Lời nói đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan trọng phản
ánh hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Nó có quan hệ
chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác như bản cân đối ngân sách, cân đối tiền tệ, hệ
thống tài khoản quốc gia. Chính vì vậy, cán cân thanh toán đã trở thành công cụ quan trọng
để đề ra các chính sách phát triển kinh tế và những diễn biến trong cán cân thanh toán của
một nước là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách. Tuy nhiên để lập
được một bản cán cân thanh toán quốc tế đầy đủ chính xác và kịp thời là một việc rất khó
khăn do phạm vi thu thập số liệu cán cân thanh toán quốc tế quá rộng. Việc phân tích các
tình trạng và đưa ra các giải pháp điều chỉnh cán cân thanh toán trong từng thời kì phát
triển kinh tế của một quốc gia cũng là việc khó do các khu vực trong nền kinh tế có quan
hệ tác động lẫn nhau.
Để cán cân thanh toán quốc tế trở thành một công cụ phân tích, quản lý tốt các hoạt
động kinh tế đối ngoại thì vấn đề cấp thiết là phải có sự nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực
tiễn trong việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Phân tích cơ sở khoa học của việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh
toán quốc tế.
- Phân tích thực trạng của cán cân thanh toán của Việt Nam qua các thời kỳ .
- Trên cơ sở phân tích trên đưa ra các biện pháp điều chỉnh thích hợp cho cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng là những vấn đề thực tiễn và lý thuyết trong việc thành lập cán cân thanh
toán và các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán của Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: về mặt lý thuyết phân tích cơ sở khoa học của việc xây dựng cán
cân thanh toán quốc tế và các cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế; về mặt thực
tiễn, phân tích thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong những năm qua.
Từ đó đề ra các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế thích hợp, đảm bảo sự
phát triển cân đối bên trong lẫn bên ngoài của nền kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết sử dụng biện pháp duy vật biện chứng, so sánh tổng hợp và phân tích, kết hợp
những kết quả thống kê và vận dụng lý thuyết để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu .
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế (CCTTQT)
1.1 Khái niệm
Cán cân thanh toán quốc tế (balance of payment) được hiểu là bảng kế toán tổng hợp
các luồng vận động về hàng hoá dịch vụ , tư bản… của một quốc gia với phần còn lại của
thế giới trong từng thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các
cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao
dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản.
Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một năm. Những giao dịch
đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi
vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước
cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.
Vậy, cán cân thanh toán quốc tế là một bản đối chiếu giữa các khoán tiền thu được từ
nước ngoài với các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia trong một thời kỳ nhất
định.
Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/2009 của Chính phủ về quản lý cán
cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam được quy
định là bảng tổng hợp có hệ thống toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa Người cư
trú và Người không cư trú trong một thời kỳ nhất định. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam được giao là cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh
toán.
1.2 Ý nghĩa kinh tế của CCTTQT.
Thực chất của cán cân thanh toán quốc tế là một tài liệu thống kê, có mục đích cung
cấp sự kê khai đầy đủ dưới hình thức phù hợp với yêu cầu phân tích những quan hệ kinh tế
tài chính của một nước với nước ngoài trong một thời gian xác định. Do đó, CCTTQT là
một trong những công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Thông qua, cán cân thanh
toán trong một thời kỳ, Chính phủ của mỗi quốc gia có thể đối chiếu giữa những khoản
tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi ra cho
nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Từ đó, đưa ra các quyết sách về điều hành kinh tế
vĩ mô như chính sách tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu.
Ngoài ra, CCTT là công cụ đánh giá tiềm năng kinh tế của một quốc gia, giúp các
nhà hoạch định kinh tế có định hướng đúng đắn. Cán cân thanh toán bộc lộ rõ ràng khả
năng bền vững, điểm mạnh và khả năng về kinh tế bằng việc đo lường chính xác kết quả
xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của đất nước đó.
CCTT còn được sử dụng như một chỉ số về kinh tế và tính ổn định chính trị. Ví dụ,
nếu một nước có thặng dư cán cân thanh toán có nghĩa là có nhiều đầu tư từ nước ngoài
đáng kể vào nước đó hoặc cũng có thể là nước đấy không xuất khẩu nhiều tiền tệ ra nước
ngoài dẫn đến sự tăng giá của giá trị đồng nội tệ so với ngoại tệ.
2. Kết cấu và các cán cân bộ phận của cán cân thanh toán quốc tế
2.1. Các thành phần của cán cân thanh toán
Theo quy tắc mới về biên soạn biểu cán cân thanh toán do IMF đề ra năm 1993, cán
cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần sau:
Tài khoản vãng lai: Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng hóa, dịch vụ và
một số chuyển khoản.
Tài khoản vốn : Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài sản tài
chính.
Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước
Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Do tổng của
tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng
giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối tạo nên.
Mục sai số
Do ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa phần ghi chép được
và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi trong cán cân thanh
toán như là mục sai số.
2.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán
Cán cân vãng lai (current balance)
Cán cân vốn (capital balance)
Cán cân bù đắp chính thức (official finacing balance)
Cán cân cơ bản (basic balance)
Cán cân tổng thể (overall balance)
2.2.1. Cán cân vãng lai
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một
quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước
với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong
nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ
được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài
nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài
khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn năm
1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
Cán cân thương mại hàng hóa
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc
tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc
gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất
khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương
mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có
thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi
cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương.
Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm.
Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại
quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ
chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại:
+ Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự
gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là
phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa
là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài
ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa
sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế
thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam tăng
tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp
Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
+ Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì
xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc
vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh
tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
+ Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến
giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi
tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên
rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế
việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn
đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất
khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một
bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung
Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm
chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén tương đương
của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập khẩu từ Trung Quốc
có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối đoái thay đổi thành 2.300 VND
= 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán với giá 75.900 VND và kém lợi
thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam.
Tác động của cán cân thương mại đến GDP :
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất khẩu
ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi
tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng
Cán cân thương mại phi hàng hóa
- Cán cân dịch vụ :
Bao gồm các khoản thu chi từ các dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính,
viễn thông, ngân hàng, thông tin xây dựng và các hoạt động khác giữa người cư trú với
người không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hoá xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh
cung ngoại tệ nên nó được ghi vào bên co và có dấu dương; nhập khẩu ngoại tệ làm phát
sinh cầu ngoại tệ. Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất khẩu dịch vụ cũng giống như các
nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụcũng giống như các nhân tố ảnh
hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Cán cân thu nhập:
+ Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu
nhập khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư trú hay ngược lại.các
nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động ở nước ngoài.
+ Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư
giấy tờ có giá và các khoản lãi đến han phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và
không cư trú.
- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều :