Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Sự phân bố và phát triển ngành cơ khí Việt Nam và Thế giới mới nhất 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.47 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Những năm đầu của thế kỉ XXI, nhân loại được chứng kiến nhiều biến
đổi lớn của thế giới, nhất là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học hiện đại, mà đặc trưng là các ngành công nghệ cao như công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới – công nghệ nano, công
nghệ năng lượng mới…đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời
sống, kinh tế, chính trị quốc tế, làm thay đổi diện mạo thế giới đương đại.
Trong sự phát triển vĩ đại đó, ngành công nghiệp cơ khí đóng vai trò có tính
nền tảng và có sự hiện diện hầu như trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội
của cộng đồng quốc tế.
Trong những năm gần đây công nghiệp cơ khí tiếp tục có những bước
phát triển mới khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thế giới bằng việc
sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng một cách có hiệu quả
cho yêu cầu phát triển kinh tế, quốc phòng và phục vụ tiêu dùng cho toàn
nhân loại.
NỘI DUNG
1. Khái niệm
Công nghệ cơ khí hay kĩ thuật cơ khí là ngành ứng dụng các nguyên lí
vật lí để tạo ra các loại máy móc hoặc các vật dụng hữu ích. Cơ khí áp dụng
các nguyên lí nhiệt động lực học, định luật bảo toàn khối lượng và năng lượng
để phân tích các hệ vật lí tĩnh và động, phục vụ cho công tác thiết kế trong các
lĩnh vực như ô tô, máy bay và các phương tiện giao thông khác, các hệ thống
gia nhiệt và làm lạnh, đồ dung gia đình, máy móc, thiết bị sản xuất vũ khí…
Các sản phẩm do ngành cơ khí chế tạo ra đều được gọi là sản phẩm cơ khí.
2. Lịch sử ngành cơ khí
2.1. Thế giới
Lịch sử phát triển xã hội loài người trải qua các thời kì khác nhau từ
thời kì đồ đá sang đồ đồng, đồ sắt với các công cụ lao động ngày càng được
cải tiến và gia công từ kim loại. Từ đó hình thành nên các cơ sở sản xuất nhỏ
và mang tính chất thủ công đặt nền móng đầu tiên cho ngành cơ khí, nhưng
chưa thể tạo ra ngành cơ khí theo đúng nghĩa của nó.


Cùng với sự phát triển của sản xuất nhu cầu sử dụng máy móc, thiết bị
ngày càng nhiều đòi hỏi các sản phẩm của ngành cơ khí phải đáp ứng kịp thời
trình độ phát triển của xã hội và nhu cầu cuộc sống con người. Để đáp ứng
được nhu cầu đó con người không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tạo ra các sản
phẩm cơ khí mới.
Sự bùng nổ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở Anh
vào cuối TK XVIII đầu TK XIX với sự ra đời máy kéo sợi Giên-ni ( 1764) đã
đánh dấu bước ngoặc quan trọng nhất trong lịch sử phát triển ngành cơ khí.
Tiếp theo sau đó là sự ra đời của hàng loạt các loại máy chế tạo khác khẳng
định được vị thế của ngành cơ khí.
+ 1769: Ac-crai-tơ đã chế tạo ra máy kéo sợi chạy bằng hơi nước
+ 1784: Giêm-oat phát minh ra máy hơi nước
+ 1785: Các-rai chế tạo máy dệt chạy bằng sức nước
+ 1814: Xti-phen-xơn chế tạo thành công đầu máy xe lửa làm bùng nổ hệ
thống đường sắt ở châu Âu và châu Mỹ
+ Trong nông nghiệp máy móc cũng thâm nhập và đưa vào sử dụng
nhiều như: máy cày, máy bừa, máy gặt…
Không chỉ dừng lại ở nước Anh cuộc cánh mạng còn ảnh hưởng đến
các nước Tây Âu và Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và sau đó là toàn thế giới
mở rộng phạm vi của ngành cơ khí.
Vị thế ngành cơ khí tiếp tục được khẳng định trong cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 2 diễn ra nửa sau TK XIX đầu TK XX với động lực của
cuộc cách mạng là động cơ đốt trong và máy móc sử dụng điện.
Từ đó cho đến nay ngành cơ khí tiếp tục phát triển và đạt được nhiều
thành tựu, trở thành ngành then chốt đối với nền kinh tế của tất cả các quốc
gia.
2.2. Việt Nam
Tiền thân của ngành cơ khí là các nghề thủ công tạo ra công cụ sản
xuất, các binh khí…phục vụ công cuộc dựng nước và giữ nước. Ở nước ta
nghề rèn đúc đã xuất hiện từ thời Hùng Vương ( cách đây 4000 năm ), rồi đến

