Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

phát triển đội ngũ giáo viên trường trung cấp nghề tỉnh hà giang theo hướng chuẩn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.73 KB, 122 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


Đ

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



ĐẶNG VĂN ĐẠT



PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG TRUNG CẤP
NGHỀ TỈNH HÀ GIANG THEO HƯỚNG CHUẨN HÓA




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC









Thái Nguyên, năm 2010




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải nêu cao tinh thần
độc lập, tự chủ, ý chí tự lập tự cường, tự tôn dân tộc, phát huy nội lực và khai
thác, sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người có
vai trò quyết định nhất. Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay
nghề thành thạo, có phẩm chất tốt, được đào tạo, bồi dưỡng bởi một nền giáo
dục tiên tiến. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến phát
triển giáo dục, coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo, đội ngũ giáo viên có vị
trí vô cùng quan trọng, đây là lực lượng quyết định sự phát triển của sự
nghiệp giáo dục và đào tạo. Nghị quyết TW 2 khóa VIII khẳng định “Giáo
viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh. Khâu
then chốt để thực hiện chiến lược giáo dục là đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi
dưỡng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục cả
về chính trị, tư tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ”.
Để xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, Chỉ thị số: 40-CT/TW
ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “ Mục
tiêu xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá,
đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề nhà giáo.
Thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp
giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi

hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đồng thời Chỉ thị cũng chỉ rõ: “Tuy nhiên trước những yêu cầu mới của sự
phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa, đội ngũ nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


2
giáo có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều … Cơ cấu
giáo viên đang mất cân đối giữa các môn học bậc học … Chất lượng chuyên
môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục và phát triển kinh tế - xã hội … tình hình trên đòi hỏi phải tăng
cường xây dựng đội ngũ nhà giáo một cách toàn diện”.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 đã chỉ ra những yếu kém của
đội ngũ giáo viên hiện nay là “Thiếu về số lượng và nhìn chung thấp về chất
lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng nhanh quy mô, vừa phải
đảm bảo và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục” [28, tr.14] . Đồng thời
chiến lược đã đề ra bảy giải pháp lớn, trong đó giải pháp phát triển đội ngũ
nhà giáo được xác định là một giải pháp hết sức quan trọng.
Phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề (GVDN) cũng không nằm ngoài
mục tiêu phát triển đội ngũ nhà giáo khi đào tạo nghề đảm nhận tới 70% nhân
lực qua đào tạo trong cơ cấu lao động của đất nước, góp phần lớn tạo ra
nguồn nhân lực có chất lượng tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Tổ chức văn hóa giáo dục Liên hợp Quốc UNESCO đã
khuyến cáo: “Bước sang thề kỷ XXI, học suốt đời là hành trình với nhiều
hướng đi, trong đó đào tạo nghề nghiệp là hướng đi chủ yếu trong cuộc hành
trình này”. Chính vì vậy việc phát triển đội ngũ GVDN theo hướng chuẩn hóa
là việc làm cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Trong hệ thống mạng lưới dạy nghề, trường Trung cấp Nghề Hà Giang
(TCNHG) có vai trò quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực thực hiện sự
nghiệp CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương (Hiện nay cả

Tỉnh chỉ có duy nhất một trường Trung cấp Nghề). Nhà trường tiếp tục phát
triển theo hướng đa dạng hoá các ngành, nghề đào tạo, đào tạo trọng tâm
những nghề phục vụ trực tiếp cho phát triển sản xuất và dịch vụ của Tỉnh, đào
tạo nghề cho xuất khẩu lao động, liên kết với các trường cao đẳng, đại học để
đào tạo liên thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


3
Được sự quan tâm của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Tổng cục
Dạy nghề, các cấp và ngành của tỉnh Hà Giang, trong những năm qua trường
TCNHG đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc thực hiện sứ mạng
và nhiệm vụ được giao. Số lượng người tham gia học nghề trong Trường ngày
càng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước. Nhà trường đã góp phần tích cực
vào việc chyển dịch cơ cấu sản xuất của Tỉnh.
Tuy nhiên, trước sự phát triển của công tác dạy nghề, trước yêu cầu
phát triển của Tỉnh, trước sự tồn tại và phát triển của nhà trường thì đội ngũ
giáo viên nhà trường còn nhiều bất cập:
Số lượng giáo viên của Trường còn thiếu, chưa đáp ứng được sự tăng
trưởng về số lượng và quy mô ngành nghề đào tạo của Nhà trường.
Trình độ, chất lượng của đội ngũ giáo viên không đồng đều và còn thấp
so với yêu cầu chuẩn hoá.
Khả năng nghiên cứu khoa học, tự học, tự bồi dưỡng của đội ngũ giáo
viên còn ở mức thấp.
Cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa đồng bộ, số lượng giáo viên ở nhiều
khoa, tổ bộ môn còn ít…
Với những yêu cầu trên đây đòi hỏi việc phát triển đội ngũ GVDN đáp
ứng yêu cầu phát triển xã hội, phát triển Nhà trường là sự cần thiết và cấp
bách. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Phát triển đội ngũ giáo viên
Trường Trung cấp Nghề tỉnh Hà Giang theo hướng chuẩn hóa”.

