Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

bí kíp môn ngữ văn 12 vô cùng hữu ích cho học sinh ôn thi kiểm tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.08 KB, 57 trang )

1
SỔ TAY VĂN HỌC
LỚP 12
SỔ TAY VĂN HỌC 12 - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC
Phần thứ nhất
Bài số 1. Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh
Bài số 2. Vi hành
Bài số 3. Mộ
Bài số 4. Tảo giải
Bài số 5. Vãn cảnh
Bài số 6. Tân xuất ngục, học đăng sơn
Bài số 7. Tâm tư trong tù

Phần thứ hai. VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1975
Bài số 8. Diện mạo văn học Việt Nam từ cách mạng Tháng tám 1945 đến 1975
Bài số 9. Tuyên ngôn độc lập
Bài số 10. Báo tiệp
Bài số 11. Tây Tiến
Bài số 12. Bên kia sông Đuống
Bài số 13. Đất nước
Bài số 14. Tố Hữu
Bài số 15. Việt Bắc
Bài số 16. Kính gửi cụ Nguyễn Du
Bài số 17. Tiếng hát con tàu
Bài số 18. Các vị La Hán chùa Tây Phương
Bài số 19. Sóng
Bài số 20. Đất nước
Bài số 21. Đôi mắt
Bài số 22. Vợ chồng A Phủ
Bài số 23. Vợ nhặt
Bài số 24. Mùa lạc


Bài số 25. Người lái đò sông Đà
1
Bài số 26. Rừng xà nu
Bài số 27. Những đứa con trong gia đình
Bài số 28. Mảnh trăng cuối rừng

Phần thứ ba. VĂN THƠ NƯỚC NGOÀI - LÝ LUẬN VĂN HỌC
Bài số 1. Hêminguây với "Ông già và biển cả"
Bài số 2. Sôlôkhốp và truyện "Số phận con người"
Bài số 3. Kiểu sáng tác và phong cách nghệ thuật
Bài số 4. Các giá trị văn học và tiếp nhận văn học.

Phần thứ nhất
Bài số 1. Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh
Bài số 2. Vi hành
Xuất xứ, chủ đề
1. Tên truyện bằng tiếng Pháp: “Incognito”, in trên báo “Nhân đạo” của Đảng Cộng sản Pháp,
ngày 19-2-1923. Phạm Huy Thông dịch là “Vi hành” in trong tập “Truyện và ký” của Nguyễn Ái
Quốc (1974). Cùng với vở kịch “Con rồng tre”, truyện “Lời than vãn của Bà Trưng Trắc”, truyện
ngắn “Vi hành” này nhằm châm biếm sâu cay tên vua bù nhìn Khải Định khi hắn sang Pháp năm
1922.
2. Vạch trần bộ mặt xấu xa, thối nát của tên vua bù nhìn, đồng thời châm biếm chế giễu chế độ
thực dân Pháp.
Nội dung
1. Một trường hợp nhầm lẫn hiếm có. Trong toa điện ngầm Paris, đôi nam nữ thanh niên Pháp
tò mò, ma mãnh nhầm lẫn nhân vật “tôi” là hoàng đế An Nam. Ăn mặc, trang sức kệch cỡm:
“mũi tẹt, da vàng, nhút nhát, lúng ta lúng túng. Có cái chụp đèn chụp lên đầu quấn khăn. Ngón
tay đeo đầy những nhẫn. Vua An Nam đã vi hành, mọi thứ quý giá đã gửi tuốt ở kho hành lí nhà
ga, hay đem đến tiệm cầm đồ. Trong lúc xem đem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò
leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô phải trả nghìn rưởi phrăng nhưng xem vua An Nam

ngồi cạnh chẳng mất một tí tiền nào. Hắn là một tên vua bù nhìn, một tên hề mạt hạng, mà ông
bầu Nhà hát múa rối định ký giao kèo thuê đấy.
2. Một bức thư gửi cô em họ rất hóm hỉnh để bàn về vi hành của các bậc vua chúa. Vua
Thuấn cải trang làm dân cày đi dò la khắp xứ. Vua Pie cải trang làm thợ đến làm việc ở công
trường nước Anh. Họ là “những bậc cải trang vĩ đại”. Còn tên vua bù nhìn An Nam đi vi hành là
1
để xem dân Pháp có được uống nhiều rượu và hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam. Hay vì chán
cảnh làm một ông vua to ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của công tử bé để ăn chơi trác táng.
Tác giả đã châm biếm sâu cay bọn quan thầy thực dân. Mọi người da vàng mũi tẹt đều trở
thành hoàng đế ở Pháp, tất cả những ai da trắng ở Đông Dương đều là những bậc khai hóa. Quần
chúng Pháp hễ thấy một đồng bào ta thì lầm tưởng là hoàng đế An Nam mà tò mò chỉ trỏ: “Hắn
đấy”, hoặc “xem hắn kìa!”. Nhân vật “tôi” đi đâu một bước thì được bọn mật thám “bám lấy đế
giày dính chặt… như hình với bóng” để theo dõi.
Nghệ thuật
1. Viết dưới hình thức một bức thư, kết hợp tả, kể nêu giả định và bàn luận.
2. Những giả định, so sánh đầy ý vị để châm biếm sâu cay. Một sự nhầm lẫn “chết người” đã
vạch trần chân tướng kẻ đang vi hành trên đất Pháp.
3. Giọng văn châm biếm khinh bỉ. Cả quan thầy lẫn tên vua bù nhìn bị vạch trần chân tướng:
xấu xa, đê mạt và ghê tởm:
“Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một
người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế!”
Tóm lại, hóm hỉnh và giễu cợt, nhầm lẫn và giả định, cùng với lối viết ngắn mang màu sắc văn
xuôi hiện đại phương Tây, đã tạo nên tính chiến đấu của truyện “Vi hành”. “Vi hành” thể hiện
sâu sắc tư tưởng chống chế độ thực dân Pháp và bọn bù nhìn tay sai. Nó tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật giản dị mà sắc bén, tính hiện đại và chất trí tuệ trong truyện ký của Nguyễn Ái
Quốc viết bằng tiếng Pháp.
NHẬT KÝ TRONG TÙ
(Ngục trung nhật ký)
Hồ Chí Minh (1890-1969)
“Nhật ký trong tù” là tập thơ bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh gồm có 133 bài thơ, phần lớn là

thơ tứ tuyệt, được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, khi
Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đày đọa trong nhiều nhà ngục
tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
Tập nhật ký bằng thơ này đã phản ánh chân thực, cảm động một tâm hồn lớn, một dũng khí
lớn, một trí tuệ lớn của người chiến sĩ vĩ đại trong cảnh tù đày.
Bài số 3. Mộ
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Hồ Chí Minh
“Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên
đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh
bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô
đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và
mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn.
Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh
chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:
1
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ). Có cảnh làm ăn
bình dị: xay ngô. Có lò than đã rực hồng (lô dĩ hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một
mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu
với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít
nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm
bao trùm không gian, cảnh vật là “lò than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về
ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người
chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần
lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã

mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ
lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm
buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều
tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc
cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ “Chiều
tối” này… Rất nhân hậu, rất người.
Bài số 4. Tảo giải
I
Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san;
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
II
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không;
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng
Hồ Chí Minh
Tảo giải (Giải đi sớm) là chùm thơ 2 bài 42, 43 trong “Ngục trung nhật ký” của Hồ Chí Minh.
Trên đường chuyển lao từ Long An đến Đồng Chính, Hồ Chí Minh viết chùm thơ này. Như một
trang ký sự của người đi đày thế nhưng đằng sau cảnh sắc thiên nhiên hé lộ một hồn thơ khoáng
đạt, mạnh mẽ và tự tin, yêu đời.
Bài I, ngay câu đầu ghi lại thời điểm chuyển lao: “Gà gáy một lần, đêm chửa tan”. Đó là lúc
nửa đêm về sáng. Chỉ có chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi thu. Trăng sao được nhân hóa
như cùng đồng hành với người đi đày. Cái nhìn lên bầu trời trong cảnh khổ ải thể hiện một tâm
thế đẹp. Hai câu 3, 4 nói về con đường mà tù nhân đang đi là con đường xa (chinh đồ). Gió thu
táp vào mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo. Trong câu thơ chữ Hán, chữ “chinh” chữ “trận” được