thời kì đồng thau.
Thời Pháp thuộc cũng chưa tạo ra ngành cơ khí đúng nghĩa mà chỉ
đóng khung ở sửa chữa, lắp ráp một số phương tiện nhỏ như nhà máy xe lửa
Gia Lâm ( Hà Nội ), Tràng Thi ( Nghệ An )…lớn nhất là sữa chửa tàu biển ở
Ba Son ( Sài Gòn).
* Sau năm 1954:
+ Ở miền Bắc dựa vào cơ sở cơ khí từ căn cứ kháng chiến chuyển về,
được sự giúp đỡ của Liên Xô cũ năm 1958 xây dựng nhà máy cơ khí Trần
Hưng Đạo ( Hà Nội ) sản xuất động cơ các loại, sau đó là nhà máy cơ khí
công cụ số 1 sản xuất các máy công cụ hạn nhẹ và hạn nặng, được coi là đứa
con đầu lòng của ngành cơ khí ở miền Bắc. Tiếp theo đó một số nhà máy cơ
khí chuyên ngành cũng ra đời: cơ khí chế tạo mỏ, cơ khí lâm nghiệp, cơ khí
nông nghiệp…
+ Ở miền Nam chủ yếu là gia công, sữa chửa, lắp ráp các thiết bị lẻ
phục vụ đời sống như: xe máy, máy khâu, tủ lạnh, máy thu thanh…
* Từ sau 1975 đến nay:
Tuy có những bước thăng trầm nhưng ngành cơ khí đã phát triển tương
đối toàn diện, có sự chuyên môn hóa theo một số ngành cần thiết phục vụ cho
nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ nặng về sửa chữa chúng ta đã có ngành cơ khí
chế tạo với trình độ phức tạp như sản xuất máy công cụ chính xác, cơ khí điện
tử…có thể chế tạo được nhiều loại máy công cụ loại vừa và nhỏ cùng các
thiết bị chuyên ngành như: thiết bị điện, máy bơm các loại, máy kéo…
Bên cạnh đó với đội ngũ thợ lắp ráp lành nghề đạt trình độ cao ngành
cơ khí đủ sức lắp ráp các máy móc, thiết bị kĩ thuật hiện đại như: thiết bị
thủy- nhiệt điện, giàn khoan dầu khí, lắp ráp xe hơi, các thiết bị điện tử vi
mạch phức tạp.
3. Vai trò của ngành cơ khí
- Công nghiệp cơ khí đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các ngành
công nghiệp. Nó không chỉ là “quả tim” của công nghiệp nặng, mà còn là
“máy cái” của nền sản xuất xã hội. Công nghiệp cơ khí cung cấp máy công

cụ, máy động lực, thiết bị toàn bộ cho tất cả các ngành kinh tế và hàng tiêu
dùng cho nhu cầu của con người.
- Sự ra đời của công nghiệp cơ khí tạo ra bước nhảy vọt về công cụ
lao động góp phần vào việc chuyển từ lao động cơ bắp sang lao động bằng
máy móc, góp phần thực hiện nội dung cơ bản của cách mạng khoa học kĩ
thuật về công cụ lao động, giúp người lao động thoát khỏi môi trường làm
việc nặng nhọc, có tính chất độc hại, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ (nhiệt độ
cao, có chất độc ), khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng lên nhanh chóng,
tiết kiệm chi phí sản xuất.
- Công nghiệp cơ khí có tác dụng thúc đẩy việc thực hiện điện khí
hoá, hoá học hoá quá trình sản xuất, phân công lao động trong công nghiệp
nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
- Công nghiệp cơ khí với hệ thống các máy móc, thiết bị đóng vai trò
tích cực vào quá trình cải tạo và sử dụng tự nhiên, nâng cao mức sống cho con
người. Đây có thể coi là ngành chủ chốt không chỉ về giá trị sản xuất, mà cả
về số lượng đông đảo công nhân trong toàn bộ ngành công nghiệp.
- Đối với các nước đang phát triển, trước yêu cầu phải chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công nghiệp cơ khí
phải đủ sức mạnh để thực hiện các nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp,
để đổi mới công nghệ cho các ngành kinh tế. Công nghiệp cơ khí góp phần
từng bước biến nền sản xuất với kỹ thuật lạc hậu thành nền sản xuất với kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại, có năng suất lao động cao, góp phần đẩy mạnh tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
4. Đặc điểm kinh tế - kĩ thuật
Công nghiệp cơ khí tạo ra hàng loạt sản phẩm rất đa dạng, nhưng lại
có đặc điểm chung về quy trình công nghệ. Đó là từ kim loại (và các vật liệu
khác) chế tạo ra các bộ phận (chi tiết) riêng, sau đó được lắp ráp lại thành sản
phẩm hoàn chỉnh (máy thành phẩm, ô tô, máy bay ).
Các xí nghiệp của ngành chế tạo cơ khí có sự liên kết chặt chẽ với
nhau và với các xí nghiệp của các ngành công nghiệp khác. Vì thế, ngành này

có khả năng phát triển rộng rãi hình thức chuyên môn hoá và hợp tác hoá với
xu hướng tập trung thành từng cụm và trung tâm công nghiệp gồm nhiều nhà
máy có sự phân công và hợp tác sản xuất các bộ phận, chi tiết, thiết bị.
Ngoài nhiệm vụ chế tạo, ngành công nghiệp cơ khí còn sửa chữa các
máy móc, thiết bị cho tất cả các ngành công nghiệp. Vì thế cùng với xu hướng
phân bố tập trung, nó còn có xu hướng phân bố phân tán khắp các vùng để
đáp ứng nhu cầu sửa chữa.
Các sản phẩm của ngành cơ khí là loại sản phẩm được lắp ráp từ nhiều
bộ phận, chi tiết, được sản xuất theo các công nghệ khác nhau, với đặc điểm
và yêu cầu kĩ thuật khác nhau nên các sản phẩm cơ khí đòi hỏi độ chính xác
cao nhằm tạo ra sự đồng bộ và có thể vận hành một cách an toàn.
5. Phân loại
5.1. Phân ngành cơ khí
* Ngành cơ khí phân ra làm 4 phân ngành:
Phân ngành cơ khí thiết bị toàn bộ: máy có khối lượng và kích thước
lớn (sản xuất ra các máy cái: máy tiện, máy phay, máy bào…; máy phục vụ
cho các ngành giao thông, năng lượng, nông nghiệp…) sử dụng nhiều kim
loại đòi hỏi trình độ kĩ thuật cao, lao động lành nghề, thường tập trung ở các
vùng luyện kim ở các nước công nghiệp phát triển.
Phân ngành cơ khí máy công cụ: máy có khối lượng và kích thước
trung bình (cho giao thông: ô tô, mô tô, ca nô; cho nông nghiệp: máy bơm,
xay xác…; cho công nghiệp: máy dệt, máy may…) có mặt hầu hết ở các nước
phát triển và đang phát triển với mức độ khác nhau.
Phân ngành cơ khí hàng tiêu dùng ( cơ khí dân dụng: máy giặt, tủ
lạnh…, máy phát điện và động cơ điện loại nhỏ…) có hai xu hướng phát triển
và phân bố: các sản phẩm có chất lượng cao được tập trung ở các nước công
nghiệp phát triển, còn sản xuất theo mẫu có sẵn, lắp ráp, sửa chữa tập trung
nhiều tại các nước đang phát triển.
Phân ngành cơ khí chính xác ( thiết bị y tế, quang học, thiết bị nghiên
cứu, kĩ thuật điện, chi tiết máy của ngành hàng không, vũ trụ…) chỉ có ở các

nước công nghiệp phát triển vì đòi hỏi sự đầu tư lớn về khoa học – công nghệ,
vốn, lao động kĩ thuật.
5.2. Phân loại sản phẩm cơ khí
Có nhiều cách phân loại sản phẩm cơ khí khác nhau dựa trên các tiêu
chí khác nhau:
* Căn cứ vào công nghệ sản xuất phân thành 3 nhóm:
+ Sản phẩm cơ khí chính xác
+ Sản phẩm cơ khí chế tạo
+ Sản phẩm cơ khí lắp ráp
* Căn cứ vào mục đích sử dụng các sản phẩm cơ khí phân thành 4 nhóm:
+ Cơ khí giao thông
+ Cơ khí xây dựng
+ Cơ khí phục vụ nông- lâm- ngư nghiệp
+ Cơ khí đóng tàu
* Căn cứ vào công dụng của các sản phẩm trong ngành kinh tế phân ra:
+ Máy công cụ
+ Máy nông-lâm-ngư nghiệp
+ Dụng cụ cầm tay và đồ cơ kim khí gia dụng
6. Tình hình phát triển và phân bố trên thế giới
6.1. Phân bố
BẢN ĐỒ PHÂN BỐ NGÀNH CƠ KHÍ TRÊN THẾ GIỚI
Ô tô và máy thu hình lá những sản phẩm chính của ngành cơ khí.
Nhìn vào bản đồ ta thấy ô tô, máy thu hình nói riêng và ngành cơ khí nói
chung phân bố chủ yếu ở Châu Mĩ, Châu Âu và Châu Á:
+ Châu Mĩ: Hoa Kì, Canada, Brazin
+ Châu Âu: Chủ yếu các nước EU như Anh, Pháp, Đức, Italia, Tây Ban
Nha, Thổ Nhĩ Kì
+Châu Á: LB Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia, Ấn Độ
 Nhìn Chung ngành cơ khí phân bố tập trung ở các nước phát triển, do đặc
điểm của ngành đòi hỏi trình độ khoa học –kĩ thuật cao, nguồn vốn lớn, lao

động có trình độ, tay nghề cao… Trên thế giới các vùng và trung tâm công
nghiệp cơ khí thường gắn liền với công nghiệp luyện kim như vùng Đông Bắc
Hoa Kỳ với trung tâm Đitơroi và Chicagô; vùng Rua ở CHLB Đức, vùng
Đoong- kec và Loren ở Pháp; vùng Uran và vùng Trung tâm ở Liên bang
Nga; vùng ven biển phía Đông của Nhật Bản với các trung tâm Tôkiô,
Iôcôhama; vùng Đông Bắc Trung Quốc và duyên hải phía Đông với các trung
tâm Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải; vùng Tây Bắc Ấn Độ với trung tâm
Mumbai.
6.2. Tình hình phát triển
a. Theo quốc gia
Ngành công nghiệp cơ khí trên thế giới chế tạo ra đủ loại sản phẩm
phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Các nước kinh tế phát triển như Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Nga đi đầu trong lĩnh vực này bởi vì nó đã được
phát triển và hoàn thiện qua hai cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và
lần thứ hai.
Các sản phẩm của ngành công nghiệp cơ khí rất phong phú và đa dạng.
Trong số này, quan trọng nhất là các máy công cụ, các máy đo lường chính
xác dùng trong công nghiệp và nghiên cứu khoa học, các máy móc và thiết bị
phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
Trình độ phát triển giữa các nước còn có sự chênh lệch khá lớn. Ở một
số nước phát triển, công nghiệp cơ khí chiếm từ 30 đến 40% giá trị sản xuất
công nghiệp như CHLB Đức (40%), Nhật Bản (40%), Hàn Quốc (30%)…
Thực tế cho thấy ngành cơ khí đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế thế giới. Việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm cơ khí
tạo nên sự giàu có của các quốc gia phát triển trong thời gian trước đây và
thúc đẩy phát triển kinh tế ở hiện tại cũng như trong tương lai.
Bảng 1.1. Quy mô của ngành cơ khí chế tạo ở một số nước giai đoạn
1995 – 2006 ( đơn vị: % )
Nước
Tăng trưởng về sản lượng các sản

