BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2010”
TÊN CÔNG TRÌNH:
NGÂN HÀNG CHO NGƯỜI NGHÈO - HƯỚNG ĐI CẦN
THIẾT NHẰM XÓA BỎ CHÊNH LỆCH GIÀU - NGHÈO
TẠI VIỆT NAM
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
2
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Đó là tin mừng đối
với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên điều đó cũng dẫn đến một thực
trạng đáng lo ngại là sự mất cân bằng giàu - nghèo ngày càng cao. Và như vậy sẽ có một tỷ lệ
lớn người nghèo không được tiếp cận với hệ thống tài chính Việt Nam đang trong giai đoạn
phát triển. Sự chuyển dịch của lực lượng lao động từ nông thôn về khu trung tâm kinh tế lớn
cũng có xu hướng tiếp tục gia tăng. Chính vì vậy hệ thống TCVM ngày càng phát triển rộng
khắp toàn quốc nhưng phần lớn quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu của hầu hết người
nghèo. Việc đòi hỏi một hệ thống TCVM hoàn hảo là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế phát
triển của Việt Nam vì hoạt động TCVM được xem là một công cụ hữu hiệu trong chiến lược
XĐGN của các nước đang phát triển. Qua bài nghiên cứu này chúng tôi muốn nghiên cứu một
hướng tiếp cận mới của TCVM đó chính là mô hình Grameen Bank - ngân hàng cho người
nghèo của Muhammad Yunus và hướng tới xây dựng mô hình này sao cho phù hợp hơn với
tình hình thực tiễn của Việt Nam. Chúng tôi tin tưởng và hy vọng rằng những vấn đề được đề
cập trong bài nghiên cứu này sẽ là bài học kinh nghiệm quý báu đối với ai quan tâm tới sự
phát triển của TCVM ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là tìm hiểu về mô hình Ngân hàng Grameen cũng như
những thành tựu của nó trên thế giới. Bên cạnh đó, đề tài còn nghiên cứu thực trạng cho vay
người nghèo của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam cùng với nhu cầu tín dụng vi mô ngày
càng cao của người nghèo. Đề tài xoáy sâu vào thực trạng áp dụng phương pháp Grameen của
một số TCTCVM tại Việt Nam qua đó thấy được thành tựu cũng như những hạn chế của các
tổ chức này. Cuối cùng thông qua các cơ hội và thách thức, chúng tôi đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện hơn mô hình Grameen Bank tại Việt Nam, cũng như cải thiện môi trường
TCVM nhằm tạo điều kiện cho mô hình này phát triển.
3. Nội dung nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mô hình Ngân hàng Grameen. Phạm vi ứng dụng của mô
hình này rất rộng, tuy nhiên trong bài nghiên cứu này, chúng tôi giới hạn việc ứng dụng mô
hình vào mảng tín dụng vi mô - cho vay người nghèo.
3
Tài liệu nghiên cứu tổng hợp trong và ngoài nước từ năm 2004 đến nay. Kết cấu đề tài bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank ở Việt Nam.
Chương 3: Hướng tới xây dựng mô hình Grameen Bank cho phù hợp với điều kiện Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Về phương pháp nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận, nhưng chúng tôi sử dụng những phương
pháp sau: Phương pháp thống kê - mô tả, phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu, diễn dịch -
quy nạp, phương pháp nghiên cứu từ thực tiễn để khái quát những vấn đề mà đề tài nghiên
cứu. Về thu thập số liệu chúng tôi sử dụng 2 phương pháp:
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp thông qua thu thập các nguồn thông tin từ internet,
sách, báo, tạp chí chuyên ngành, các đề tài, dự án có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp thông qua phỏng vấn trực tiếp cơ sở tín dụng CEP và
chính quyền địa phương, phỏng vấn hộ gia đình có thu nhập thấp bằng bảng câu hỏi có sẵn
câu trả lời.
5. Đóng góp của đề tài:
Với sự phát triển của những hình thái kinh tế như hiện nay thì sự phân biệt giàu nghèo ngày
càng tăng. Đề tài của chúng tôi nghiên cứu và khảo sát tới thực trạng cho vay người nghèo của
các tổ chức tín dụng Việt Nam, cũng như nhu cầu của người dân nghèo đối với nguồn vốn tín
dụng. Như vậy, thứ nhất đề tài của chúng tôi sẽ mang tới cái nhìn khái quát nhất về sự cần
thiết phải có một định chế tài chính nhằm giúp người nghèo thoát nghèo một cách bền vững.
Thứ hai, chúng tôi cung cấp những giải pháp cùng những kiến nghị nhằm hiện thực hóa hơn
đề tài của mình. Chúng tôi hy vọng, nếu đề tài này được áp dụng một cách rộng rãi, khoa học
thì sẽ có tác dụng to lớn trong công cuộc xóa đói giảm nghèo hiện nay.
6. Hướng phát triển của đề tài
Chúng tôi sẽ nghiên cứu thêm những mô hình cho vay người nghèo khác trên thế giới nhằm
tích hợp những lợi điểm của những mô hình này cùng với việc mở rộng thêm phạm vi khảo sát
nhu cầu vốn tín dụng của người nghèo để hoàn thiện hơn nữa mô hình Grameen Bank khi áp
dụng tại Việt Nam.
4
MỤC LỤC
Tóm tắt công trình ..........................................................................................................2
Danh mục từ viết tắt ........................................................................................................6
Chương 1: Cơ sở lý luận................................................................................................7
1. Giải thích các thuật ngữ liên quan................................................................................7
2. Mô hình Grameen Bank...............................................................................................9
2.1 Sơ lược về mô hình Grameen Bank....................................................................10
2.2 Ý tưởng xây dựng mô hình Ngân hàng Grameen................................................10
2.3 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của Ngân hàng Grameen. .................. 11
2.4 Nguyên tắc hoạt động và vận hành của mô hình Grameen Bank......................... 12
2.5 Điểm khác biệt của mô hình Ngân hàng Grameen so với các ngân hàng khác. ...13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................................. 16
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank ở Việt Nam. .....................................17
1. Thành quả của Grameen. ...........................................................................................17
1.1 Ở các nước nghèo. ............................................................................................. 17
1.1.1 Haiti ......................................................................................................... 17
1.1.2 Ghana........................................................................................................17
1.2 Ở các nước đang phát triển.................................................................................18
1.2.1 Trung Quốc .............................................................................................. 18
1.2.2 Ấn Độ ...................................................................................................... 19
1.3 Ở các nước phát triển.........................................................................................20
1.3.1 Mỹ............................................................................................................20
1.3.2 Mehico .....................................................................................................21
2. Thực trạng áp dụng mô hình Grameen Bank ở Việt Nam...........................................21
2.1 Sơ lược về tình hình nghèo tại Việt Nam............................................................ 21
2.2 Thực trạng cho vay người nghèo của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.............24
2.2.1 Ngân hàng Thương mại.............................................................................24
2.2.2 Các tổ chức TCVM không sử dụng phương pháp Grameen. ......................25
2.2.2.1 Ngân hàng chính sách xã hội (VBSP). ...........................................25
2.2.2.2 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam...........28
2.2.3 Các TCTCVM sử dụng phương pháp Grameen. ........................................30
5
2.2.3.1 Quỹ trợ vốn CEP. ..........................................................................30
2.2.3.2 Quỹ Tình Thương - Hội Liên hiệp Phụ nữ. ....................................35
2.2.3.3 Mạng lưới TCTCVM M7. .............................................................38
2.3 Khảo sát thực tế thực trạng vay vốn của các hộ gia đình.....................................41
2.4 Cơ hội và thách thức khi áp dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam. ...........44
2.4.1 Cơ hội. ......................................................................................................44
2.4.2 Thách thức. ...............................................................................................48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2. .............................................................................................50
Chương 3: Hướng tới xây dựng mô hình Grameen Bank cho phù hợp với điều kiện
Việt Nam...................................................................................................................... 52
1. Nhóm giải pháp cải tiến và nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình Grameen Bank
cho phù hợp với điều kiện ở Việt Nam. ........................................................................52
1.1 Giải pháp về khách hàng....................................................................................52
1.2 Giải pháp về sản phẩm - dịch vụ. .......................................................................53
1.3 Giải pháp về phương thức cho vay và hoàn trả...................................................56
1.4 Các giải pháp phòng ngừa rủi ro. .......................................................................58
2. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường bên ngoài tác động đến mô hình Grameen Bank.59
2.1 Giải pháp thu hút vốn đầu tư..............................................................................59
2.2 Giải pháp về thông tin và công nghệ. .................................................................60
2.3 Thu hút và đào tạo nguồn nhân lực.....................................................................61
2.4 Liên kết với các tổ chức tư vấn về phương thức kinh doanh. .............................. 61
3. Một số kiến nghị........................................................................................................62
3.1 Kiến nghị về khung pháp lý cho hoạt động của TCTCVM. ................................62
3.2 Kiến nghị về môi trường kinh tế vĩ mô............................................................... 63
3.3 Kiến nghị với chính quyền địa phương, TCTCVM, người vay vốn. ...................64
3.4 Kiến nghị về mở rộng và cơ cấu lại hệ thống TCVM..........................................66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.............................................................................................. 68
Danh mục tài liệu tham khảo. ...........................................................................................I
Danh mục phụ lục .........................................................................................................III
Danh mục bảng .....................................................................................................XXVIII
Danh mục biểu ..........................................................................................................XXX
6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHVM: Bảo hiểm vi mô.
