Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Sự phân bố và phát triển, đặc điểm và lịch sử hình thành cây mía năm 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.26 KB, 10 trang )

Cây Mía
Tóm tắt nội dung
• Mía là gì?
• Các loại mía
• Tính chất
• Đặc điểm sinh trưởng
• Trồng và sử dụng
• Chữa bệnh
• Hướng dẫn tham khảo
Mía là gì?
Mía là tên gọi chung của một số loài trong chi Mía (Saccharum), bên cạnh các loài lau,
lách. Chúng là các loại cỏ sống lâu năm, thuộc tông Andropogoneae của họ Hòa thảo
(Poaceae), bản địa khu vực nhiệt đới và ôn đới ấm của Cựu thế giới. Chúng có thân to
mập, chia đốt, chứa nhiều đường, cao từ 2-6 m. Tất cả các dạng mía đường được trồng
ngày nay đều là các dạng lai ghép nội chi phức tạp. Chúng được trồng để thu hoạch nhằm
sản xuất đường.
Các loại mía
Một số loại mía được liệt kê dưới đây:
- Saccharum barberi: Mía
- Saccharum bengalense: Mía Bengal
- Saccharum edule : Mía
- Saccharum officinarum: Mía (loài này có được trồng tại Việt Nam)
- Saccharum sinense: Mía lau.
Tính chất
Trên cây mía, thông thường phần ngọn sẽ nhạt hơn phần gốc (trong chiết nước mía). Đó
là đặc điểm chung của thực vật: chất dinh d ngưỡ (ở đây là hàm lượng đường) được tập
trung nhiều ở phần gốc (vừa để nuôi dưỡng cây vừa để dự trữ). Đồng thời, do sự bốc hơi
nước của lá mía, nên phần ngọn cây lúc nào cũng phải được cung cấp nước đầy đủ để
cung cấp cho lá, gây ra hàm lượng nước trong tỉ lệ đường/nước phần ngọn sẽ nhiều hơn
phần gốc, làm cho ngọn cây mía nhạt hơn.
Đặc điểm sinh trưởng


Nhiệt độ
Mía là loại cây nhiệt đới nên đòi hỏi điều kiện độ ẩm rất cao. Nhiệt độ bình quân thích
hợp cho sự sinh trưởng của cây mía là 15-26 C. Giống mía nhiệt đới sinh trưởng chậm ⁰
khi nhiệt độ dưới 21 C và ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ 13 C và dưới 5 C thì cây sẽ ⁰ ⁰ ⁰
chết. Những giống mía á nhiệt đới tuy chịu rét tốt hơn nhưng nhiệt độ thích hợp cũng
giống như mía nhiệt đới.
Thời kì nảy mầm mía cần nhiệt độ trên 15 C tốt nhất là từ 26-33 C. Mía nảy mầm kém ở ⁰ ⁰
nhiệt độ dưới 15 C và trên 40 C. Từ 28-35 C là nhiệt độ thích hợp cho mía vươn cao. Sự⁰ ⁰ ⁰
dao động biên độ nhiệt giữa ngày và đêm liên quan tới tỉ lệ đường trong mía. Giới hạn
nhiệt độ thích hợp cho thời kì mía chin từ 15-20 C. Vì vậy tỉ lệ đường trong mía thường ⁰
đạt ở mức cao nhất cho các vùng có khí hậu lục địa và vùng cao.
Ánh sáng
Mía là cây nhạy cảm với ánh sáng và đòi hỏi cao về ánh sáng. Thiếu ánh sáng, mía phát
triển không tốt, hàm lượng đường thấp. Mía cần thời gian tối thiểu là 1200 giờ tốt nhất là
trên 2000 giờ. Quang hợp của cây mía tỉ lệ thuận với cường độ và độ dài chiếu sáng.
Thiếu ánh sáng cây hút phân kém do đó phân đạm, lân, kali chỉ hiệu quả khi ánh sáng đầy
đủ. Vì vậy ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới mía vươn cao mạnh nhất khi bắt đầu vào mùa
hè có độ dài ngày tăng lên. Chính vì vậy, nó là nhân tố quan trọng quyết định năng suất
và sản lượng mía.
Độ ẩm
Mía là cây cần nhiều nước nhưng lại sợ úng nước. Mía có thể phát triển tốt ở những vùng
có lượng mưa từ 1500mm/năm. Giai đoạn sinh trưởng mía yêu cầu lượng mưa từ 100-
170mm/tháng. Khi chín cần khô ráo, mía thu hoạch sau một thời gian khô ráo khoảng 2
tháng sẽ cho tỉ lệ đường cao. Bởi vậy các nước nằm trong vùng khô hạn nhưng vẫn trồng
mía tốt còn những nơi mưa nhiều và phân bố đều trong năm thì việc trồng mía không
hiệu quả.
Gió bão làm cây đổ dẫn đến làm giảm năng suất, giảm phẩm chất của cây. Chính vì vậy
gió cũng là dấu hiệu quan trọng trong công tác dự báo lên kế hoạch và chế biến làm sao
tốn ít chi phí mà giá trị sản xuất cũng như phẩm chất của mía nguyên liệu vẫn cao.
Độ cao

Độ cao có liên quan đến cường độ chiếu sáng cũng như mức chênh lệch nhiệt độ giữa
ngày và đêm, do đó ảnh hưởng đến khả năng tích tụ đường trong mía, điều đó ảnh hưởng
đến hoạt động của các khâu trong qui trình chế biến. Giới hạn về độ cao cho cây mía sinh
trưởng và phát triển ở vùng xích đạo là 1600m, ở vùng nhiệt đới là 700-800 m…
Đất trồng
Mía là loại cây công nghiệp khoẻ, dễ tính, không kén đất, vậy có thể trồng mía trên nhiều
loại đất khác nhau, từ 70% sét đến 70% cát. Đất thích hợp nhất cho mía là những loại đất
xốp, tầng canh tác sâu, có độ phì cao, giữ ẩm tốt và dễ thoát nước. Có thể trồng mía có
kết quả trên cả những nơi đất sét rất nặng cũng như trên đất than bùn, đất hoàn toàn cát,
đất chua mặn, đất đồi, khô hạn ít màu mỡ. Yêu cầu tối thiểu với đất trồng là có độ sâu, độ
thoáng nhất định, độ PH không vượt quá giới hạn từ 4-9, độ PH thích hợp là C, đất không
ngập úng thường xuyên.°5,5-7,5. Độ dốc địa hình không vượt quá 15 Những vùng đất đai
bằng phẳng cơ giới vận tải tương đối thuận lợi đều có thể bố trí trồng mía. Ngoài ra người
ta có thể canh tác mía ở cả những vùng gò đồi có độ dốc không lớn lắm ở vùng trung du
miền núi. Tuy nhiên ở những vùng địa bàn này cần bố trí các rãnh mía theo các đường
đồng mức để tránh sói mòn đất. Ngành trồng mía chỉ có thể cho hiệu quả kinh tế cao khi
hình thành những vùng chuyên canh có qui mô lớn.
Giá trị kinh
tế
Mía là cây
công nghiệp
lấy đường
quan trọng
của ngành
công nghiệp
đường.
Đường là
một loại thực
phẩm cần có
trong cơ cấu

bữa ăn hàng
ngày của
nhiều quốc gia trên thế giới, cũng như là loại nguyên liệu quan trọng của nhiều ngành sản
xuất công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như bánh kẹo…
Về mặt kinh tế chúng ta nhận thấy trong thân mía chứa khoảng 80-90% nước dịch, trong
dịch đó chứa khoảng 16-18% đường. Vào thời kì mía chin già người ta thu hoạch mía rồi
đem ép lấy nước. Từ nước dịch mía được chế lọc và cô đặc thành đường. Có hai phương
pháp chế biến bằng thủ công thì có các dạng đường đen, mật, đường hoa mai. Nếu chế
biến qua các nhà máy sau khi lọc và bằng phương pháp ly tâm, sẽ được các loại đường
kết tinh, tinh khiết.
Ngoài sản phẩm chính là đường những phụ phẩm chính của cây mía bao gồm:
- Bã mía chiếm 25-30% trọng lượng mía đem ép. Trong bã mía chứa trung bình 49% là
nước, 48% là xơ (trong đó chứa 45-55% cellulose) 2,5% là chất hoà tan (đường). Bã mía
có thể dùng làm nguyên liệu đốt lò, hoặc làm bột giấy, ép thành ván dùng trong kiến trúc,
cao hơn là làm ra Furfural là nguyên liệu cho ngành sợi tổng hợp. Trong tương lai khi mà
rừng ngày càng giảm nguồn nguyên liệu làm bột giấy, làm sợi từ cây rừng giảm đi thì
mía là nguyên liệu quan trọng để thay thế.
- Mật gỉ chiếm 3-5% trọng lượng đem ép. Thành phần mật gỉ trung bình chứa 20% nước,
đường saccaro 35%, đường khử 20%, tro 15%, protein 5%, sáp 1%, bột 4% trọng lượng
riêng. Từ mật gỉ cho lên men chưng cất rượu rum, sản xuất men các loại. Một tấn mật gỉ
cho một tấn men khô hoặc các loại axit axetic, hoặc có thể sản xuất được 300 lít tinh dầu
và 3800 l rượu. Từ một tấn , một ha với kỹ thuật sản°mía tốt người ta có thể sản xuất ra
35-50 lít cồn 96 xuất hiện đại của thế kỷ 21 có thể sản xuất 7000-8000 lít cồn để làm
nhiên liệu. Vì vậy khi mà nguồn nhiên liệu lỏng ngày càng cạn kiệt thì người ta đã nghĩ
đến việc thay thế năng lượng của thế kỷ 21 là lấy từ mía.
- Bùn lọc chiếm 1,5-3% trọng lượng mía đem ép. Đây là sản phẩm cặn bã còn lại sau khi
chế biến đường. Trong bùn lọc chứa 0,5% N, 3% Protein thô và một lượng lớn chất hữu
cơ. Từ bùn lọc có thể rút ra sáp mía để sản xuất nhựa xêrin làm sơn, xi đánh giầy, vv…
Sau khi lấy sáp bùn lọc dùng làm phân bón rất tốt.
Theo ước tính giá trị các sản phẩm phụ phẩm còn cao hơn 2-3 lần sản phẩm chính là

đường.
Mía còn là loại cây có tác dụng bảo vệ đất rất tốt. Mía thường trồng từ tháng 10 đến
tháng 2 hàng năm là lúc lượng mưa rất thấp. Đến mùa mưa, mía được 4-5 tháng tuổi, bộ
lá đã giao nhau thành thảm lá xanh dày, diện tích lá gấp 4-5 lần diện tích đất làm cho
mưa không thể rơi trực tiếp xuống mặt đất có tác dụng tránh xói mòn đất cho các vùng
đồi trung du. Hơn nữa mía là cây rễ chum và phát triển mạnh trong tầng đất từ 0-60cm.
Một ha mía tốt có thể có 13-15 tấn rễ, sau khi thu hoạch bộ rễ để lại trong đất cùng với bộ
lá là chất hữu cơ quý làm tăng độ phì của đất.