phẩm cơ khí
Tỉ trọng trong tổng xuất
khẩu
Hoa Kì 44.0 52.3
Nhật bản 6.0 71.9
Đức 21.0 75.8
Anh 5.0 46.0
Pháp 20.0 28.7
Italia 7.2 68.9
Trung Quốc 90.0 84.5
Ấn Độ 88.0 60.7
Nguồn: EIU ( Cơ quan tình báo kinh tế thế giới )
Nhận xét:
+ Sản lượng các sản phẩm cơ khí của các nước đều tăng, tuy nhiên mức
độ tăng khác nhau, tăng cao nhất là Trung Quốc ( 90%), tiếp đến là Ấn Độ
( 88%), Hoa kì ( 44%)
+ Các nước phát triển thì tăng chậm hơn: Anh (5%), Nhật Bản (6%),
Italia (7.2%)
+ Các sản phẩm cơ khí chế tạo chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị xuất
khẩu toàn ngành cơ khí của các nước, lớn nhất Trung Quốc (84.5%), Đức
(75.8%), Nhật Bản (71.9%), Italia (68.9%), Ấn Độ (60.7%)
Như vậy ta thấy, hiện nay sản xuất các sản phẩm cơ khí ở các nước
phát triển đang có xu hướng chuyển sang các nước đang phát triển. Trung
Quốc đang trở thành nước đóng vai trò quan trong trong sản xuất và xuất
khẩu các sản phẩm cơ khí.
b. Khu vực
Bảng 1.2 Thị phần sản phẩm cơ khí chế tạo của các khu vực trên thế giới
(đơn vị: %)
Bắc



La
Tinh
Tây
Âu
Các
nươc
EU
Đông
Âu
Trung
Đông &
Châu Phi
Châu
Á
Năm 2006 29.3 5.0 30.2 2.3 2.3 6.4 24.5
Giai đoạn
2002-2005
26.3 5.1 27.9 2.9 2.6 6.8 24.4
Nguồn: UN comtrade statistics
Nhận xét:
Thị phần các sản phẩm cơ khí chế tạo lớn nhất là khu vực Tây Âu, Bắc
Mĩ và Châu Á, nhỏ nhất là khu vực Đông Âu và các nước EU.
Thị phần các sản phẩm cơ khí chế tạo của các khu vực trên thế giới có
sự biến động theo 2 xu hướng:
+ Khu vực Bắc Mĩ, Tây Âu và Châu Á tăng lên: Bắc Mĩ tăng từ 26.3%
(2002 – 2005) lên 29.3% (2006), Tây Âu tăng từ 27,9% (2002 – 2005) lên
30.2%( 2006), Châu Á có tăng nhưng tăng rất chậm từ 24.4% (2002-2005) lên
24.5% (2006).
+ Các khu vực còn lại có xu hướng giảm: giảm mạnh nhất là các nước

EU từ 2.9% (2002-2005) xuống 2.3% (2006), Đông Âu giảm từ 2.6% (2002-
2005) xuống 2.3% (2006).
Hiện nay thị phần các sản phẩm cơ khí của các nước Tây Âu và Bắc
Mỹ trên thị trường thế giới đang có xu hướng giảm, khoảng 30% các doanh
nghiệp cơ khí lớn trên thế giới đang tập trung vào thị trường Châu Á. Sự phát
triển của ngành cơ khí ở Châu Á không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội lớn
đối với phát triển kinh tế của các nước.
Bên cạnh việc phát triển tiêu thụ trong nước, các tập đoàn cơ khí chế
tạo lớn đang đẩy mạnh bán sản phẩm sang thị trường nước ngoài. Doanh thu
của các sản phẩm cơ khí ngày càng tăng trên thị trường các nước phát triển,
nơi có giá bán sản phẩm cơ khí cao nhưng cũng đòi hỏi phải đáp ứng được
những yêu cầu khắc khe về kĩ thuật sản xuất và môi trường.
Mặt khác các tập đoàn cơ khí đang tận dụng quá trình toàn cầu hóa để
sản xuất sản phẩm tại nơi có chi phí thấp nhất. Vì vậy họ đã di chuyển sản
xuất sang khu vực có ưu đãi đầu tư và sản xuất hàng hóa với chi phí thấp, chỉ
để lại bộ phận nhỏ sản xuất ở thị trường nội địa. Tuy nhiên hiện nay họ cũng
đối mặt với tình hình lao động trình độ thấp và không có kĩ năng ở nhiều nước
đang phát triển.
6.3. Tình hình xuất, nhập khẩu
a. Xuất khẩu
* Nhóm sản phẩm máy động lực
Các nước xuất khẩu máy động lực chính bao gồm: Hoa Kì, Đức, Nhật
Bản, Anh. Bốn nước này chiếm 51.76% giá trị xuất khẩu máy động lực trên
thị trường thế giới.
Thị trường máy động lực trên thế giới chủ yếu vẫn do các nước phát
triển nắm giữ. Các nước đang phát triển có giá trị xuất khẩu máy động lực
không lớn. Nguyên nhân là do các sản phẩm máy động lực chủ yếu là những
sản phẩm được chế tạo với những chi tiết phức tạp, có yêu cầu về trình độ kĩ
thuật cao, mặt khác để sản xuất được những sản phẩm này cần chi phí rất lớn,
đây sẽ là rào cản rất lớn đối với các nước mới gia nhập.

