Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán đại dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.7 KB, 73 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán ra đời và đã trở thành trung tâm chú ý của
toàn xã hội trong những năm gần đây, khắp các nẻo đường, khắp các quán
nước, đâu cũng thấy những câu chuyện bàn về thị trường chứng khoán và
truyền nhau những kinh nghiệm và kiến thức hiểu biết về chứng khoán. Có
thể nói đây là một tín hiệu đáng mừng cho TTCK Việt Nam nói riêng và của
cả nền kinh tế nói chung. Nó đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của nền
kinh tế Việt Nam. Là kết quả của biết bao cố gắng trong việc đưa TTCK
đến với người dân, mở ra một kênh huy động vốn hiệu quả cho doanh
nghiệp.
TTCK thực sự đã trở thành một tiềm năng phát triển cho nền kinh tế.
Ra đời từ năm 2000 đến nay đã được gần 12 năm, một khoảng thời gian còn
quá ngắn ngủi so với lịch sử phát triển của TTCK thế giới. Giai đoạn 2000
đến 2007 TTCK Việt Nam phát triển nhanh chóng với tốc độ chóng mặt,
nhưng gần đây đặc biệt là trong 2 năm 2010 và 2011 là nhứng năm chứng
kiến sự đi xuống nghiêm trọng của TTCK Việt Nam cũng như của thế giới.
Đứng trước thực trạng khó khăn của TTCK chúng ta phải thực sự nhìn lại
quá trình phát triển của TTCK như thế nào. Bên cạnh những thành tựu đạt
được, chúng ta cũng cần nhìn lại quá trình phát triển của thị trường để có cái
nhìn đúng đắn hơn về thị trường, đây là một công việc vô cùng quan trọng
không chỉ giúp thị trường phát triển ổn định và vững mạnh mà còn bảo vệ
chính những nhà đầu tư trên thị trường chúng ta tránh khỏi những tổn thất
không thật sự đáng có, những sự cố như TTCK thế giới trước đây.
Công ty chứng khoán là một chủ thể tham gia vào TTCK có vai trò
như một chiếc cầu nối trung gian giữa người mua và người bán trên thị
trường. Bên cạnh các nghiệp vụ như Môi giới, phân tích chứng khoán, tư
vấn, bảo lãnh, lưu ký, và những nghiệp vụ khác hỗ trợ cho hoạt động giao
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


dịch của nhà đầu tư thì nghiệp vụ Môi giới là một hoạt động có thể nói là vô
cùng quan trọng, nó như là bộ mặt của công ty là nơi thể hiện nhiều nhất về
công ty với nhà đầu tư. Không chỉ là hoạt động giao dịch trung gian cho
khách hàng, nhà Môi giới còn như một người bạn, một nhà tư vấn quan
trọng cho mỗi quyết định của nhà đầu tư, một ngưòi bạn đồng hành của nhà
đầu
Sau quá trình tiếp thu kiến thức tại Học Viện Tài Chính, và một thời
gian thực tập chuyên ngành tại Phòng Môi giới Công ty chứng khoán Đại
Dương em đã có cơ hội tìm hiểu thực tiễn công việc, tổng quan về các
phòng ban của CTCK Đại Dương nói chung và cụ thể về hoạt động của
phòng môi giới của Công ty nói riêng. Sau hai năm đi vào hoạt động, hoạt
động môi giới của CTCK Đại Dương đã dần khẳng định được vai trò của
mình đối với hoạt động của toàn công ty và đã đạt được một số thành công
nhất định. Cùng với sự phát triển ngày càng cao của thị trường chứng khoán
và nhận thức của nhà đầu tư cũng dần được nâng cao thì việc nâng cao chất
lượng của CTCK nói chung và hoạt động môi giới nói riêng là vô cùng quan
trọng. Do đó em chọn nghiên cứu đề tài:“Nâng cao chất lượng hoạt động
môi giới tại Công ty chứng khoán Đại Dương”
Kết cấu đề tài
Chương I: Hoạt động môi giới chứng khoán
Chương II: Thực trạng chất lượng hoạt động môi giới cuả CTCK Đại
Dương
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động môi giới của
CTCK Đại Dương
Do trình độ nhận thức của bản thân còn ở một mức độ nhất định, nên em
rất kính mong các thầy cô giáo góp ý kiến để chuyên đề này có tính khả thi
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG MÔI
GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Khái quát vè công ty chứng khoán
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công ty chứng khoán
1.1.1.1 khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội của sản xuất được phân chia thành
hai cực: một cực có vốn tìm nơi đầu tư và một cực cần vốn để đầu tư vào sản
xuất kinh doanh. Thị trường chứng khoán (TTCK) ra đời là một kênh dẫn
vốn trực tiếp từ cực có vốn này sang cực có vốn kia theo nguyên tắc đầu tư
khi xã hội của sản xuất và lưu thông phát triển ở giai đoạn cao, và có đủ điều
kiện về môi trường pháp lý, môi trường tài chính…
Thị trường chứng khoán là một thị trường mà nơi đó diễn ra các giao
dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Sản phẩm trên TTCK không
giống với các hàng hoá thông thường khác mà chúng là những hàng hoá đặc
biệt, là quyền sở hữu về tư bản gọi tắt là các chứng khoán. Chứng khoán là
bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài
sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Một TTCK ra đời và hoạt động
hiệu quả thì phải cần các chủ thể tham gia kinh doanh trên TTCK. Công ty
chứng khoán ra đời là trung gian kết nối những người mua và bán chứng
khoán với nhau nhằm đảm bảo TTCK hoạt động một cách có trật tự, công
bằng và hiệu quả. Chính vì trung gian là một trong những nguyên tắc cơ bản
của TTCK nên phải có các nhà môi giới để đảm nhận khâu này.
Ở giai đoạn đầu của TTCK, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập
với nhau. Khi thị trường đã dần được hoàn thiện với sự tăng lên về khối
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
3
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
lượng giao dịch, quy mô thì các nhà môi giới riêng lẻ có xu hướng tập hợp
theo một tổ chức nhất định - chính là công ty chứng khoán.