điệp lại hai lần (chinh nhân, chinh đồ; trận trận hàn), làm cho ý thơ rắn rỏi, nhịp thơ mạnh mẽ.
Nó thể hiện một tâm thế rất đẹp. Mặc dù áo quần tả tơi, thân thể tiều tụy nhưng người chiến sĩ vĩ
đại vẫn đứng vững trước mọi thử thách nặng nề: đêm tối, đường xa, gió rét…
1
Bài II, nói về cảnh rạng đông. Cái lạnh lẽo, cái u ám của đêm thu còn rơi rớt lại chốc đã bị
quét hết sạch. Phương đông từ màu trắng đã thành hồng. Hơi ấm tràn ngập đất trời, vũ trụ. Trước
một không gian bao la có màu hồng, có hơi ấm của rạng đông, “chinh nhân” (người đi xa) đã hóa
thành “hành nhân” (người đi). Hình như mọi đau khổ bị tiêu tan trong khoảnh khắc. Người đi
đày đã trở thành con người “tự do”, thi hứng dâng lên dào dạt nồng nàn. Niềm vui đón cảnh rạng
đông đẹp và ấm áp. Một đêm lạnh lẽo đã trôi qua. Tứ thơ vận động từ tối qua rạng đông tráng lệ,
từ lạnh lẽo đến hơi ấm. Người đọc có cảm giác nhà thơ đi đón bình minh, đón ánh sáng và niềm
vui cuộc đời.
Chùm thơ “Tảo giải” cho thấy tinh thần chịu đựng gian khổ làm chủ hoàn cảnh và phong thái
ung dung, lạc quan yêu đời của nhà thơ Hồ Chí Minh trong cảnh đọa đầy. “Tảo giải” là bài ca
của người đi đày, hàm chứa chất “thép” thâm trầm, sâu sắc mà “không hề nói đến thép, lên giọng
thép”.
Bài số 5. Vãn cảnh
Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ,
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình;
Hoa hương thấu nhập lung môn lý,
Hướng tại lung nhân tố bất bình.
Hồ Chí Minh
Bài “Thanh minh” là bài thơ số 113; B “Vãn cảnh” là bài thơ số 114. Đọc “Nhật ký trong tù”
ta biết Hồ Chí Minh viết bài thơ này vào mùa xuân 1943, khi Người bị giam giữ tại “nhà giam
của Cục Chính trị” ở Liễu Châu, Trung Quốc.
Bài thơ nói về hoa hồng, thể hiện một tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp với khát vọng tự do
cháy bỏng. Lúc bấy giờ, Bác Hồ đang sống trong tâm trạng: “Thơ tù ta viết hơn trăm bài rồi –
Xong bài, gác bút nghỉ ngơi – Nhòm qua cửa ngục, ngóng trời tự do”.
Hai câu đầu bài “Cảnh chiều hôm” nói về chuyện hoa hồng nở và tàn. Hoa đẹp, quý vô cùng,
thế mà hoa nở cũng chẳng ai hay, hoa tàn cũng chẳng ai biết. Hoa nở và tàn đều bị chìm trong

quên lãng. Ai là kẻ đã “vô tình” với hoa? Câu thơ dịch khá sát nghĩa, tuy câu hai có đảo trật tự
ngôn ngữ thơ trong bản chữ Hán:
“Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình”
Nhà thơ vốn yêu hoa như ngầm nhắc nhở mình (và mọi người) không thể vô tình với hoa nở,
cũng không nên vô tình với hoa tàn. Trong thơ cổ, hoa nói chung cũng như hoa hồng là hình ảnh
của giai nhân, của tài sắc trong cuộc đời. Hoa nở, vẻ đẹp phô bày. Hoa tàn, sắc đẹp mất đi. Một
đời hoa sớm nở tối tàn thật đáng thương, đáng tiếc. Có lúc vì cuộc đời lận đận, bận bịu mà “Hoa
hoa nguyệt nguyệt luống vô tình” (“Thơ tiếc cảnh – bài 4, Quốc âm thi tập). Có lúc, tài sắc bị
dập vùi, bị lãng quên thì hoa cũng như người đều mang hận, nỗi đau thấm thía vô hạn. Một cánh
hoa bay đi vì gió xuân đã mất đi ít nhiều vẻ đẹp. Một đoá hoa rụng, nỗi hận như thấm vào lòng
người và trời đất: “lạc hoa tương dữ hận – Đáo địa nhất vô thanh” (Hoa rụng cùng chia hận - Tới
đất không tiếng kêu) – Vi Thừa Khanh, đời Đường.
Hoa hồng trước cửa ngục, chiều nay đã tàn rồi, nhưng hương hoa – linh hồn hoa vẫn bay đi.
Hương hoa đã tìm được người yêu hoa mà thổ lộ nỗi đau, nỗi bất bình của kiếp hoa:
“Hương hoa bay thấu vào trong ngục,
Kể tới tù nhân nỗi bất bình”.
1
Hạnh phúc phải được san sẻ. Nỗi đau lại càng cần được san sẻ, cảm thông hơn bao giờ hết.
Hương hoa bay vào tận trong ngục, tìm đến với tù nhân để “tố bất bình”. Hoa với người đã có sự
cảm thông. Tù nhân vốn yêu hoa, vì bị giam trong ngục, bị tước đoạt mất tự do, nên lúc hoa nở,
khi hoa tàn đều không biết, đều chẳng hay. Ngục tối lạnh lẽo đã ngăn cách đôi bạn tri âm. Hương
hoa được nhân hóa. Cuộc đối thoại, giữa hương hoa với thi nhân là sự thể hiện tài tình lòng yêu
thiên nhiên với khát vọng tự do, là thái độ lên án cảnh bắt giam người một cách vô cớ, giày xéo
lên tâm hồn người.
“Vãn cảnh” là một bài thơ thâm trầm, đa nghĩa. Hình tượng hương hoa nói lên một hồn thơ
vừa cổ điển, vừa mới mẻ: Con người cần được sống trong tự do để yêu thương và quý trọng cái
đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc đời.
Bài số 6. Tân xuất ngục, học đăng sơn
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân

Giang tâm như kính, tịnh vô trần,
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân
Hồ Chí Minh
“Nhật ký trong tù” gồm có 133 bài thơ, phần lớn là thơ tứ tuyệt. Bài thơ “Mới ra tù, tập leo
núi” không nằm trong số 133 bài thơ ấy. Một số tài liệu cho biết, ngày 10/9/1943, tại nhà giam
Liễu Châu, Hồ Chí Minh đã giành được tự do. Ra tù, chân yếu, mắt mờ, tóc bạc. Người đã kiên
trì tập luyện để phục hồi sức khỏe. Tập leo núi, và khi leo đến đỉnh núi, Bác cao hứng viết bài
thơ này. Bài tứ tuyệt “Mới ra tù, tập leo núi” được Bác Hồ viết vào rìa một tờ báo Trung Quốc,
kèm theo dòng chữ: “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khỏe và cố gắng công tác. Ở bên này bình
yên”. Ngoài mục đích bí mật nhắn tin về nước, bài thơ thể hiện một tình yêu nước và thương nhớ
đồng chí, bạn bè của Hồ Chủ tịch.
Hai câu đầu là hai câu thơ tuyệt bút tả cảnh sơn thủy hữu tình. Có mây, núi ôm ấp quấn quýt.
Có lòng sông như tấm gương trong, không gợn một chút bụi nào! Câu thơ dịch khá hay:
“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng bụi không mờ”
Ba nét vẽ chấm phá đã lột tả được cái hồn cảnh vật. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ, nhân hóa và
so sánh đã làm hiện lên phong cảnh sơn thủy hùng vĩ và hữu tình. Bức tranh sơn thủy được miêu
tả ở tầm cao và xa, đậm đà màu sắc cổ điển. Trong bối cảnh lịch sử bài thơ ra đời, hình ảnh mây,
núi, lòng sông mang hàm nghĩa sâu sắc, tượng trưng cho tâm hồn trong sáng, cao cả và thủy
chung của con người.
Hai câu 3, 4 thể hiện một tâm trạng rất điển hình của người chiến sĩ cách mạng đang ở nơi đất
khách quê người. Từ Tây Phong Lĩnh (Liễu Châu) đến Nam thiên là muôn dặm xa cách. Vừa leo
núi, dạo bước mà lòng bồi hồi, bồn chồn, không yên dạ. Leo núi đến tầm cao rồi ngóng nhìn xa
(dao vọng) trời Nam, quê hương đất nước mà lòng xúc động “nhớ bạn xưa” (Ức cố nhân):
“Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa”
Ngôn ngữ thơ trang trọng, giàu biểu cảm, mỗi chữ là một nét, một mảnh tâm hồn của người
chiến sĩ vĩ đại. “Bồi hồi”, “dao vọng”, “Nam thiên”, “ức cố nhân”… đó là tấm lòng của một con
người nặng tình non nước “Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước – Cây cỏ trong chiêm bao