Bảng 1.3 Xuất khẩu máy động lực thế giới phân theo thị trường qua các năm
2002 2004 2007
Trị giá
(tỉ USD)
Thị
phần
(%)
Trị giá
(tỉ USD)
Thị
phần
(%)
Trị giá
(tỉ USD)
Thị
phần
(%)
Trung Quốc 3.04 1.72 5.86 2.39 10.70 3.59
Pháp 11.6 6.56 16.22 6.61 18.10 6.07
Đức 25.24 14.26 41.61 16.96 46.67 15.65
Ấn Độ - - 0.82 0.33 1.33 0.45
Italia 8.78 4.96 13.67 5.57 13.42 4.50
Nhật Bản 18.9 10.71 24.43 9.96 29.23 9.79
Malaysia 0.68 0.39 0.86 0.35 1.24 0.42
Hàn Quốc 1.97 1.11 2.64 1.08 4.04 1.35
Thái Lan 0.85 0.48 2.14 0.87 2.58 0.86
Anh 17.69 9.96 21.27 8.67 24.71 8.28
Hoa Kì 37.14 20.98 41.37 16.87 53.85 18.04
Nguồn: UN comtrade statistic
Nhận xét:

Nhìn chung , trị giá xuất khẩu máy động lực của các nước tăng qua các
năm, trong khi đó thị phần xuất khẩu có sự khác nhau giữa các nước.
+ Thị phần xuất khẩu máy động lực từ 2002 đến 2007 của Trung
Quốc tăng 1.87%, Pháp 1.39%, Ấn Độ 0.45%, Hàn Quốc 0.24%
+ Thị phần xuất khẩu máy động lực các nước Hoa kì giảm 2,94%, Anh
1.76%, Italia 0.46%
Vị trí các nước về kim ngạch xuất khẩu máy động lực đang có những
thay đổi đáng kể. Thị phần của Hoa Kì giảm đi trong khi Trung Quốc tăng lên
với tốc độ tương đối nhanh. Hiện nay Trung Quốc đã trở thành một trong
những nước xuất khẩu máy động lực lớn trên thế giới.
*Nhóm sản phẩm cơ khí phục vụ nông –lâm – ngư nghiệp
Trong những năm gần đây, xuất khẩu các sản phẩm cơ khí phục vụ
nông – lâm – ngư nghiệp trên thế giới tăng lên nhanh chóng.
Nhận xét:
+ Thị phần xuất khẩu các sản phẩm cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư
nghiệp cũng tập trung chủ yếu ở các nước phát triển. Đức, Hoa Kì, Italia là
những nước dẫn đầu với thị phần tương ứng là 19.96%, 13.82%, 7.88%.
+ Các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ chỉ chiếm một
phần nhỏ trên thị trường thế giới ( Trung Quốc 2.04%, Ấn Độ 0.78%).
Nguyên nhân chủ yếu là do các sản phẩm cơ khí xuất khẩu phục vụ nông –
lâm – ngư nghiệp là các sản phẩm có công nghệ trung bình và thấp nên giá trị
không cao.
Bảng 1.4 Giá trị xuất khẩu các sản phẩm cơ khí phục vụ nông – lâm –
ngư nghiệp của các nước qua các năm (đơn vị: tỉ USD)
2002 2004 2007
Trung Quốc 0.33 0.64 1.44
Pháp 2.76 4.41 4.69
Đức 7.80 12.61 14.10
Ấn Độ - 0.19 0.55
Italia 3.52 4.90 5.57

Nhật Bản 1.37 2.25 2.65
Hàn Quốc 0.15 0.30 0.44
Malaysia 0.035 0.057 0.092
Thái Lan 0.038 0.059 0.086
Anh 1.83 2.04 2.87
Hoa Kì 5.32 6.85 9.77
Nguồn: UN comtrade statistic
*Nhóm sản phẩm thiết bị kĩ thuật điện
Trong năm 2007, các quốc gia có thị phần xuất khẩu lớn đối với nhóm
sản phẩm này là Trung Quốc (16.13%), Đức (9.96%), Hoa Kì (8.44%). Một
số nước Châu Á cũng giữ thị phần tương đối lớn trên thị trường thế giới như:
Nhật Bản (6,99%), Hàn Quốc (2.88%)
Hiện nay việc sản xuất nhiều loại thiết bị kĩ thuật điện được các nước
phát triển chuyển giao sang sản xuất tại các nước đang phát triển, nơi có chi
phí sản xuất thấp hơn như: Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia…
Giá trị xuất khẩu của nhóm thiết bị kĩ thuật điện có mức độ phân tán
cao hơn so với nhóm máy động lực và nhóm sản phẩm cơ khí phục vụ nông –
lâm – ngư nghiệp.
Tuy nhiên, thiết bị kĩ thuật điện là nhóm có tốc độ tăng trưởng trung
bình tương đối thấp. Trong năm 2003 giá trị xuất khẩu thiết bị kĩ thuật điện
thế giới giảm 13.87%, năm 2007 thị trường bắt đầu phục hồi và tăng trưởng
trở lại đạt mức 7.98%.
Bảng 1.5 Mười nước đứng đầu thế giới trong xuất khẩu máy móc, thiết bị cơ
khí năm 2010
Nguồn: UN comtrade statistics
b. Nhập khẩu
*Nhóm sản phẩm máy động lực
Thị trường nhập khẩu máy động lực là một trong những thị trường có
tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2007 kim ngạch nhập khẩu máy động lực thế
giới đạt 280.57 tỉ USD. Các nước phát triển vừa là nước xuất khẩu đồng thời

