụng vốn cho nhà đầu tư trong một
khoảng thời gian xác định. Sau khi vốn trải qua chu kỳ vận động, nó quay về tay chủ sở

hữu, với một lượng giá trị lớn hơn. Lượng giá trị lớn hơn đó là lợi tức của chủ sở hữu vốn
hay là lãi suất phải trả của nhà đầu tư khi sử dụng vốn. Mức lãi suất được tính bằng tỷ lệ
phần trăm so với lượng vốn khi chủ sở hữu vốn nhượng, bán quyền sử dụng vốn theo đơn
vị thời gian (tháng, quý, năm ), phù hợp với nền kinh tế thị trường. Sự tách rời giữa
quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn, gắn với khoảng thời gian xác định tất yếu dẫn
đến quá trình tích tụ, tập trung vốn từ những khoản tiết kiệm nhỏ, lẻ; những đồng tiền chưa
có cơ hội đầu tư trở thành vốn và chuyển chúng đến tay các nhà đầu tư. Mặt khác, trong

nền kinh tế thị trường, khi tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, các nhà đầu tư luôn
chú trọng tới yếu tố thời gian. Bởi vì, các yếu tố như giá cả, lạm phát, lãi suất, tỷ giá biến
động thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó, bất kỳ một nhà đầu tư nào, khi xác định hiệu quả đầu tư cũng phải đưa toàn
bộ chi phí và thu nhập về cùng một thời điểm để so sánh, tính toán các chỉ tiêu lợi nhuận,
tỷ suất doanh lợi/ vốn, tỷ suất doanh lợi/ doanh thu, vòng quay của đồng vốn,vv Điều đó
cắt nghĩa được tại sao vốn luôn có giá trị về mặt thời gian (gắn với thời gian).
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu, vốn là tổng giá trị của những tài sản (tài
sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính) tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá
trình sản xuất - kinh doanh nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai.
1.1.1.2. Các loại hình về vốn
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân chia vốn thành nhiều
loại khác nhau. Dưới đây là một số loại vốn cơ bản:
+ Dựa vào biên giới lãnh thổ quốc gia, vốn chia thành hai loại: vốn trong nước và
vốn ngoài nước.
+ Dựa vào đặc điểm vận động, vốn có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn
cố định được biểu hiện bằng tiền của những tài sản cố định, bao gồm: Nhà cửa, vật kiến
trúc; Máy móc, thiết bị; Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn; Thiết bị, dụng cụ quản lý;
Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm; Quyền sử dụng đất; Chi phí về
bằng phát minh sáng chế; Chi phí nghiên cứu phát triển …. Vốn lưu động là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp, bao gồm: những vật tư dự trữ
như nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu … và sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất; Sản

phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, các khoản phí
chờ kết chuyển, chi phí trả trước …
+ Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: Vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn
dài hạn. Vốn ngắn hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn dưới một năm.
Vốn trung hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ một năm đến dưới
năm năm. Vốn dài hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ năm năm trở
lên.

+ Dựa vào quan hệ sở hữu, vốn có hai loại: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn vay
(huy động từ bên ngoài). Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của mét
hoặc nhiều chủ thể sở hữu. Vốn vay là vốn huy động được từ bên ngoài để bổ sung, làm
tăng lượng vốn của chủ thể kinh doanh, đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quá trình sản
xuất.
+ Dựa vào phương thức sử dụng, không chỉ có vốn sản xuất trực tiếp phục vụ cho
quá trình sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ, hàng hoá mà còn cần vốn phục vụ gián tiếp
cho sản xuất, bao gồm khối lượng lớn và phong phú hệ thống kết cấu hạ tầng, các công
trình công cộng
+ Dựa vào giá trị của vốn đầu tư trong thực tế và những chứng chỉ có giá (cổ phiếu,
trái phiếu ), vốn chia thành hai loại: vốn thực (tư bản thật) và vốn ảo (tư bản giả)
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cách tiếp cận khác nhau cho ta những quan niệm
khác nhau về vốn, song xét về bản chất là thống nhất. Việc phân chia vốn thành nhiều loại
khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất của phạm trù vốn - là hình thái giá trị, là thứ
hàng hoá đặc biệt, có mối quan hệ mật thiết với thời gian và nhận thức được tính đa dạng,
nhiều vẻ và rất phức tạp.
1.1.1.3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết để khởi sự kinh doanh.
Mọi doanh nghiệp đều cần có vốn để tồn tại và phát triển. Vai trò của vốn đối với doanh
nghiệp được thể hiện như sau:
* Vốn là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất của hoạt động sản xuất
kinh doanh
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần chuẩn bị các yếu tố

đầu vào như nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, nhà xưởng, sức lao động, … Tất cả các
yếu tố đầu vào này phải được thuê, mua sắm bằng tiền, tức là phải có vốn. Vốn là một
trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất của hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề
cho sự ra đời của doanh nghiệp. Pháp luật các nước đều quy định vốn là điều kiện bắt buộc
để có thể thành lập doanh nghiệp (thông qua vốn điều lệ, vốn pháp định). Điều này xuất
phát từ nhận thức vai trò vô cùng quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh

thực tiễn của doanh nghiệp.
* Vốn là điều kiện để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, thông suốt.
Vốn là yếu tố theo đuổi suốt quá trình hoạt động của một doanh nghiệp. Vốn tồn tại
dưới nhiều hình thái tài sản và luân chuyển liên tục qua tất cả các khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh. Muốn cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, doanh
nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư vào các giai đoạn khác nhau đó.
* Vốn là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh
và là yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường
Có vốn doanh nghiệp mới có thể đầu tư vào việc cải tiến được kỹ thuật, ứng dụng
công nghệ mới, đào tạo nâng cao trình độ người lao động, mở rộng lĩnh vực, mạng lưới
kinh doanh Đây là cơ sở để doanh nghiệp tăng năng suất lao động, hạ giá thành, nâng
cao chất lượng sản phẩm; từ đó giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị
trường. Việc kinh doanh hiệu quả giúp vốn đầu tư được bảo toàn và phát triển, giúp doanh
nghiệp thực hiện tái sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu.
* Vai trò của vốn còn thể hiện ở chức năng giám đốc tài chính
Thông qua việc phân tích đánh giá vốn có được sử dụng hiệu quả hay không, ta có
thể biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh không, doanh nghiệp
đang trên đà phát triển hay đi xuống; từ đó, tìm ra các nguyên nhân và biện pháp giúp cải
thiện tình hình tài chính, giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.
Như vậy, có thể thấy vốn đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Nó vừa là tiền đề, vừa là kết quả của quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, pháp luật cho phép doanh nghiệp có
nhiều hình thức huy động và đầu tư vốn khác nhau. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho

doanh nghiệp. Nhưng vấn đề đặt ra mang tính chất sống còn cho doanh nghiệp là làm thế
nào để sử dụng đồng vốn hiệu quả, mang lại những lợi ích to lớn cho chủ doanh nghiệp và
cả người lao động.
1.1.2. Vốn nhà nước trong các công ty cổ phần
1.1.2.1. Đặc trưng và ưu thế của công ty cổ phần

* Đặc trưng của CTCP
Công ty cổ phần là một doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng
hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi phần góp vốn của mình.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, tại Chương IV, Điều 77 thì:
CTCP là doanh nghiệp, trong đó: a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần; b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ
đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; c) Cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu
quyết và hạn chế đối với cổ đông sáng lập [20, tr.89-90].
Công ty cổ phần có những đặc điểm cơ bản sau đây.
- Là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, tồn tại riêng biệt và độc lập với
chủ sở hữu của nó.
- Các công ty này được tự do phát triển mọi hoạt động sản suất kinh doanh theo
pháp luật quy định, đa dạng hoá hay thay đổi thậm chí đình chỉ hoạt động theo ý của công
ty mà không phải tham khảo bất cứ một thẩm quyền nào.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp
luật về chứng khoán.
- CTCP phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám
đốc).
- Về vốn (tài sản) trong các công ty cổ phần được hình thành từ nhiều nguồn vốn
khác nhau mang đặc điểm riêng biệt, bao gồm: Vốn điều lệ; Vốn tự có; Vốn vay: Vốn vay
trung và dài, nợ ngắn hạn

- Chức năng kinh tế của công ty cổ phần: chức năng kinh tế của các công ty cổ phần
là sản xuất sản phẩm hàng hóa và dịch vụ để bán trên thị trường bằng cách sử dụng các
phương tiện vật chất, tài chính và nhân sự nhằm mục đích thu lợi nhuận.
* Ưu thế của CTCP

So với các loại hình doanh nghiệp khác thì CTCP có những lợi thế sau:
- Chế độ trách nhiệm của CTCP là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ
rủi do của các cổ đông không cao;
- Khả năng hoạt động của CTCP rất rộng, trong hầu hết các lÜnh vực, ngành nghề;
- Cơ cấu vốn của CTCP hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn
vào công ty;
- Khả năng huy động vốn của CTCP rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra
công chúng, đây là đặc điểm riêng có của CTCP;
- Việc chuyển nhượng vốn trong CTCP là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối
tượng được tham gia CTCP là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua
cổ phiếu của CTCP.
Tuy nhiên Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình CTCP cũng có những hạn chế
nhất định như: Việc quản lý và điều hành CTCP rất phức tạp do số lượng các cổ đông có
thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa,
hình thành các nhóm cổ đông đối kháng nhau về lợi ích; Việc thành lập và quản lý CTCP
cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định
của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán. Ngoài ra, chi phí cho việc thành lập
CTCP thường tốn kém; khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính trong các công ty cổ
phần thường bị hạn chế; phần lớn các cổ đông thường không có kiến thức về kinh doanh
và không hiểu biết lẫn nhau (thường 1 năm mới đại hội một lần). Do có sự tách biệt tương
đối giữa quyền sở hữu và quyền quản lý công ty cổ phần nên đôi khi có sự mâu thuẫn
trong lợi ích và các kết quả của đơn vị.
1.1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của vốn nhà nước trong các công ty cổ phần
* Khái niệm