2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường Trung cấp
Nghề tỉnh Hà Giang theo hướng chuẩn hóa.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động quản lý phát triển đội ngũ giáo
viên trường Trung cấp Nghề tỉnh Hà Giang.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên
trường Trung cấp Nghề tỉnh Hà Giang theo hướng chuẩn hóa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


4
4. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ giáo viên trường TCNHG trong những năm qua đã có nhiều
đóng góp cho sự phát triển của nhà tường trong nhiệm vụ đào tạo nghề. Công
tác quản lý phát triển đội ngũ giáo viên của trường TCNHG đã đạt được một
số kết quả, song nó còn bộc lộ nhiều hạn chế. Nếu có các giải pháp quản lý
phát triển đội ngũ giáo viên phù hợp và có tính khả thi thì nhất định sẽ xây
dựng được đội ngũ giáo viên của nhà trường đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng nhiệm vụ đào tạo nghề có chất lượng cao
cho người lao động, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - Xã hội của
tỉnh và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên trong hệ thống
trường nghề.
- Phân tích thực trạng về đội ngũ giáo viên và công tác quản lý phát
triển đội ngũ giáo viên trường Trung cấp Nghề tỉnh Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên của trường
Trung cấp Nghề tỉnh Hà Giang theo hướng chuẩn hóa.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập, phân tích, tổng
hợp các tài liệu, từ những chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, của Tổng cục
Dạy nghề, của tỉnh Hà Giang … các công trình khoa học có liên quan đến đề
tài nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra: Sử dụng một số câu hỏi dành cho cán bộ,
giáo viên của trường Trung cấp Nghề tỉnh Hà Giang, cán bộ quản lý dạy nghề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


5
tỉnh Hà Giang để đánh giá tình hình thực tế về công tác quản lý phát triển đội
ngũ giáo viên của Trường.
- Phương pháp phỏng vấn: Trò chuyện với một số cán bộ quản lý và
giáo viên có tâm huyết, có kinh nghiệm trong nhà trường nhằm làm sáng tỏ
hơn nội dung nghiên cứu.
6.3. Các phương pháp hỗ trợ khác:
- Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến các chuyên gia trước khi đưa ra
những giải pháp phù hợp và hữu hiệu.
- Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động quản lý, giảng dạy,
học tập trong nhà trường, từ đó rút ra một số kết luận liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê: Xử lý các vấn đề, các số liệu thu thập được và
sắp xếp chúng có hệ thống theo một trật tự lôgíc nhất định.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về công tác quản lý phát triển đội ngũ
giáo viên trong phạm vi trường TCNHG giai đoạn 2006-2010, nhằm đề xuất
các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên của nhà trường theo hướng chuẩn
hóa giai đoạn 2011-1015.

8. Cấu trúc của luận văn:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung: gồm 3 chƣơng
Chƣơng 1:
Chƣơng 2:
Chƣơng 3:
- Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ GIÁO VIÊN TRONG TRƢỜNG DẠY NGHỀ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về nghề
Là một khái niệm rộng và phức tạp, đặt vào từng hoàn cảnh hay xét
theo mỗi góc độ cụ thể, khái niệm này có phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Nghề
là kết quả của sự phân công lao động xã hội, sự phân công đó ở các thứ bậc
khác nhau tương ứng theo trình độ đào tạo khác nhau. Xã hội phát triển thì
nghề cũng phát triển theo.
1.1.2. Đội ngũ giáo viên dạy nghề
Trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục và đào tạo, giáo viên là
những “nhà sư phạm, nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị-xã hội” và "là
người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục” [25, tr.53] học sinh, sinh viên
(HS,SV); đồng thời họ phải có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức.
Người giáo viên (GV) phải ý thức được trách nhiệm công dân, phải nắm được
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình đào tạo, GV
vừa là khách thể quản lý vừa là chủ thể quản lý của quá trình đó.

Đội ngũ giáo viên là một tổ chức tập hợp thành một lực lượng để thực
hiện mục đích giáo dục-đào tạo thế hệ trẻ hình thành nhân cách một cách toàn
diện, có kiến thức văn hóa, có kỹ năng nghề nghiệp. Trong lĩnh vực dạy nghề,
đội ngũ giáo viên dạy nghề chính là tập hợp những người làm công việc dạy
học trong các trường học, trường dạy nghề thuộc hệ thống giáo dục quốc dân,
họ gắn kết với nhau để hoàn thành nhiệm vụ theo hệ thống mục tiêu dạy nghề.
Hoạt động của GVDN là một lao động đặc biệt, đối tượng lao động là
con người, công cụ lao động chủ yếu là nhân cách của nhà giáo, môi trường
lao động mang tính văn hóa, đạo đức cao. Sản phẩm của loại lao động đặc
biệt này là những con người có nhân cách (phẩm chất và năng lực) đáp ứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


7
yêu cầu của xã hội. Vì vậy, GV vừa có vai trò hêt sức quan trọng trong nhà
trường vừa có vị thế trong xã hội và đã được xã hội tôn vinh. Hoạt động của
GVDN rất đa dạng và phức tạp, bao gồm các nội dung cơ bản như:
- Hoạt động giảng dạy: Đây là hoạt động chủ yếu, cơ bản của GVDN,
hoạt động này bao gồm giảng dạy lý thuyết, hướng dẫn thực hành, diễn ra ở
nhiều môi trường và có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình giảng
dạy và giáo dục. Các hoạt động giảng dạy của GV gắn liền với quá trình
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của quá trình giảng dạy nhằm nâng cao nghề
nghiệp của GV;
- Hoạt động giáo dục HS, SV: GV là người tổ chức thực hiện quá trình
lĩnh hội tri thức của HS, SV, biến HS, SV từ người lĩnh hội tri thức thành
người chủ động, sáng tạo, tự điều khiển chiếm lĩnh tri thức;
- Hoạt động nghiên cứu, triển khai khoa học kỹ thuật công nghệ vào
thực tiễn sản xuất. Bên cạnh hoạt động giảng dạy thì hoạt động nghiên cứu
khoa học (NCKH), tiếp thu những thành tựu khoa học của các nước tiên tiến
trên thế giới áp dụng vào thực tế sản xuất của đất nước. Hoạt động của GVDN

không chỉ đơn thuần trong phòng lớp học, xưởng thực hành mà còn mở rộng
liên kết với các cơ sở sản xuất, giảng dạy kết hợp với lao động sản xuất;
- Hoạt động học tập, tự bồi dưỡng: Để đáp ứng nhu cầu xã hội, đòi hỏi
GVDN phải không ngừng học tập, trau dồi nhằm nâng cao trình độ về mọi
mặt, có ý thức học tập suốt đời. Điều này thật vô cùng quan trọng, nó mang
tính sống còn đối với người GVDN;
- Hoạt động xã hội: Người GV phải luôn rèn luyện bản thân trong mối
quan hệ xã hội, do vậy phải có ý thức xã hội, vốn kiến thức và kinh nghiệm xã
hội đã trở thành nhân tố quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động nghề nghiệp của người GV.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