Ở Việt Nam, khái niệm về Công ty chứng khoán có thể tìm hiểu trong
Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 và được hiểu khái quát: Công ty chứng
khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập theo pháp
luật Việt Nam để kinh doanh theo giấy phép kinh doanh do Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước cấp
1.1.1.2 Đặc Điểm của công ty chứng khoán
Hoạt động của công ty chứng khoán (CTCK) rất đa dạng và phức tạp
với các hoạt động nghiệp vụ và phụ trợ như: môi giới, tự doanh, lưu ký
chứng khoán, tư vấn tái đầu tư, quản lý danh mục Do đó ở từng quốc gia
khác nhau, thậm chí ngay cùng một nước, các CTCK mang những đặc
trưng riêng bởi sản phẩm, dịch vụ…mà họ cung cấp.
Ở Việt Nam, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh
nghiệp. Luật chứng khoán ra đời năm 2006, và chính thức áp dụng từ
1/1/2007- là văn bản luật cao nhất quy định về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, quy định một số nghĩa vụ của một CTCK như: thiết lập hệ
thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát, ngăn ngừa những xung
đột lợi ích trong nội bộ công ty và trong giao dịch với người có liên quan;
quản lý tách biệt chứng khoán của từng nhà đầu tư, tách biệt tiền và chứng
khoán của nhà đầu tư với tiền và chứng khoán của CTCK; ký hợp đồng
bằng văn bản với khách hàng khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng, cung
cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng; thu thập tìm hiểu thông tin về tình
hình tài chính, mục tiêu đầu tư, khả năng chấp nhận rủi ro của khách
hàng…
Các công ty chứng khoán ở các nước hay trong cùng một nước vẫn được
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
4
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
tổ chức khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty hay
mức độ phát triển của thị trường. Tuy nhiên chúng vẫn có những đặc trưng

cơ bản sau:
(1) Công ty chứng khoán đóng vai trò là một tổ chức trung gian tài chính,
thể hiện ở các khía cạnh
-Trung gian về thanh toán: do CTCK là một thành viên của hệ thống
thanh toán lưu ký nên nó là một trung gian thanh toán.Chức năng này được
thể hiện thông qua việc thanh toán giữa người phát hành và nhà đầu tư, giữa
người mua và người bán. Nếu người mua và người bán cùng mở tài khoản
và cùng lưu ký tại một công ty chứng khoán thì việc thanh toán sau giao dịch
của họ đơn giản hơn rất nhiều.
- Trung gian về rủi ro: trên TTCK luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Các chủ
thể tham gia vào TTCK như: các CTCK, các nhà đầu tư… luôn phải đối
mặt với các rủi ro đó. Nhà đầu tư khi thực hiện kinh doanh chứng khoán
trên TTCK có những rủi ro như: rủi ro trong sự tăng giảm giá chứng khoán,
rủi ro trong khi giao dịch.… CTCK đóng vai trò là là người đứmg giữa và
thực hiện các giao dịch cho khách hàng sẽ giúp nhà đầu tư phân tán rủi ro
bằng việc đầu tư vào các chứng chỉ quỹ và trong giao dịch cũng có người
được lợi và người gặp rủi ro.
-Trung gian giao dịch: xuất phát từ nhu cầu của những chủ thể có điều
kiện về vốn nhưng trình độ, khả năng phân tích còn hạn chế nên quỹ đầu tư
chứng khoán ra đời. Để thu hút được nguồn vốn hoạt động thì các quỹ này
phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư và chủ sở hữu của các chứng chỉ này là các
chủ thể trên. Hình thức hoạt động của các quỹ này là dùng một số lượng
lớn vốn đầu tư vào một số loại chứng khoán với kỳ hạn và mức rủi ro khác
nhau để kiếm lời.
-Trung gian về thông tin: với chức năng này, CTCK phải thu thập,tìm
hiểu thông tin về tình hình tài chính, mục tiêu đầu tư, khả năng chấp nhận
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
5
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
rủi ro với khách hàng; đảm bảo các khuyến nghị, tư vấn đầu tư của công ty

cho khách hàng phải phù hợp với khách hàng đó (theo Luật chứng khoán).
Bên cạnh đó, các CTCK phải công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính
theo quy định.
-Trung gian tín dụng: đối với các CTCK thuộc ngân hàng mẹ thì vai trò
này được thể hiện rõ nhất. Vốn mà ngân hàng cho các nhà đầu tư vay để
tham gia vào thị trường chính là vốn huy động từ các nhà đầu tư trước đó.
Họ là người gắn kết các nhu cầu cần vốn (người bán chứng khoán) và nhu
cầu của người cần đầu tư (người mua chứng khoán).
(2) Chuyên môn hoá và phân cấp quản lý
Các CTCK chuyên môn hoá ở mức độ cao trong từng bộ phận, từng
phòng ban, từng đơn vị kinh doanh nhỏ. Một số bộ phận trong tổ chức công
ty nhiều khi không phụ thuộc lẫn nhau (ví dụ như bộ phận môi giới và bộ
phận tự doanh, hay bộ phận bảo lãnh phát hành…)
(3) Nhân tố con người
Trong CTCK, quan hệ với khách hàng có tầm quan trọng hàng đầu. Sản
phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Việc CTCK
tạo được niềm tin với các nhà đầu tư, đồng thời họ thích sử dụng các dịch vụ
của công ty sẽ đem lại cho công ty một nguồn doanh thu vô cùng lớn.
(4) Ảnh hưởng của thị trường tài chính
Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có
ảnh hưởng lớn tới chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng thu lợi nhuận
của các công ty chứng khoán. Với những mức độ phát triển khác nhau của
thị trường, cơ cấu tổ chức và các sản phẩm cũng khác nhau để đáp ứng nhu
cầu riêng.
(5) Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ chứng
khoán mà công ty thực hiện cũng như quy mô hoạt động kinh doanh chứng
khoán của nó. Tuy nhiên, chúng đều có đặc điểm chung là hệ thống các
phòng ban chức năng được chia ra làm hai khối tương ứng với hai khối công
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01