cũng là nước nhập khẩu máy động lực lớn trên thế giới.
Hoa Kì là nước nhập khẩu máy động lực lớn nhất thế giới với thị phần
nhập khẩu chiếm 19.12%, tiếp đến là Đức (10.41%), Anh (6.69%).
Các nước đang phát triển có vai trò không lớn trên thị trường nhập
khẩu máy động lực thế giới. Kim ngạch nhập khẩu máy động lực năm 2007
của Trung Quốc chỉ chiếm 4.94% của thế giới, Ấn Độ 0.99%, Thái Lan
1.54%, Malayxia 1.01%
Tên nước Giá trị ( tỉ USD)
Đức 195.80
Hoa Kì 155.84
Trung Quốc 149.55
Nhật Bản 144.20
Italia 85.02
Pháp 54.55
Anh 53.18
Hàn Quốc 48.26
Hà Lan 48.17
Xingapo 43.67
*Nhóm sản phẩm phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp

Các nước phát triển vẫn là những nước nhập khẩu sản phẩm cơ khí
phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp lớn trên thế giới. Trong đó Hoa Kì là nước
nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 17,56% của thế
giới, tiếp đến là Pháp chiếm 8.62%, Anh 4.87% và Đức 4.52%.
Các nước đang phát triển cũng là nước nhập khẩu khối lượng khá lớn
các sản phẩm cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp. Tuy nhiên, cùng với
nền nông nghiệp chưa phát triển và chưa được chuyên môn hóa cao nên thị
phần nhập khẩu các sản phẩm này còn hạn chế. Trung Quốc chỉ chiếm 1.01%
thị phần thế giới, Ấn Độ 0.28%, Malayxia 0.42%, Thái Lan 1.14% Nguyên
nhân là do nhu cầu tiêu dùng của các nước còn hạn chế, mặt khác các nước

này đang theo đuổi chiến lược sản xuất trong nước thay thế nhập khẩu nên giá
trị các sản phẩm cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp nhập khẩu không
lớn.
*Nhóm thiết bị kĩ thuật điện
Thiết bị kĩ thuật điện là các sản phẩm cần thiết đối với mọi nền kinh tế
nên hầu hết các nước đều tiêu dùng loại sản phẩm này. Do tính chất đa dạng
của các sản phẩm nên không có nước nào có thể tự sản xuất được tất cả các
sản phẩm để đáp ứng yêu cầu tiêu thụ nội địa. Vì vậy ngay cả những nước
đứng đầu thế giới về xuất khẩu một số thiết bị kĩ thuật điện cũng phải nhập
khẩu các loại thiết bị điện khác mà họ chưa sản xuất được để phục vụ nhu cầu
trong nước.
Các nước nhập khẩu thiết bị kĩ thuật điện lớn là Hoa Kì (19.57%), Đức
(6.41%), Nhật Bản (4.55%). Ngoài ra một số nước thuộc nhóm công nghiệp
mới như Hàn Quốc và những nước đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ
như Trung Quốc cũng nhập khẩu một khối lượng lớn các thiết bị kĩ thuật điện
từ nước khác.
Bảng 1.6 Mười nước đứng đầu thế giới trong nhập khẩu máy móc, thiết bị cơ
khí năm 2010
Tên nước Giá trị ( tỉ USD )
Hoa Kì 173.18
Trung Quốc 142.60
Đức 97.91
Pháp 55.02
Anh 52.45
Canada 45.93
Hồng Kông 42.52
Hàn Quốc 42.25
Xingapo 39.65
Mêxico 39.56
Nguồn: UN comtrade statistics

7. Tình hình phát triển và phân bố ngành cơ khí ở Việt Nam
7.1. Phân Bố
Ở nước ta công nghiệp cơ khí phân bố ngày càng hợp lí hơn, hiện nay
phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và vùng Đông Nam Bộ chiếm gần
90% giá trị sản xuất công nghiệp cơ khí cả nước và phân làm 2 xu hướng:
- Xu hướng 1: là xây dựng những trung tâm cơ khí mạnh, đóng vai trò
hạt nhân trang bị kĩ thuật cho một lãnh thổ nhất định.
+ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là 2 trung tâm chế tạo máy móc, công
cụ sản xuất lớn nhất cả nước, đây cũng là 2 trung tâm nghiên cứu khoa học –
kĩ thuật lớn. Sản phẩm làm ra có ý nghĩa toàn quốc.
+ Các thành phố công nghiệp khác như: Thái Nguyên, Hạ Long – Cẩm
Phả, Hải Phòng, Đà Nẵng, Biên Hòa, Cần Thơ, Thanh Hóa, Nam Định,
Vinh…là các trung tâm thường chỉ có một hoặc hai chức năng về cơ khí và
đóng vai trò chuyên môn hóa sâu trong sản xuất dựa vào thế mạnh của mình
- Xu hướng 2: là xu hướng trải rộng và đều khắp ở các tỉnh để phục vụ
nhu cầu tại chỗ với các ngành cơ khí nông nghiệp (sản xuất thiết bị, sữa
chữa); cơ khí sữa chữa phương tiện vận tải ( ô tô, tàu sông) và tham gia sản
xuất hàng tiêu dùng.
7.2. Tình hình phát triển
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, hiện cả nước có khoảng 3100
doanh nghiệp (DN) cơ khí, với 53000 cơ sở sản xuất, trong đó có gần 450 DN
quốc doanh, 1250 cơ sở sản xuất tập thể, 156 xí nghiệp tư doanh Khoảng
50% cơ sở sản xuất cơ khí chuyên chế tạo, lắp ráp, còn lại chủ yếu là các cơ
sở sửa chữa. Tổng số vốn của ngành cơ khí quốc doanh vào khoảng 360 – 380
triệu USD, tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào ngành cơ khí khoảng 2.1
tỷ USD, trong đó hơn 50% tập trung vào lĩnh vực lắp ráp ô tô, xe máy và các
mặt hàng tiêu dùng khác.
Nhận xét:
Nhìn chung giá trị sản xuất toàn ngành cơ khí giai đoạn 1995 – 2007
tăng.