8
1.1.3. Phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề
Theo Từ điển Tiếng Việt “phát triển” là “Biến đổi hoặc làm cho
biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức
tạp” [37, tr.743].
Theo Davit Ckorten: Phát triển là một tiến trình trong đó các thành viên
của xã hội tăng được những khả năng của cá nhân và định chế của xã hội để
huy động và quản lý các nguồn lực nhằn tạo ra những thành quả bền vững,…
nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với nguyện vọng của họ.
Theo Từ điển Triết học: “Phát triển là một quá trình vận động từ thấp
(đơn giản) tới cao (phức tạp), mà nét đặc trưng chủ yếu là cái cũ biến mất, cái
mới ra đời … phát triển là một quá trình nội tại, bước chuyển biến từ thấp lên
cao xảy ra bởi vì trong cái thấp đã chứa dựng dưới dạng tiềm tàng những
khuynh hướng dẫn đến cái cao, cái cao là cái thấp đã phát triển”.
Từ những cách tiếp cận trên thì mọi sự vật, hiện tượng, con người, xã
hội hoặc là biến đổi để tăng số lượng, thay đổi nâng lên về chất lượng hoặc

dưới tác động của bên ngoài làm cho biến đổi gia tăng đều được coi là sự
"phát triển".
Con người là yếu tố hợp thành của tổ chức, quản lý một tổ chức chủ
yếu là quản lý con người, trong nhà trường đội ngũ giáo viên (ĐNGV) là lực
lượng chủ yếu giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo.
Vì vậy phát triển ĐNGV là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng hàng đầu trong
chiến lược phát triển nhà trường.
Theo Webb: “Phát triển đội ngũ giáo viên phải mang tính đón đầu chứ
không phải phản ứng nhất thời. Những thiếu sót trong khâu đào tạo nghiệp
vụ, các yêu cầu cập nhật kỹ năng cần thiết không phải là nguyên nhân cở bản
dẫn đến phát triển đội ngũ giáo viên” [19, tr.43].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


9
Trong tác phẩm "Quản lý nhân sự và việc xây dựng đội ngũ giáo viên
trong nhà trường" tác giả Nguyễn Quang Truyền viết: "Xây dựng đội ngũ giáo
viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, loại hình, đoàn kết trên cơ sở đường
lối giáo dục của Đảng và ngày càng vững mạnh về chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ, đủ sức thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo".
Công tác xây dựng phát triển ĐNGV nhà trường phải nhằm vào những
mục tiêu cơ bản là:
1. Chăm lo xây dựng ĐNGV để có đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, loại
hình, vững vàng về trình độ, có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức và
thái độ nghề nghiệp tốt, tận tâm tận lực với nghề; đảm bảo chất lượng về mọi
mặt để ĐNGV thực hiện tốt nhất, có hiệu quả nhất chương trình, kế hoạch đào
tạo và những mục tiêu chung của nhà trường.
2. Phải làm cho ĐNGV luôn có đủ điều kiện, có khả năng sáng tạo
trong việc thực hiện tốt nhất những mục tiêu của nhà trường, đồng thời tìm
thấy lợi ích cá nhân trong mục tiêu phát triển của tổ chức; phát triển ĐNGV là

phải làm tốt và phải tạo ra sự gắn bó, kết hợp chặt chẽ giữa công tác quy
hoạch, kế hoạch tuyển chọn, sử dụng, đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và tạo
môi trường thuận lợi cho ĐNGV phát triển.
Phát triển ĐNGV bao quát tất cả những gì người GV có thể trau dồi và
phát triển để đạt được các mục tiêu của bản thân và của nhà trường. Phát triển
ĐNGV có thể xem như một quá trình liên tục nhằm hoàn thiện hay thay đổi
thực trạng hiện tại của đội ngũ, làm cho ĐNGV không ngừng phát triển về
mọi mặt, đáp ứng yêu cầu giảng dạy tại nhà trường trong xu hướng hội nhập,
tiếp cận chuẩn nghề nghiệp GV của các nước tiên tiến. Phát triển ĐNGV được
xem như một quá trình tích cực mang tính hợp tác cao, trong đó người GV tự
phát triển sẽ đóng một vài trò quan trọng trong sự trưởng thành về nghề
nghiệp cũng như nhân cách của bản thân trong sự hoà hợp cùng phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


10
1.1.4. Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề
Quản lý là một dạng lao động xã hội, gắn liền và phát triển cùng với
lịch sử phát triển của loài người. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân
công, hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đạt hiệu
quả, năng xuất cao hơn trong công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp,
điều hành, kiểm tra, chỉnh lý. Đây là hoạt động để người lãnh đạo tập hợp sức
mạnh của các thành viên trong nhóm, trong tổ chức đạt được mục tiêu đề ra.
Nói về điều này, Các-Mác từng viết: “Một người chơi vĩ cầm riêng rẽ thì tự
điều khiển mình nhưng một giàn nhạc thì cần có một nhạc trưởng” [22, tr.30].
Tùy theo các cách tiếp cận mà có các quan niệm về quản lý, thông
thường khi đưa ra khái niệm quản lý các tác giả thường gắn với một loại hình
quản lý cụ thể.
Theo Frederick, W.Taylor tác giả của học thuyết quản lý theo khoa học,
người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong từng bộ phận của nó thì:

“Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó
hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” (Đỗ
Minh Cương, Các học thuyết quản lý – NXBCT quốc gia, 1996).
Theo Vũ Dũng tác giả của tâm lý học quản lý: “Quản lý là sự tác động
có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể
đến khách thể của nó” [7, tr.47]
Theo Phan Văn Kha: “Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức lãnh
đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống, đơn vị và
việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định”
[16, tr.25].
Như vậy, quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, những hành
vi hoạt động của con người, huy động tối đa các nguồn lực khác nhau để đạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


11
tới mục đích của tổ chức và phù hợp với quy luật khách quan. Quản lý bao
gồm bốn chức năng cơ bản: Lập kế hoạch; tổ chức; chỉ đạo; kiểm tra.
Theo UNESCO “Con người vừa là mục đích, vừa là tác nhân của sự
phát triển” và “Con người được xem như là một tài nguyên, một nguồn nhân
lực hết sức cần thiết”. Trong nhà trường thì phát triển ĐNGV chính là phát
triển nguồn nhân lực trong nhà trường.
Quản lý nguồn nhân lực là nhiệm vụ của một tổ chức, gồm 3 phạm trù:
- Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, bao gồm: Giáo dục đào tạo,
bồi dưỡng và tự bồi dưỡng.
- Sử dụng hợp lý đội ngũ nhân lực, bao gồm: Tuyển dụng, sử dụng, đề
bạt, sàng lọc một cách hợp lý để đáp ứng yêu cầu phát triển của tổ chức.
- Tạo môi trường thuận lợi để nhân lực phát triển (bao gồm việc tạo ra
môi trường làm việc thuận lợi, môi trường sống lành mạnh, cũng như xây

dựng các chính sách và môi trường pháp lý phù hợp để nhân lực phát triển).
Tóm lại, quản lý phát triển đội ngũ GVDN là những tác động của chủ
thể quản lý đến đối tượng và khách thể quản lý nhằm phát triển đội ngũ
GVDN đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, vững mạnh về trình độ, có bản
lĩnh chính trị, có thái độ nghề nghiệp tốt, tận tụy với nghề để thực hiện có
hiệu quả mục tiêu đào tạo và đáp ứng yêu cầu phát triển của nhà trường. Quản
lý thông qua việc xây dựng quy hoạch, tổ chức lãnh đạo thực hiện và kiểm tra
các nội dung về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách và tạo môi
trường sư phạm cho ĐNGV.
1.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên dạy nghề
1.2.1. Đội ngũ giáo viên dạy nghề - nhân tố quyết định chiến lược
đào tạo nghề
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 đã cụ thể hóa mục tiêu phát
triển đối với dạy nghề trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH là: “Đặc biệt quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


12
tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động
và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc
làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu
cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các ngành
kinh tế mũi nhọn và xuất khẩu lao động" [28, tr.25]. Từ nay đến năm 2020
nhu cầu về đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông
nghiệp và nông thôn trong quá tình CNH, HĐH và đô thị hóa là rất lớn. Hàng
năm số lao động trong khu vực nông nghiệp chuyển dịch sang khu vực công
nghiệp và dịch vụ khoảng 1 triệu người, số lao động này phải được đào tạo
nghề để làm ngành nghề phi nông nghiệp. Nếu không chuyển dịch được số
lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, dịch vụ thì không thể thực
hiện được mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp.

Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, các trường dạy nghề ở các cấp
trình độ đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện chiến lược đào tạo nghề.
Mục tiêu chiến lược đào tạo nghề là tạo ra nguồn nhân lực có kỹ thuật,
nghiệp vụ để thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Trong đó, đội ngũ GVDN có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện
nhiệm vụ ấy. Họ là những người trực tiếp dạy nghề và truyền nghề, bồi
dưỡng phẩm chất, tác phong công nghiệp và kỹ năng nghề cho người lao
động, là nhân tố quan trọng và quyết định trong việc thực hiện mục tiêu
chiến lược đào tạo nghề.
Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng nghề dạy học và luôn quan tâm đến
ĐNGV. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ “Phát triển đội ngũ giáo
viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, cải tiến chế độ đãi ngộ, bảo
đảm về cơ bản đội nghũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỷ lệ giáo viên so với
học sinh theo yêu cầu của từng cấp học. Có cơ chế chính sách đảm bảo đủ
giáo viên cho miền núi, hải đảo.”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


13
Vai trò và trách nhiệm của nhà giáo được khẳng định trong luật giáo
dục năm 2005: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất
lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt
cho người học” [25, tr.17].
Trong giai đoạn hiện nay, khi giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
là quốc sách hàng đầu của đất nước thì vai trò của đội ngũ nhà giáo càng trở
nên đặc biệt quan trọng. Nhà giáo trở thành người quyết định tương lai của cả
dân tộc vì sản phẩm mà họ đào tạo ra sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước.
Vì vậy, vấn đề có tính cấp bách đặt ra trong giai đoạn hiện nay đối với dạy
nghề là phải không ngừng xây dựng và phát triển ĐNGV đảm bảo về chất
lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu theo hướng chuẩn hóa.

1.2.2. Đội ngũ giáo viên dạy nghề quyết định chất lượng đào tạo nghề
Đào tạo nghề là trang bị cho người lao động có trình độ kỹ thuật, kỹ
năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết để họ trực tiếp tham gia vào quá trình
lao động sản xuất. Chất lượng của đào tạo nghề chính là chất lượng của nguồn
lao động qua đào tạo, đó là nguồn lao động có kỹ thuật đáp ứng nhu cầu xã
hội, được thị trường lao động chấp nhận.
Trong đào tạo nghề, đội ngũ GVDN là nhân tố chủ đạo, đóng vai trò
quyết định đến chất lượng đào tạo nghề. Nghị quyết TW 2 khóa VIII khẳng
định “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn
vinh". Nhiệm vụ của đội ngũ GVDN trong giai đoạn hiện nay không chỉ
truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cho người lao
động mà phải chú trọng đến nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu của
thị trường lao động. Tạo ra nguồn nhân lực có đủ năng lực và trình độ đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH đất nước. Nghị
quyết TW 2 khóa VIII đã khẳng định: “Đào tạo lao động kỹ thuật là đào tạo
nhân tài cho đất nước” và lực lượng lao động đó chỉ có được khi được đào tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