6
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
việc mà CTCK đảm nhận: khối I và khối II. Trong đó,khối I là khối tư vấn
và nghiên cứu- phân tích, khối II là khối dịch vụ và hỗ trợ. Hai khối này
thực hiện các công việc yểm trợ cho nhau.
(6) Một số đặc điểm khác
CTCK là một tổ chức trung gian đặc biệt hoạt động trên lĩnh vực khá
nhạy cảm nên chịu sự kiểm soát song hành của Nhà nước và hiệp hội kinh
doanh chứng khoán. Ở Việt Nam, CTCK chịu sự quản lý của Bộ tài chính và
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Nhà nước kiểm soát các CTCK bằng các
văn bản quy phạm pháp luật như các Nghị định, Luật chứng khoán và các
thông tư hướng dẫn như: CTCK phải đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu
vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo theo quy định của UBCKNN; CTCK
phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình,
không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp trừ trường
hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản; CTCK không được dùng tiền
của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh ngoại trừ trường hợp số
tiền đó phục vụ cho giao dịch của khách hàng…
1.1.2 Các mô hình kinh doanh của công ty chứng khoán
Mô hình tổ chức kinh doanh của CTCK có những đặc điểm khác
nhau tuỳ vào sự phát triển khác nhau của từng khối thị trường. Có thể khái
quát mô hình tổ chức kinh doanh của CTCK theo hai nhóm sau:
Thứ nhất là mô hình CTCK đa năng: theo mô hình này, CTCK được
tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh
doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó các
ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng
khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được tổ chức dưới hai
hình thức sau:
 Loại đa năng một phần: theo mô hình này các ngân hàng muốn kinh
doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con hạch

toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ.
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
7
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
 Loại đa năng toàn phần: các ngân hàng được phép trực tiếp kinh
doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như
các dịch vụ khác.
Thứ hai là mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh: theo mô
hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và
chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng
không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Mỗi mô hình đều tồn tại những ưu, nhược điểm riêng của nó.Với mô
hình thứ nhất, ưu điểm lớn nhất của nó là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều
lĩnh vực kinh doanh,nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng
việc đa dạng hoá đầu tư. Ngoài ra, mô hình này còn có ưu điểm là tăng khả
năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động trên thị trường tài
chính. Nhưng cũng chính vì thế mà khả năng chuyên môn sẽ không sâu, là
nguyên nhân dẫn đến thị trường chứng khoán kém phát triển vì các ngân
hàng thường có xu hướng bảo thủ, thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện
các nghiệp vụ của thị trường chứng khoán. Đồng thời nó dễ gây nên tình
trạng lũng đoạn thị trường khi điều kiện môi trường pháp luật không lành
mạnh.Ưu điểm của mô hình CTCK chuyên doanh là hạn chế được rủi ro cho
hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các CTCK đi vào chuyên môn hoá
sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển; tuy nhiên
xu thế ngày nay lại chính là việc hình thành nên các tập đoàn tài chính
khổng lồ.
1.1.3 Vai trò của công ty chứng khoán
CTCK đóng vai trò như một “chiếc cầu nối” giữa những người tham gia
vào thị trường, cụ thể là chiếc cầu nối giữa nhà phát hành với nhà đầu tư,
giữa nhà đầu tư với nhà đầu tư. Những tác động cụ thể như:

a) Với chủ thể phát hành:
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
8
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Mục tiêu của các công ty khi tham gia vào thị trường chứng khoán là huy
động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy thông qua hoạt
động như đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra
cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là
nguyên tắc trung gian, nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những
nhà phát hành không được mua bán trực tiếp với nhau, mà phải thông qua
các trung gian mua bán để cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán có thể
quản lý hoạt động của thị trường.
b) Với nhà đầu tư:
Thông qua các hoạt động như Môi giới, tư vấn đầu tư và những dịch vụ
chăm sóc khách hàng các công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí
và thời gian giao dịch cho khách hàng, do đó nâng cao hiệu quả của các nhà
đầu tư.
Với các hàng hóa thông thường, khi qua trung gian bao giò cũng làm tăng
chi phí cho giao dịch, nhưng đối với TTCK thì không phải như thế, thông
qua trung gian là các CTCK khách hàng nhanh chóng được đáp ứng nhu cầu
mua bán mà không mất quá nhiều thời gian và công sức đi tìm người đáp
ứng nhu cầu của mình. Trong khi đó, nhà đầu tư có thể được nhận những lời
tư vấn hợp lý trước những quyết định đầu tư làm tăng khả năng sinh lời hoặc
giảm mức độ rủi ro cho khách hàng. Như vậy việc đầu tư sẽ hiệu quả hơn.
c) Đối với thị trường chứng khoán:
Hoạt động trong TTCK, đóng vai trò như những định chế trung gian
giúp thị trường phát triển. Hoạt động của các CTCK trong việc trung gian
nhận lệnh cho khách hàng giúp quá trình thực hiện các lệnh mua và bán của
khách hàng được quản lý có hệ thống và đảm bảo an toàn, việc lệnh giao

dịch được đưa từ các CTCK rồi mới truyền vào trung tâm là một trong
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
9
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
những khâu quan trọng để quản lý hệ thống lệnh và những căn cứ quan trọng
cho việc xác nhận kết quả giao dịch, mà nếu không thông qua CTCK mà
truyền thẳng vào trung tâm thì không thể quản lý hết được thị trường.
Ngoài ra, các CTCK còn có vai trò trong việc điều tiết giá thị trường
thông qua nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán. Giúp giá chứng
khoán tránh khỏi những diễn biến quá bất thường.
Thông qua hoạt động tư vấn niêm yết, bảo lãnh phát hành, tư vấn phát
hành, các CTCK là những chuyên gia giúp đưa hàng hoá lên thị trường được
đảm bảo và chất lượng cao hơn, quá trình đấy được làm việc kết hợp giữa
doanh nghiệp và CTCK, bàn bạc thoã thuận và đi đến thống nhất và thực
hiện đúng như luật định. Phát triển thị trường không chỉ thứ cấp mà còn sơ
cấp, không chỉ thị trường giao dịch chính thức mà cả thị trường OTC…
d) Đối với các cơ quan quản lý thị trường:
CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các
cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó.
Các CTCK làm được những điều này vì họ tham gia vào hoạt động giao
dịch chứng khoán từ lúc doanh nghiệp bắt đầu tung chứng khoán ra thị
trường, hoạt động ngoài thị trường OTC, hoạt động bảo lãnh phát hành, hoạt
động tư vấn… hoạt động giao dịch trực tiếp của khách hàng mở tài khoản
tại công ty. Tất cả các giai đoạn để một chứng khoán được giao dịch trên thị
trường đều có sự tham gia của CTCK. Vì vậy việc họ có được thông tin để
báo cho cơ quan quản lý thị trường là điều có thể. Và cũng thông qua những
đầu mối này cơ quan quản lý thị trường mới có được những thu thập về
thông tin thị trường để từ đó có những biện pháp quản lý hiệu quả.
1.1.4 Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán
Có 5 nghiệp vụ chính của CTCK được quy định trong Luật chứng khoán

SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
10
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Việt Nam 2006 đó là:
- Nghiệp vụ Môi giới
- Nghiệp vụ tự doanh
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
- Nghiệp vụ tư vấn đầu tư
- Lưu ký
a. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Khi thị trường chứng khoán càng phát triển ở trình độ cao thì các sản
phẩm và dịch vụ càng dồi dào về số lượng, đa dạng và phong phú về chủng
loại, tinh tế và nhạy cảm trong vận hành chức năng. Theo đó, đòi hỏi về việc
cung cấp cho người đầu tư những thông tin cần thiết những ý tưởng đầu tư,
những lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược, và giúp
cho các nhà đầu tư thực hiện theo cách có lợi nhất, đòi hỏi phải có hoạt động
môi giới chứng khoán phát triển mang tính chuyên nghiệp cao, hay nói cách
khác, trở thành một nghề.
Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian đại diện cho
bên hay bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó,
công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua
cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà
chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Với tư cách là khâu trung gian giúp thúc đẩy quá trình lưu thông hàng
hoá bằng cách rút ngắn khoảng thời gian tìm kiếm để gặp gỡ giữa người
mua và người bán, hoạt động môi giới chứng khoán cho phép người mua
trực tiếp thẩm định chất lượng bằng các giác quan của mình. Và trong những
trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia
sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01

11
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
b. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc các công ty chứng khoán tự tiến hành các hoạt động
mua bán các chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK
có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung hoặc trên thị
trường OTC…
Mục đích của hoạt động tự doanh của CTCK là thu lợi cho chính mình
thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này
hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho
khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình. Vì vậy, trong quá trình
hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho
khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu
cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, CTCK phải
ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình.
Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường,
pháp luật của các nước đều yêu cầu các CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự
doanh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định như:
Tách biệt quản lý:các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự
doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt
động.Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người,các quy trình nghiệp vụ
Các CTCK phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp
vụ tự doanh. Bên cạnh đó, các CTCK phải đảm bảo sự tách bạch giữa tài sản
của khách hàng với tài sản của chính công ty.
Ưu tiên khách hàng: pháp luật các nước nói chung cũng như pháp luật
các nước nói riêng đều yêu cầu các CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên
khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
12

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty.
Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao
dịch chứng khoán
Bình ổn thị trường: bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng
khoán, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có
thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung
cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. Các CTCK
phải tuân thủ một số quy định như các giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư…
Mục đích của các quy định này là nhằm bảo đảm một độ an toàn nhất định
cho các CTCK trong quá trình hoạt động, tránh sự đổ vỡ gây thiệt hại chung
cho thị trường.
Hoạt động tạo thị trường: các CTCK thông qua việc mua bán chứng
khoán cho chính mình với các chứng khoán mới chưa có thị trường giao
dịch để tạo thị trường cho các chứng khoán này, tạo tính thanh khoản cho
chúng.
c. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Muốn tiến hành các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng một cách
thành công thì các tổ chức phát hành phải cần đến các công ty chứng khoán
tư vấn và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán. Như vậy, hoạt động
bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát
hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc
phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu
khi phát hành. Trên thị trường tài chính, ngoài công ty chứng khoán thực
hiện bảo lãnh phát hành còn có các định chế tài chính khác cũng đảm nhiệm
hoạt động này như ngân hàng đầu tư.
d. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
13
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Do đặc điểm riêng trong ngành là giá cả chứng khoán luôn biến động
nên hoạt động tư vấn chứng khoán rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra
nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Ở phần lớn các nước, người ta định nghĩa tư vấn
chứng khoán là những hoạt động tư vấn về giá trị của chứng khoán nhằm
mục đích thu phí. Đối với Việt Nam, việc quản lý các hoạt động tư vấn là
cần thiết nhưng vô cùng khó khăn bởi trong điều kiện ban đầu của thị trường
thì hệ thống pháp luật chưa thể chặt chẽ.
Hoạt động chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau:
-Theo hình thức của hoạt động tư vấn gồm tư vấn trực tiếp và tư vấn
gián tiếp.
-Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động tư vấn gồm tư vấn gợi ý và tư vấn uỷ
quyền.
-Theo đối tượng của hoạt động tư vấn gồm tư vấn cho người phát hành
và tư vấn đầu tư

Nguyên tắc cơ bản của hoạt động đầu tư
-Không đảm bảo tính chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng
khoán không phải một số cố định mà nó luôn luôn thay đổi theo các yếu tố
kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tế cuả thị trường.
-Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình chỉ dựa trên
cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến quá khứ.
-Không dụ dỗ hoặc mời chào khách hàng mua, bán một loại chứng
khoán nào đó…
e. Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán
Lưu ký chứng khoán là một trong nhưng nghiệp vụ phụ trợ cho CTCK
cùng với một số nghiệp vụ như:
- Quản lý thu nhập của khách hàng
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
14
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

- Nghiệp vụ tín dụng
- Kế toán giao dịch
- Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty.
Hoạt động Lưu ký chứng khoán là hoạt động nắm giữ và bảo quản chứng
khoán hộ khách hàng cùng với việc giúp khách hàng thực hiện các quyền về
cổ tức, trái tức, quyền mua thêm chứng khoán, hay những hoạt động chuyển
nhượng… Trung tâm Lưu ký ra đời và hoạt động nhằm quản lý chứng
khoán giao dịch trên thị trường tập trung hơn, và đảm bảo chất lượng của
chứng khoán được đảm bảo.
Hiện nay, ở Việt Nam hệ thống đăng ký lưu ký chứng khoán đã đi vào
hoạt động có quy mô và hoàn đồng bộ. Các công ty chứng khoán là những
thành viên lưu ký chứng khoán tại Trung tâm Lưu ký. Hoạt động lưu ký có
vai trò quan trọng trong việc tạo nên cơ chế kiểm soát hoạt động đầu tư
nắm giữ chứng khoán của nhà đầu tư chặt chẽ và linh hoạt, đồng thời cũng
cung cấp một dịch vụ cho hoạt động đầu tư như hoạt động cầm cố, rút
chứng khoán để vay tiền trong các tổ chức tín dụng.
1.2 Chất lượng hoạt động môi giói của công ty chứng khoán
1.2.1 khái nhiệm môi giới chứng khoán
Theo Luật chứng khoán - văn bản luật cao nhất quy định về chứng
khoán và thị trường chứng khoán thì “Môi giới chứng khoán là việc công ty
chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách
hàng.”
a. Phân biệt hoạt động môi giới của CTCK và hoạt động của cá
nhân nhà môi giới:
Hoạt động môi giới của CTCK
Một trong các nguyên tắc căn bản vận hành thị trường chứng khoán là
nguyên tắc trung gian, thể hiện rõ nét nhất với vai trò và hoạt động của các
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
15
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

công ty chứng khoán. Hoạt động môi giới của CTCK là một trong số các
hoạt động mà một CTCK tiến hành nhằm kinh doanh trên TTCK, và nó đã
chính thức trở thành một nghề. Dù hoạt động ở thị trường nào thì những nhà
môi giới chuyên nghiệp này phải được chọn lọc, đáp ứng đủ yêu cầu, phải
đăng ký và cấp phép hành nghề thì mới được tiến hành hoạt động môi giới.
Do những đòi hỏi như vậy mà môi giới đã trở thành một nghề chính là hoạt
động môi giới của các CTCK.
Hoạt động của cá nhân nhà môi giới
Cá nhân nhà môi giới hoạt động độc lập trên thị trường cũng có vai trò là
những người tạo lập thị trường và góp phần vào sự vận hành tốt cho TTCK.
Họ làm việc để hưởng phí từ khách hàng của họ hoặc ăn chia khoản phí thu
được giữa CTCK với khách hàng. Theo Luật chứng khoán thì những người
làm việc ngoài CTCK, công ty quản lý quỹ cũng được thi để lấy chứng chỉ
hành nghề chứng khoán nếu có đủ chứng chỉ đào tạo. Tuy nhiên, hiện nay,
quy chế về người hành nghề chứng khoán tại Việt Nam vẫn chưa được ban
hành.
b. Các loại hình môi giới chứng khoán
Hoạt động môi giới trên sàn giao dịch
Sàn giao dịch có thuận lợi thông tin về giá cả của các chứng khoán được
phổ biến trên các phương tiện, dễ dàng có thể truy cập tìm hiểu. Khi giao
dịch, các lệnh của các nhà đầu tư được các nhân viên môi giới của các
CTCK tiếp nhận, kiểm tra và nhập vào hệ thống của sàn giao dịch. Tồn tại
các loại hình môi giới sau:
-Môi giới thông thường: là các nhà môi giới thực hiện các chức năng là
một đại diện cho khách hàng trong việc mua bán chứng khoán và hưởng phí
môi giới.
-Môi giới lập giá: có chức năng là duy trì thị trường liên tục về loại
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
16
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