Theo Luật Doanh nghiệp được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày
29/11/2005 thì vốn nhà nước trong các CTCP được hiểu là:
Phần vốn góp sở hữu nhà nước là phần vốn góp được đầu tư từ nguồn vốn
ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác của nhà nước do một cơ quan nhà nước

hoặc tổ chức kinh tế làm đại diện chủ sở hữu.
Cổ phần sở hữu nhà nước là cổ phần được thanh toán bằng vốn ngân sách nhà
nước và nguồn vốn khác của Nhà nước do một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức kinh
tế làm đại diện chủ sở hữu [21, tr.12].
Và khi doanh nghiệp có vốn sở hữu của Nhà nước trên 50% vốn điều lệ gọi là
DNNN.
* Vốn của Nhà nước ở các CTCP bao gồm:
- Vốn thuộc sở hữu nhà nước tại DNNN gồm tiền, giá trị quyền sử dụng đất hay
tiền thuê đất, giá trị tài sản thuộc sở hữu nhà nước được DNNN đầu tư vào doanh nghiệp
khác hoặc góp vốn liên doanh với tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Ngân sách nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp khác.
- Giá trị cổ phần nhà nước trong DNNN đã thực hiện CPH, bao gồm cả giá trị cổ phiếu
nhà nước cấp cho người lao động trong doanh nghiệp để hưởng cổ tức khi DNNN thực hiện
CPH giai đoạn trước khi Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính
phủ có hiệu lực thi hành.
- Lợi tức được chia do việc Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác được dùng để
tái đầu tư tại doanh nghiệp này.
Doanh nghiệp khác có vốn đầu tư của Nhà nước hoạt động theo luật tương ứng và
Điều lệ của doanh nghiệp; thực hiện chế độ báo cáo tài chính, báo cáo thống kê theo quy
định của pháp luật. Khi gửi báo cáo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, doanh nghiệp
đồng thời gửi cho người đại diện phần vốn nhà nước bản sao các báo cáo này.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện kiểm tra, giám sát theo chức năng quản
lý nhà nước đối với các hoạt động của doanh nghiệp, không can thiệp vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
* Vai trò của vốn Nhà nước trong các CTCP

Vốn Nhà nước đóng vai trò rÊt quan träng trong việc duy trì hoạt động sản xuất
kinh doanh của các CTCP và đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển bền vững. Vì nhà nước
(Chủ sở hữu vốn nhà nước) với tư cách là cổ đông chính trong các CTCP chuyển đổi từ
DNNN sẽ tham gia một cách hiệu quả trong việc chuyển đổi cơ cấu, tăng vốn điều lệ

vv Thể hiện rõ nét là ở các CTCP có vốn Nhà nước chi phối, vai trò chủ yếu vốn nhà
nước trong các doanh nghiệp này thể hiện:
Một là, vốn Nhà nước đóng vai trò là tấm đệm giúp chống rủi ro phá sản vì vốn giúp
trang tr¶i những thua lỗ về tài chính, những khoản nợ nần đến hạn cho tới khi Ban quản lý
doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định để doanh nghiệp trở lại trạng thái hoạt động
sinh lời.
Hai là, vốn Nhà nước là điều kiện bắt buộc để thành lập DNNN và tiến hành sản
xuất kinh doanh. Một DNNN muốn ra đời thì điều kiện đầu tiên có tính quyết định là vốn
Nhà nước phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định quy định cho ngành nghề kinh doanh của
doanh nghiệp đó.
Ba là, vốn tạo niềm tin cho khách hàng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức
mạnh tài chính của doanh nghiệp. Quy mô vốn Nhà nước càng lớn thì doanh nghiệp càng
có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.
Bốn là, vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của doanh
nghiệp, cho những dự án đầu tư lớn có hiệu quả và trang bị đổi mới máy móc thiết bị, công
nghệ tiên tiến để hạ giá thành sản xuất, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Cuối cùng, trên cơ sở vốn phần vốn góp nhà nước, các CTCP có vốn Nhà nước chi
phối mới có thể tìm kiếm được các nguồn vốn tài trợ khác để đảm bảo đủ vốn cho quá
trình sản xuất kinh doanh, tăng sức mạnh cạnh tranh và chống rủi ro trong cơ chế thị
trường.
1.2. QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN
1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý vốn nhà nước trong các công ty cổ phần
Với mục đích thúc đẩy các DNNN kinh doanh có hiệu quả hơn, có sự đổi mới,
chuyển biến thực sự về phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý, Chính phủ đã
đề ra chủ trương và tiến hành CPH các DNNN từ năm 1992. Đến nay tiến trình CPH
DNNN đã được 16 năm và đạt được những kết quả tích cực: CPH được triển khai đúng

định hướng, các mục tiêu CPH đều thực hiện được. Với điều kiện hiện nay, rõ ràng có
nhiều doanh nghiệp sau cổ phần làm ăn rất hiệu quả, nhưng cũng có doanh nghiệp thua lỗ,
dẫn tới phá sản. Tuy nhiên hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước trong

