Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

phân tích mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.95 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
I. Chuẩn mực pháp luật. 3
II. Chuẩn mực đạo đức. 4
III. Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực 5
đạo đức. _
1. Điểm giống nhau và khác nhau giữa đạo đức và 5
pháp luật. _
2. Pháp luật và đạo đức có mói quan hệ mật thiết, _
tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. _
2.1. Tác động của đạo đức tới pháp luật. 8
2.2. Tác động của pháp luật tới đạo đức. 11
IV. Liên hệ với Việt Nam. 12
KẾT LUẬN. 14
Danh mục tài liệu tham khảo 15
1
MỞ ĐẦU
Pháp luật được coi là một trong những công cụ hiệu quả nhất để nhà
nước quản lý và điều tiết trật tự xã hội, là chuẩn mực để mọi người làm theo.
Trong quá trình hình thành và phát triển, pháp luật luôn chịu ảnh hưởng của
các yếu tố, chuẩn mực xã hội khác, trong đó có chuẩn mực đạo đức. Dùng
pháp luật và đạo đức để cai trị đã trở thành thuật trị quốc an dân của các nhà
nước. Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh xã hội, điều kiện kinh tế mà nhà nước
sử dụng đức trị (quản lý xã hội bằng đạo đức) hay pháp trị (quản lý xã hội
bằng pháp luật) hoặc kết hợp cả hai. Với đề tài “Phân tích mối quan hệ
giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức?”, em xin đi vào phân
tích những điểm chính sau:
- Khái niệm pháp luật và đạo đức. chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực
đạo đức.


- Những điểm tương đồng và khác biệt giữa chuẩn mực pháp luật và
chuẩn mực đạo đức.
- Mối liên hệ, tác động qua lại giữa chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực
pháp luật trong quá trình tác động đến trật tự xã hội.
- Liên hệ với Việt Nam.
2
NỘI DUNG
I. Chuẩn mực pháp luật.
Về vấn đề pháp luật, có nhiều ý kiến quan điểm khác nhau trong việc
định nghĩa pháp luật nhưng nhìn chung có 2 luồng quan điểm trái ngược
nhau trong việc xác định khái niệm pháp luật. Quan điểm thứ nhất gắn liền
pháp luật với ý chí nhà nước, do nhà nước ban hành, áp dụng và bảo vệ
(pháp luật thực định). Quan điểm thứ hai cho rằng pháp luật như một trong
các loại chuẩn mực xã hội, gắn với lợi ích xã hội, xuất phát từ nhu cầu tự
nhiên của con người (pháp luật tự nhiên). Cả luật thực định và luật tự nhiên
đều phản ánh lợi ích xã hội ở những mức độ khác nhau. Nhưng dù theo quan
điểm nào thì pháp luật vẫn mang những tính chất và chức năng nhất định.
Pháp luật luôn mang tính chuẩn mực. Chuẩn mực pháp luật nói lên
những giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi chủ thể có thể xử sự
tự do trong khuôn khổ cho phép, thường được thể hiện dưới dạng “có thể
làm”, “được phép làm”, “không được phép làm”, “bắt buộc phải làm”.
Chuẩn mực pháp luật không thể trừu tượng mà phải luôn được cụ thể hóa
thành quy tắc, yêu cầu, mệnh lệnh dưới dạng quy phạm pháp luật để mọi
người cùng thực hiện. Vì là căn cứ để điều chỉnh hành vi trong xã hội nên
quy phạm pháp luật cần phải rõ ràng, dễ hiểu để tất cả mọi người có thể chấp
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Chuẩn mực pháp luật khác với những chuẩn mực xã hội khác ở chỗ
nó mang tính cưỡng chế, được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện
pháp nhà nước cụ thể. Các chuẩn mực xã hội, khi phù hợp với ý chí và lợi
ích của nhà nước, sẽ được nâng lên thành pháp luật và được áp dụng trong