chứng khoán mà họ phụ trách, do đó họ thực hiện hai hoạt động chính là môi
giới và tự doanh. Do phải duy trì thị trường liên tục nên khi thị trường không
có người mua thì họ phải đóng vai trò là người mua và khi không có người
bán thì họ phải là người bán.
-Môi giới hai đô la: chính là những người môi giới làm việc cho chính họ
và hưởng hoa hồng theo dịch vụ. Họ phải tự bỏ tiền ra thuê chỗ t ại sở giao
dịch giống như các CTCK thành viên khác.Vì các sở giao dịch luôn nhộn
nhịp, số lượng lệnh giao dịch của nhà đầu tư nhiều lúc quá tải mà các nhà
môi giới của các công ty không thể làm xuể. Khi đó các CTCK sẽ hợp đồng
với các nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình và
trả cho những nhà môi giới này một khoản tiền nhất định. Đầu tiên các nhà
môi giới này được trả hai đô la cho một lô chứng khoán, nên người ta gọi là
môi giới hai đô la.
Hoạt động tạo lập thị trường trên thị trường OTC
Mục tiêu của các sở giao dịch là tạo lập một môi trường giao dịch chứng
khoán an toàn và hiệu quả, trong đó các nhà đầu tư phải được đối xử công
bằng, được cung cấp thông tin tương xứng nhằm hỗ trợ kịp thời cho các
quyết định đầu tư.
Đối với các chứng khoán không niêm yết và được giao dịch trên thị
trường phi tập trung. Sau khi nhà đầu tư đặt lệnh mua, bán chứng khoán nào
đó trên OTC, nhà môi giới sẽ chuyển lệnh này đến nhà kinh doanh (thuộc bộ
phận kinh doanh của công ty môi giới). Nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm người
có thể bán hoặc mua số chứng khoán đó. Thực tế có rất nhiều nhà môi giới
sẵn sàng đặt bán một loại chứng khoán trên thị trường OTC và như vậy, có
thể có rất nhiều nhà tạo lập thị trường cho chứng khoán đó với mức thách
giá là khác nhau. Nhà kinh doanh bắt đầu thương lượng về giá cả của chứng
khoán đó với nhà tạo lập thị trường để có thể đạt mức giá tối ưu. Giao dịch
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
17
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

sẽ được thực hiện khi nhà kinh doanh tìm được nhà tạo lập thị trường với
mức giá thấp nhất.
Vai trò của nhà tạo lập thị trường thể hiện thông qua các hoạt động như:
duy trì tính linh hoạt của thị trường đối với một loại chứng khoán khi chứng
khoán đó được phát hành; thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư tới một loại
chứng khoán không niêm yết trên thị trường; tăng tính linh hoạt của thị
trường đối với một loại chứng khoán khi tăng số lượng các nhà tạo lập thị
trường…
1.2.2 Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán
Với tư cách là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, một trong
những đặc trưng của thị trường chứng khoán là nó hoạt động theo nguyên
tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, các giao dịch trên thị trường bắt buộc
phải thực hiện qua các CTCK và nhân viên môi giới chứng khoán. Môi giới
chứng khoán ở đây được hiểu như là hoạt động của hai yếu tố này, trong sự
tương quan chặt chẽ với nhau và với một đối tác chung là khách hàng- người
đầu tư, để tác động tới sự vận hành và phát triển của TTCK. Vai trò của môi
giới chứng khoán được nghiên cứu dưới các khía cạnh sau:
 Với thị trường chứng khoán
- Phát triển các sản phẩm dịch vụ trên thị trường: hoạt động môi giới
cung cấp đến cho khách hàng những hàng hoá, dịch vụ, và xem thị trường
cần những loại hàng hoá với chất lượng như thế nào để từ đó cung cấp
những ý tưởng thiết kế ra những sản phẩm và dịch vụ mới tới khách hàng.
- Nâng cao uy tín của thị trường chứng khoán trong nước đối với các
chủ thể tham gia thị trường, đặc biệt là các CTCK và các nhà đầu tư nước
ngoài. Hoạt động môi giới có hiệu quả và thực sự chuyên nghiệp sẽ khiến
các nhà đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào TTCK.
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
18
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
 Với công ty chứng khoán

- Hoạt động môi giới đóng vai trò quan trọng trong hoạt động chung
của CTCK. Với chức năng chính là cung cấp dịch vụ với hai tư cách: nối
liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư và nối liền giữa người bán
với người mua để hưởng phí thì hoạt động môi giới đã tạo ra một khoản thu
nhập rất lớn cho CTCK. Đồng thời góp phần đa dạng hoá các hoạt động của
CTCK bằng việc thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư tới công ty.
- Bên cạnh đó, hoạt động môi giới còn góp phần giúp CTCK phát
triển quan hệ với các tổ chức khác, các CTCK khác cũng thực hiện hoạt
động này trên TTCK.
- Góp phần nâng cao uy tín của CTCK thể hiện ở việc khi chất lượng
của hoạt động môi giới của công ty thực sự đem lại sự thoả mãn cho khách
hàng thì uy tín của công ty cũng ngày một cao, được đánh giá cao trên TTCK
chính là một ưu thế rất lớn khi mà TTCK ngày một khắc nghiệt với việc kinh
doanh lớn với các CTCK.
- Góp phần phát triển các hoạt động khác của CTCK: hoạt động môi
giới luôn gắn kết chặt chẽ với các hoạt động khác của công ty. Chúng hỗ trợ
cho nhau để đem tới cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Do đó, khi chất
lượng của hoạt động môi giới càng được nâng cao thì đòi hỏi các hoạt động
khác cũng phải được hoàn thiện và nâng cao hơn để đem lại sự hoạt động
hiệu quả nhất cho công ty.
 Với nhà đầu tư
Thông qua các nhà môi giới chứng khoán, cả người mua và người bán
không cần phải mất nhiều thời gian,tiền bạc, công sức để tìm được các đối
tác và loại chứng khoán phù hợp với mục đích của mình. Mặt khác, đặc
trưng của TTCK là lợi nhuận cao đi kèm với rủi ro cao, các chứng khoán có
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
19
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
mức sinh lợi càng cao thì mức độ rủi ro của nó càng cao, đòi hỏi nhà đầu tư
phải có kiến thức và sự thận trọng khi tham gia thị trường. Sự hiện diện của