+ Từ năm 1995 – 2005 tăng tương đối nhanh, năm 2005 tăng gấp 6.5
lần so với năm 1995; từ 13,839 tỉ đồng (năm 1995) lên 89,780 tỉ đồng (năm
2005) tức tăng 75,941 tỉ đồng.
+ Từ năm 2005 – 2007 tăng nhanh, đặc biệt từ 2006 – 2007, năm 2007
tăng gấp 1.23 lần so với năm 2006 ( từ 91,737 tỉ đồng lên 113,317 tỉ đồng).
Tuy nhiên, ngành cơ khí Việt Nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với các
nước trong khu vực. Theo xếp hạn về hiệu suất công nghiệp, Việt Nam hiện
đứng sau Inđônêsia 15 bậc, sau Philippin 25 bậc, sau Thái Lan, Malayxia…
Trong 10 năm tận dụng ưu đãi của Chính phủ theo quyết định 186 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “ Chiến lược phát trển ngành cơ khí Việt
Nam đến 2010, tầm nhìn đến 2020 ”, ngành cơ khí mới chỉ chế tạo được thiết
bị đồng bộ cho các lĩnh vực nhiệt điện, xi măng, hóa chất, đóng tàu biển và
lắp ráp ô tô.
Hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam mới đáp ứng 34% nhu cầu sản phẩm
cơ khí trong nước, 64% thị phần còn lại rơi vào tay các doanh nghiệp cơ khí
nước ngoài. Nhiều dự án tổng thầu xây dựng nhà máy, công trình quốc gia,
doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đều thua các nhà thầu ngoại.
7.3. Tình hình xuất nhập khẩu
a. Xuất khẩu
Hiện nay, nhiều mặt hàng cơ khí do các doanh nghiệp Việt Nam sản
xuất ra không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu
được sang thị trường của nhiều nước trên thế giới, kể cả thị trường của các
nước phát triển.
Các thị trường xuất khẩu sản phẩm cơ khí chính của Việt Nam là: Nhật
Bản, các nước Trung Đông, Nam Mĩ, các nước Châu Phi, đặc biệt là các nước
trong khu vực ASEAN như: Philippin, Inđônêsia, Thái Lan…
+ Nhóm sản phẩm máy động lực: thị trường xuất khẩu ban đầu chủ yếu
là các nước trong khu vực ASEAN sau đó mở rộng dần sang Trung Quốc,
Hàn Quốc, Đài Loan…Một số sản phẩm đã được xuất khẩu sang các nước
phát triển như Nhật Bản, EU, Hoa Kì, Austraylia…

+ Nhóm các sản phẩm cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp và công
nghiệp chế biến: thị trường xuất khẩu được mở rộng từ các nước ASEAN
sang Hàn Quốc, Đài Loan, Hoa Kì…Đến nay các sản phẩm cơ khí thuộc
nhòm này đã xuất hiện trên thị trường các nước Châu Phi, Trung Mĩ…
+ Nhóm sản phẩm cơ khí thiết bị kĩ thuật điện: thị trường xuất khẩu chủ
yếu của Việt Nam là Nhật Bản ( chiếm 90%), Hàn Quốc, Austraylia, Hồng
Kông…Các thị trường nhập khẩu có khả năng tăng trưởng cao là Hoa Kì,
Đức, Trung Quốc, Mêhicô, Pháp…
Bảng 1.7 giá trị xuất khẩu toàn ngành cơ khí giai đoạn 2005 – 2010
Năm Giá trị ( đv: triệu USD )
2005 779.90
2006 970.92
2007 654.53
2008 1230.30
2009 1064.53
2010 1315.58
Nguồn: UN comtrade statistic
b. Nhập khẩu
Hàng năm, Việt Nam phải chi một khoảng chi phí lớn để nhập khẩu
thiết bị cơ khí phục vụ cho nhiều ngành kinh tế quan trọng. Thị trường cơ khí
của Việt Nam tăng trưởng rất mạnh.
Việt Nam có thị trường cơ khí được đánh giá là khá lớn, với tốc độ tăng
trưởng trên 20% trên một năm nên Việt Nam là thị trường tiềm năng mà
nhiều doanh nghiệp nước ngoài hướng đến.
Một số thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam là Trung Quốc, Đài
Loan, Xingapo, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malayxia, Hoa Kì, Hồng
Kông. Đối với các nước này Việt Nam luôn ở vị thế nhập siêu. Ngoài 9 thị
trường trên Việt Nam còn nhập khẩu sản phẩm cơ khí của Đức, Liên Bang
Nga, Thụy Sĩ, Pháp…
Bảng 1.8 Giá trị nhập khẩu toàn ngành cơ khí giai đoan 2005 - 2010