14
bởi ĐNGV thực sự có chất lượng. Đối với giáo viên dạy nghề, ngoài việc
giảng dạy về những kiến thức chung, những kiến thức cơ bản, số giờ giảng
dạy lý thuyết nghề chỉ chiếm 25 đến 30%, số giờ còn lại là hướng dẫn thực
hành, thực tập nghề. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên dạy nghề không chỉ giỏi
về lý thuyết mà còn phải giỏi về thực hành nghề, phải có nội dung và phương
pháp dạy học phù hợp đáp ứng chất lượng và hiệu quả trong đào tạo.
Trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, khẳng định
được chất lượng đào tạo nghề sẽ tạo ra sức hút đối với người học và uy tín
trong đào tạo, đó chính là nhân tố mang tính quyết định xây dựng lên thương
hiệu nhà trường trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt về đào tạo. Sự

tồn tại và phát triển của nhà trường sẽ được quyết định bởi chất lượng đào tạo
hay chất lượng của ĐNGV. Vì vậy phát triển ĐNGV theo hướng chuẩn hóa là
yêu cầu cần thiết đối với mỗi nhà trường trong quá trình phát triển, đào tạo
nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội và đáp ừng yêu cầu hội nhập.
1.3. Chuẩn hoá đội ngũ giáo viên trong nhà trƣờng
Chuẩn hoá (Standardization) là các quá trình làm cho các sự vật, đối
tượng thuộc phạm trù nhất định đáp ứng được các chuẩn đã ban hành trong
phạm vi áp dụng và hiệu lực của các chuẩn đó. Theo đó, chuẩn hoá ĐNGV
trong nhà trường là tổ hợp các quá trình làm cho các cá nhân GV, các bộ phận
trong tổ chức nhà trường và các hoạt động của chúng đáp ứng được các chuẩn
(chung và nội bộ) và hiệu lực của các chuẩn đã ban hành trong phạm vi tổ
chức. Các chuẩn đối với giáo viên GV chính là các yêu cầu về trình độ, về
năng lực, về phẩm chất theo định hướng phát triển được cụ thể hóa thông
qua các yêu cầu, tiêu chuẩn, tiêu chí. Chuẩn ĐNGV là trên cơ sở chuẩn đối
các giáo viên trong tổ chức và cân đối về cơ cấu, phát huy tốt sức mạnh tổng
hợp của tập thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


15
1.4. Yêu cầu, tiêu chuẩn đối với giáo viên dạy nghề
1.4.1. Số lượng giáo viên
Số lượng GV của đội ngũ thể hiện bằng độ rộng lớn về mặt tổ chức.
Phát triển ĐNGV về số lượng là xây dựng ĐNGV đủ về số lượng, chuyên sâu
về trình độ chuyên môn. Số lượng của ĐNGV bị chi phối bởi một số nội dung
như việc bố trí sắp xếp đội ngũ, tình trạng tỷ lệ học sinh/lớp, định mức giờ
giảng, chương trình môn học, phương pháp giảng dạy Công tác đào tạo, bồi
dưỡng, tuyển dụng ĐNGV ở trường nghề theo chuẩn nhằm bổ sung GV cho
các lĩnh vực ngành nghề mới hoặc còn thiếu GV; bảo đảm toàn bộ GVDN có
trình độ đào tạo chuẩn và được bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm, về công

nghệ mới, nâng tỷ lệ GV có trình độ đại học và sau đại học; bảo đảm tỷ lệ
HS,SV/GV quy đổi đạt ở mức phù hợp.
1.4.2. Cơ cấu giáo viên
Cơ cấu là hình thức tồn tại của hệ thống phản ánh cách thức sắp xếp
các phần tử, phân hệ và mối quan hệ của chúng theo một dấu hiệu nhất định.
- Theo chuyên môn: Là tổng thể về tỷ trọng GV của môn học theo
ngành học ở cấp tổ bộ môn, cấp khoa; nếu tỷ lệ này vừa đủ, phù hợp với định
mức thì ta có được một cơ cấu chuyên môn hợp lý, nếu thiếu chúng ta phải
điều chỉnh cho phù hợp để đạt hiệu quả các hoạt động giáo dục và đào tạo.
- Theo trình độ đào tạo: Là sự phân định GV theo tỷ trọng trình độ đào
tạo. Xác định được một cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo thực hiện các hoạt
động liên quan phù hợp với cơ cấu ĐNGV, đồng thời có kế hoạch đào tạo
nâng chuẩn theo yêu cầu chung của trường nghề.
1.4.3. Tiêu chuẩn đối với giáo viên dạy nghề
Nền giáo dục thế kỷ XXI thấm đậm chủ nghĩa nhân văn, tính dân chủ,
thống nhất cao giữa các yếu tố: Gia đình, nhà trường và xã hội, gắn học tập
với các hoạt động thực tiễn sản xuất. Do vậy nội dung, phương pháp giáo dục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