CEP: Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm.
CNTT: Công nghệ thông tin.
NHCSXH: Ngân hàng Chính sách Xã hội.
NHNo&PTNTVN: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
NHNN: Ngân hàng Nhà nước.
NHTM: Ngân hàng Thương mại.
NHTMCP: Ngân hàng Thương mại Cổ phần.
TCTCVM: Tổ chức Tài chính vi mô.
TCVM: Tài chính vi mô.
TYM: Quỹ tình thương - Hội Liên hiệp Phụ nữ.
UBND: Uỷ ban Nhân dân.
VPSB: Ngân hàng Chính sách Xã hội.
XĐGN: Xoá đói giảm nghèo.
Chương 1: Cơ sở lý luận.
7
Chương 1: Cơ sở lý luận
1. Giải thích các thuật ngữ liên quan.
TCVM: TCVM được coi là một phương pháp phát triển kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho cư
dân thu nhập thấp (kể cả phụ nữ và nam giới). Thuật ngữ này đề cập đến dịch vụ tài chính cho
các khách hàng có thu nhập thấp, bao gồm cả những đối tượng làm ăn cá thể. Các dịch vụ tài
chính nói chung bao gồm tiết kiệm và tín dụng; tuy nhiên, một số TCTCVM cũng cung cấp
các dịch vụ như bảo hiểm và thanh toán. Cùng với các trung gian tài chính, rất nhiều
TCTCVM cung cấp các dịch vụ mang tính xã hội như hình thành tổ nhóm, phát triển tính tự
tin, và đào tạo các kiến thức về tài chính cũng như khả năng quản lý giữa các thành viên trong
một nhóm.
Do đó, định nghĩa TCVM thường bao gồm 2 yếu tố: trung gian tài chính và trung gian xã hội.
TCVM không đơn giản chỉ là công cụ ngân hàng, nó là một công cụ phát triển.
TCVM thường đề cập đến:
- Các khoản vay nhỏ, đặc biệt là các món vay để làm vốn luân chuyển.
- Thẩm định phi chính thức về người vay và các hoạt động đầu tư của họ.
- Các hình thức ký quỹ thay thế tài sản thế chấp như bảo lãnh nhóm và tiết kiệm bắt buộc.
- Vay nhiều lần và số tiền vay lớn dần dựa trên thực trạng hoàn trả vốn vay, giải ngân nhanh
gọn và giám sát.
- Các sản phẩm tiết kiệm an toàn và tạo sự tin tưởng cho người gửi tiền.
Các TCTCVM có thể là các tổ chức phi chính phủ, các tổ nhóm cho vay và tiết kiệm, các hiệp
hội tín dụng, các ngân hàng quốc doanh, các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính
phi ngân hàng. Khách hàng của các TCTCVM thường là những người làm ăn cá thể điển hình,
những doanh nghiệp có thu nhập thấp ở cả thành thị và nông thôn. Khách hàng thường là các
thương gia, những người buôn bán rong trên hè phố, những hộ nông dân nhỏ, những người
làm nghề dịch vụ thu nhập thấp, thợ thủ công và những người sản xuất nhỏ như đánh giầy, thợ
may. Thông thường công việc của họ mang lại nguồn thu nhập ổn định (thường là từ nhiều
hoạt động khác nhau).
Thông thường ở nước ta có 3 nhóm cung cấp dịch vụ TCVM:
- Khu vực chính thức gồm hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng chính sách xã hội và
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Chương 1: Cơ sở lý luận.
8
- Khu vực bán chính thức gồm các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước và chương
trình của các tổ chức xã hội.
- Khu vực phi chính thức là các nhóm cho vay tương hỗ dưới hình thức phường, họ, hụi,
thậm chí vay nặng lãi…
Tín dụng vi mô: theo nghị định 28/2005/NĐ - CP, tín dụng quy mô nhỏ là khoản cho vay có
giá trị nhỏ, có hoặc không có tài sản bảo đảm đối với các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập
thấp để sử dụng vào các hoạt động tạo thu nhập và cải thiện điều kiện sống.
Một số mô hình tín dụng vi mô thường gặp:
- Tín dụng vi mô không chính thức theo truyền thống (ví dụ, tín dụng của người cho vay
nặng lãi, tiệm cầm đồ, những khoản vay mượn bạn bè, tín dụng tiêu dùng từ những thị trường
không chính thức…).
- Tín dụng vi mô dựa trên các hoạt động thông qua các ngân hàng chuyên biệt (ví dụ tín dụng
nông nghiệp, tín dụng chăn nuôi, tín dụng ngư nghiệp, tín dụng thủ công…).
- Tín dụng nông thôn thông qua các ngân hàng chuyên biệt.
- Tín dụng hợp tác (tín dụng hợp tác, tổ chức tín dụng, hiệp hội cho vay và tiết kiệm, ngân
hàng tiết kiệm...).
- Tín dụng vi mô tiêu dùng.
- Tín dụng vi mô dựa vào hiệp hội các ngân hàng của các tổ chức phi chính phủ.
- Tín dụng vi mô theo kiểu Grameen hoặc tín dụng Grameen.
- Các hình thức khác của tín dụng vi mô của các tổ chức phi chính phủ.
- Các hình thức khác của tín dụng vi mô không thế chấp, không phải của các tổ chức phi
chính phủ.
Phương pháp tiếp cận TCVM:
- Cho vay cá thể: cho vay cá thể là việc cung ứng tín dụng cho các cá nhân không phải là
thành viên của một nhóm cùng chịu trách nhiệm hoàn trả. Cho vay cá thể đòi hỏi sự liên hệ
thường xuyên và gần gũi với các khách hàng cá thể để cung cấp các dịch vụ tín dụng được
thiết kế theo nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp. Mô hình cho vay này đặc biệt thành công với
những doanh nghiệp sản xuất, ở thành thị, có quy mô lớn và có tài sản thế chấp hoặc có một
người bảo lãnh tự nguyện. Tại nông thôn, cho vay cá thể có thể cũng thành công với những
trang trại nhỏ.
Chương 1: Cơ sở lý luận.
9
- Cho vay theo nhóm tương hỗ Grameen: mô hình cho vay này được phát triển bởi Ngân
hàng Grameen của Bangladesh nhằm phục vụ những phụ nữ nông thôn, không có ruộng đất,
mong muốn tài trợ cho các hoạt động tạo thu nhập. Mô hình này khá phổ biến ở châu Á. Hội
tín thác Grameen có trên 40 mô hình mô phỏng tại châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh. Khách
hàng đến từ vùng nông thôn và thành thị và thường là (nhưng không phải duy nhất) phụ nữ từ
các nhóm hộ có thu nhập thấp đang theo đuổi hoạt động tạo thu nhập.
- Cho vay theo nhóm tương hỗ Mỹ La Tinh: mô hình nhóm tương hỗ thường cho vay đến
từng thành viên trong các nhóm khoảng 4 đến 7 thành viên. Các thành viên bảo lãnh chéo cho
món vay để thay thế cho tài sản thế chấp truyền thống. Khách hàng thường là các chị em bán
hàng ở chợ, những người thường được vay những món nhỏ, ngắn hạn làm vốn lưu động. Mô
hình được phát triển bởi tổ chức ACCION International ở Mỹ La Tinh và đã được áp dụng bởi
nhiều TCTCVM.
- Ngân hàng làng xã: là các tổ chức tín dụng tiết kiệm do cộng đồng quản lý được thiết lập
nhằm cung ứng khả năng tiếp cận tới các dịch vụ tài chính ở vùng nông thôn, xây dựng 1
nhóm tự hỗ tại cộng đồng và giúp các thành viên tích lũy các khoản tiết kiệm. Mô hình được
phát triển vào những năm 80 bởi tổ chức Hỗ Trợ Cộng Đồng Quốc Tế. Số lượng thành viên
của ngân hàng làng xã thường từ 30 đến 50 người, hầu hết trong số đó đều là phụ nữ. Việc ai
đó được coi là thành viên thường dựa vào sự tự lựa chọn. Ngân hàng thường được tài trợ bởi
việc huy động vốn nội bộ từ các thành viên cũng như các món vay từ các TCTCVM.