Năm Giá trị ( triệu USD )
2005 4049.95
2006 5269.77
2007 7963.42
2008 10242.67
2009 9013.21
2010 10448.50
Nguồn: UN comtrade statistics
7.4. Những tồn tại, hạn chế của ngành cơ khí Việt Nam và giải pháp
a. Những tồn tại, hạn chế
Công nghệ chế tạo sản phẩm cơ khí của Việt Nam còn khá đơn giản và
lạc hậu, không có sự chuyển giao công nghệ, trong khi đó đầu tư cho cơ khí
nhỏ bé, phân tán, dàn trãi, ít quan tâm đầu tư theo chiều sâu.
Các sản phẩm cơ khí mẫu mã chưa đa dạng, chất lượng thấp, giá thành
cao nên sức cạnh tranh kém so với các nước trong khu vực.
Sản phẩm cơ khí Việt Nam chưa có thương hiệu riêng, chưa tạo được
uy tín trên thị trường.
Khi Việt Nam gia nhập WTO mọi bảo hộ và thuế bị dỡ bỏ, chỉ còn lại
các rào cản kỹ thuật. Nhưng đến nay chúng ta chưa có các rào cản kỹ thuật
hợp pháp đủ mạnh, đủ hiệu lực để bảo vệ các sản phẩm cơ khí trọng điểm.
Thêm vào đó chúng ta chưa có đầy đủ các phương tiện để kiểm định sự hợp
tiêu chuẩn với các sản phẩm cơ khí.
Sự quản lý thị trường kém hiệu lực, lỏng lẻo đang diễn ra đối với các sản
phẩm cơ khí. Do chưa có đầy đủ các phương tiện, thiết bị kiểm tra cùng trình
độ của cán bộ quản lý thị trường yếu nên nhiều sản phẩm cơ khí không đạt
tiêu chuẩn sẽ vẫn được lưu thông trên thị trường, hàng lậu, hàng giả sẽ hoành
hành.
Ngành cơ khí còn thiếu nhiều hiệp hội chuyên ngành để tập hợp, phối hợp
lực lượng phân công chuyên môn hoá, hợp tác hoá làm tăng sức mạnh cạnh
tranh.

Năng lực marketing còn yếu kém. Các doanh nghiệp cơ khí của ta mới chỉ
biết làm ra sản phẩm, còn làm tiếp thị bán sản phẩm thì rất kém.
Ngành cơ khí đòi hỏi chất lượng lao động cao, trong khi hiện nay Việt
Nam chỉ có 19% số lao động được đào tạo. Số lao động có trình độ đại học
và cao hơn chỉ chiếm 15%. Đây là thách thức lớn cần nhiều thời gian và nỗ
lực mới khắc phục được.
Năng lực tư vấn và thiết kế của ngành cơ khí thấp vì vậy chúng ta phải
thuê tư vấn, mua thiết kế của nước ngoài để làm các công trình và sản phẩm
quan trọng.
Các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam thiếu liên kết, sản xuất chưa theo
nhu cầu thị trường.
b. Giải pháp
Tập trung đầu tư, đổi mới, cải tiến công nghệ trước mắt ở các khâu then
chốt quyết định đến năng suất và chất lượng sản phẩm.
Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu, áp dụng các biện pháp thích hợp để
bảo vệ và tạo dựng thị trường cho ngành cơ khí. Trong đó rà soát, điều chỉnh
chính sách thuế, đảm bảo ổn định lâu dài và tạo động lực khuyến khích, phát
triển các ngành, sản phẩm cơ khí.
Tăng nguồn vốn ngân sách hỗ trợ cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học –
công nghệ, chuyển giao, tiếp nhận công nghệ mới, đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ.
Doanh nghiệp phải tăng cường hợp tác, liên kết tránh đầu tư trùng lặp,
khép kín, cùng nhau khai thác thị trường để tồn tại và phát triển. Cần xem xét
khả năng hợp nhất, mua bán doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh.
Tận dụng các nguồn nguyên liệu trong nước nhằm giảm giá thành các
sản phẩm cơ khí.
Cần nâng cao năng lực marketing, năng lực tiếp thị, quảng bá để bán
sản phẩm ra nước ngoài.
Nâng cao năng lực về kĩ thuật và quản lí cho đội ngũ kĩ sư và cán bộ
quản lí ở các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm cơ khí.

Nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng và hiệp hội doanh nghiệp
trong việc thúc đẩy phát triển ngành cơ khí.
KẾT LUẬN
Công nghiệp cơ khí luôn là một trong những ngành then chốt đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội trên toàn thế giới. Ngày nay tất cả các máy móc vận
hành trong các dây chuyền sản suất, hoạt động ở mọi nơi đều là sản phẩm của
ngành cơ khí. Với vai trò to lớn đó, ngành cơ khí ngày càng được mở rộng và
nâng cao nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiêu dùng của
con người.
Tuy nhiên ngành cơ khí chưa phát triển đồng bộ mà chỉ tập trung ở các
nước phát triển, vì vậy các nước đang phát triển cần có biện pháp điều chỉnh
phù hợp để phát triển ngành cơ khí đúng hướng, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển.
Tài Liệu Tham Khảo
1. Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam ( Lê Thông )
2. Giáo trình địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam ( Nguyễn Duy Hòa )
3. Giáo trình địa lí kinh tế - xã hội đại cương ( Nguyễn Thị Mây )
4. www.tailieu.vn
5. www.indexmundi.com
6. www.un.org
7. www.violet.vn
8. www.bachkhoatrithuc.vn
9. www.tailieutonghop.com
10.www.vi.wikipedia.org

×