16
phải thay đổi theo đặc điểm đó, giáo dục phải định hướng giá trị chứ không
phải quyền uy. "Để tác động đến đối tượng là nhân cách học sinh, người giáo
viên phải dùng công cụ là chính nhân cách của mình" [23, tr.75]. Nên nhân
cách nhà giáo chính là tấm gương sáng đối với thế hệ trẻ.
Trong nhà trường hiện đại, nhà giáo không chỉ đóng vai trò truyền thụ
kiến thức mà còn là “chuyên gia giáo dục”, là người tổ chức hoạt động nhận
thức cho học sinh (HS), dạy cho HS phương pháp học và tự học, tự bồi
dưỡng, rèn luyện và học tập liên tục, học tập suốt đời. Đồng thời tổ chức cho
học sinh tham gia vào các hoạt động xã hội, tư vấn, hướng nghiệp và lao động

sản xuất, … Do vậy đòi hỏi nhà giáo phải có kiến thức chuyên môn nghiệp
vụ, kiến thức tổng hợp và kinh nghiệm thực tiễn, năng lực giao tiếp tốt; nhà
giáo phải có nghệ thuật trong việc giáo dục HS cá biệt, có khả năng tổ chức,
khả năng nhận thức, khả năng giảng dạy, khả năng NCKH giáo dục; giỏi về
tin học, ngoại ngữ, thích nghi và sử dụng tốt các phương tiện, các thiết bị dạy
học phù hợp với trình độ phát triển ngày càng cao của khoa học và công nghệ.
Người GV không chỉ hành động với trình độ chuyên môn hẹp mà phải nghiên
cứu các lĩnh vực khác nhau của khoa học và phải học suốt đời để thích ứng
với sự phát triển ngày càng cao của khoa học - công nghệ, để làm tốt chức
năng giáo dục.
Ngoài những yêu cầu chung trên, GVDN phải giỏi cả lý thuyết và thực
hành nghề, dạy nghề theo hướng hiện đại là giảng dạy tích hợp, dạy kết hợp
lý thuyết và thực hành trong một bài giảng, dạy nghề theo mô-đun. Đòi hỏi
người GVDN ngoài kiến thức lý thuyết nghề còn phải có kiến thức về thực
hành nghề, cần phải có kỹ năng thực hành nghề. Người GVDN hiện đại cần
phải liên tục học tập để không chỉ giỏi và dạy một môn học trong nghề mà
phải giỏi và dạy một số môn học để đáp ứng một cách linh hoạt và hiệu quả
trong dạy nghề.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


17
Theo Điều 58 của luật dạy nghề năm 2006 Quy định tiêu chuẩn đối với
GVDN:
1- Giáo viên dạy nghề là người dạy lý thuyết, dạy thực hành hoặc vừa
dạy lý thuyết vừa dạy thực hành trong các cơ sở dạy nghề.
2- Giáo viên dạy nghề phải có những tiêu chuẩn quy định tại khoản 2
điều 70 của Luật giáo dục: Phẩm chất, đạo đức tư tưởng tốt; đủ sức khỏe theo
yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng.
3- Trình độ chuẩn của giáo viên dạy nghề:

a) Giáo viên dạy lý thuyết trình độ sơ cấp nghề phải có bằng tốt nghiệp
trung cấp nghề trở lên; giáo viên dạy thực hành phải có bằng tốt nghiệp trung
cấp nghề trở lên hoặc là nghệ nhân, người có tay nghề cao;
b) Giáo viên dạy lý thuyết trình độ trung cấp nghề phải có bằng tốt
nghiệp đại học sư phạm kỹ thuật hoặc đại học chuyên ngành; giáo viên dạy
thực hành phải có bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân, người có
tay nghề cao;
c) Giáo viên dạy lý thuyết trình độ cao đẳng nghề phải có bằng tốt
nghiệp đại học sư phạm kỹ thuật hoặc đại học chuyên ngành trở lên; giáo viên
dạy thực hành phải có bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân,
người có tay nghề cao;
d) Trường hợp giáo viên dạy nghề tại các điểm a, b và c nêu trên không
có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm kỹ thuật hoặc đại học sư phạm kỹ thuật
thì phải có chứng chỉ sư phạm dạy nghề.
1.5. Quan điểm chỉ đạo, định hƣớng phát triển đội ngũ giáo viên
dạy nghề
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của ĐNGV trong việc nâng cao chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


18
lượng giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Quan điểm về xây dựng
và phát triển đội ngũ nhà giáo luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan
tâm. Đặc biệt là trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế
hiện nay, nhà giáo lại càng được quan tâm xây dựng và phát triển hơn.
Chỉ thị 40/CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư TW Đảng
Khóa IX về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục đã chỉ đạo: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương

tâm, tay nghề của nhà giáo” [1, tr.2].
Trong Điều 15, Luật Giáo dục năm 2005 khẳng định: “Nhà nước tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi ngộ, bảo đảm các
điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò trách
nhiệm của mình” [25, tr.18].
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của Chính phủ đã nêu rõ:
“Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và
chuẩn về chất lượng đáp ứng yêu cầu vừa tăng về quy mô vừa nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục” [28, tr.30].
Phát triển ĐNGV có chất lượng theo hướng chuẩn hóa là đảm bảo cho
sự thắng lợi của sự nghiệp dạy nghề. Mục tiêu phát triển dạy nghề đến năm
2010 là: “Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên theo hướng
chuẩn hóa về số lượng, chất lượng (phấn đấu đến năm 2010 đạt tỷ lệ trung
bình 1 giáo viên/15 học sinh); bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo
viên về chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghê, trình độ và kỹ năng sư phạm”
[31, tr.5]. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GVDN đến năm 2010: “100%
GVDN đạt chuẩn theo quy định ; 10% giáo viên trong các trường Trung cấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


19
nghề, Cao đẳng nghề đạt trình độ sau đại học; khoảng 40% giáo viên được bồi
dưỡng thường xuyên hàng năm về phương pháp dạy học, công nghệ mới,
nâng cao kỹ năng nghề, tin học và ngoại ngữ” [26, tr.4].
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của tiến bộ khoa học, kỹ thuật
công nghệ với tốc độ rất nhanh. Kiến thức mới, đòi hỏi người thầy nhất là
GVDN phải cập nhật tri thức khoa học mới, công nghệ cao để nâng cao trình
độ chuyên môn, đảm bảo việc giảng dạy không bị hụt hẫng về kiến thức, tụt
hậu về phương pháp. Bên cạnh đó người GV còn có vai trò xã hội rộng hơn,
trong mối quan hệ thì ngoài việc truyền thụ tri thức cho HS, GV còn là nhà