- Ngân hàng làng xã tự quản: (Hiệp Hội Tiết Kiệm và Cho Vay): được thiết lập và quản lý
bởi các hội đồng làng xã nông thôn. Những ngân hàng này khác với ngân hàng làng xã phục
vụ nhu cầu của cả làng, chúng không phải chỉ là một nhóm 30 đến 50 người. Mô hình này
khởi xướng bởi một tổ chức phi chính phủ của Pháp, Trung tâm Nghiên Cứu và Phát triển
quốc tế vào giữa năm 1980.
2. Mô hình Grameen Bank.
Ngân hàng Grameen là một TCTCVM khởi đầu tại Bangladesh với mục đích cho vay vốn nhỏ
(được gọi tín dụng vi mô) cho người nghèo mà không cần điều kiện bảo đảm. Hệ thống dựa
trên ý tưởng người nghèo có các kỹ năng mà không được tận dụng hết. Ngân hàng cũng nhận
ký quỹ, cung cấp các dịch vụ khác và kinh doanh trên các lĩnh vực, hướng phát triển bao gồm
các công ty sản xuất, điện thoại và năng lượng. Tổ chức này và người thành lập, Muhammad
Chương 1: Cơ sở lý luận.
10
Yunus, được nhận giải thưởng Nobel Hòa bình năm 2006 “vì những nỗ lực của họ trong việc
tạo ra sự phát triển kinh tế và xã hội từ dưới lên."
2.1 Sơ lược về mô hình Grameen Bank.
Có lẽ những ai hoạt động trong lĩnh vực TCVM đều biết đến cái tên Muhammad Yunus với
mô hình Ngân hàng Grameen nổi tiếng - ngân hàng cho người nghèo được trao giải Nobel
Hòa bình năm 2006.
Muhammad Yunus sinh ngày 28/6/1940 ở Chittagong, tỉnh Bengal của Ấn Độ (nay là nước
Bangladesh). Ông là con thứ 3 trong gia đình 9 người con. Từ nhỏ, Yunus đã tỏ ra rất thông
minh và luôn tìm hiểu tường tận về những gì được dạy ở trường. Năm thi tú tài, ông đứng
hạng thứ 16 trong tổng số 39.000 học sinh. Năm 1957, Yunus theo học ngành kinh tế tại Đại
học Dhaka, tốt nghiệp năm 1960 và lấy bằng thạc sĩ năm 1961. Sau khi ra trường, Yunus vào
dạy tại Đại học Chittagong trước khi nhận học bổng Fullbright để sang Mỹ và lấy bằng Tiến sĩ
Kinh tế tại Trường Đại học Vanderbilt năm 1969. Từ năm 1969 đến năm 1972, Yunus là giáo
sư phụ giảng môn kinh tế học tại Đại học Middle Tennessee State trước khi quay trở về
Bangladesh, nơi ông giảng dạy tại Đại học Chittagong.
2.2 Ý tưởng xây dựng mô hình Ngân hàng Grameen.
Nạn đói khủng khiếp năm 1974 tại Bangladesh khiến hàng chục ngàn người thiệt mạng đã làm
cho Giáo sư Yunus phải để ý đến vấn đề XĐGN tại nước ông. Ý tưởng của ông phát sinh năm
1976, khi thăm một trong những ngôi làng nghèo ở Bangladesh, Yunus phát hiện ra rằng
những khoản cho vay nhỏ có thể tạo ra sự khác biệt khủng khiếp cho những người nghèo. Ông
đã thấy một ví dụ cụ thể trước mắt, một phụ nữ đẽo gọt những chiếc ghế tre, không có được lãi
vì cô ấy không có được tiền để mua nguyên liệu tre thô. Thay vào đó, cô vay cây tre từ một lái
buôn. Đổi lại, cô bán những chiếc ghế lại cho người buôn đó với giá chỉ 1 hoặc 2 xu nhiều hơn
giá nguyên vật liệu. Thành ra, cô làm việc như một nô lệ. Bao nhiêu tiền để đem đến tự do
kinh tế cho người phụ nữ đó? 25 xu! Ông Yunus lẩm nhẩm kế hoạch cho vay, vì ông luôn
chống lại chuyện cho không - nhưng ông trước tiên tìm hiểu xem có bao nhiêu người cần cho
vay? Nói chuyện với những hàng xóm, ông tìm ra tất cả 42 người. Và ông cho họ vay tại chỗ
27 đô la từ số tiền trong túi. Hạnh phúc đã đến với 42 phụ nữ khi họ thoát khỏi sự nô lệ và
nhục nhã về nhân phẩm, chỉ với sự giúp đỡ rất nhỏ về kinh tế. Và ông muốn tiếp tục giúp
Chương 1: Cơ sở lý luận.
11
những người nghèo. Ý tưởng về “tín dụng vi mô” những món tiền cho vay nho nhỏ nhưng
theo đúng quy tắc tín dụng phát sinh từ đó. Từ những ý tưởng này ông đã xây dựng nên mô
hình Ngân hàng Grameen.
2.3 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển.
Từ ý tưởng trên Yunus đã liên hệ với nhà băng mong được giúp đỡ. Nhưng nhà băng chẳng
giúp được gì. “Những người nghèo không có giá trị kinh tế gì để cho vay”. Không nản, ông
tìm cách thuyết phục nhà băng bằng cách nhóm những người nghèo lại để vay những khoản
nhỏ. Năm 1976, ông ký bảo đảm để vay một khoản 300 đô la cho họ. Ông Yunus tin rằng nếu
được cho cơ hội, người nghèo sẽ trả lại được tiền và TCVM sẽ sống sốt như một mô hình kinh
tế. Năm 1983, giáo sư Yunus được Ngân Hàng Trung Ương Bangladesh chấp nhận cho mở
Ngân hàng Grameen. Để đảm bảo việc hoàn vốn vay, ngân hàng sử dụng “nhóm đoàn kết”,
một nhóm những người nghèo xin vay cùng nhau, và mỗi người trong nhóm đóng vai trò như
là một “người bảo đảm” cho việc trả nợ và giúp đỡ lẫn nhau phát triển kinh tế. Ngân hàng
Grameen đã cho vay hơn 8 tỉ đô la từ năm 1983 cho khoảng hơn 8 triệu người nghèo trong đó
97% là phụ nữ. Ông Yunus cho biết, tỷ lệ hoàn trả của ngân hàng là trên 98%. Ðến tháng
3/1995, sau 18 năm thí nghiệm ở làng Jobra, Ngân hàng Grameen đã đạt tới con số tiền cho
vay là một tỷ đôla Mỹ. Hai năm sau, năm 1997, con số này đã gấp đôi, lên tới 2 tỷ đôla Mỹ.
Lúc đầu, Grameen được Chính phủ góp vốn đầu tư, nhưng từ năm 1995 Ngân hàng Grameen
hoàn toàn tự túc. Ðến nay, 94% số cổ phần là do các nông dân nghèo làm chủ.
Theo Giáo sư Muhammad Yunus thì đến cuối năm 2004 trên thế giới đã có 3.100 tổ chức có
mô hình giống như Ngân hàng Grameen ở nhiều quốc gia, từ những nước nghèo như Uganda
đến những thành phố giàu có như New York, Chicago ở Mỹ. Các tổ chức này đã tiếp cận với
92 triệu người vay tiền, trong số đó gần 67 triệu là những người nghèo nhất, được vay món
tiền đầu tiên từ một ngân hàng thương mại. Từ năm 1983 đến 2006, riêng ở Bangladesh Ngân
hàng Grameen đã cho vay tổng cộng gần 6 tỷ đôla Mỹ cho 6.6 triệu khách hàng. Mỗi năm,
ngân hàng cho vay khoảng 500 triệu đôla Mỹ, trung bình mỗi món vay là 100 đô la Mỹ. Ngân
hàng ngày nay tiếp tục mở rộng phạm vi biên giới và vẫn cung cấp tín dụng cho người nghèo
nông thôn. Vào giữa năm 2006, số lượng chi nhánh Ngân hàng Grameen Bank vượt qua con
số 2.100. Thành công của nó truyền cảm hứng cho các dự án tương tự trên thế giới. Hiện tại,
trên thế giới có khoảng 168 bản sao của Grameen Bank tại 44 quốc gia. Mỗi tuần, một bản sao
Chương 1: Cơ sở lý luận.
12
mới của Grameen Bank lại được ra đời ở một nơi nào đó. Tham vọng của Grameen là cho vay
tín dụng cho khoảng 1.3 tỷ người nghèo nhất thế giới cho đến năm 2025.
Đây là lần đầu tiên một giáo sư kinh tế học và ngân hàng do ông sáng lập được nhận giải
Nobel Hoà bình và có thể khẳng định chắc chắn một điều, giải Nobel Hoà bình 2006 đã tìm
được người chủ xứng đáng. Trong hơn 30 năm hoạt động không ngừng nghỉ, giáo sư
Muhammad Yunus đã cho cả thế giới thấy được con người sẽ sống hòa bình hơn khi những
bất công xã hội được giảm bớt, khi số người nghèo giảm đi không phải vì các chính sách viện
trợ có tính cách bố thí, mà vì những người nghèo tự tìm cách thoát ra khỏi cảnh nghèo đói và
biết hãnh diện về giá trị của chính họ. Và, Grameen cũng đã đi tiên phong trong hoạt động
nâng cao địa vị của người phụ nữ trong một xã hội mà tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu
từ hàng nghìn năm nay.
Có thể nói ngân hàng thành công nhờ chính mục tiêu của mình:
- Mở rộng dịch vụ ngân hàng đến với người nghèo.
- Loại bỏ hình thức cho vay nặng lãi.
- Tạo cơ hội tự tạo việc làm cho những người thất nghiệp ở nông thôn Bangladesh.
- Kết hợp những phụ nữ nghèo vào những mô hình tổ chức phụ thuộc lẫn nhau, nơi mà họ có
thể hiểu và quản lý chính họ.
- Chuyển đổi từ chu kì lẩn quẩn “thu nhập thấp, tiết kiệm thấp, đầu tư thấp” thành chu kì tiến
bộ hơn “thu nhập thấp, bơm tín dụng, đầu tư, thu nhập cao hơn, tiết kiệm nhiều hơn, đầu tư
nhiều hơn, thu nhập nhiều hơn”.
2.4 Nguyên tắc hoạt động và vận hành của mô hình Grameen Bank.
Chúng ta có thể thấy nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng Grameen khá đơn giản. Grameen
xây dựng cứ điểm ngân hàng nhỏ ở mỗi vùng dân nghèo. Tức ngân hàng ở ngay nơi người
nghèo có nhu cầu vốn. Mỗi ngân hàng nhỏ như vậy sẽ chỉ có vài nhân viên được huấn luyện
khoảng 6 tháng. Họ đi tìm người để cho vay, chứ không đợi người đến vay như ở các ngân
hàng thông thường. Họ đi điều tra nghiên cứu tình hình trong vùng, chọn đối tượng cho vay từ
những người cùng khổ nhất. Lập ra những tổ 5 người đối tượng vay, gồm những người không
có quan hệ bà con, ruột thịt với nhau, có thể là hàng xóm láng giềng. Trong quá trình huấn
luyện ban đầu, tổ 5 người này học hỏi cách thức của Ngân hàng Grameen, và học hỏi lẫn nhau
về việc vay vốn, kinh doanh, rồi lập kế hoạch, và hỗ trợ nhau thực hiện. Hai người nghèo nhất
Chương 1: Cơ sở lý luận.
13
được vay trước, mỗi tuần phải trả một phần nợ, tích lũy một phần khác, thường là 1% tiền lời,
còn lại cho thêm vào tiền vốn. Các người khác trong tổ giúp đỡ, động viên, kiểm điểm để việc
hoàn trả được thực hiện đều đặn. Khi hai người đầu tiên trả xong nợ, hai người tiếp theo sẽ
được vay. Và cuối cùng là tổ trưởng được vay. Khả năng tín dụng của mỗi người trong nhóm
bị ràng buộc lẫn nhau, nếu một người không trả nợ thì những người kia cũng bị ngưng cấp tín
dụng. Tổ 5 người quyết định và kiểm soát mọi việc, nhân viên ngân hàng cung cấp tài liệu, tư
vấn và hướng dẫn về các dịch vụ vi tài chính của Grameen. Các cứ điểm ngân hàng như thế
mang nặng tính địa phương phải tự túc phát huy nhân lực vật lực địa phương, và nỗ lực sinh
lợi để sống còn.
Nguyên tắc hoạt động cơ bản của Grameen là cung cấp tín dụng mà không cần thế chấp tài sản
cho người nghèo trong tất cả các hoạt động kinh tế. Ngân hàng cũng chấp nhận tiền gửi tiết
kiệm ngoại trừ các giao dịch ngoại tệ, tiến hành quan sát, nghiên cứu và xuất bản số liệu thống
kê về cải cách kinh tế đối với người nghèo. Ngân hàng đảm bảo thu nhập từ các dự án sản xuất
cho người nghèo, đầu tư vào trái phiếu chính phủ, hướng dẫn người nghèo cách thức đầu tư
vào các dự án kinh doanh nhỏ và tiểu thủ công nghiệp. Có 4 loại hình cho vay do ngân hàng
đề ra: vay cơ bản, vay phát triển nhà, vay phát triển giáo dục và cho vay hỗ trợ khó khăn.
Những điều trên được đảm bảo thực hiện tốt là nhờ một hệ thống được kết hợp chặt chẽ bởi
tập hợp các giá trị ngân hàng và xã hội. Đó là 4 hệ thống nền tảng của Ngân hàng Grameen
bao gồm: 16 cam kết của người đi vay, 10 tiêu chí đánh giá nghèo đói, 6 nguyên tắc của hệ
thống cấp phát tín dụng và 10 nguyên tắc hoạt động của ngân hàng (Phụ lục 2.4). Chính nhờ
vào những giá trị cốt lỗi tự đề ra của mình, mà Ngân hàng Grameen đã thực hiện những chính
sách tín dụng hiệu quả, phù hợp với nhu cầu của người dân nghèo, tạo một hiệu ứng kinh tế xã
hội đặc biệt.
2.5 Điểm khác biệt của mô hình Ngân hàng Grameen so với các ngân hàng khác.
Mô hình Grameen Bank đã tạo nên một tiếng vang lớn trên toàn thế giới nhờ sự khác biệt của
nó so với các ngân hàng thông thường. Chính sự khác biệt này đã tạo nên thành công to lớn
của mô hình Ngân hàng Grameen trong công cuộc loại trừ đói nghèo.
Chương 1: Cơ sở lý luận.
14
Ngân hàng thông thường Ngân hàng Grameen
- Dựa trên nguyên tắc là bạn càng có nhiều
của cải thì bạn càng có thu nhập cao.
- Dựa vào thế chấp
- Cho vay dựa vào việc đánh giá sở hữu vật
chất của một con người.
- Mục tiêu bao quát của ngân hàng là tăng
hết mức lợi nhuận, nên khách hàng của họ
chủ yếu là những người giàu.
- Chi nhánh thường đặt gần khu vực
thương mại và trung tâm đô thị, thành thị.
- Luôn có ràng buộc pháp lý giữa người
cho vay và người vay.
- Khi người vay nợ quá hạn đã cam kết,
ngân hàng sẽ chuyển sang chế độ “phạt”.
- Khi một khách hàng gặp trở ngại, ngân
hàng lo lắng cho số tiền của họ, và cố gắng
hết sức để thu hồi tiền cho vay, bao gồm cả
việc tiếp quản tài sản thế chấp.
- Tiền lãi áp dụng trong trường hợp các
món nợ dồn quá hạn có thể tăng gấp đôi
tiền số tiền vay.
- Grameen không dựa trên nguyên tắc này.
- Không cần thế chấp
- Cho vay dựa trên việc đánh giá năng lực
của một con người. Grameen tin tưởng
rằng tất cả nhân loại, bao gồm cả những
người nghèo khổ nhất, đều được trời phú
cho năng lực tiềm tàng vô tận.
- Mục tiêu của ngân hàng là đem lại dịch
vụ tài chính cho người nghèo, đặc biệt là
phụ nữ và những người cùng khổ để giúp
họ chiến đấu với đói nghèo, tạo ra thu nhập
và vững chắc tài chính.
- Các chi nhánh của ngân hàng được đặt tại
những vùng nông thôn.
- Không hề có ràng buộc pháp lý nào giữa
người cho vay và người vay.
- Phương thức Grameen cho phép người
vay tái sắp xếp lại khoản nợ mà không làm
họ cảm thấy họ đã vi phạm.
- Khi khách hàng gặp trở ngại, ngân hàng
cố gắng hơn để giúp đỡ người gặp khó
khăn, và nỗ lực hết sức để giúp họ lấy lại
sức mạnh và vượt qua gian khó.
- Không có trường hợp nào mà tổng tiền lãi
có thể đạt bằng mức vốn vay, cho dù món
nợ tồn đọng kéo dài bao lâu. Sau khi tiền
lãi đã bằng với vốn vay rồi thì không tính
Chương 1: Cơ sở lý luận.
15
- Không quan tâm đến hậu quả của việc
truy thu nợ khiến gia đình người vay sẽ ra
sao.
- Tính lãi suất theo lãi kép.
- Do người giàu làm chủ.
lãi thêm nữa.
- Quan tâm nhiều đến việc giám sát học
hành của trẻ em, chuyện nhà cửa, chuyện
vệ sinh, cách tiếp cận nguồn nước uống
sạch và khả năng chống đỡ thiên tai và các
trường hợp khẩn cấp của họ, giúp cho
người vay xây dựng quỹ hưu cho bản thân,
và các hình thức tiết kiệm khác.
- Tính lãi suất theo lãi đơn.
- Do người nghèo làm chủ.
Ngoài ra điểm nổi bật của hệ thống Ngân hàng Grameen so với các ngân hàng thông thường
còn được thể hiện bởi hệ thống tín dụng vi mô Grameen:
- Nó triển khai tín dụng như một nhân quyền.
- Nhiệm vụ của nó là giúp những gia đình nghèo tự giúp mình vượt qua đói nghèo. Nó hướng
vào người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo.
- Đặc điểm khác biệt của tín dụng Grameen là nó không dựa vào bất cứ hợp đồng thế chấp
hay cưỡng chế pháp lý nào. Nó dựa vào “sự tin tưởng”, không dựa trên các thủ tục và hệ thống
luật pháp.
- Nó được đưa ra để tạo nên sự tự tuyển dụng nhằm các hoạt động đem lại thu nhập và nhà
cửa cho người nghèo, đối nghịch với tín dụng tiêu dùng.
- Về bản chất nó đối nghịch với tín dụng thông thường của các ngân hàng, vốn từ chối người
nghèo vì xếp họ vào hạng “không đáng giao dịch”. Kết quả là nó phản bác các phương thức
căn bản việc cho vay thông thường và tạo ra cho mình những cách thức riêng.
- Nó cung cấp dịch vụ tận cửa đến người nghèo dựa trên quan điểm rằng người ta không cần
phải đến ngân hàng mà ngân hàng nên đến với người ta.
- Để được vay thì người vay phải gia nhập vào trong một tổ những người đi vay
- Người vay tiền vay theo trình tự liên hoàn. Người vay tiền có thể tiếp tục vay lại lần nữa
nếu đã thanh toán nợ cũ.
- Tất cả tiền vay sẽ được trả theo từng đợt (hàng tuần, mỗi 2 tuần).
- Người vay có thể cùng lúc vay nhiều khoản tín dụng khác nhau.
Chương 1: Cơ sở lý luận.
16
- Chương trình tiết kiệm vừa là nghĩa vụ và vừa là tự nguyện đối với người vay.
- Thông thường, tiền vay vốn được cung cấp bởi những tổ chức phi lợi nhuận hay những hiệp
hội do chính những người đi vay thành lập. Nếu nó được cung cấp bởi những tổ chức phi lợi
nhuận không phải do những người vay làm chủ, người ta cố gắng để giữ cho lãi suất luôn gần
tương đương với mức có thể chấp nhận của chương trình hơn là đem lại lãi suất hấp dẫn cho
nhà đầu tư. Quy tắc chủ chốt của tín dụng Grameen là giữ cho lãi suất càng gần càng tốt với
lãi suất thị trường, vốn chiếm ưu thế trong lĩnh vực nghiệp vụ ngân hàng thương mại, mà
không bị lỗ liên tục. Trong việc qui định lãi suất, lãi suất thị trường được xem như là một lãi
suất tham khảo hơn là lãi suất của người cho vay. Hướng tới người nghèo là nhiệm vụ không
thể bàn cãi. Vươn tới sự bền vững là mục đích định hướng. Tín dụng phải đạt tới tiêu chí bền
vững càng sớm càng tốt, nhờ đó nó có thể vươn ra ngoài tầm với mà không cần phải tài trợ.
- Tín dụng Grameen ưu tiên hàng đầu cho việc xây dựng vốn xã hội. Nó được xúc tiến qua
việc thành lập các tổ nhóm và trung tâm, phát triển chất lượng lãnh đạo qua việc bình bầu
hàng năm các tổ trưởng, lãnh đạo trung tâm, bình chọn Ban quản trị khi các hiệp hội do người
vay làm chủ. Để phát triển một chương trình xã hội do những người vay thực hiện, tương tự
như “16 điều quyết định”, sẽ có một quá trình bàn luận kỹ càng giữa những người vay và
khuyến khích họ nghiêm túc chấp nhận và thi hành những điều này. Tín dụng này đặc biệt
nhấn mạnh đến nguồn vốn nhân lực và quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Nó giám sát việc
học hành của trẻ em, tặng học bổng và cho sinh viên vay để nâng cao giáo dục. Để hình thành
nguồn vốn nhân lực, nó nỗ lực đưa kỹ thuật vào ví dụ như điện thoại di động, năng lượng mặt
trời và quảng bá sử dụng lao động máy móc thay cho lao động chân tay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.
Mô hình Grameen Bank là một khái niệm còn khá mới mẻ đối với đại đa số người dân Việt
Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, việc vận dụng mô hình mới này để tạo ra những
sản phẩm thoả mãn nhu cầu của người dân nhất là những người nghèo là một vấn đề đáng
được quan tâm. Với những đặc điểm riêng có cùng những nguyên tắc hoạt động không giống
với mô hình ngân hàng truyền thống, mô hình Grameen Bank sẽ là một mô hình lý tưởng
trong chiến lược XĐGN của nước ta.
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
17
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank ở Việt Nam
1. Thành quả của Grameen.
Được thành lập vào năm 1983 tại Bangladesh, Grameen giờ đây đã trở thành một trong những
tên tuổi nổi tiếng trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới. Có thể nói hiệu ứng Grameen không
chỉ có ở Bangladesh mà đã và đang lan rộng khắp châu Phi, châu Á, châu Mỹ La tinh, vùng
Trung Đông, mang lại ánh sáng thay đổi cuộc sống hàng triệu người dân nghèo. Mô hình
Grameen Bank hiện nay đang có mặt ở nhiều nơi trên thế giới nhưng trong giới hạn bài nghiên
cứu, chúng tôi chỉ đưa ra một số nước tiêu biểu để phân tích nhằm thấy rõ hơn thành tựu của
Grameen trên thế giới.
1.1 Ở các nước nghèo.
Ở các nước này, tỷ lệ người nghèo chiếm đa phần dân số. Việc tiếp cận nguồn vốn phục vụ
sản xuất kinh doanh nhằm cải thiện cuộc sống của họ rất khó khăn. Và Grameen Bank đã đến
như một phương thuốc hữu ích giúp họ thoát khỏi lối mòn nghèo đói.
1.1.1 Haiti.
Theo số liệu thống kê gần đây của Grameen Foundation 54% dân số của Haiti sống dưới mức
1.25 USD một ngày và 78% trên ít hơn 2.50 USD một ngày, tuổi thọ ở Haiti là 61 tuổi, 58%
dân số không đủ ăn. Haiti là quốc gia nghèo nhất Tây Bán Cầu và có một lịch sử bất ổn định
về chính trị, không cung cấp đầy đủ dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, và mức độ
mù chữ và thất nghiệp còn ở mức cao. Bên cạnh đó, nước này còn đang gánh chịu lạm phát
cao và một món nợ quốc gia đang phát triển tiếp tục là vấn đề nghiêm trọng. Mặc dù có nhiều
thách thức Haiti phải đối mặt, nhưng TCVM đã mang lại nhiều hy vọng, như ngành công
nghiệp đã phát triển khoảng 40% giữa năm 2005 và 2007. Grameen Foundation đã hỗ trợ các
hoạt động TCVM ở Haiti từ năm 2003. Tổ chức này hiện đang cung cấp các nguồn tài chính
đến Fonkoze, cũng như các dịch vụ thông qua các chương trình quản lý hoạt động xã hội.
1.1.2 Ghana.
Ở Ghana có một nhu cầu rất lớn cho các dịch vụ tài chính, nhưng ngành công nghiệp TCVM ở
trong nước này còn non trẻ, chỉ đạt một phần nhỏ trong số các ước tính khoảng 3 triệu người
sẽ được hưởng lợi. Phi tài chính không được kiểm soát bởi chính phủ, tổ chức tài chính phi
chính phủ hiện đang tiếp cận với những người nghèo, và các công ty cho vay tiền tiết kiệm,
nằm ở khu vực đô thị, tập trung vào các khách hàng có tiềm năng lớn. Tuy nhiên, các khu vực
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
18
nông thôn, đặc biệt là ở phía bắc Ghana, thực sự vẫn còn thiếu sự tiếp cận với tài chính. Số
liệu thống kê gần đây cho thấy: tuổi thọ ở Ghana là 60 tuổi, tỷ lệ biết chữ là 65%, gần 1% trẻ
em dưới 5 tuổi ở Ghana đang thiếu cân, gần 1/3 dân số sống dưới mức 1.25$ /ngày. Nhận thấy
nhu cầu cần thiết phải có một TCTCVM ở đây, Grameen Foundation bắt đầu hình thành và
hoạt động ở Ghana trong năm 2008. Tổ chức này hiện đang làm việc với Sinapi Aba Trust và
cung cấp tài chính cho Grameen Ghana và hiệp hội Maata-N-Tudu. Những TCTCVM này
đang phục vụ gần 100.000 khách hàng. Ngoài TCVM, tổ chức Grameen đã đưa ra các công
nghệ di động cho các sáng kiến y tế cộng đồng, được tài trợ bởi một khoản trợ cấp từ Bill &
Melinda Gates Foundation. Grameen Foundation hiện đang hợp tác với Đại học Y tế cộng
đồng Columbia, các Dịch vụ Y tế Ghana, và Trung tâm nghiên cứu Y tế Dodowa.
1.2 Ở các nước đang phát triển.
Cũng như ở các nước kém phát triển, cuộc chiến chống đói nghèo vẫn không ngừng diễn ra
từng ngày ở các nước đang phát triển. Song song với mục tiêu phát triển kinh tế, Chính phủ
các nước này cũng đang tập trung vào mục tiêu xã hội hoá, xoá bỏ khoảng cách giàu nghèo.
Do đó rất cần một tổ chức tín dụng như Grameen giống như một giải pháp cho người nghèo ở
những nước này.
1.2.1 Trung Quốc.
Khác với các quốc gia khác, Trung Quốc là một minh họa điển hình trong công cuộc XĐGN
trong vòng 25 năm qua. Tỷ lệ đói nghèo trong số những người nghèo nhất, những người sống
dưới mức 1.25USD/ngày, đã giảm từ 85% đến 15.9 % từ năm 1981 đến năm 2005. Tuy nhiên,
nước này vẫn đang phải đối mặt với tình trạng nghèo đói dai dẳng. Dân số Trung Quốc theo
thống kê năm 2009 vào khoảng hơn 1.3 tỷ người trong đó 15.9% dân số sống trong cảnh
nghèo đói, thu nhập ít hơn 1.25$ /ngày, Ngân hàng Thế giới cung cấp dữ liệu cho thấy rằng
hơn 48% dân số Trung Quốc tiếp tục sống dưới mức nghèo khổ, thu nhập ít hơn 2.50
USD/ngày.
Năm năm trở lại đây, dịch vụ TCVM của Grameen đạt tối thiểu là 10 triệu người nghèo ở
Trung Quốc với ít nhất một nửa sinh sống tại các bộ phận nghèo Tây và Bắc của đất nước. Có
thể thấy rằng việc cung cấp dịch vụ TCVM của Ngân hàng Grameen vẫn chưa thấm tháp gì
đối với nhu cầu của người nghèo nước này, nhưng chúng ta không thể nào phủ nhận công sức
của Grameen trong công cuộc XĐGN trên thế giới. Bên cạnh đó giờ đây, chính phủ Trung
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
19
Quốc ngày càng quan tâm hơn tới sự tăng trưởng và mở rộng thị trường TCVM, tạo điều kiện
cho các tổ chức tín dụng vi mô thực hành và áp dụng rộng rãi TCVM, cung cấp các chính sách
hỗ trợ cho sự phát triển TCVM, tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng nhà nước đã trở
nên ngày càng quan tâm đến TCVM…
Thấy được thực trạng TCTCVM cùng với việc phân tích kỹ lưỡng thị trường Trung Quốc,
Grameen Foundation hình thành ba lĩnh vực quan trọng thuộc chuyên môn của họ có thể tác
động ngay lập tức đến đói nghèo thông qua TCVM:
Đảm bảo tài chính được phân bổ đầy đủ cho các tổ chức TCVM.
Đảm bảo rằng những người nghèo và nghèo nhất đang được tiếp cận các dịch vụ TCVM.
Đảm bảo rằng các tổ chức TCVM có cơ sở hạ tầng đáp ứng được nhu cầu tín dụng tại chỗ.
Các vấn đề của nghèo đói không thể được giải quyết bởi một mình Grameen Foundation.
Cùng hợp tác và là đối tác với các tổ chức địa phương và quốc tế tại Trung Quốc, Grameen
Foundation không chỉ cùng họ phục vụ người nghèo, mà còn cùng chung một mục đích với họ
trong cam kết xóa đói giảm nghèo.
1.2.2 Ấn Độ.
Ấn Độ chiếm 1/3 số người nghèo trên thế giới. Ở Ấn Độ, 76% dân số sống dưới mức nghèo
khổ là 2.50$/ngày, khoảng 87% người nông dân nghèo ở nông thôn vẫn không được tiếp cận
với tín dụng chính thức. Mặc dù các tổ chức TCVM Ấn Độ tiếp cận với một số lượng người đi
vay ấn tượng 15 triệu người, tuy nhiên đó vẫn chỉ là số nhỏ trong tổng nhu cầu ước tính là hơn
90 triệu người nghèo. Nhu cầu về TCVM trong các cộng đồng nghèo vượt xa nguồn cung của
nó. Hơn 65 triệu hộ gia đình nghèo không tiếp cận với TCVM, mà phần lớn là do sự phân phối
không hiệu quả của dịch vụ tài chính cho họ. Các tổ chức TCVM đang cố gắng thu hẹp
khoảng cách giữa cung và cầu nhưng họ đã không có đủ nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu này.
Nắm bắt được nhu cầu vốn tín dụng của người nghèo tại Ấn Độ, năm 2000 Grameen
Foundation đã tiến vào hoạt động ở Ấn Độ và có một sự hiểu biết sâu sắc về tình hình nghèo
đói Ấn Độ. Grameen Foundation đã cung cấp tài chính và hỗ trợ kỹ thuật cho một số tổ chức
hàng đầu và phát triển nhanh nhất ở nước này. Tính đến tháng 3/2009, các tổ chức TCVM ở
Ấn Độ là đối tác của Grameen Foundation đang đạt được trên 6.700.000 khách hàng. Ngoài hỗ
trợ đối tác, Grameen Foundation đã cung cấp chương trình đào tạo và dịch vụ quan trọng cho
các ngành công nghiệp TCVM Ấn Độ như sau:
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
20
- Giúp TCTCVM Ấn Độ tận dụng nhiều hơn 78.000.000 USD từ ngân hàng địa phương
thông qua bảo lãnh vay vốn và các chương trình tài trợ.
- Thành lập Grameen Capital India một liên doanh với IFMR Trust và Citigroup, nhằm giúp
các TCTCVM tiếp cận nguồn vốn vốn đáng kể với chi phí thấp.
- Tạo điều kiện cho các TCTCVM tiếp xúc với các thông lệ quốc tế và học hỏi kinh nghiệm
nhằm tăng cường hoạt động quản lý tại tổ chức của mình.
Grameen Foundation đã giúp TCVM tiếp cận nhiều hơn với những người nghèo và nghèo nhất
ở Ấn Độ bằng cách: tạo điều kiện cho họ tiếp cận thuận lợi với TCVM và công nghệ ở khu
vực chưa được hoặc không được các tổ chức này phục vụ; thay đổi cách suy nghĩ về vai trò
của TCVM và công nghệ; tập trung hơn vào hoạt động xã hội; và cung cấp hỗ trợ tài chính và
kỹ thuật cho các tổ chức đang hoạt động tại các huyện nghèo nhất của Ấn Độ thông qua các
sản phẩm như bảo lãnh, quản lý nguồn nhân lực, và công nghệ…
1.3 Ở các nước phát triển.
Không chỉ phát triển ở những nước kém phát triển và những nước đang phát triển, tổ chức
Grameen còn phát huy vai trò to lớn của mình ở những nước phát triển. Bởi ở những nước
này, sự phân tầng giàu nghèo rất rõ rệt. Không những vậy, người nghèo còn rất khó khăn trong
việc tiếp cận với các tổ chức tài chính.
1.3.1 Mỹ.
Năm 2008, Chính phủ Mỹ vừa công bố bản báo cáo cho thấy, tỷ lệ nghèo đói tại Mỹ cao nhất
trong 11 năm qua, do đợt suy thoái kinh tế tồi tệ khiến hàng triệu người dân Mỹ mất việc làm.