Trồng và sử dụng
Những ghi chép lịch sử về mía đã bắt nguồn từ năm 510 TCN. Thời đó, dưới triều vị vua
vĩ đại Darius I, Đế quốc Ba Tư rất hùng mạnh. Khi chinh phạt Ấn Độ, ông tìm thấy mía
và viết: “Loại cây sồi đã mang lại mật ong mà không có ong”. Ngày nay, khoảng 200
quốc gia và vùng lãnh thổ trồng mía đường và sản xuất khoảng 1.324,6 triệu tấn (khoảng
6 lần nhiều hơn sản lượng củ cải đường). Vào năm 2005, nhà sản xuất mía đường lớn
nhất thế giới là Brasil, tiếp theo là Ấn Độ. Người ta dùng mía đường vào sản xuất đường,
xirô Falernum, mật mía, rum, đồ uống không cồn, cachaça (một loại rượu của Brasil) và
cồn để làm nhiên liệu. Bã mía còn lại sau khi ép đường có thể đốt để sản xuất nhiệt –
dùng trong nhà máy- lẫn điện năng – thông thường được bán cho các nhà cung cấp
điện/hệ thống lưới điện. Do chứa nhiều xenluloza nên nó cũng được dùng trong sản xuất
giấy và bìa các tông, được tiếp thị như là “thân thiện môi trường” do được làm từ phụ
phẩm của sản xuất đường.
Các thớ sợi từ mía Bengal (Saccharum munja hay Saccharum bengalense) cũng được
dùng để làm thảm, bức ngăn hay giỏ, rổ v.v tại Tây Bengal. Thớ sợi này cũng được dùng
trong Upanayanam – một nghi lễ tôn giáo của Ấn giáo (Hindu) tại Ấn Độ và vì thế nó
cũng có ý nghĩa về mặt tôn giáo.
Chữa bệnh
Có thể dùng nước mía để chữa bệnh viêm dạ dày mãn tính theo công th cứ sau: Nước mía
– rượu nho mỗi thứ một ly rồi trộn vào nhau, uống mỗi ngày 2 lần (sáng, tối) (bài thuốc
dân gian).
Ngoài ra với một số bệnh khác có thể chữa bằng mía như:

1. Chữa nôn mửa: Nước mía 7 chén + nước gừng 1 chén, nhấp dần. Chữa ăn vào nôn ra,
hoặc sáng ăn chiều nôn, tối ăn sáng nôn ( Sách : Những cây thuốc và vị thuốc Việt
Nam ).
2. Ho gà: Mía lau 3 lóng + rau má 1 nắm + gừng 2 lát . Dùng 2 chén nước sắc uống. Nên
uống dần từng ít.
3. Ho vì hư nhiệt, miệng khô, sổ mũi: Nước mía nấu cháo với hạt kê, ăn vài ngày.
4. Đề phòng hậu sởi: Củ sắn dây 40g + rau mùi 20g + mía 2 đốt. Sắc với 2 chén nước còn
1 chén. Uống nhiều ngày trong khi có dịch sốt.
5. Táo bón do nhiệt kết ở đại tràng: Miệng thở ra có mùi hôi, bụng đầy, nước đái vàng,
nóng, rêu lưỡi vàng mỏng. Vỏ cây đại 40g + phèn chua sống tán mịn 8g + nước mía
300ml. Vỏ cây đại cạo vỏ ngoài, sao, tán mịn, nước mía cô đặc. Trộn đều luyện viên
0,5g. Mỗi lần uống 4g lúc sáng sớm, trước khi đi ngủ. Khi thấy đi cầu được thì thôi .
6. Sốt rét lâu ngày thành báng – Phế lao: ăn mía ngọt nhiều ngày sẽ có hiệu quả. Cần kết
hợp với nhiều cách chữa khác.
7. Viêm dạ dày mạn tính: Nước mía 1 cốc + nước gừng một ít, trộn đều, ngày uống 2 lần.
8. Sốt phiền khát: Mía, củ năn vừa đủ dùng, rửa sạch, thái vụn, sắc uống thay nước chè.
9. Ho do hư nhiệt: Mía vừa đủ dùng, cắt vụn, cho gạo dính vào nấu chè, ăn mỗi ngày 2
lần vào buổi sáng, chiều, mỗi lần 1 bát.
10. Táo bón: Nước mía, mật ong mỗi thứ 1 cốc nhỏ, trộn đều uống lúc đói, ngày 2 lần
vào buổi sáng, buổi chiều.