đó có CTCP trong thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu của quá trình hội
nhập: “Nhiều doanh nghiệp thực hiện chưa tốt việc bảo toàn và phát triển vốn, tình trạng
“ăn vào vốn”, mất vốn vẫn còn. Một số doanh nghiệp chỉ có vốn trên sổ sách, thực chất đã
hết vốn do treo lại các khoản lỗ, công nợ khó đòi, tài sản tồn đọng…”, đó là kết luận của
Bộ Tài chính về hiệu quả sử dụng vốn nhà nước trong các doanh nghiệp hiện nay [33].
Trong điều kiện ngân sách nhà nước có hạn thì việc đầu tư dàn trải vào các doanh
nghiệp trên đã dẫn đến tình trạng phần lớn các doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ đều
thiếu vốn. Nguyên nhân của tình trạng trên là do công tác quản lý vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp nhà nước còn lỏng lẻo, trách nhiệm của cơ quan quản lý và doanh nghiệp
không rõ ràng. Từ đây dẫn đến những sự đầu tư không hiệu quả, mất vốn, mất khả năng
thanh toán và cuối cùng là ngân sách nhà nước phải gánh chịu tổn thất.
Mặt khác do trình độ của đội ngũ quản trị trong các DNNN nhà nước được CPH
đều từ DNNN trước đó chuyển sang; đồng thời sự hiểu biết, nắm vững và áp dụng pháp
luật CTCP, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cổ đông còn hạn chế. Những thông lệ quản
trị doanh nghiệp tốt nhất chưa được áp dụng nhiều trong các CTCP. Chính vì vậy việc bảo
toàn và phát triển vốn trong đó có phần vốn của nhà nước bị hạn chế.
Hơn nữa, hiện nay vẫn thiếu những chế tài quy định về đại diện chủ sở hữu và quản
lý giám sát nên thật khó đảm bảo rằng, phần vốn nhà nước sẽ được bảo toàn và sinh lời
tại các DNNN đã được cổ phần. Do đó, nhiệm vụ đặt ra hiện nay của các cơ quan quản lý
là phải quản lý chặt chẽ nguồn vốn nhà nước trong các CTCP để đồng vốn Nhà nước giao
cho doanh nghiệp được sử dụng một cách hiệu quả và kinh doanh có lãi. Chính vì vậy,
công tác quản lý vốn tại các CTCP có vốn Nhà nước là việc làm cấp bách, vừa để ổn định
doanh nghiệp sau CPH, vừa để xây dựng chiến lược tăng trưởng kinh tế tại doanh nghiệp
một cách lâu dài.
1.2.2. Nội dung và yêu cầu quản lý vốn nhà nước trong các công ty cổ phần
1.2.2.1. Quản lý vốn nhà nước

Sau CPH, doanh nghip c quyn t ch qun lý, s dng phn vn Nh nc
c giao phc v cho mc ớch hot ng sn xut kinh doanh, m bo thu bự p
chi phớ v cú lói, bo ton v phỏt trin c vn Nh nc; hoc cho mc ớch hot ng

cụng ớch nh thc hin nhim v an ninh quc phũng; hoc sn xut sn phm, cung ng
dch v cụng cng theo chớnh sỏch ca Nh nc, do nh nc giao k hoch hoc t
hng v theo giỏ, khung giỏ hoc phớ do Nh nc quy nh m hot ng ch yu khụng
vỡ mc tiờu li nhun.
Nh nc vi vai trũ ch s hu, thc hin vic qun lý vn Nh nc ti DNNN
bng cỏc cụng c ch yu sau õy:
Bng h thng phỏp lut: Nh Lut doanh nghip 2005, Lut u t, Ngh nh
199/2004/N-CP, N 109/2007/N-CP, N 138/2007/N-CP, cỏc thụng t hng dn
ch qun lý ti chớnh ti cỏc DNNN, cỏc cụng c ti chớnh v mụ nh: chớnh sỏch thu,
lói sut, t giỏ
B mỏy qun lý vn v ti sn Nh nc ti DNNN:
- B Ti chớnh (Cc Ti chớnh doanh nghip).
- S Ti chớnh (Phũng Ti chớnh doanh nghip).
B mỏy qun lý ti chớnh doanh nghip thc hin chc nng kim tra, giỏm sỏt vic
chp hnh phỏp lut Nh nc trong sn xut kinh doanh ca cỏc doanh nghip. ng thi
hng dn, giỳp , t vn phỏp lut giỳp cho cỏc doanh nghip thc hin ỳng cỏc ch
, chớnh sỏch ti chớnh quy nh hin hnh ca Nh nc
i ng qun lý ca cỏc CTCP Nh nc (Giỏm c, Phú giỏm c, K toỏn
trng đ-ợc chủ sở hữu vốn nhà n-ớc cử tham gia quản lý phần vốn và giới thiệu vào các
chức danh quản lý tại doanh nghiệp). Cỏc doanh nghip thụng qua b mỏy k toỏn, kim
toỏn ni b, cỏc hỡnh thc cụng khai hot ng ti chớnh thc hin nhim v qun lý
vn Nh nc ó giao cho doanh nghip qun lý v s dng. ng thi, cỏc doanh nghip
phi chu trỏch nhim trc Nh nc trong vic qun lý vn, bo ton v phỏt trin vn
Nh nc ti doanh nghip.
1.2.2.2. Hiu qu qun lý, s dng vn nh nc trong cụng ty c phn
Vic ỏnh giỏ hiu qu qun lý vn Nh nc ti CTCP ch c thụng qua hiu
qu s dng vn Nh nc ca cỏc doanh nghip. Ly sut sinh li trờn vn lm mt trong

những tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả
thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá hiệu quả của doanh

nghiệp công ích.
* Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn:
"Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai
thác, sử dụng vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu sinh lợi tối
đa với chi phí vốn nhỏ nhất" [12, tr.247]. Trong quá trình sử dụng đồng vốn luôn luôn thay
đổi hình thái biểu hiện, điểm xuất phát và điểm cuối cùng đều là tiền nhưng có giá trị lớn
hơn. Đó là nguyên lý đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn, khi đó, ta nói đồng vốn hoạt động có
hiệu quả. Ngược lại, khi đồng vốn bị ứ đọng, bị bỏ ống, tài sản cố định không sử dụng, vật
tư hàng hóa chậm luân chuyển thì chỉ là “vốn chết”, khi đó vốn hoạt động không có hiệu
quả. Để sử dụng vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp phải:
- Sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm, tránh thất thoát, lãng phí hoặc ứ đọng vốn.
- Huy động vốn có hiệu quả cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư để
mở rộng quy mô sản xuất.
- Đảm bảo các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tuy nhiên, một doanh nghiệp được coi là sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì
ngoài việc mang lại lợi kinh tế, còn phải đánh giá trên khía cạnh xã hội do doanh nghiệp
đó đóng góp cho xã hội, cho quốc kế dân sinh như: tạo được nhiều việc làm, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng cho xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, hạn chế các khuyết tật, mất cân đối
của kinh tế thị trường, đáp ứng được các nhu cầu phúc lợi phục vụ công cộng như: hệ
thống giao thông, điện, giáo dục, y tế, đồng thời phải quan tâm đến việc bảo vệ và phát
triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái,
* Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn:
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn là một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Do vậy
để đánh giá một cách toàn diện và chính xác hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp,
chúng ta phải sử dụng kết hợp một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh quá trình sử dụng vốn ở
tất cả các khâu, các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh và ở các góc độ khác nhau.
Cụ thể, các chỉ tiêu này có thể chia thành các nhóm sau:
 Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu sử dụng vốn

Nội dung của nhóm chỉ tiêu này là việc phân tích kết cấu tài sản của doanh nghiệp

để thấy được việc phân bổ nguồn vốn cho từng hạng mục tài sản; trên cơ sở so sánh với
đặc thù lĩnh vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, với số liệu của ngành để đánh
giá tính hợp lý của việc phân bổ đó. Đồng thời tiến hành so sánh kết cấu tài sản với kết cấu
nguồn vốn để thấy được việc tài trợ của từng nguồn vốn có phù hợp hay không.
Hệ số cơ cấu tài sản =
TSCĐ hoặc TSLĐ
Tổng tài sản
 Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán cũng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Nhóm chỉ tiêu này góp phần cho ta có nhìn nhận chuẩn xác hơn về thực lực, khả năng tài
chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh có lãi nhưng nếu không cân đối được
các khoản thu chi của mình rất có thể để xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán và dẫn
đến phá sản.
Một trong những thước đo khả năng thanh toán được sử dụng rộng rãi nhất là khả
năng thanh toán hiện hành.


Tỷ số này cho thấy công ty có bao nhiêu tài sản để có thể chuyển đổi thành tiền mặt
để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này ở mức nào là chấp nhận được
còn tùy thuộc vào sự so sánh với tỷ số của các công ty cạnh tranh hoặc so sánh với các
năm trước để thấy được sự tiến bộ hoặc giảm sút. Tuy nhiên, nếu tỷ số thanh toán hiện
hành quá cao sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động vì công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản
lưu động hay nói cách khác, việc quản lý tài sản lưu động không hiệu quả như có quá
nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải đòi, hàng tồn kho ứ đọng.



Tỷ số thanh toán nhanh được tính toán dựa trên những tài sản lưu động có thể
nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm tất cả tài sản lưu động trừ hàng tồn kho. Vì
vậy, tỷ số này cho thấy khả năng thanh toán thực sự của một doanh nghiệp.