Cũng theo Cục điều tra dân số Mỹ, năm 2008, tỷ lệ nghèo đói tăng hơn 13%, cao nhất kể từ
năm 1997. Gần 40 triệu người dân Mỹ sống trong nghèo đói, cao hơn so với con số 37.3 triệu
của năm 2007. Và trong đó, có hơn 14.1 triệu trẻ em dưới 18 tuổi sống trong điều kiện sinh
hoạt khó khăn, tăng gần 1 triệu so với năm 2007. Thu nhập trung bình thực tế của người dân
Mỹ giảm 3.6% cao nhất kể từ năm 1991. Nắm bắt tình hình này, Grameen đang triển khai mô
hình vi tín dụng ở Mỹ cũng để giúp những phụ nữ nghèo của quốc gia giàu nhất thế giới này
thoát khỏi cảnh sống khó khăn. Muhammad Yunus tin rằng sẽ có đất để chi nhánh Ngân hàng
Grameen ở Mỹ phát triển vì nhu cầu vi tín dụng ở đây rất lớn với 9 triệu hộ chưa từng vay vốn
ở các ngân hàng và 21 triệu gia đình thường chỉ sử dụng hình thức vay trả góp từng ngày hay
cầm đồ. Từ năm 2008, hoạt động vi tín dụng được Grameen triển khai cho 1.700 người ở New
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
21
York, chi nhánh đầu tiên tại Mỹ của Ngân hàng Grameen đã cho gần 600 phụ nữ có kế hoạch
kinh doanh nhỏ ở khu Queens của thành phố New York vay khoảng 1.5 triệu USD. Tháng
6/2009, chi nhánh thứ hai được mở tại thành phố Omaha, bang Nebraska. Grameen cũng đã
mở dịch vụ gửi tiền tiết kiệm với chi phí dịch vụ quản lý tài khoản rất thấp và cho phép khách
hàng gửi vào các khoản tiết kiệm rất nhỏ. Trong tương lai mô hình này sẽ mở rộng đến San
Francisco, Boston và Charlotte. Các thành phố San Francisco (California), Boston và Charlotte
(Bắc Carolina) hiện đang ở trong tầm ngắm. Mô hình Grameen đang thu hút sự hỗ trợ về vốn
của các tổ chức tài chính lớn như Citybank. Ngân hàng lớn nhất nước Mỹ này đang nhìn thấy
từ sự hoạt động hiệu quả của Grameen một thị trường mới đầy hấp dẫn ở khu vực vi tín dụng.
1.3.2 Mehico.
Mehico, quốc gia đông dân thứ hai của châu Mỹ La tinh, đương đầu với vấn đề nghèo đói các
vấn đề bất bình đẳng một cách nghiêm trọng: 2% dân số sống dưới mức 1.25 USD một ngày,
20% dân số những người nghèo nhất chỉ giữ 4% của tổng thu nhập của đất nước, Mehico đứng
thứ 51 trong số các quốc gia về phúc lợi xã hội, được dựa trên chỉ số phát triển con người của
Liên Hiệp Quốc.
Trong khi nước này là một trong những nền kinh tế lớn nhất trong khu vực, sự hiện diện của
TCVM tại Mehico vẫn còn tương đối mới. Tuy nhiên, ước tính cho thấy người Mehico tăng
tiếp cận với các tổ chức TCVM khoảng hơn 35% trong năm 2006 và 2007. Grameen
Foundation đã hoạt động trong lĩnh vực TCVM ở Mehico từ năm 1999. Grameen Foundation
hiện đang cung cấp các nguồn tài chính cũng như các dịch vụ xã hội thông qua những chương
trình quản lý hiệu quả.
2. Thực trạng áp dụng mô hình Grameen Bank ở Việt Nam.
2.1 Sơ lược về tình hình nghèo tại Việt Nam.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với phần lớn dân số sống bằng nghề nông. Theo báo cáo
Bộ Lao động và Thương binh Xã hội, tỷ trọng nông nghiệp tính theo GDP năm 2007 chỉ
chiếm 20%, năm 2008 là 22.1%, còn năm 2009 theo ước tính là vào khoảng 20.66%. Như vậy,
có thể thấy được tình trạng nghèo chủ yếu tập trung vào người dân sống ở các khu vực nông
thôn. Ước tính có khoảng 72% dân số Việt Nam sống ở vùng nông thôn, nhưng tỷ lệ này giảm
xuống do tình trạng nhập cư vào các thành phố cũng như các khu vực thành thị ngày càng
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
22
tăng, và điều này đã đặt ra những vấn đề cần được quan tâm đối với các nhà làm chính sách và
các tổ chức an sinh xã hội.
Mức nghèo của Việt Nam tương đối cao, đặc biệt là ở vùng nông thôn và vùng ven đô thị.
Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2007, 32.9% hộ gia đình sống dưới 2 USD/ngày (đã điều
chỉnh theo PPP). Căn cứ theo GDP, Việt Nam vẫn còn là một quốc gia nghèo với GDP/người
là 806 USD năm 2007. Nếu đánh giá trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang suy thoái từ đầu
năm 2007, đối với Việt Nam ảnh hưởng này đã làm suy giảm những thành quả đã đạt được
trong công cuộc giảm nghèo trong những năm gần đây. Những hoạt động kinh tế ở nhiều
thành phần của quốc gia cũng đã suy giảm đáng kể và đã gây khó khăn cho những người công
nhân và lao động nghèo trong việc tìm kiếm công ăn việc làm. Sự đói nghèo dai dẳng ở khu
vực nông thôn, đặc biệt là vùng núi phía Bắc và trong các cộng đồng dân tộc thiểu số ở các
bản làng hẻo lánh là những thách thức lớn đối với Chính phủ trong công tác giảm nghèo. Tỷ lệ
đói nghèo cao nhất là ở các vùng núi Tây Bắc (51.9%), vùng ven biển Bắc Trung Bộ (36.5%)
và Tây Nguyên (32.8%). Số người nghèo tập trung nhiều nhất ở vùng ven biển Bắc Trung Bộ
(0.30 triệu hộ), đồng bằng Sông Hồng (0.29 triệu hộ), đồng bằng sông Cửu Long (0.23 triệu
hộ), và miền núi phía Bắc (0.26 triệu hộ). Đồng bào dân tộc thiểu số mặc dù chỉ chiếm 13%
dân số Việt Nam nhưng lại chiếm tới 39% tổng số người nghèo của cả nước. Ở vùng núi phía
Bắc nơi người dân tộc thiểu số chiếm hơn 50% dân số trong vùng, thường trực tình trạng bất
ổn về lương thực và đói nghèo, do thu nhập và sản xuất nông nghiệp thấp, cũng như ít cơ hội
tìm được việc làm phi nông nghiệp do cơ sở hạ tầng phát triển kém.
Theo báo cáo do ActionAid Việt Nam và Oxfam thực hiện, trong 2 năm đầu (2006 - 2007)
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo (NTP-PR) giai đoạn 2006 - 2010, tỷ
lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm là 3.6%. Nhưng đến cuối năm 2008 tỷ lệ hộ nghèo trên
cả nước còn 13%, chỉ giảm 1.8% so với cuối năm 2007 (Báo cáo giữa kỳ của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội về Chương trình giảm nghèo 2009). Tỷ lệ nghèo giảm chậm, thậm chí
tăng lên tại một số nơi có nhiều nguyên nhân cùng tác động, nhưng chủ yếu là do các cú sốc
về giá cả bất lợi, thiên tai và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Người nghèo ở
khu vực đô thị càng chịu ảnh hưởng bất lợi của việc làm bấp bênh, thu nhập thấp, trong khi giá
cả lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu khác vẫn ở mức cao.
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên cũ ban hành cho giai đoạn 2006 - 2010, cả nước
Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Kết quả khảo sát năm 2009
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
23
cũng cho thấy, một người nhập cư dù là công nhân trong một xí nghiệp hay người làm nghề tự
do cũng có thu nhập tối thiểu hàng tháng bình quân từ 1.5 đến 2 triệu đồng - vượt xa so với
chuẩn nghèo hiện nay. Tuy nhiên, sau khi đã trừ các chi phí thuê nhà trọ, điện nước, tiền gửi
về gia đình thì nhiều người nhập cư chỉ còn ngân sách chi tiêu rất tằn tiện cho lương thực, thực
phẩm và các khoản thiết yếu khác. Hơn nữa, tình trạng nghèo của người nhập cư trầm trọng
hơn khi nhìn dưới góc độ "hòa nhập xã hội" (bất lợi, thiệt thòi trong các mối quan hệ xã hội)
so với góc độ nghèo về "thu nhập" hoặc "chi tiêu". Ngoài ra, nước ta còn chịu những thách
thức về cơ sở hạ tầng yếu kém tại những nơi tập trung đông người nghèo, những khó khăn đặc
thù của người nghèo bản xứ và người nghèo nhập cư trong tiếp cận các dịch vụ xã hội và các
chính sách hỗ trợ. Người nghèo còn chịu nhiều bất lợi, hạn chế trong tiếp cận dịch vụ công và
các chính sách bảo trợ xã hội như: cơ sở hạ tầng, chuyển đổi sinh kế, vốn xã hội…
Tuy nhiên, theo ông Ajay Chhibber, giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, trong 15 năm
qua, Việt Nam là một trong những nước đạt được tốc độ giảm nghèo nhanh nhất trên thế giới.
Tỉ lệ nghèo đói của Việt Nam - tính bằng số người sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày - đã
giảm từ khoảng 58% năm 1993 xuống 16% năm 2006, với khoảng 34 triệu người đã thoát
khỏi nghèo đói. Tăng trưởng nhanh và liên tục, với tốc độ khoảng 7% đến 8% mỗi năm, là
một yếu tố quan trọng trong việc giảm nghèo. Mặc dù vậy, tại báo cáo về tình hình thực hiện
các chương trình giảm nghèo trong những năm qua gửi đến Quốc hội từ đầu kỳ họp, Chính
phủ đã khẳng định “Mục tiêu giảm nghèo đã hoàn thành trước một năm so với kế hoạch đề
ra”. Điều này được minh chứng qua những con số: tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 18.1% (năm
2006) xuống còn 14.75% (năm 2007) và 12.1% (năm 2008) và khoảng 11% vào cuối năm
2009. Tuy nhiên, trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam, rất nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo
giảm không phản ánh thực chất vì số người nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng
do tác động của lạm phát (khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến nay) và do là suy
giảm kinh tế. Theo chuẩn trên, nhiều hộ nghèo thoát nghèo nhưng vẫn không đủ sống và do
đời sống khó khăn nên rất nhiều người muốn còn được thuộc diện nghèo mãi để còn nhận các
khoản hỗ trợ như như vay vốn ưu đãi, bảo hiểm y tế...
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
24
2.2 Thực trạng cho vay người nghèo của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
2.2.1 Ngân hàng Thương mại.
Nhìn chung, ở nước ta các Ngân hàng Thương mại chủ yếu tập trung cho vay đối với các đối
tượng có tài sản đảm bảo và có nguồn thu nhập ổn định. Tuy nhiên, trong phân khúc thị
trường rất rộng lớn còn lại, các Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng nước ngoài đều không
muốn tham gia vào nhóm cho vay không chính thức, bởi tiểu thương nông thôn và những
người sản xuất nông nghiệp nhỏ, đặc biệt là người nghèo, được xem là những đối tượng rủi ro
cao. Hơn nữa, việc cổ phần hóa các Ngân hàng Quốc doanh và Ngân hàng Thương mại quốc
doanh có thể ảnh hưởng đến mục tiêu xã hội của các ngân hàng này và gạt bỏ những khách
hàng không sinh lợi như người nghèo. Bởi vì mục tiêu của họ là chính là lợi nhuận và chạy
theo lãi suất cạnh tranh.
Chúng ta cũng có thể thấy một thực trạng rất phổ biến ở các Ngân hàng Thương mại hiện nay
đó là xu hướng “lên đô thị, xa nông dân”. Các ngân hàng mới được thành lập thì càng xa khả
năng tiếp cận của người nghèo, cùng với các ngân hàng đã “rời bỏ” người nghèo trước đó, để
lại lỗ hổng rất lớn trong hoạt động TCVM. Hiện tại, hệ thống Agribank, VBSP và Quỹ Tín
dụng Nhân dân chiếm 85% dư nợ cho vay khu vực nông nghiệp, chứng tỏ các tổ chức tín dụng
khác tham gia cho vay khu vực này còn quá ít. Từ đó, mới có chuyện, ở các thành phố lớn,
khu vực đô thị, hàng loạt Ngân hàng Thương mại đua nhau mở thêm chi nhánh, phòng giao
dịch thì ở khu vực nông thôn, phần đông hiện nay chỉ có chi nhánh của Agribank, VBSP ở cấp
huyện và một vài phòng giao dịch ở các khu vực đông dân cư của hai ngân hàng này.
Thực tế, một số ngân hàng cũng tổ chức những chương trình xã hội nhằm hỗ trợ người nghèo.
Thế nhưng các chương trình đó cũng chỉ là hình thức nhằm đánh bóng tên tuổi cũng như
thương hiệu của họ trên thương trường, không nhằm giúp người nghèo tiếp cận nguồn vốn để
cải thiện cuộc sống lâu dài.
Nhằm hưởng ứng chính sách xã hội của Chính phủ, các Ngân hàng Thương mại có chăng
cũng chỉ hỗ trợ một phần những người có thu nhập thấp ổn định nhưng cũng kèm theo nhiều
điều kiện phức tạp, còn đối với những người nghèo đó chỉ là giấc mơ xa vời. Chẳng hạn như
chương trình cho vay mua nhà ở thu nhập thấp tại khu vực đô thị của NHTMCP Á Châu.
Chương trình này chỉ áp dụng cho đối tượng có thu nhập thấp gồm cán bộ công nhân viên
chức, lực lượng vũ trang hưởng lương từ ngân sách nhà nước và những người có thu nhập
thấp ở khu vực đô thị với nhiều điều kiện phức tạp chẳng hạn: khách hàng có vốn tự có tối
Chương 2: Ứng dụng mô hình Grameen Bank tại Việt Nam.
25
thiểu là 30% giá trị nhà mua và trả một lần cho chủ đầu tư… Ngoài ra Ngân hàng Ngoại
thương cũng đưa ra chương trình cho vay cán bộ công nhân viên không cần tài sản đảm bảo.
Những đối tượng này thu nhập mặc dù không cao nhưng tương đối ổn định.
2.2.2 Các tổ chức TCVM không sử dụng phương pháp Grameen.
2.2.2.1 Ngân hàng chính sách xã hội (VBSP).
Đây là loại hình ngân hàng chuyên doanh ở Việt Nam, thành lập theo Quyết định số
131/2002/QĐ-TTg ngày 4/10/2002 của Thủ Tướng Chính Phủ. Ngân hàng có nhiệm vụ thực
hiện chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ
chức lại Ngân hàng Phục vụ Người Nghèo được thành lập theo Quyết định số 230/QĐ-NH5
ngày 1/9/1995 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hoạt động của Ngân hàng
không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỉ lệ dự trữ bắt
buộc bằng 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp
ngân sách nhà nước. Hiện nay ngân hàng đã có chi nhánh ở khắp 64 tỉnh thành trên cả nước.
Đối tượng phục vụ của Ngân hàng chính sách xã hội chủ yếu là hộ nghèo chiếm tỷ trọng lớn
trong kết cấu dư nợ. Chẳng hạn như năm 2008, dư nợ cho vay hộ nghèo là 27.456 tỷ đồng
chiếm tỷ trọng 52.3% trong tổng dư nợ (Biểu đồ 2.2.2.1a.)
Theo biểu đồ 2.2.2.1b ta thấy trong 5 năm (2004 - 2008) dư nợ cho vay hộ nghèo của Ngân
hàng chính sách xã hội ngày càng tăng từ 11.609 tỷ đồng năm 2004 lên tới 27.466 tỷ đồng
năm 2008. Điều này có thể thấy việc ngân hàng ngày càng chú trọng hơn đối với chính sách
XĐGN của Chính phủ. Chứng tỏ ngày càng có nhiều hộ nghèo được tiếp cận với nguồn vốn
của ngân hàng.
Tuy nhiên, nếu tính theo tỷ lệ % thì tỷ trọng dư nợ cho vay hộ nghèo giảm dần qua 5 năm
(2004 - 2008). Chúng ta có thể nhận thấy mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực của vấn đề này.
Một mặt có thể thấy lượng khách hàng của Ngân hàng chính sách xã hội là hộ nghèo đang
giảm dần. Chứng tỏ, chính sách XĐGN của nhà nước đang ngày càng phát huy tác dụng. Số
hộ nghèo đang ngày càng giảm. Như phần phân tích tình hình nghèo chúng tôi đã có nêu, tỷ lệ
hộ nghèo đã giảm từ 18.1% (năm 2006) xuống còn 14.75% (năm 2007) và 12.1% (năm 2008)
và khoảng 11% vào cuối năm 2009. Nhưng mặt khác, tỷ trọng dư nợ cho vay hộ nghèo giảm
là do chúng ta vẫn dùng chuẩn nghèo cũ, nhiều hộ nghèo thoát nghèo nhưng vẫn không đủ