11. Buồn nôn do thai nghén: Nước mía 1 cốc, nước gừng tươi 1 thìa, ngày uống vài lần.
12. Trẻ em ra mồ hôi trộm: Ăn mía hoặc uống nước mía vài lần.
13. Khó tiểu tiện: Mía rửa sạch, thái vụn + râu ngô + sa tiền thảo, sắc uống ngày 2 lần
sáng, chiều.
Mía là cây thực phẩm, cây thuốc rất quý, chúng ta nên nghiên cứu sử dụng tốt cây mía để
phục vụ cuộc sống nhưng nên chú ý không nên dùng quá nhiều đường.
Chú ý: Các bài thuốc: 2; 3; 4; 5; 6; trích trong sách “Chữa bệnh bằng thức ăn thông
thường” Các bài: 7; 8; 9; 10; 11; 12; 13: trích trong sách Trung Quốc “Những bài thuốc
trị bệnh bằng trái cây”.
Cây mía là một trong những cây công nghiệp quan trọng của nhiều nước vùng nhiệt đới

và á nhiệt đới, là nguyên liệu của công nghiệp chế biến đường và nhiều ngành công
nghiệp khác. Ở nước ta, nghề trồng mía đó cú từ lõu đời. Ngành công nghiệp sản xuất
mía đường luụn là một trong những ngành hàng quan trọng đó được Đảng và Nhà nước
quan tâm.
Năm 1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của khu vực tự do AFTA và
năm 1998 tham gia tổ chức Phát triển Châu á Thái Bình Dương (AFEC). Ngay từ năm
1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hiện
đã ký kết các biên bản ghi nhớ với WTO để tham gia đàm phán trả lời các câu hỏi của tổ
chức này. Bên cạnh đó, một trong những bước đi quan trọng chuẩn bị cho tiến trình hội
nhập vào WTO là việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ năm 2000 và được Chính
phủ phê chuẩn vào năm 2001.
Tất cả các bước đi này đã mở ra một con đường mới với nhiều cơ hội thuận lợi đối với
các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình khẳng định vị trí của mình trên trường quốc
tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta cũng phải đối mặt với vô vàn khó
khăn thách thức. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2001, sức cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam đứng ở vị trí khiêm tốn (49 trên tổng số 53 quốc gia).
Giống như ngành giấy, sản xuất dầu ăn và nhiều ngành khác thì ngành sản xuất đường
mía hiện nay cũng đang đứng trước những thách thức lớn trước tiến trình hội nhập.
Chương trình 1 triệu tấn đường mía (1995) đã đạt được những thành công lớn trên cả mặt
kinh tế cũng như mặt xã hội. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh thương mại thì sản xuất đường
hiện nay chưa mang tính cạnh tranh. Giá đường sản xuất trong nước cao hơn của một số
nước khác từ 1,5 đến 2 lần. Theo báo cáo của 40 doanh nghiệp (2001) sản xuất mía
đường thì có tới 34 doanh nghiệp lỗ nặng, chỉ có 6 doanh nghiệp là có lãi nhưng ít. Tính
đến hết năm 2001 Nhà nước đã phải bù lỗ cho các doanh nghiệp này trên 2000 tỷ đồng.