xanh sắc biếc quê nhà”… (Chế Lan Viên).
1
Ức hữu, ức cố nhân,… là cảm xúc đằm thắm được diễn tả trong nhiều bài thơ “Nhật ký trong tù”.
Lúc thì “Nội thương đất Việt cảnh lầm than” (ốm nặng). Khi thì “Nghìn dặm, bâng khuâng hồn
nước cũ – Muôn tơ vương vấn một sầu nay” (Đêm thu).
Tóm lại, “Mới ra tù, tập leo núi” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Tình yêu thiên nhiên
gắn liền với tình yêu đất nước sâu nặng. Hàm súc và mầu sắc cổ điển là vẻ đẹp của bài thơ. Sắc
điệu trữ tình trong thơ Hồ Chí Minh như dẫn hồn ta ngược thời gian nhớ một vần thơ Kiều tuyệt
bút, lóng ta mãi rung động bồi hồi:
“Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời Tổ quốc biết đâu là nhà”
Bài số 7. Tâm tư trong tù
Xà lim số 1, Lao Thừa Thiên 29/4/1939. Tố Hữu
“Từ ấy” - tập thơ 10 năm của Tố Hữu (1937 – 1946) hiện có 72 bài thơ. Bài “Tâm tư trong tù” là
bài thơ số 30, được Tố Hữu viết tại nhà lao Thừa Thiên vào cuối tháng 4 năm 1939, mở đầu cho
phần “Xiềng xích” của tập “Từ ấy”.
Viết theo thể thơ tự do, 4 câu đầu được nhắc lại 2 lần trở thành điệp khúc gợi tả cảnh thân tù với
bao nỗi buồn cô đơn và lòng khao khát tự do. Câu cảm thán vang lên bồi hồi đầy ám ảnh:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”
“Cảnh thân tù” là sàn lim với “mảnh ván ghép sầm u”, là nơi “lạnh lẽo bốn tường vôi khắc
khổ”, là chốn “âm u” của địa ngục trần gian! Đối lập với “cảnh thân tù” là “tiếng đời lăn náo
nức” – âm thanh của cuộc sống, là tiếng gọi của tự do. Một chữ “nghe” được nhắc lại nhiều lần,
nhịp điệu thơ tha thiết ngân vang. Lòng yêu đời, yêu cuộc sống, niềm khao khát tự do càng trở
nên sôi sục, mạnh mẽ:
“Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh

Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…
(…) Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài”
Người chiến sĩ trẻ lần đầu bị thực dân Pháp bắt bớ, giam cầm. Hầu như suốt đêm ngày thao
thức “lắng nghe” những âm thanh, “những tiếng đời lăn náo nức” lay gọi. Tâm tư xao xuyến, bồi
hồi, mênh mang. Trong hoàng hôn, tiếng dơi đập cánh nghe sao mà “vội vã”. Và giữa đêm
khuya, một tiếng “lạc ngựa”, một cái “rùng chân”, một “tiếng guốc đi về”, tiếng “gió xối” - tất cả
là âm thanh cuộc đời, gần gũi, thân quen, nhưng giờ đây trong cảnh thân tù những âm thanh ấy
mang một ý nghĩa vô cùng mới mẻ, đó là tiếng gọi tự do, là tiếng lòng sôi sục, trẻ trung và căng
đầy nhựa sống.
“Tâm tư trong tù” là sự thể hiện một cách chân thật, cảm động những suy ngẫm về tự do, để
tự vượt mình, tự khẳng định mình của người chiến sĩ cách mạng trong xiềng xích uất hận. Phút
mơ hồ về “một trời rộng rãi”, về một “cuộc đời sây hoa trái”, về “hương tự do thơm ngát cả ngàn
ngày” đã bị nhà thơ tự phủ định. Cả một dân tộc đang quằn quại trong xích xiềng nô lệ “đọa đày
trong những hố thẳm không cùng”. Đất nước đang bị thực dân Pháp thống trị. Dù ở trong song
1
sắt hay ở ngoài song sắt nhà tù, mỗi con người Việt Nam đều là vong quốc nô. Nhận thức mới về
tự do được diễn tả qua hai hình ảnh tương phản đầy ý nghĩa:
“Tôi chiều nay, giam cấm hận trong lòng,
Chỉ là một giữa loài người đau khổ.
Tôi chỉ một con chim non bé nhỏ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to”
“Con chim non bé nhỏ” ấy đang bay đi trong bão táp. Cũng như trong bài thơ “Trăng trối” viết
tại nhà tù Lao Bảo cuối năm 1940, Tố Hữu tự nhận mình là “tên lính mới”: “Và bên bạn, chỉ là
tên lính mới – Gót chân tơ chưa dày dạn phong trần”.
Vấn đề sống và chết được đặt ra một cách nghiêm túc, quyết liệt để khẳng định nhân cách và lẽ
sống cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày. Ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, mẫn cảm chính trị… đã giúp nhà thơ trẻ vượt lên trên một tầm vóc mới. Không phải đến
Tố Hữu mới có bài học về “uy vũ bất năng khuất” mà từ nghìn xưa ông cha ta, tổ tiên ta đã nêu
gương sáng “ngẩng cao đầu” đi tới cho con cháu trên hành trình lịch sử. Có điều, trong bài thơ

này, Tố Hữu đã nối tiếp người xưa, làm rạng rỡ “mạch giống nòi”, sáng tạo nên những vần thơ
mới sôi trào, hừng hực một quyết tâm chiến đấu kiên cường:
“Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu
Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu
Chân kiên căng không thoái bộ bao giờ!”
Con đường phía trước là máu và nước mắt, là “đày ải”, là “thế giới của ưu phiền”, nhưng
người chiến sĩ cách mạng vẫn sáng ngời niềm tin. Câu thơ vang lên trang nghiêm, hùng tráng
như một lời thề chiến đấu:
“Nơi đày ải là Đắc Pao, Lao Bảo
Là Côn Lôn, thế giới của ưu phiền?
Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin
Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”.
“Giữ trinh bạch linh hồn” là một cách nói “rất Tố Hữu” về giữ vững khí tiết cách mạng, lòng
trung thành với Tổ quốc và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Phần cuối, âm điệu dồn dập dư ba.
Ngôn ngữ thơ trùng điệp. Một quyết tâm chiến đấu và hy sinh không súng đạn, máy chém nào
của thực dân Pháp có thể khuất phục được:
“Tôi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc!”
Khép lại bài thơ là âm thanh một tiếng còi xa rúc gọi: “Có một tiếng còi xa trong gió rúc”. Đó
là tiếng gọi lên đường đấu tranh. Như một mệnh lệnh trang nghiêm! Sống và chết vì tự do!
Viết theo thể thơ mới, điệu thơ hùng hồn, mạnh mẽ, lý tưởng cách mạng, tinh thần chiến đấu
hy sinh được khẳng định như một lời thề. Tâm tư trong tù phản ánh chân thực niềm khao khát tự
do và dũng khí giữ vững niềm tin của người thanh niên cộng sản trong chốn tù ngục. Đó là phần
đóng góp của thơ Tố Hữu trong “Từ ấy”. Đẹp nhất, đáng khâm phục nhất là Tố Hữu đã sống và
chiến đấu như thơ ông đã viết. Đó là bài học về nhân sinh quan cách mạng mà hơn nửa thế kỷ
sau vẫn làm chấn động hồn ta./.
Phần thứ hai. VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1975
Bài số 8. Diện mạo văn học Việt Nam từ cách mạng Tháng tám 1945 đến 1975

1
Hoàn cảnh lịch sử
- Nước ta được hoàn toàn độc lập. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
- 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ.
- Đất nước bị chia cắt làm 2 miền. Kháng chiến chống Mĩ và bè lũ tay sai, để giành thống nhất
Tổ quốc (1955 – 1975). Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng 30-4-1975.
- Hai nhiệm vụ chiến lược: vừa sản xuất, vừa chiến đấu, xây dựng và bảo vệ miền Bắc hậu
phương, chi viện cho miền Nam tiền tuyến lớn anh hùng.
- Hiện thực cách mạng ấy đã tạo nên sức sống mạnh mẽ và phong phú của nền Văn học Việt
Nam hiện đại từ sau Cách mạng tháng Tám.
Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975
1. Một nền văn học thống nhất chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục vụ chính trị và cổ vũ
chiến đấu.
2. - Một nền văn học hướng về đại chúng trước hết là công nông binh.
- Công nông binh (nhân dân lao động) là động lực của cách mạng và kháng chiến, trong sản
xuất và chiến đấu.
- Một nền văn học nói về họ và vì họ, phản ánh tâm tư, tình cảm, ước mơ, nguyện vọng của
họ.
- Hình ảnh con người mới, cuộc sống mới trong thơ văn.
3. - Một nền văn học đậm đặc khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Đề cập những đề tài có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân.
- Những hình tượng anh hùng, những tính cách, sự tích anh hùng mang tầm vóc thời đại.
Giọng điệu anh hùng ca.
- Lạc quan trong máu lửa, tin tưởng mãnh liệt vào tương lai tươi sáng và chiến thắng.
Những nét lớn về thành tựu
1. Đội ngũ nhà văn ngày một đông đảo, xuất hiện nhiều thế hệ nhà văn trẻ tài năng. Nhà văn
mang tâm thế: nhà văn - chiến sĩ.
2. Về mặt tư tưởng
- Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng của đất nước và con người Việt
Nam.