giáo dục nhân cách cho học sinh bằng chính bản thân mình thông qua nhân
cách người thầy. Như vậy, phát triển ĐNGV dạy nghề theo hướng chuẩn hóa
là một tất yếu khách quan đối với hệ thồng dạy nghề nói chung và mỗi trường
dạy nghề nói riêng trong việc đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu xã hội.
1.6. Nội dung phát triển đội ngũ giáo viên trong trƣờng Dạy nghề
theo hƣớng chuẩn hóa
1.6.1. Xây dựng quy hoạch đội ngũ giáo viên:
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của nhà trường và căn cứ vào Điều lệ nhà
trường đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; căn cứ các văn bản pháp quy
của Chính phủ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục - Đào tạo
về GV, GVDN và về dạy nghề; căn cứ vào nội dung kế hoạch được giao; căn
cứ thực trạng của nhà trường về ĐNGV hiện có, nhiệm vụ đào tạo của nhà
trường hiện tại và theo hướng phát triển tương lai. Trên cơ sở đó lập bản quy
hoạch xây dựng ĐNGV nhằm đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ và cân đối về
cơ cấu để thực hiện nội dung đào tạo nghề theo chương trình và kế hoạch đào
tạo: Kế hoạch tuyển chọn mới, giải quyết số GV hiện có đi đào tạo bồi dưỡng,
giải quyết số GV dư thừa không đáp ứng được yêu cầu giảng dạy điều chuyển
công tác khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


20
1.6.2. Tuyển dụng
Nhằm đảm bảo về chất lượng, đủ số lượng GV, nhân viên còn thiếu so
với bản quy hoạch đề ra; tuyển dụng GV phải đảm bảo các nguyên tắc tuyển
chọn sau: xuất phát từ nhu cầu của từng bộ môn, từng khoa và quyền của học
sinh; sử dụng tối đa năng lực của họ; căn cứ vào tiêu chuẩn quy định rõ ràng
cho từng vị trí tuyển chọn Tuyển chọn GV hợp đồng: xét phẩm chất và
năng lực phù hợp với nhu cầu của nhà trường có thể hợp đồng dài hạn hoặc
ngắn hạn. Tuyển chọn GVDN trong nhà trường phải nhằm hướng đến mục

tiêu sử dụng đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn. Đảm bảo điều kiện
môi trường chuyên môn để GV ra sức dạy tốt, khai thác được tiềm năng, thế
mạnh của từng GV. Quy trình tuyển chọn phải thực hiện theo 4 bước: Nghiên
cứu hồ sơ cá nhân để đánh giá sơ bộ; kiểm tra đánh giá về trình độ, nhận thức;
thử thách đánh giá về năng lực; xét duyệt, lập văn bản trình cấp trên.
1.6.3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
- Đào tạo: Được xác định là đào tạo mới; là quá trình hình thành kiến
thức, thái độ, kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp được huấn luyện có hệ thống
theo chương trình quy định với những chuẩn mực nhất định, để người học học
theo thời gian khóa học, đào tạo theo cấp học có được trình độ chuyên môn,
năng lực và kiến thức đáp ứng yêu cầu công việc được giao. Như vây, đào tạo
cần phải tính được thời gian theo quy định và kinh phí đầu tư thích hợp; ở đó
cần phải xây dựng kế hoạch, tiêu chuẩn đặt ra mang tính lâu dài, nhất là chính
sách về đào tạo. Hiện nay, muốn nhanh chóng có nguồn lực đào tạo chính quy
có trình độ cao trong và ngoài nước phải có sự đầu tư kinh phí từ ngân sách
Nhà nước, kinh phí tài trợ trong ký kết hợp tác quốc tế và kinh phí tự túc của
cá nhân, gia đình.
- Đào tạo lại: Sau khi đã được đào tạo và có một trình độ nhất định, vì
một lý do nào đó nên tiếp tục tham gia vào quá trình đào tạo mới để có trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


21
độ khác. Đào tạo lại trên cơ sở trình độ đã có được để nâng cao, hoàn chỉnh
đáp ứng tiêu chuẩn quy định trong giai đoạn phát triển ngành nghề.
- Bồi dưỡng: Là quá trình cập nhật hóa kiến thức, bổ sung thêm kiến
thức và kỹ năng đã lạc hậu hoặc còn thiếu đối với ngành nghề mà GV đã được
đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy - giáo dục HS và
các hoạt động khác của ĐNGV.
+ Yêu cầu cơ bản về bồi dưỡng: Thống nhất giữa bồi dưỡng tư tưởng

chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ với các nhiệm vụ đặt ra
từ thực tiễn; thu hút mọi GV, cán bộ quản lý vào các hình thức học tập và tự
bồi dưỡng; việc bồi dưỡng toàn diện GV phải diễn ra thường xuyên liên tục
trong suốt quá trình hoạt động sư phạm; chú ý tới trình độ đào tạo và nhu cầu
bồi dưỡng của trừng cá nhân GV cũng như cán bộ quản lý từ đó xác định nội
dung, phương pháp và hình thức bồi dưỡng.
Cần kết hợp chặt chẽ giữa các loại hình bồi dưỡng tập trung và tại
chức, nhằm vừa đảm bảo yêu cầu học tập nâng cao trình độ năng lực cho GV,
vừa đảm bảo số GV cần thiết tham gia giảng dạy trong năm học. Đồng thời
kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, đào tạo lại theo các bậc trình độ cơ bản với
công tác bồi dưỡng. Coi công tác bồi dưỡng là một hệ thống của quá trình
giáo dục-đào tạo, vừa tiếp nối, vừa xen kẽ với xu thế học suốt đời nhằm hoàn
thiện tiêu chuẩn chức danh và bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của GV.
Cần có chính sách cụ thể, rõ ràng về công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm
khuyến kích ĐNGV học tập. Đồng thời có những biện pháp đồng bộ về quản
lý triển khai thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng.
+ Nội dung bồi dưỡng: Bồi dưỡng tư tưởng chính trị, chủ trương của
Đảng và chính sách pháp luật Nhà nước, các quy định về dạy nghề: nhằm
nâng cao nhận thức về lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục và dạy nghề. Bồi dưỡng những kiến thức về chuyên môn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