các nhà môi giới giúp cho họ có thêm một kênh để tư vấn, thẩm định chất
lượng hàng hóa chứng khoán giúp họ để tìm ra loại chứng khoán nào phù
hợp với yêu cầu. Mặt khác, với các nhà phát hành thì họ không phải mất quá
nhiều thời gian và chi phí để tìm ra các nhà đầu tư muốn mua chứng khoán
của mình.
Các nhà môi giới còn thay mặt CTCK cung cấp thông tin liên quan đến
thị trường, đến các loại chứng khoán niêm yết và các thông tin khác một
cách có chọn lựa đến các nhà đầu tư. Dựa vào những thông tin này mà họ
tiến hành phân tích và đưa ra các quyết định về mua hay giữ chứng khoán
theo các giá phù hợp.
Nhà đầu tư còn tìm đến các nhà môi giới để tìm hiểu về các dịch vụ của
công ty mình mở tài khoản và từ đó tiến tới sử dụng các dịch vụ này một
cách có hiệu quả nhất.
1.2.3 Khái niệm chất lượng hoạt động môi giới của công ty chứng khoán
Khi thị trường chứng khoán ra đời và ngày càng phát triển thì hoạt
động môi giới cũng không ngừng được nâng cao. Hoạt động này ra đời xuất
phát từ đòi hỏi khách quan của thị trường và có vai trò vô cùng quan trọng
đối với sự phát triển của TTCK. Chất lượng của hoạt động môi giới được
hiểu là những lợi ích và giá trị mà nó đã đem lại ở mức độ nào cho các chủ
thể tham gia trên TTCK.
Có thể đứng trên nhiều giác độ để xem xét chất lượng hoạt động môi giới
của một CTCK như với các nhà đầu tư, với thị trường chứng khoán, và với
chính công ty chứng khoán đó. Họ đứng trên những lợi ích và quan điểm khác
nhau để đánh giá, xem xét. Do đó có thể hiểu chất lượng hoạt động môi giới ở
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
20
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
các khía cạnh sau:
- Với các nhà đầu tư, hoạt động môi giới được xem là có chất lượng
cao khi nhà môi giới cung cấp được cho họ những dịch vụ tốt nhất mà khoản

hoa hồng phải trả lại thấp. Các nhà đầu tư sẽ có nhiều cơ hội để đầu tư một
cách có hiệu quả với một thủ tục gọn nhẹ. Ngoài ra, họ có cơ hội được
hưởng thêm nhiều dịch vụ đi kèm như được cầm cố chứng khoán, được
hưởng các mức phí ưu đãi. Người môi giới phải đáp ứng được các nhu cầu
của khách hàng khi cần thiết, trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu
căng thẳng và đưa ra những lời khuyên kịp thời.
- Hoạt động môi giới có chất lượng đứng trên khía cạnh của một công
ty chứng khoán phản ánh từ nguồn thu từ hoạt động này ổn định và tăng
trưởng theo sự phát triển của thị trường. Dựa vào tính chất của hoạt động
môi giới mà vị thế của CTCK ngày càng được nâng cao và các mối quan hệ
ngày càng được mở rộng.
- Đối với các tiêu chí và kỹ năng của một người môi giới: trên cơ sở
các kiến thức cơ bản để hành nghề môi giới, những nhân viên môi giới phải
không ngừng trau dồi kiến thức để đem đến cho khách hàng những sản phẩm
tốt nhất. Ngoài các phẩm chất cần có như kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và
ứng xử thì các kỹ năng khác như kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng tìm
kiếm khách hàng, kỹ năng khai thác thông tin… cũng phải không ngừng
được hoàn thiện và nâng cao.
- Với thị trường chứng khoán: hoạt động môi giới được xem là chất
lượng khi nó không ngừng góp phần phát triển các dịch vụ trên thị trường
chứng khoán. Khi nguồn vốn được điều hoà trên thị trường một cách ổn định
dựa vào các nhà môi giới, đồng thời thêm nhiều tài sản tài chính được tăng
thêm tính thanh khoản thì khi ấy hoạt động môi giới được coi là có hiệu quả
và chất lượng.
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
21
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Như vậy, để chất lượng hoạt động môi giới của CTCK đạt tới tiêu
chuẩn tốt nhất thì hoạt động này phải kết hợp được các yếu tố mà nhà đầu
tư, CTCK, TTCK, người môi giới đòi hỏi để đạt tới một chất lượng tốt nhất,

chuyên nghiệp nhất và tạo được uy tín trên thị trường.
1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động môi giới của công ty
chứng khoán
Chất lượng hoạt động môi giới của một công ty chứng khoán phản ánh
dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Để đánh giá được nó thì đề tài đưa ra một số
chỉ tiêu sau:
a. Chỉ tiêu định tính
Thứ nhất là dựa vào mức độ hài lòng của khách hàng. Khi hoạt động
môi giới đem lại cho khách hàng sự thoả mãn từ các khâu mở tài khoản cho
khách hàng, đến các khâu tiếp theo như nhận lệnh của khách hàng, thực hiện
lệnh, xác nhận kết quả khớp lệnh, thanh toán… và các dịch vụ hỗ trợ đầu tư
khác như cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán, thông tin doanh nghiệp…
thì khi đó chất lượng hoạt động môi giới của CTCK đã được khẳng định.
Thứ hai là dựa vào mức độ tin tưởng, thân thiện của khách hàng. Khi
hoạt động môi giới của CTCK hoạt động có hiệu quả và đem lại niềm tin
cho khách hàng, đồng thời họ sẽ thân thiện đón nhận những sản phẩm và
dịch vụ mới của công ty thì đó cũng chính là chỉ tiêu đánh giá được chất
lượng của hoạt động môi giới.
Những chỉ tiêu này mang tính cảm tính, được phản ánh qua thăm dò, điều
tra, khảo sát, phỏng vấn các nhà đầu tư. Thông thường, các CTCK có bộ
phận điều tra khảo sát hoặc sổ góp ý, hoặc phần trao đổi trên web để các nhà
đầu tư phản ánh thông tin về chất lượng và thái độ phục vụ hoạt động môi
giới của công ty.
Bên cạnh đó, chất lượng của hoạt động môi giới có thể thông qua việc
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
22
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
đánh giá của các nhà quản lý thị trường, của các chuyên gia, đánh giá của
Hiệp hội…
b. Chỉ tiêu định lượng