- Tình nhân ái, mối quan hệ cộng đồng tốt đẹp của con người mới.
- Lý tưởng Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
3. Về mặt hình thức thể loại
- Tiếng Việt hiện đại giàu có, trong sáng, nhuần nhị, lối diễn đạt khúc chiết, thanh thoát.
- Thơ là thành tựu nổi bật nhất. Thơ anh hùng ca, thơ trữ tình. Chất trí tuệ, trong thơ. Mở rộng
câu thơ. Hình tượng người lính và người phụ nữ trong thơ.
1
- Truyện ngắn, tiểu thuyết, các loại ký… phát triển mạnh, có nhiều tác phẩm hay nói về con
người mới trong sản xuất, chiến đấu, trong tình yêu. Nghệ thuật kể chuyện, bố cục, xây dựng
nhân vật… đổi mới và hiện đại…
- Nghiên cứu, phê bình văn học, dịch thuật… có nhiều công trình khai thác tính truyền thống
của văn học dân tộc và tinh hoa văn học thế giới.
Bài số 9. Tuyên ngôn độc lập
Hoàn cảnh lịch sử
19/8/1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng
vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thoái vị. 25/8/1945, gần 1 triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn quật
khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng
Tám đã thành công rực rỡ.
Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn
thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay
mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước
hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ
nguyên mới Độc lập, Tự do.
Bố cục
1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập (Từ đầu đến “không ai chối cãi
được”)
2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta
(“Thế mà hơn 80 năm nay… Dân tộc đó phải được độc lập!”)
3. Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với thế giới (Phần còn
lại).

Những điều cần biết
1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền bình
đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những
quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và bình đẳng
về quyền lợi.
Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là
để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy
rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.
Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến
khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự
do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
1
Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta,
mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc,
Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là
các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc
địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
2. a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.
- Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến
cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.
- Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dã man, chia để trị, 3- chém
giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu
độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.
- Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập
cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta,
bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói
năm 1945.
- Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần

cho Nhật”.
- Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số
đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
b. Quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta
- Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của
Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.
- Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân
chủ Cộng hoà. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
- Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xoá bỏ.
- Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể không
công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”:
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc về
phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được
độc lập.
Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch
sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lí lẽ
đanh thép, hùng hồn.
3. Lời tuyên bố với thế giới
- Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do,
độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)
- Nhân dân đã quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và
lòng yêu nước).
Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta, thể hiện
phong cách chính luận của Hồ Chí Minh
1. Cùng với bài thơ “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi, bản “Tuyên ngôn độc lập”, phản ánh đúng diện mạo tinh thần và truyền thống
chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.
1
2. Một lối viết ngắn gọn (950 từ). Có câu văn 9 từ mà nêu đủ nêu đúng một cục diện chính trị:
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Những bằng chứng lịch sử về 10 tội ác của thực

dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta là không ai chối cãi được. Sử
dụng điệp ngữ tạo nên những câu văn trùng điệp đầy ấn tượng: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn
trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các
cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Cách dùng từ sắc bén: “cướp không ruộng đất”,
“giữ độc quyền in giấy bạc”, “quỳ gối đầu hàng… rước Nhật”, thoát ly hẳn… xoá bỏ hết… xoá
bỏ tất cả…”. Hoặc “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, v.v…
Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ
của Pháp hơn 80 năm nay/ một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy
năm nay → dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Một luận điểm, một lý lẽ
được trình bày bằng 2 luận cứ, dẫn đến 2 kết luận khẳng định được diễn đạt trùng điệp, tăng cấp.
Tóm lại, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh góp phần làm giàu đẹp lịch sử và nền văn
học dân tộc, tô thắm tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta./.
Bài số 10. Báo tiệp

Nguyệt thôi song vấn: - Thi thành vị?
- Quân vụ nhưng mang vị tố thi;
Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng,
Chính thị Liên khu báo tiệp thì
1948
“Báo tiệp” (Tin thắng trận) được Hồ Chủ Tịch sáng tác vào mùa thu 1948, mùa thu kháng
chiến vô cùng ác liệt và gian khổ. “Báo tiệp” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Người viết tại
chiến khu Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
1. Hai câu đầu ghi lại cuộc đối thoại giữa trăng với thi nhân. Ngôn ngữ thơ tao nhã tự nhiên.
Trăng có cử chỉ thân tình, đẩy cửa sổ hỏi: “thơ xong chưa” (thi thành vị?) Chắc là mong đợi thơ
sốt ruột nên mới hỏi như vậy? Thi nhân nhẹ nhàng xin khất thơ. Lý do là “bận việc quân”. Trăng
được nhân hóa trở thành bạn tri âm của thi sĩ. Người đang đối thoại với trăng là nhà quân sự
mang cốt cách thi sĩ, nghĩa là bên “thanh gươm nghìn cân ra trận” còn có bầu rượu, túi thơ. Vốn
yêu trăng nhưng không được rảnh rỗi để thưởng trăng vì suốt đêm ngày bận bịu việc quân.
Ý thơ “bận việc quân”, “bàn bạc việc quân” xuất hiện nhiều trong thơ chữ Hán của Hồ Chí
Minh thời kháng chiến. Lúc thì “Quân vụ nhưng mang vị tố thi” (Báo tiệp). Lúc thì “Yên ba

thâm xứ đàm quân sự” (Nguyên tiêu). Có trường hợp “Huề trượng đăng sơn quan trận địa”
(Đăng sơn). Có thể nói, cuộc đối thoại giữa trăng với thi nhân đã thể hiện một tâm hồn thơ tuyệt
đẹp, một cuộc sống kháng chiến sôi nổi đầy chất thơ.
2. Câu 3 nói về lầu núi (sơn lâu), tiếng chuông (chung hưởng) và “thu mộng” (giấc mộng đêm
thu). Thi liệu mang màu sắc ước lệ, cổ điển. Vừa thực vừa mộng. Ngôi nhà sàn giữa núi rừng
chiến khu Việt Bắc của Hồ Chủ tịch đi vào thơ đã trở thành lầu núi (sơn lâu). Câu thơ dịch tuy
bỏ mất chữ “núi” (sơn) nhưng khá hay:
“Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu”
Từ câu chuyển (3) về câu hợp (4) tứ thơ vận động biến hoá kỳ diệu: “Ấy tin thắng trận Liên
khu báo về” Đã có trăng đẹp. Có giấc mộng đêm thu đẹp. Lại có thêm tin thắng trận từ tiền tuyến
báo về. Thế là Bác đã có thơ, một bài thơ đẹp, một bài thơ vui. Cấu trúc bài thơ rất độc đáo, thể
hiện một bút pháp điêu luyện. Có thể nói đây là một bài thơ trăng đặc sắc của Hồ Chí Minh. Màu
sắc cổ điển và chất hiện đại lịch sử kết hợp một cách hài hòa đầy thi vị.
1
Ngoài tình yêu trăng, Người còn có niềm vui lớn, ấy là niềm vui thắng trận. Một hồn thơ đẹp.
Bài thơ cho thấy phong thái ung dung, tinh thần lạc quan của Bác Hồ trong kháng chiến gian khổ
và ác liệt. Cảm hứng “thắng trận” là cảm hứng chủ đạo trong thơ Hồ Chí Minh thời chống Pháp
và chống Mỹ xâm lược.
Bài số 11. Tây Tiến
Tác giả và xuất xứ
1. Quang Dũng (1921 – 1988) tham gia kháng chiến, vừa làm lính đánh giặc vừa làm thơ. Một
hồn thơ tài hoa, bút pháp lãng mạn. Tập thơ tiêu biểu nhất của ông: “Mấy đầu ô”, trong đó có bài
“Tây Tiến” viết năm 1948.
2. Tây Tiến là phiên hiệu của một đơn vị quân đội ta được thành lập vào đầu năm 1947, gồm
nhiều thanh niên học sinh Hà Nội, chiến đấu trên núi rừng miền Tây Thanh Hóa, tỉnh Hòa Bình
tiếp giáp với Sầm Nứa, Lào.
3. Sau hơn một năm chiến đấu trong đoàn binh Tây Tiến, Quang Dũng đi nhận nhiệm vụ mới,
mùa xuân 1948, viết “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến”.
Chủ đề
Bài thơ nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào về đồng đội thân yêu, những chiến sĩ hào hoa, dũng