Tỷ số thanh toán
hiện hành
=

Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh
toán nhanh
=
TS lưu động – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn

 Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
* Hiệu suất sử dụng vốn
Hiệu suất sử dụng vốn

=
Doanh thu thuần
Tổng vốn bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh
doanh mang lại bao nhiêu đồng doanh thu; nghĩa là vốn quay bao nhiêu vòng trong năm.
Hệ số này càng cao cho thấy doanh nghiệp sử dụng vốn càng hiệu quả.
* Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
Hiệu suất sử dụng vốn
lưu động
=
Doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho thấy trong kỳ bình quân một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu. Chỉ tiêu này còn gọi là số vòng luân chuyển vốn lưu động, biểu hiện tốc

độ chu chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Chỉ tiêu này càng lớn
chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao. Kỳ tính vòng quay vốn lưu động
thường là 1 năm. Do đặc điểm đa dạng của vốn lưu động, hiệu quả sử dụng vốn lưu động
còn được phân tích chi tiết qua các chỉ tiêu về hiệu quả sử từng bộ phận vốn lưu động.
* Số vòng quay các khoản phải thu
Số vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc thanh toán
các khoản phải thu của doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh toán tất cả các hóa đơn của họ,
lúc đó các khoản phải thu quay được một vòng.
Vòng quay các khoản
phải thu
=
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân
Số vòng quay các khoản phải thu cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu
của công ty. Nếu số vòng quay thấp thì hiệu quả sử dụng vốn kém do vốn bị chiếm dụng
nhiều. Nhưng nếu số vòng quay các khoản phải thu cao quá thì sẽ giảm sức cạnh tranh dẫn
đến giảm doanh thu.
* Số vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn
kho
=
Doanh thu thuần
Hàng tồn kho bình quân
Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cao hay thấp tùy thuộc vào đặc điểm ngành kinh

doanh. Để có đánh giá đúng thì cần phải so sánh với hệ số trung bình của ngành. Đối với
bản thân doanh nghiệp, nếu số vòng quay hàng tồn kho của kỳ sau lớn hơn kỳ trước thì
nhìn chung là hiệu quả sử dụng vốn giảm và ngược lại.
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng vốn

cố định
=
Doanh thu thuần
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này cho ta biết về sức sản xuất của tài sản cố định (TSCĐ), chỉ cho chúng
ta biết một đồng vốn cố định đem lại bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần trong kỳ.
Về chỉ tiêu này, có quan điểm cho rằng phải tính trên cơ sở so sánh giữa doanh thu
thuần và giá trị còn lại của TSCĐ. Sau mỗi kỳ sản xuất kinh doanh, do việc trích khấu hao,
về mặt giá giá trị, giá trị còn lại của TSCĐ ở kỳ sau sẽ thấp hơn giá trị còn lại của TSCĐ ở
kỳ trước. Việc trích khấu hao rất có ý nghĩa với doanh nghiệp vì đó là hoạt động giúp
doanh nghiệp hình thành quỹ để chủ động trong việc tái đầu tư TSCĐ. Tuy nhiên, về sức
sản xuất, tài sản cố định vẫn tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất kinh doanh. Thậm chí
khi giá trị còn lại của TSCĐ bằng không thì TSCĐ vẫn có thể tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Vì vậy, để phản ánh sức sản xuất của
TSCĐ thì so sánh doanh thu thuần với nguyên giá là công bằng và hợp lý hơn.
* Hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu
Hiệu suất sử dụng vốn
chủ sở hữu
=
Doanh thu thuần
Vốn chủ sở hữu bình quân
Hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu đo lường mối quan hệ giữa doanh thu và vốn chủ
sở hữu. Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra được bao nhiêu đồng doanh
thu.
 Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi
* Hệ số sinh lợi của vốn
Hệ số sinh lợi của vốn =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn bình quân
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn sử dụng bình quân trong kỳ mang về bao nhiêu

đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy vốn sử dụng càng có hiệu quả.
* Hệ số sinh lợi của vốn lưu động

Hệ số sinh lợi của vốn
lưu động
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn lưu động bình quân
Vốn lưu động bình quân là số trung bình của giá trị vốn lưu động ở thời điểm đầu
kỳ và thời điểm cuối kỳ. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận trong kỳ.
* Hệ số sinh lợi của vốn cố định
Hệ số sinh lợi của vốn
cố định
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn cố định bình quân
Trong đó, vốn cố định bình quân là giá trị bình quân của giá trị còn lại đầu kỳ và giá
trị còn lại cuối kỳ.
Chỉ tiêu này biểu hiện một đồng vốn cố định trong kỳ sản xuất ra bình quân bao
nhiêu đồng lãi, thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh, khả
năng sinh lợi của tài sản cố định.
* Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu
Hệ số sinh lợi của vốn
chủ sở hữu
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn chủ sở hữu sử dụng bình quân trong kỳ mang
về bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy hiệu quả sử dụng

vốn chủ sở hữu càng cao. Chỉ tiêu này được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm vì nó phản
ánh mức sinh lợi mà doanh nghiệp mang về cho họ nếu họ đầu tư vào doanh nghiệp.
Sự khác nhau giữa tỷ suất sinh lợi trên tổng vốn và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở
hữu là do công ty có sử dụng vốn vay. Nếu công ty không có vốn vay thì hai tỷ số này
bằng nhau.
Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu cao hơn tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản cho
thấy công ty đã sử dụng vốn vay có hiệu quả nên đã khuếch đại được tỷ suất sinh lợi trên
vốn chủ sở hữu.
1.2.2.3. Bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước trong các công ty cổ phần
Phần vốn thuộc sở hữu Nhà nước trong các CTCP được ®Çu t- vµo doanh nghiÖp,
®-îc doanh nghiệp quản lý và sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bảo toàn và
phát triển vốn Nhà nước là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về

vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh
doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà
nước.
 Mức bảo toàn vốn Nhà nước:
Số vốn Nhà
nước bảo toàn
cuối kỳ

=
Số vốn
nhà nước
đầu kỳ

+

Số vốn nhà nước
đầu tư

(thêm hoặc rút về)

+
Số vốn đầu tư
thêm từ lợi
nhuận sau thuế
 Các biện pháp bảo toàn vốn Nhà nước là:
- Thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các quy định của nhà
nước.
- Thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh
nghiệp. Việc mua bảo hiểm tài sản để giảm bớt những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bù đắp những tổn thất về tài sản của
doanh nghiệp.
- Trích lập các khoản dự phòng: Được hạch toán vào chi phí kinh doanh để hình
thành khoản dự phòng: giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các khoản phải thu khó đòi, dự
phòng các khoản giảm giá giữa đồng tiền Việt Nam so với đồng ngoại tệ, ; thực hiện chế
độ trích lập quỹ dự trữ tài chính, quỹ dự phòng mất việc làm trong các doanh nghiệp.
- Tính đúng, trích đủ khấu hao tài sản cố định theo quy định của Nhà nước, khuyến
khích các doanh nghiệp trích khấu hao nhanh nhằm đảm bảo thu hồi sớm giá trị tài sản để
tạo nguồn thay thế, đổi mới máy móc thiết bị theo hướng áp dụng công nghệ tiên tiến, kỹ
thuật hiện đại phù hợp với yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp và của nền kinh tế.
Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp còn được dùng lãi năm sau (lãi trước hoặc
sau thuế) để bù lỗ các năm trước, được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai, dịch bệnh )
vào chi phí hoặc kết quả kinh doanh.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý vốn Nhà nước trong các
công ty cổ phần
Công tác quản lý vốn Nhà nước trong các CTCP chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
chủ quan (trình độ và năng lực quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước, của đội ngũ cán
bộ quản lý doanh nghiệp) và các yếu tố khách quan (sự thay đổi của môi trường bên ngoài


như: Sự ổn định chính trị, môi trường pháp lý, chế độ chính sách tài chính, chính sách tiền
tệ, giá cả, lạm phát, thị trường, ). Các yếu tố đó có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến
kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, theo đó tác động đến hiệu quả sử dụng vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp. Việc xác định các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến công tác quản
lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hạn chế rủi ro,
vốn Nhà nước được bảo toàn phát triển. Vì vậy, hiệu quả công tác quản lý vốn Nhà nước
tại doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản như sau:
Thứ nhất, năng lực quản lý, sử dụng vốn của bộ máy quản lý điều hành các CTCP.
Hiệu quả quản lý và sử dụng vốn Nhà nước tại CTCP chịu ảnh hưởng rất lớn của bộ máy
quản lý điều hành sản xuất kinh doanh, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp người đại
diện phần vốn Nhà nước trong các CTCP.
Cán bộ quản lý doanh nghiệp gồm: Hội đồng quản trị, Giám đốc, Phó giám đốc, Kế
toán trưởng và các phòng ban giúp việc, họ là những người trực tiếp sử dụng vốn và tài sản
Nhà nước tại doanh nghiệp, trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh và ra các quyết định
về kinh tế, tài chính, thị trường, về quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp. Kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp suy cho cùng là kết quả của những quyết định của con
người và những người thực hiện quyết định đó. Một quyết định đúng đắn, được tổ chức
thực hiện tốt sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói
riêng. Cũng một đồng vốn nhưng nếu người chủ doanh nghiệp đầu tư đúng chỗ, đúng lúc
thì đồng vốn đó sẽ mang lại khoản lợi nhuận lớn hơn, đồng vốn được sử dụng một cách
tiết kiệm mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, nếu quyết định đó là sai lầm, không phù hợp
thì doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ, vốn sử dụng không hiệu quả, thậm chí là mất vốn. Bên cạnh
đó, lực lượng lao động trực tiếp cũng là một nhân tố quan trọng bởi họ là người trực tiếp
tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm chi phí góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách của Nhà nước tạo hành lang cho
hoạt động của các doanh nghiệp, quy định những việc doanh nghiệp được làm và không
được làm. Một hệ thống cơ chế, chính sách tốt sẽ tạo ra một môi trường thông thoáng, linh
hoạt cho các hoạt động của doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ví dụ:
cơ chế, chính sách của Nhà nước tạo điều kiện cho thị trường tài chính, tiền tệ phát triển