Sau một thập kỷ phát triển, bên cạnh một số kết quả đó đạt được, ngành mía đường nước
ta vẫn cũn những bất cập khụng nhỏ. Trong bối cảnh thị trường thế giới đang có những
chuyển biến lớn và nước ta trở thành thành viên của tổ chức Thương Mại Thế giới WTO,
việc xây dựng một chiến lược mới cho ngành Mía đường có lẽ là điều không thế không
làm. Giờ đây, với yêu cầu hội nhập, ngành đường không thể cách ly khỏi các điều kiện
thị trường khu vực và thế giới. Nếu không có giải pháp kịp thời, nhanh chóng thì khi hội

nhập hoàn toàn các doanh nghiệp sản xuất đường mía Việt Nam khó lòng mà đứng vững
được khi mà phải đối mặt với đường nhập khẩu chất lượng cao, giá thấp.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành công nghiệp mía đường, đề tài “Phỏt triển
nguồn nguyờn liệu mớa ở Đồng Bằng Sụng Cửu Long – Thực trạng và giải pháp” tụi đưa
ra một vài những nhỡn nhận, đánh giá về thực trạng vấn đề nguồn nguyên liệu đồng thời
đề xuất một số giải phỏp cho vấn đề nguồn nguyên liệu mía ở ĐBSCL trong thời kỳ phỏt
triển mới. Đề tài trỡnh bày một cách tương đối có hệ thống trong đó chủ yếu tập trung
nghiên cứu trong thời gian từ những năm 90 thế kỷ XX đến nay, chủ yếu là thời gian từ
năm 2000 đến năm 2005.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
Các giống củ cải đường được trồng ở VN là các giống chịu nhiệt do Công ty Syngenta lai
tạo. Ba giống củ cải đường chịu nhiệt được đưa vào trồng thử nghiệm ở VN là Posada,
Doratea và HI 0064. Khi được 1,5 tháng tuổi, cây có thể chịu được 45
o
C.
Sau 5 đến 6 tháng, khi thu hoạch, trọng lượng một củ cải đường từ 2 -3 kg. Ước tính, một
ha sẽ cho khoảng 80 tấn củ cải đường. Hàm lượng đường trong củ cải đường từ 14-18%,
trong khi hàm lượng đường trong mía chỉ từ 10 - 12%. Do đó, trồng một ha củ cải đường
sẽ thu họach được từ 11 -16 tấn đường. Còn trồng mía chỉ thu được từ 6 - 10 tấn đường.
Theo Công ty Syngenta, một ưu điểm khác của củ cải
đường là thời gian thu họach ngắn (5-6 tháng, so với
mía là 12 tháng).
Trong khi đó, mỗi vụ trồng củ cải đường cần lượng nước tưới 600-800mm, chỉ bằng 1/3 so với
mía. Với cây củ cải đường, nông dân có thể cải tạo cơ cấu đất, thành phần của luân canh và
nâng cao năng suất mùa vụ.
Bên cạnh trở thành nguyên liệu cho việc sản xuất đường, củ cải đường còn là nguyên liệu cho
ngành chế biến ethanol, một lọai nhiên liệu dùng để phối trộn với xăng tạo ra gasohol. Một tấn củ
cải đường có thể chế tạo được 90 lít ethanol. Một ha của cải đường có thể sản xuất được 7.200
lít ethanol.

Theo thống kê của Hiệp hội Mía
đường Việt Nam, niên vụ sản xuất
mía đường 2004 – 2005 vừa kết
thúc nhưng sản lượng đường chỉ đạt
1 triệu tấn, thiếu so với nhu cầu
dùng cho các ngành sản xuất và tiêu
dùng khoảng 15 vạn tấn
l
l
Đại diện công ty Syngenta cho biết, nếu việc trồng thí điểm củ cải đường chịu nhiệt thành công,
sẽ phát triển diện tích trồng củ cải đường tại VN vào năm 2006 từ 5.000 - 10.000 ha, và 10.000 -
20.000 ha vào năm 2007.
Củ cải đường chịu nhiệt đã được trồng thử nghiệm tại Ấn Độ và một số nước ở Nam Phi vào
những năm 1955. Đến năm 2004, tại Ấn Độ, củ cải đường đã được phát triển và trồng thương
mại, ở những vùng mà lượng mưa hàng năm chỉ có 500 - 600mm. Các nhà máy chế biến đường
từ mía chỉ cần trang bị thêm một số thiết bị ở giai đoạn đầu là có thể thu đường từ củ cải đường.
Thay vì máy ép mía, người ta sẽ đầu tư các loại máy móc để xay nghiền củ cải đường.

×