cảm, giàu lòng yêu nước trong đoàn binh Tây Tiến đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc.
Những vần thơ đáng nhớ
1. Dòng sông Mã và đoàn binh Tây Tiến gắn bó với tâm hồn nhà thơ bao nỗi nhớ chơi vơi,
nhớ mãi, nhớ không bao giờ nguôi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
2. Nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian khổ. Phải vượt qua bao cồn mây, dốc thẳm,
phải vượt qua những đỉnh núi “ngàn thước lên cao…” phải lần bước trong đêm, trong màn mưa
rừng. Lấy cái gian khổ vô cùng để ca ngợi bản lĩnh chiến đấu và chí can trường của đoàn binh
Tây Tiến. Đó là một nét vẽ lãng mạn:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
3. Những kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến.
Nhớ hội đuộc hoa, nhớ “nàng e ấp”, nhớ “khèn man điệu”:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
1
Nhớ hương vị núi rừng đậm đà tình quân dân. Nhớ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Nhớ cô
gái miền Tây – bông hoa rừng một chiều sương cao nguyên Châu Mộc trên con thuyền độc mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những kỷ niệm đẹp ấy cho thấy tâm hồn trẻ trung, yêu đời, hồn nhiên, hào hoa của người
chiến sĩ Tây Tiến. Đó cũng là những nét vẻ lãng mạn đáng yêu.
4. Hình ảnh đoàn binh Tây Tiến được khắc họa bằng những chi tiết vừa hiện thực vừa lãng

mạn. Nếm trải nhiều gian khổ, thiếu thốn giữa chiến trường núi rừng ác liệt nên “quân xanh màu
lá”, “không mọc tóc”. Oai phong lẫm liệt trong lửa đạn: “mắt trừng” (hoán dụ), “dữ oai hùm” (ẩn
dụ). Lạc quan và yêu đời với những giấc mộng và mơ tuyệt vời. Bao chiến sĩ đã ngã xuống trên
chiến trường, “đã về đất” với manh chiếu – áo bào đơn sơ. Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn
sàng hiến dâng cả tuổi xanh, đời xanh cho Độc lập, tự do của Tổ quốc. Đoạn thơ như một tượng
đài bi tráng về anh bộ đội Cụ Hồ, những người con thân yêu của Hà Nội đã “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!”
5. Ý thơ cổ “Nhất khứ bất phục hoàn” được Quang Dũng diễn tả rất hay, rất xúc động ở khổ
cuối. Thương tiếc, tự hào, man mác:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước.
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Bài số 12. Bên kia sông Đuống
Tác giả và xuất xứ bài thơ
1. Hoàng Cầm - nhà thơ Kinh Bắc, nổi tiếng tài hoa. Có nhiều kịch thơ trước năm 1945: “Kiều
Loan”; “Hận Nam Quan”, “Lên đường”. Một số tập thơ, tiêu biểu nhất là “Mưa Thuận Thành”,
“Về Kinh Bắc”…
Kháng chiến bùng nổ, Hoàng Cầm đi bộ đội, làm công tác văn nghệ trong Quân đội.
2. Một đêm tháng 4/1948, tại Việt Bắc, được trực tiếp nghe tin giặc đánh phá quê hương mình,
Hoàng Cầm xúc động và ngay đêm ấy viết bài thơ “Bên kia sông Đuống”, một trong những bài
thơ hay nhất của ông.

1
Chủ đề
Bài thơ thể hiện tình yêu mến, thương nhớ và tự hào đối với quê hương kinh Bắc; căm giận
quân xâm lược đang giày xéo quê hương; niềm tin vào một ngày mai giải phóng, quê hương trở
lại thanh bình.
Những tình cảm đẹp về quê hương và những câu thơ hay đáng nhớ
1. Hai câu thơ mở đầu với tiếng “em” thần tình. Không xác định. Có thể là người thương
trong nỗi nhớ đồng vọng. Có thể là một nhân vật trữ tình xuất hiện mơ hồ trong tâm tưởng thi
nhân? Cũng có thể là sự phân thân của tác giả? “Em” xuất hiện, gợi nhớ gợi thương, để vỗ về an
ủi và chia xẻ nỗi đau buồn, thương nhớ. Cũng là để thi sĩ khơi nguồn cảm xúc đang dào dạt trong
lòng. Ý vị đậm đà chất thơ của bài “Bên kia sông Đuống” là ở tiếng “em” và 2 câu thơ này:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống”
2. Dòng sông tuổi thơ
Với Hoàng Cầm thì sông Đuống là dòng sông thơ ấu với bao thương nhớ. Con sông đã gắn bó
với tâm hồn nhà thơ. Nhớ không nguôi “cát trắng phẳng lì”, nhớ nao nao lòng “Sông Đuống trôi
đi - Một dòng lấp lánh”; lấp lánh ánh bình minh, lấp lánh trăng sao soi vào gương sông trong
xanh. Nhớ về dáng hình, về thế đứng của nó trong lịch sử: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kỳ”. Câu thơ mang hàm nghĩa thế đứng hiên ngang của quê hương trong kháng
chiến.
Đôi bờ dòng sông quê hương là một màu “xanh xanh” bát ngát, là sắc “biêng biếc” của bãi mía,
bờ dâu, của ngô khoai. Bức tranh quê trù phú, giàu đẹp thật “nhớ tiếc” và “xót xa” vô cùng:
“Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”
3. Quê hương có nền văn hóa lâu đời đang bị quân thù giày xéo tàn phá. Nhà thơ sử dụng
nghệ thuật tương phản đối lập để làm nổi bật nỗi nhớ tiếc, nỗi xót xa, nỗi đau đớn căm hờn…
Tương phản xưa và nay, thuở bình yên với từ ngày khủng khiếp, đối lập giữa cảnh tưng bừng
rộn rã với bây giờ tan tác về đâu…

- Giặc Pháp cướp nước là kẻ đã gây ra cảnh chém giết đau thương và điêu tàn khủng khiếp:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu…”
Xưa kia, vùng Thuận Thành, bên kia sông Đuống, quê hương thân yêu của nhà thơ là một
vùng giàu đẹp, có hương lúa nếp “thơm nồng”, có làng tranh Đông Hồ nổi tiếng, sự kết tinh
những tinh hoa văn hóa cổ truyền giàu bản sắc dân tộc:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
1
Nay giặc kéo đến thì “Ruộng ta khô – Nhà ta cháy”, điêu tàn, tan tác, đau thương. Nỗi tang tóc
trùm lên, đè nặng mọi kiếp người. Hạnh phúc và ước mơ bị giày xéo, bị chà đạp. Sự sống bị hủy
diệt đến kiệt cùng:
“Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”
Tranh Đông Hồ trong thơ Hoàng Cầm không chỉ là nét đẹp riêng rất tự hào của quê hương
mình mà còn là một biểu tượng của hạnh phúc, đoàn tụ, yên vui trong thanh bình, là nỗi đau
trước sự tàn phá, điêu tàn, tan tác của một miền văn hóa lâu đời thời máu lửa.
Thuận Thành, Kinh Bắc có núi sông mĩ lệ, chùa chiền thắng cảnh với bao lễ hội tưng bừng
mang theo bao huyền thoại, sự tích thần kỳ, với những gác chuông, những tháp, những tượng
Phật cổ kính bao đời nay. Chùa Phật Tích, núi Thiên Thai, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, tượng Phật
Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Ca dao: “Dù ai đi đẩu đi đâu - Cứ nhìn thấy tháp Chùa Dâu mà

về”. Tục ngữ: “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu cũng về hội Gióng”.
Phan Huy Chú đã viết trong “Lịch triều hiến chương loại chí”: “Kinh Bắc có mạch núi cao chót
vót, nhiều sông quanh vòng, là mạn trên của nước ta… Mạch đất tốt tụ vào đấy nên càng nhiều
chỗ có dấu tích đẹp, tinh hoa hợp vào đấy nên sinh ra nhiều danh thần”.
Trong chiến tranh, đưa con ly hương nhớ tiếc, xót xa quê hương:
“Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chua Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”…
4. Nhớ con người quê hương
Nhớ sông Đuống, nhớ bãi mía bờ dâu, nhớ hương lúa nếp thơm nồng… Nhớ mãi, nhớ nhiều
những hội hè đình đám, nhớ tranh gà lợn, nhớ giấy điệp. Nhớ núi Thiên Thai, nhớ chuông chùa
ngân nga… Nhớ “nàng môi cắn chỉ quết trầu”, nhớ cụ già “phơ phơ tóc trắng”, nhớ “những em
sột soạt quần nâu”. Nhớ bồi hồi “từng khuôn mặt búp sen - Những cô hàng xén răng đen - Cười
như mùa thu tỏa nắng”. Nhớ “những nàng dệt sợi – Đi bán lụa mầu”… nhớ “Những người thợ
nhuộm - Đồng Tỉnh, Huê Cầu…”.
Câu thơ “Bây giờ tan tác về đâu” và “Bây giờ đi đâu về đâu” được nhấn đi nhấn lại nhiều lần,
vừa gợi tả nỗi đau thương tan tác, vừa thể hiện nỗi nhớ ứa máu tơi bời, nỗi xót xa và căm giận lũ
hung tàn cướp nước.
Những câu thơ nói về nỗi thương nhớ đàn con thơ và mẹ già rất xúc động:
- Thương mẹ già:
“Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ”
- Thương đàn con thơ:
“Ngày tranh nhau một bát cháo ngô

Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn…”
5. Quê hương chiến đấu
1
Cảnh đón bộ đội về làng rất cảm động. Cuộc hội ngộ tình quân dân cũng là sự hồi sinh và
niềm vui hạnh phúc:
“Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng”
Cảnh giết giặc: Dao lóe giữa chợ - Gậy lùa cuối thôn – Lúa chín vàng hoe, giặc mất hồn…
Chúng mày phát điên – Quay cuồng như xéo trên đống lửa”…
- Đồng quê quật khởi đứng lên:
“Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”
6. Ngày hội non sông
Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” vào năm 1948, lúc bấy giờ quê hương đất
nước ta còn đầy bóng giặc, chân trời thắng lợi còn xa vời. Phải gần 7 năm sau, ta mới có chiến
thắng Điện Biên Phủ. Thế mà thi sĩ đã nói đến ngày hội non sông. Thơ kháng chiến hay nói đến
“ngày mai”, một ngày mai thanh bình ca hát. Phải đổ biết bao xương máu, phải có ngàn vạn
chiến sĩ ngã xuống, nhân dân ta mới có “ngày mai” như các nhà thơ đã viết:
“Phải bao máu thấm trong lòng đất
Mới ánh hồng lên sắc tự hào?”
(Tố Hữu)
Vì vậy, ta có thể nói, phần cuối bài “Bên kia sông Đuống” rất hay. Cảm hứng lãng mạn dào
dạt. Nhân vật “em” lại xuất hiện. Duyên dáng, trẻ trung, tình tứ. Niềm tin về một ngày mai tái
hợp sáng bừng vần thơ:
“Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng

Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.
Kết luận
Cách chúng ta gần ba nghìn năm, nhà thơ Home (Hy Lạp) đã viết: “Không có mảnh đất nào
êm đềm bằng quê cha đất mẹ”. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” giúp ta cảm nhận sâu hơn ý tưởng
của Hôme. Con sông Đuống và Thuận Thành, Kinh Bắc là quê hương nhà thơ. Nhưng người đọc
thấy vô cùng thân thiết gắn bó với mình. Cái ý vị, cái hay của bài thơ là ở chỗ ấy. Câu thơ dào
dạt theo cảm xúc rất hồn nhiên mà giàu nhạc điệu. Nhạc điệu ngọt ngào của dân ca Quan họ. Sâu
lắng, thiết tha, bồi hồi là âm hưởng, là sắc điệu trữ tình đã thấm sâu vào hồn ta tình yêu quê
hương đất nước. “Bên kia sông Đuống” xứng đáng là kiệt tác của thi ca Việt Nam hiện đại.
Bài số 13. Đất nước
Tác giả
1
Tên tuổi Nguyễn Đình Thi gắn liền với những ca khúc như “Diệt phát xít”, “Người Hà Nội”,
với tiểu thuyết “Xung kích”, “Vỡ bờ”,… với một số vở kịch, với các tập thơ: “Người chiến sĩ”,
“Dòng sông trong xanh”, “Tia nắng”,… Thành tựu nổi bật nhất của ông là thơ: cảm xúc dồn nén,
hàm súc, ngôn ngữ và hình ảnh đầy sáng tạo, tính nhạc phong phú, hấp dẫn…
Xuất xứ
Bài thơ “Đất nước” in trong tập thơ “Người chiến sĩ”. Nguyễn Đình Thi đã sáng tác bài thơ
này trong một thời gian dài từ 1948 – 1955. Phần đầu khơi nguồn cảm hứng từ 2 bài thơ “Sáng
mát trong” (1948) và “Đêm mít tinh” (1949).
Chủ đề
Bài thơ nói lên lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc; nghĩ về đất nước theo chiều dài lịch sử;
tầm cao của giống nòi; quyết chiến đấu và hy sinh để bảo vệ và xây dựng đất nước yêu quý.
Những vần thơ hay, những tình cảm đẹp
1. Yêu những mùa thu quê hương:
- Mùa thu Hà Nội quá vãng đẹp mà buồn:
“Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.

- Mùa thu chiến khu, đất nước và con người dào dạt một sức sống và niềm vui thiết tha:
“Gió thổi rừng tre phấp phới.
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Cả đất trời “mát trong” ngào ngạt “hương cốm mới” mang theo trong làn gió thu nhẹ:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Cái hay của đoạn thơ là giàu cảm xúc hoài niệm hiện về trong hiện tại, “những ngày thu đã
xa” sống lại trong “mùa thu này”, tạo nên chất thơ ngọt ngào.
2. Đất nước hùng vĩ tráng lệ. Vui sướng tự hào trong tâm thế của người chiến sĩ đang làm chủ
đất nước. Diễn đạt trùng điệp khẳng định tạo nên âm điệu hào hùng, đĩnh đạc:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
Các tính từ - vị ngữ: “Xanh, thơm, mát, bát ngát, đỏ nặng - gợi tả vẻ đẹp vĩnh hằng ngàn đời
của núi sông thân yêu.
3. Một đất nước anh hùng, một dân tộc kiên cường bất khuất. Tổ tiên như truyền thêm sức
mạnh Việt Nam cho con cháu ngày nay để ngẩng cao đầu “đi tới và làm nên thắng trận”:
“Nước chúng ta
1
Nước những người không bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.
Phủ định để khẳng định một chân lý lịch sử “Chưa bao giờ khuất”. Chữ dùng rất hay, đem
đến nhiều liên tưởng: “rì rầm”, “vọng nói về”.
4. Xót xa căm giận quân xâm lược đang giày xéo quê hương đất nước: “Ôi những cánh đồng
quê chảy máu – Dây thép gai đâm nát trời chiều”. Thương xót nhân dân lầm than, đau khổ, tủi
nhục: “Bát cơm chan đầy nước mắt”; bị áp bức, bị bóc lột dã man:

“Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da”.
5. Đất nước đã quật khởi đứng lên kháng chiến. Cả dân tộc bừng bừng khí thế xung trận. Thế
trận nhân dân với những anh hùng áo vải đã và đang đem xương máu gánh vác lịch sử, đang “ôm
đất nước”. Giọng thơ mang âm điệu anh hùng ca:
“Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Trong “nắng đốt” và “mưa dội”, trên những bước đường thấm máu “hy sinh”, nhân dân ta vẫn
lạc quan, tin tưởng nghĩ về “trời đất mới”:
“Lòng ta bát ngát ánh bình minh”
Khổ cuối, tác giả sử dụng thơ lục ngôn diễn tả tư thế chiến đấu và chiến thắng lẫm liệt, hào
hùng của quân và dân ta trong máu lửa. Thế “vỡ bờ” là thế đứng sức mạnh và đi lên của dân tộc
ta:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”.
Bài số 14. Tố Hữu
Vài nét về nhà thơ
- Sinh năm 1920, ông tính tuổi mình: “Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi”.
- Là đứa con của “Huế đẹp và thơ”, như ông viết:
“Hương Giang ơi, dòng sông êm,
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
(Bài ca quê hương)
- 19 tuổi đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản, tiếp tục hoạt động bí mật chống Pháp - Nhật.
- Sau Cách mạng, ông phụ trách công tác Văn nghệ, là cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.
- Tố Hữu là nhà thơ lớn của đất nước ta. Hơn nửa thế kỷ làm thơ, năm 70 tuổi ông viết:
“Bạc phơ mái tóc, mây đưa mộng