Thứ nhất là doanh thu từ phí của hoạt động môi giới chứng khoán
Bao gồm:
-Doanh thu hoạt động chứng khoán niêm yết
-Doanh thu hoạt động chứng khoán chưa niêm yết
-Doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán- khách hàng giao dịch ký
quỹ
Các khản thu trên bao gồm chủ yếu là từ phí giao dịch cảu khách
hàng,còn một phần là các khoản thu khác như thu phí từ dịch vụ ứng trước
tiền bán chứng khán,phí dịch vụ hỗ trợ,phí lưu ký
Công thức tính phí giao dịch:
Mức phí giao dịch= tỷ lệ phí* tổng khối lượng giao dịch
Để đánh giá hoạt động của một CTCK có hiệu quả hay không thì yếu tố
này là vô cùng quan trọng bởi vì doanh thu chủ yếu của các CTCK ở Việt
Nam cũng như các nước trên thế giới là từ hoạt động môi giới đem lại. Phí
giao dịch mà các nhà đầu tư phải trả nhiều hay ít phụ thuộc vào sự thành
công của các giao dịch mà các nhà môi giới đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện. Vì vậy doanh thu lớn chứng tỏ hoạt động môi giới của công
ty có hiệu quả. Doanh thu này càng lớn, càng tăng trưởng một cách đều đặn
tức là chất lượng của hoạt động môi giới càng được nâng cao.
Thứ hai, ta xét tới số lượng tài khoản mở tại công ty chứng khoán. Đây
là chỉ tiêu phản ánh tổng quan nhất chất lượng của hoạt động môi giới đang
ở mức độ nào. Một công ty chứng khoán không thể hoạt hoạt động ổn định
nếu như số lượng tài khoản giao dịch quá ít, điều đó phản ánh hoạt động môi
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
23
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
giới của công ty là không hiệu quả. Vì thế các CTCK luôn tìm mọi cách để
thu hút các cá nhân đầu tư đến mở tài khoản và giao dịch tại công ty mình
mà chất lượng của hoạt động mô giới chính là cầu nối giữa các dịch vụ của
công ty và khách hàng.

Thứ ba là vị thế của công ty trên thị trường mà thước đo là thị phần
của công ty so với các công ty khác.Để đánh giá chỉ tiêu này cần xem xét các
khía cạnh sau:
-Chi phí từ hoạt động môi giới: công ty có chi phí hoạt động môi giới
cao chứng tỏ công ty đẩy mạnh hoạt động môi giới,đầu tư nhiều vào hoạt
động môi giới
-Lãi thu được từ hoạt động môi giới: Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ
hoạt động môi giới của công ty diễn ra hiệu quả
-Tài sản đảm bảo: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ an toàn, tin cậy của
công ty,tài sản đảm bảo càng lớn thì mức độ an toàn và tin cậy càng cao đối
với khách hàng,đây sẽ là lợi thế cạnh tranh cho công ty
-Biểu phí môi giới cạnh tranh: Mức phí môi giới là một trong nhữn
yếu tố quan trong để thu hút nhà đầu tư,mức phí này càng thấp thì càng hấp
dẫn đối với nhà đầu tư. Một biểu phí cao hơn tương đối so với các CTCK
khác sẽ làm giảm đáng kể tính cạnh tranh của nghiệp vụ môi giới
chứngkhoán và điều đó sẽ làm giảm doanh thu từ hoạt động này cho CTCK.
Hiện nay ở Việt Nam, số lượng các nhà đầu tư tham gia vào thị trường
chứng khoán còn hạn chế. Các công ty chứng khoán để tồn tại thì không
ngừng phải khẳng định vị thế của mình. Hoạt động môi giới của công ty đó
chính là thước đo và ngược lại, công ty nào có thị phần nhiều hơn chứng tỏ
chất lượng của hoạt động môi giới càng cao. Ở Việt Nam hiện nay, một số
công ty có thị phần lớn như CTCK Sài Gòn, CTCK Bảo Việt…
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
24
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng hoạt động mô
giới của công ty chứng khoán
1.3.1 Các nhân tố chủ quan
Đây là các xuất phát từ nội tại công ty, từ bản chất của hoạt động môi
giới và công ty có thể tự điều chỉnh hay khắc phục bằng cách tác động trực

tiếp. Các nhân tố này chỉ tác động tới một công ty cụ thể nào đó.Bao gồm
các nhân tố:
Mô hình tổ chức và cách thức quản lý
Yếu tố này rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của
công ty. Công ty tổ chức theo mô hình công ty cổ phần hay công ty trách
nhiệm hữu hạn phải phù hợp với điều kiện của những người muốn thành lập,
vào khả năng huy động vốn và hình thức sở hữu của công ty đó. Theo đó mà
cách thức tổ chức và quản lý các phòng ban cũng khác nhau. Mô hình càng
gọn nhẹ nhưng hoạt động có hiệu quả tức là các hoạt động của nó cũng đang
phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Hoạt động môi giới sẽ đem lại chất
lượng cao khi cách thức quản lý và tổ chức của công ty chuyên nghiệp và
chặt chẽ. Ngược lại, mô hình quản lý quá cồng kềnh sẽ là một bất lợi đối với
việc quản lý, và có thể sẽ không đưa được ra những hướng giải quyết nhanh
chóng để bộ máy vận hành một cách trôi chảy; và do đó ảnh hưởng trực tiếp
tới hoạt động môi giới của công ty.
Chiến lược kinh doanh của công ty
Đó là những kế hoạch dài hạn mà trong năm, mười năm tới công ty sẽ
thực hiện. Nó bao gồm những kế hoạch phát triển bộ phận chủ chốt nào,
hướng tới những mục tiêu nào để vị thế của công ty ngày càng được nâng
tầm. Hoạt động môi giới là một hoạt động quan trọng của bất kỳ một CTCK
SV:LÊ HỮU TÂM CQ46/17.01
25

×