lành mạnh, hoạt động thông suốt sẽ giúp doanh nghiệp huy động vốn kịp thời cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, luân chuyển vốn liên tục, tăng số vòng quay vốn, thay đổi cơ
cấu vốn một cách linh hoạt, trên cơ sở đó giảm bớt chi phí sử dụng vốn. Nhà nước quản lý,
điều hành nền kinh tế chủ yếu thông qua hệ thống các chính sách kinh tế, các đòn bẩy kinh
tế nhằm mục đích tạo ra môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh ổn định lâu dài, lành
mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà
nước sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và
hiệu quả quản lý sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại CTCP nói riêng
Thứ ba, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước. Trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, năng lực quản lý tài chính doanh nghiệp của đội ngũ quản lý nhà nước đối với hệ thống
CTCP có vốn Nhà nước có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và
hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Sở Tài chính, cơ quan Thuế với chức
năng tham mưu giúp UBND tỉnh trực tiếp quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thông
qua người đại diện. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý tài chính và phẩm
chất đạo đức của đội ngũ quản lý càng cao thì chất lượng tham mưu đề xuất UBND tỉnh ra
các quyết định về tài chính doanh nghiệp như thực hiện chức năng thẩm định giá trị doanh
nghiệp, giao cho người tham gia quản lý phần vốn nhà nước đầu tư thêm vốn kinh doanh
vào DN, thẩm định các dự án đầu tư ngoài quyền của doanh nghiệp, chức năng kiểm soát
viên tại DN Vì thế, vốn và tài sản Nhà nước tại CTCP được bảo toàn và phát triển, hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày được nâng cao.
Trên đây, là một số nhân tố cơ bản luôn luôn có tác động ảnh hưởng trực tiếp hay
gián tiếp đến công tác quản lý vốn và hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Bởi vậy, các nhà quản lý, các doanh nghiệp cần phải xem xét, phân tích đánh giá mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố để đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm không ngừng tăng cường
công tác quản lý vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP Ở TRUNG QUỐC
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong quản lý vốn nhà nước ở doanh
nghiệp


Cải cách sở hữu vốn Nhà nước trong các DNNN ở Trung Quốc đã thực hiện từ năm
1978 cho đến nay. Từ thực tiễn quản lý, các nhà khoa học và lãnh đạo Trung Quốc đã cho
rằng để nâng cao hiệu quả của các DNNN thì phải đi xa hơn, từ chỗ chia tách quyền sở
hữu và quyền kinh doanh, tới chỗ phân chia bản thân quyền sở hữu, để qua đó biến các
DNNN thành những người sở hữu tư liệu sản xuất với những quyền tương ứng cả về việc
sử dụng tài sản lẫn việc thu và sử dụng lợi nhuận.
Ở Trung Quốc trước đây, tài sản nhà nước (TSNN) thường được nhận thức một
cách đơn giản là bao gồm toàn bộ các xí nghiệp, doanh nghiệp do nhà nước bỏ vốn thành
lập nên. Tuy nhiên cùng với việc đi sâu cải cách DNNN, vấn đề TSNN đã được nhận thức
lại một cách đầy đủ và khoa học hơn. Theo đó, TSNN không phải là một khái niệm đơn
thuần để chỉ các DNNN mà đó là một thể tổng hợp của hai bộ phận cấu thành, bao gồm
các tài sản mang tính kinh doanh và các tài sản không mang tính kinh doanh.
- Các TSNN mang tính kinh doanh, chỉ toàn bộ các doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước, các doanh nghiệp do nhà nước nắm cổ phần khống chế và lượng cổ phần trong các
doanh nghiệp có sự tham gia đầu tư của nhà nước.
- Các TSNN không mang tính kinh doanh, chủ yếu gồm 3 dạng chính là: tài nguyên
thiên nhiên; hàng hoá công cộng (cơ sở hạ tầng, tài sản công của các đơn vị hành chính sự
nghiệp, y tế, giáo dục ) và các tài sản tồn tại dưới dạng tiền tệ.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cải cách thể chế quản lý TSNN, đặc biệt
là thể chế quản lý ngày càng thích ứng với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường, sau
hai thập niên cải cách, các nhà hoạch định cải cách ở Trung Quốc đã đề ra nguyên tắc mới
cho việc xây dựng thể chế quản lý TSNN, theo đó: nhà nước sở hữu, quản lý phân theo
các cấp, trao quyền kinh doanh và phân công giám sát. Nguyên tắc cơ bản của thể chế
kinh tế thị trường xác định: "Ai là chủ sở hữu, người đó đầu tư, người đó chịu trách nhiệm
và được hưởng lợi; do vậy, những can thiệp mang tính mệnh lệnh hành chính, không tuân
theo các quy luật kinh tế cơ bản sẽ không thể thích ứng với vòng quay của kinh tế thị
trường" [26, tr.117].
Trước đây, quản lý TSNN và giám sát hoạt động của các DNNN ở Trung Quốc
thường là công việc của “tập thể” của nhiều đơn vị nhà nước. Tới năm 2002, tình trạng này

đã chấm dứt (hay ít ra có những cơ sở pháp lý để chấm dứt). Việc quản lý tài sản, quản lý

×