Thanh bạch hồn thơ, nắng nở hoa”.
(“Bảy mươi” – 10/1990)
1
Tác phẩm thơ
1. “Từ ấy”, (1937 – 1946)
2. “Việt Bắc” (1954)
3. “Gió lộng” (1961)
4. “Ra trận” (1972)
5. “Máu và hoa” (1977)
6. “Một tiếng đờn” (1979 – 1992)
Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu
- Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thể hiện nồng nhiệt tự hào lý tưởng cách mạng, đời sống
cách mạng của nhân dân ta.
- Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Khuynh hướng sử thi, cái tôi
trữ tình – cái tôi chiến sĩ mang tầm vóc hoành tráng, màu sắc lịch sử được diễn tả bằng bút pháp
thần thoại hóa, hình tưởng thơ kì vĩ, tráng lệ.
- Nét đặc sắc trong thơ Tố Hữu là có giọng điệu riêng. Thơ liền mạch, nhất khí tự nhiên, giọng
tâm tình, ngọt ngào tha thiết.
Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc. Phối hợp tài tình ca dao, dân cam các thể thơ dân
tộc và “thơ mới”. Vận dụng biến hoá cách nói, cách cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm
hồn người. Phong phú vần điệu, câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm.
“Việt Bắc”, “Nước non ngàn dặm”, “Theo chân Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố
Hữu.
Bài số 15. Việt Bắc
Xuất xứ
Sau chiến thắng Điện Biên, hiệp định Geneve được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng. Hồ Chủ tịch và Chính phủ kháng chiến trở về thủ đô Hà Nội tháng 10/1945. Nhân dịp
này Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc”.
Một vài điều cần biết qua
1. Việt Bắc là vùng địa lý - chiến khu bao gồm 6 tỉnh, được gọi tắt là: Cao-Bắc-Lạng-Thái-

Tuyên-Hà. Trong 9 năm kháng chiến, Việt Bắc là chiến khu, là thủ đô của Chính phủ kháng
chiến và Hồ Chủ tịch.
2. Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát gồm 150 dòng thơ (câu thơ). Cấu trúc theo hình thức
đối đáp của lối hát giao duyên trong dân ca giữa “mình” với “ta”. (Sách Văn 12 chỉ trích học 88
dòng thơ)
Những ý lớn của bài thơ
1
- Những kỷ niệm ân tình sâu nặng một thời gian khổ
- Nhớ con người Việt Bắc
- Nhớ cảnh Việt Bắc trong 4 mùa
- Nhớ chiến khu Việt Bắc oai hùng
- Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Những tình cảm đẹp, những vần thơ hay
1. Hai mươi câu đầu là lời nhắn gửi, những câu hỏi của “ta” (người ở lại nhắn gửi hỏi
“mình” (người về). Cảnh tiễn đưa, cảnh phân ly ngập ngừng, lưu luyến bâng khuâng: “Tiếng ai
tha thiết bên cồn… áo chàm đưa buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ
ta… có nhớ không… có nhớ những ngày… có nhớ những nhà… có nhớ núi non… mình có nhớ
mình…” Sự láy đi láy lại diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người ở lại. Bao kỷ niệm sâu
nặng một thời gian khổ như vương vấn hồn người:
(…) Mình đi có nhớ, những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…
Các câu 8 hầu như ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ cân xứng, hài hòa, âm điệu thơ
êm ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào tâm hồn người, gợi ra một trường thương
nhớ, lưu luyến mênh mông.
“Mình” và “ta” trong ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự. “Mình”, “ta” đi vào thơ Tố
Hữu đã tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu sắc dân ca, nhưng đã mang một ý nghĩa mới trong

quan hệ: người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc; tình quân dân, tình kẻ ở người về.
2. Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể nói đó là khúc tâm tình của
người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao trùm nỗi nhớ ấy là “như nhớ người yêu” trong mọi
thời gian và tràn ngập cả không gian:
- Nhớ cảnh Việt Bắc, cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:
“Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre,
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần cù gian khổ:
“… Nhớ bà mẹ nắng cháy lưng
… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang
…Nhớ cô em gái hái măng một mình
… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Điều đáng nhớ nhất là nhớ người ở lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn liền với tình yêu thiên nhiên, tình yêu sông núi, đầy
lạc quan và tự hào. Nhớ cảnh nhớ người, “ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ mùa đông “Rừng
xanh hoa chuối đỏ tươi”. Nhớ “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách
đổ vàng”. Nhớ cảnh “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nỗi nhớ triền miên, kéo dài theo năm tháng.
1
- Nhớ chiến khu oai hùng:
“Núi giăng thành luỹ sắt dày,
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”
- Nhớ con đường chiến dịch:
“Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay…”
Âm điệu thơ hùng tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta. Từ
núi rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả đều mang theo một sức mạnh nhân nghĩa Việt
Nam thần kỳ quyết thắng.
- Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin
“… (Nhớ) ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
… Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
… Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”
- Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử và cách mạng:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”
Bài số 16. Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu)
Trong tập thơ “Ra trận” (1972) của Tố Hữu có bài “Kính gửi Cụ Nguyễn Du”. Bài thơ được viết
vào 1/11/1965, trong dịp nhà thơ đi công tác vào tuyến lửa miền Trung, thời đánh Mỹ ác liệt. Đó
là một thời điểm rất đáng nhớ, khi ông “Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân”, quê hương thi hào
Nguyễn Du.
Bài thơ gồm có 34 câu lục bát, gắn hình thức tập Kiều và lấy Kiều, tác giả đã nhắc lại 3 câu
Kiều nguyên vẹn: “Dầu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng” {(2242)] , Mai sau, dù có bao giờ…”,
{(741)] và câu “Đau đớn thay phận đàn bà…” {(83)], đồng thời lấy ra một số từ ngữ, giọng
điệu của Nguyễn Du như “Tiền Đường”, “Ưng, Khuyển”, “Sở Khanh”, “ruồi xanh”, “hôi tanh”,
“Hỡi lòng”, “Dòng trong đục”, “cánh bèo lênh đênh”, “kiếp phong trần”, “cờ đào”,… Nhờ thế,
điệu thơ, hồn thơ, tình thơ, tuy mới mẻ mà vẫn gần gũi thân quen, làm cho người đọc như cảm
thấy tiếng nói Nguyễn Du, thơ Nguyễn Du, sau 200 năm vẫn còn đồng vọng.
Câu thơ thứ 2 “Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều” là cảm hứng chủ đạo của bài
thơ. “Nhớ Cụ” là nhớ tấm lòng nhân đạo, nhớ tài thơ của Nguyễn Du, nhớ cuộc đời mười năm
gió bụi”, nhớ cuộc sống gian truân của “Nam Hải điếu đồ”, của “Hồng Sơn liệp hộ”. Câu thơ của
Tố Hữu như nhắn gửi với bao buồn thương, man mác:
“Hỡi lòng tê tái thương yêu
Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh”

Đặc biệt trong bài thơ này, nhiều câu thơ mang tính “lưỡng ngôn”, Tố Hữu vừa nói với
Nguyễn Du, vừa đối thoại với nhân vật Thúy Kiều. Đoạn thơ sau đây như làm sống lại một
quãng đời đầy bi kịch của Kiều trong đêm “trao duyên”, trước ngày báo ân báo oán, khi bị ép lấy
viền thổ quan, quá đau khổ, Kiều phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử:
“Ngổn ngang bên nghĩa bên tình
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao?
1
Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào
Đành như phận gái sóng xao Tiền Đường”.
Câu thơ “Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao” nhắc lại cảnh hãi hùng Kiều trốn khỏi nhà
Hoạn Thư, để sau đó lại rơi vào tay Bạc Bà Bạc Hạnh. “Ngọn cờ đào” là của Từ Hải: “Ba quân
chỉ ngọn cờ đào - Đạo ra Vô Tịch, đạo vào Lâm Tri”. “Ngẩn ngơ” là tâm trạng Kiều trong những
tháng ngày lưu lạc, cũng là tâm trạng của Nguyễn Du trước thời cuộc khi Tây Sơn ra Bắc Hà. Và
“ngọn cờ đào” ấy cũng có thể là của người anh hùng Nguyễn Huệ: “Mà nay áo vải cờ đào – Giúp
dân dựng nước biết bao công trình” (Ai tư vãn)?
Càng thương nàng Kiều, nhà thơ lại càng đồng cảm với Nguyễn Du: “Nỗi niềm xưa, nghĩ mà
thương” Thương cho tình duyên Kiều bị đứt đoạn, trâm gãy bình tan “Dầu lìa ngó ý, còn vương
tơ lòng”. Thương cho Kiều khi nàng dặn dò với em trong đêm trao duyên. “Mai sau, dù có bao
giờ”… Thương nàng Kiều bao nhiêu lại cảm thông với “nỗi niềm” Nguyễn Du bấy nhiêu:
“Nhân tình nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như?
Mai sau dù có bao giờ…
Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay!”
Nguyễn Du đã từng ký thác một nỗi niềm: Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa - Người đời ai khóc
Tố Như chăng? (Độc Tiểu Thanh ký). Nguyễn Du cũng từng viết trong “Truyện Kiều”: “Thương
thay cũng một kiếp người - Hại thay mang lấy sắc tài làm chi…”
Vì thế, “Tố Hữu mới viết: “Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như”; nghĩa là con cháu hôm nay,
người đời nay không chỉ “khấp Tố Như” mà còn “khóc cùng Tố Như”, đau với nỗi đau nhân
tình, đồng cảm với tiếng khóc, với tấm lòng nhân đạo của thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Cuộc đời Thuý Kiều là cuộc đời người thiếu nữ tài sắc bạc mệnh. Truyện Kiều cũng là một