22
những tiến bộ khoa học - công nghệ mới thuộc chuyên môn giảng dạy, bồi
dưỡng kỹ năng thực hành nghề, nâng cao năng lực dạy nghề theo mô đun. Bồi
dưỡng năng lực sư phạm: Phương pháp giảng dạy tích cực; năng lực tổ chức
quá trình dạy học. Bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng ngoại ngữ, tin học
phục vụ cho chuyên môn
Tri thức sâu và rộng là nền tảng của năng lực sư phạm, do đó người GV

cần không ngừng nâng cao kiến thức khoa học tự nhiên và xã hội, cần liên tục
cập nhật những kiến thức mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong giảng
dạy. Nên việc đưa GV đi bồi dưỡng ngắn hạn theo chuyên đề là việc làm
thường xuyên hàng năm của các trường; đầu tư, bồi dưỡng dài hạn đối với lực
lượng GV còn trẻ (hay đào tạo lại) để củng cố và nâng cao trình độ và năng
lực chuyên môn, phục vụ công tác lâu dài.
1.6.4. Chế độ, chính sách
Chính sách đối với GVDN đã được quy định rõ trong Điều 62 Luật
Dạy nghề năm 2006: “Được hưởng chính sách bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ, chính sách tiền lương, … Được hưởng phụ cấp khi dạy thực hành các
nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của Chính phủ và được
hưởng các chính sách khác đối với nhà giáo” [24, tr.122]. Người cán bộ quản
lý cần phải quan tâm đến GV về mọi mặt để GV đem hết sức lực của mình
cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Quan tâm đến đời sống vật
chất và tinh thần cho GV, đặc biệt là tiền lương phải đúng chế độ và thời hạn.
Thực hiện đầy đủ các chế độ đãi ngộ đối với GV, kiến nghị xây dựng chính
sách hỗ trợ cho GV. Thực hiện khen, thưởng và khuyến khích kịp thời đối với
những GV có thành tích cao trong giảng dạy, học tập, NCKH.
1.6.5. Xây dựng môi trường làm việc, học tập
Trong học tập cũng như trong lao động, khả năng và trí tuệ của ĐNGV
chỉ được phát huy hết khi được đặt trong môi trường thuận lợi, và "Khi sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


23
trong môi trường văn minh, sạch đẹp cũng tạo nên ý thức tích cực cho con
người" [23, tr.55]. Môi trường thuận lợi là môi trường: Có tinh thần thoải mái
và đoàn kết; có vật chất đầy đủ để khai thác và sử dụng; có cảnh quan môi
trường thân thiện, sạch sẽ, thoáng mát. Ở đó, mỗi người đều nhận thức rõ
nhiệm vụ của mình, đều nhận thấy có điều kiện tốt nhất để hoạt động sáng

tạo, cảm thấy hài lòng và gắn bó với nhà trường. Từ đó họ sẽ phát huy tính
tích cực, năng động, sáng tạo của mình, thực hiện có hiệu quả các hoạt động
giảng dạy, học tập cũng như các hoạt động chuyên môn.
1.6.6. Công tác kiểm tra, đánh giá:
Đây là khâu quan trọng của một chu kỳ quản lý để điều chỉnh bổ sung
cho phù hợp và rút ra những kinh nghiệm quản lý. Các biện pháp tổ chức
kiểm tra, đánh giá từng công đoạn sẽ giúp cho việc khẳng định tính đúng đắn
của kế hoạch, kịp thời chỉnh sửa, bổ sung nếu có sai sót. Kiểm tra, đánh giá
phát triển ĐNGV dạy nghề theo định kỳ sẽ góp phần phát huy mặt mạnh, điều
chỉnh những sai sót cho phù hợp mục tiêu đề ra về cả hai phía: GV và nhà
quản lý.
Yêu cầu về việc kiểm tra, đánh giá là phải khách quan, công khai, dân
chủ, công bằng. Nếu không thực hiện đúng yêu cầu này sẽ dẫn đến sự mất
đoàn kết trong tập thể, không tôn trọng lẫn nhau, … gây hậu quả không tốt và
kém hiệu quả đối với việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của nhà trường.
Như vậy, để phát triển đội ngũ GVDN của nhà trường theo hướng
chuẩn hoá có hiệu quả cần thực hiện đầy đủ các mục tiêu, nội dung phát triển
GV theo quan điểm, yêu cầu, tham khảo kinh nghiệm phát triển GV theo
hướng chuẩn hoá của các nước. Thực hiện đồng bộ các khâu từ việc quy
hoạch, kế hoạch, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra đánh giá việc phát triển ĐNGV
của nhà trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


24
Kết luận chƣơng 1

1. Dạy nghề có nhiệm vụ đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản
xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp,

ý thức nghề nghiệp và tác phong công nghiệp, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định
đến việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy nghề đó là đội ngũ GVDN. Vì
vậy, phát triển đội ngũ GVDN đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu và đảm bảo
về chất lượng theo hướng chuẩn hóa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của giáo dục nước ta nói chung và trường nghề nói riêng.
2. Trên cơ sở tham khảo một số tài liệu trong và ngoài nước, các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ĐNGV, các sách, tạp
chí, bài giảng và giáo trình có liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác giả đã xây
dựng cơ sở lý luận của việc quản lý phát triển đội ngũ GVDN.
3. Đội ngũ GVDN là nhân tố quyết định chiến lược đào tạo nghề, chất
lượng đào tạo nghề và khẳng định sự tồn tại - phát triển của nhà trường;
Những yêu cầu, tiêu chuẩn đối với GVDN; những quan điểm và định hướng
phát triển đội ngũ GVDN; Nội dung phát triển ĐNGV trường dạy nghề là cơ
sở khoa học cho việc phát triển ĐNGV của nhà trường theo hướng chuẩn
hóa.





×