khúc đàn bạc mệnh từng làm tê tái lòng người gần hơn hai thế kỷ nay. Nó vẫn là “Khúc Nam âm
tuyệt xướng” làm rung động lòng người:
“Tiếng đàn xưa đứt ngang dây,
Hai trăm năm lại càng say lòng người”
Từ ngày Nguyễn Du mất đến nay, trên đất nước ta “Cuộc thương hải tang điền mấy lớp…”,
thế mà “tấm lòng thơ” của ông vẫn thiết tha, vẫn mang nặng tình đời. Và hình ảnh Thúy Kiều,
hình ảnh của những người đàn bà bạc mệnh trong cuộc đời vẫn còn làm rơi lệ nhân gian:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Hỡi ôi, thân ấy biết là mấy thân!”
Tố Hữu đã dành những vần thơ hàm súc và xúc động nhất, nhắc lại một câu Kiều hay nhất để
ca ngợi và khẳng định giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều”.
Trong “Đoạn trường tân thanh”, “bọn bạc ác tinh ma” như Tú bà, Mã Giám Sinh, Bạc bà, Bạc
Hạnh, ưng Khuyển, Sở Khanh”, đã bị trừng phạt một cách đích đáng “máu rơi thịt nát tan tành”,
nhưng trên đất nước ta, nhất là ở miền Nam (1965) còn đầy rẫy loại bất lương “hại người”.
Mượn xưa để nói nay cũng là một nét đặc sắc trong bút pháp của Tố Hữu:
“Song còn bao nỗi chua cay,
Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh,
Cùng loài hổ báo, ruồi xanh,
Cùng phường gian ác, hôi tanh hại người!”
Các nhà nho trong thế kỷ 19 đã dành những lời đẹp nhất ca ngợi “Truyện Kiều”. Mông Liên
Đường viết: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy…,
nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, “tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái
bút lực ấy”. Đào Nguyên Phổ thì khẳng định: “Truyện Kiều” là “Khúc Nam âm tuyệt xướng”.
Cao Bá Quát tấm tắc khen “Truyện Kiều” là “Tiếng thơ đạt thấu tình đời”, v.v… Tố Hữu đã
đứng trên đỉnh cao thời đại viết nên những câu thơ có “tính chất đúc kết ngợi ca cái hay, cái đẹp
1
của “Truyện Kiểu”. Đó là “tiếng thương… tiếng mẹ ru”, là tiếng vọng của non nước nghìn thu…
Nguyễn Du và thơ ông bất hủ với thời gian “nghìn năm sau…”:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
Hai câu cuối bài thơ như đưa người đọc từ thế giới Truyện Kiều, thơ chữ Hán của Nguyễn Du
trở về với thực tại. Tiếng trống thúc giục gọi quân như tiếng hịch vang lên hùng tráng. Cả dân
tộc đã và đang đứng lên đánh giặc để bảo vệ đất nước, cũng là để bảo vệ những di sản văn hoá
của dân tộc, để bảo vệ “Truyện Kiều” đỉnh cao của nền thơ ca dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã làm
sống lại không khí lịch sử oai hùng:
“Sông Lam nước chảy bên đồi,
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân”
Nguyễn Du và kiệt tác “Truyện Kiều” là niềm tự hào to lớn của mỗi con người Việt Nam
trong hai thế kỷ nay. “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn” (Chế Lan Viên). Bài thơ
của Tố Hữu đã giúp mỗi chúng ta cảm nhận vẻ đẹp nhân văn của Truyện Kiều, ngưỡng mộ và
biết ơn thi hào dân tộc Nguyễn Du đã để lại trong lòng ta “Tiếng thương như tiếng mẹ ru những
ngày”…
Bài số 17. Tiếng hát con tàu
Tác giả
Phan Ngọc Hoan, bút danh Chế Lan Viên (1820 – 1989).
Tác phẩm: “Điêu tàn” (1937), “Ánh sáng và phù sa” (1960), “Hoa ngày thường – chim báo
bão” (1967), “Những bài thơ đánh giặc” (1972),… : “Hoa trên đá…” (1984)…
Thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng và vẻ đẹp trí tuệ, sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương
phản đối lập, sáng tạo ra những hình ảnh đẹp mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo.
Xuất xứ và ý tưởng chính của bài thơ
1. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” rút từ tập thơ “Ánh sáng và phù sa” xuất bản năm 1960.
2. Bài thơ thể hiện sự gắn bó với đất nước và nhân dân trong kháng chiến cũng như trong kiến
thiết hoà hình là để đền ơn đáp nghĩa, để trở về cội nguồn hạnh phúc cũng là tìm thấy nguồn vui
trong lao động sáng tạo nghệ thuật.
Những vần thơ đẹp và hay
1. Khổ thơ đề từ
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc,
Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
1
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”
Tây Bắc trong bài thơ là biểu tượng cho mọi miền đất nước thân yêu, là “nơi máu rỉ, tâm hồn
ta thấm đất” trong kháng chiến, cũng là nơi “tình em đang mong, tình mẹ đang chờ”, là mảnh đất
xanh màu hy vọng “nay dạt dào đã chín trái đầu xuân”. Và con tàu, chính là lòng ta, tâm hồn ta
mang sức mạnh và niềm vui khát vọng lên đường khi “Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”. Lên đường
đến với mọi miền đất nước, để “ta lấy lại vàng ta”, tìm thấy tâm hồn đích thực của mình, cũng là
để khơi nguồn cảm hứng sáng tạo thi ca.
2. Trở lại Tây Bắc
- Là mảnh đất anh hùng:
“Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng.
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân”
- Trở lại Tây Bắc là trở về cội nguồn tình thương, như cỏ non, như chim én đón xuân về, như
trẻ thơ đói lòng gặp sữa mẹ,…
- Trở lại Tây Bắc là để đền ơn đáp nghĩa đối với những tấm lòng nhân hậu thủy chung: là em
giao liên giữa rừng sâu “mười năm tròn chưa mất một phong thư”; là anh du kích với “chiếc áo
nâu anh mặc đêm công đồn… đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”. Là bà mế Tây Bắc “năm con
đau mế thức một mùa dài – Con với mế không phải hòn máu cắt – Nhưng trọn đời con nhớ mãi
ơn nuôi”. Là cô gái Tây Bắc “vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng… Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ
mùi hương”.
- Trở lại Tây Bắc là để đo lòng mình, khám phá chiều sâu tâm hồn mình về tình yêu nước,
thương dân, về ân nghĩa thủy chung ở đời:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở,
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Vần thơ giầu chất triết lý, kết tinh những trải nghiệm ứng xử, sự chắt lọc tình đời, tình người
qua mỗi trái tim, mỗi tâm hồn trong sáng.
3. Khúc hát lên đường:

- Nhịp điệu dồn dập, âm điệu rộn ràng, phấn chấn say mê:
“Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga
… Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”
- Mang ước vọng tìm thấy nguồn thơ, tìm thấy cái tâm đích thực của lòng ta:
“Tây Bắc ơi, người mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa,
Nay trở về ta lấy lại vàng ta”
- Nếu khi chưa lên đường “Tàu đói những vành trăng” thì nay, con tàu đã ôm bao “mộng
tưởng” và kỳ diệu thay “mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng?” Có hạnh phúc nào, niềm
vui nào bát ngát hơn “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”, khi:
“Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”
“Mặt hồng em” là một hình tượng đẹp thể hiện cuộc sống muôn màu muôn vẻ, là hiện thực
phong phú của đất nước ta, của nhân dân ta; với người nghệ sĩ, đó là những sáng tạo thi ca đích
thực.
4. Kết luận
Chế Lan Viên đã có một lối nói rất thơ, rất tài hoa. Cấu trúc bài thơ, sáng tạo hình ảnh, chất
cảm xúc hòa quyện với chất trí tuệ tạo nên những vần thơ hay, mới lạ, độc đáo.

×