xã hội. Nếu nhà nước và các cơ quan của nó không còn thừa nhận và thực
3
hiện, áp dụng các chuẩn mực đó nữa thì khi đó sẽ mất đi tính chất của một
chuẩn mực pháp luật. Và nếu chuẩn mực đó vẫn tồn tại được trong lòng
người dân thì khi đó nó mang tính chất của phong tục tập quán, đạo đức. Và
pháp luật chỉ có thể phát huy tối đa khi có sự tác động, hỗ trợ của các chuẩn
mực xã hội khác.
II. Chuẩn mực đạo đức.
Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, bao
gồm những chuẩn mực nguyên tắc xã hội, nhờ đó con người điều chỉnh hành
vi của mình, cũng như đánh giá hành vi của người khác theo quan điểm về
cái thiện – cái ác; cái được làm – cái không được làm… sao cho phù hợp với
lợi ích, hạnh phúc của con người, của mối quan hệ giữa người với người,
giữa cá nhân với xã hội. Đạo đức ra đời do nhu cầu của xã hội điều tiết mối
quan hệ giữa các cá nhân và hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh
vực của đời sống
Chuẩn mực đạo đức là chuẩn mực xã hội bất thành văn, tồn tại dưới
dạng các giá trị đạo đức, bài học về đạo lý, cách đối xử giữa con người với
nhau trong xã hội. Như trên đã nói, đạo đức là một trong những hình thái
sớm nhất của ý thức xã hội, ra đời khi con người có ý thức về bản thân mình
cũng như về mối quan hệ của mình với cộng đồng. Trong xã hội cộng sản
nguyên thủy – hình thức xã hội đầu tiên, những chuẩn mực đạo đức và tín
điều tôn giáo đã trở thành những quy phạm xã hội. Mọi người trong xã hội
đều tuân theo một các tự nguyện vì đó là những chuẩn mực do họ cùng nhau
tạo ra. Nhưng khi xã hội có giai cấp xuất hiện, thay thế cho chế độ cộng sản
nguyên thủy, nó kéo theo sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên
không phải vì thế mà những chuẩn mực đạo đức này mất đi. Nó vẫn tồn tại
song song với pháp luật và chịu sự chi phối cũng như có ảnh hưởng đối với
4
pháp luật. Chuẩn mực đạo đức cũng mang tính giai cấp, tuy không mạnh mẽ

như chuẩn mực pháp luật. Nó được sinh ra cũng là để phục vụ, bảo vệ nhu
cầu, lợi ích vật chất, tinh thần của giai cấp này hay giai cấp khác trong xã
hội.
Chuẩn mực đạo đức được đảm bảo tôn trọng và thực hiện là nhờ vào
hai nhóm yếu tố: chủ quan và khách quan. Yếu tố chủ quan là các yếu tố
thường trực trong nội tâm con người, chi phối hành vi đạo đức của họ, bao
gồm thói quen, nếp sống; sự tự nguyện, tự giác của mỗi con người trong
thực hiện các hành vi liên quan đến vấn đề đạo đức và sức mạnh nội tâm, chi
phối bởi lương tâm mỗi người. Yếu tố khách quan là những yếu tố bên ngoài
ảnh hưởng đến hành vi của họ, tác động đến việc tuân thủ chuẩn mực đạo
đức chung, gồm có thuần phong mĩ tục và dư luận xã hội. Đây là hai yếu tố
khách quan chính, có ảnh hưởng rất lớn đến việc điều chỉnh hành vi của mỗi
người cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức bởi con người có xu hướng làm
theo những đa số làm và không làm những gì xã hội phản đối. Thuần phong
mĩ tục giúp con người ta nhận ra được cái gì là tốt đẹp và làm theo, trong khi
dư luận xã hội, bên cạnh khuyến khích con người đi theo cái tốt đẹp, còn lên
án những cái xấu xa, đưa con người tránh xa khỏi những tiêu cực.
III. Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức.
1. Điểm giống và khác nhau giữa đạo đức và pháp luật.
Pháp luật và đạo đức đều là bộ phận của hình thái ý thức xã hội. Khi
nói về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức thì giữa chúng luôn có những
điểm chung và riêng nhất định nhưng vẫn thống nhất trong một chỉnh thể.
Trước tiên, đạo đức và pháp luật có sự thống nhất ở ba điểm sau.
• Thứ nhất, pháp luật và đạo đức đều có chung mục tiêu. Chúng đều là
phương tiện điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với quan hệ xã hội và
5
các hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức đều đảm bảo cho xã
hội phát triển một cách ổn định và trật tự, qua đó bảo vệ và định
hướng những quan hệ xã hội phù hợp với ý chí và lợi ích chung của
cộng đồng xã hội và giai cấp thống trị. Chúng hỗ trợ đan xen, ảnh

hưởng lẫn nhau trong việc bảo đảm trật tự xã hội, điều chỉnh hành vi
của con người cho phù hợp với pháp luật và lợi ích của cộng đồng.
Nếu hành vi nào trái đạo đức thì sẽ bị pháp luật trừng trị hoặc bị lên
án bởi dư luận xã hội. Mặt khác, hành vi trái pháp luật, bên cạnh chế
tài của pháp luật, cũng sẽ bị xã hội trừng trị bằng dư luận xã hội, bài
xích xã hội… Pháp luật và đạo đức là hai công cụ chính và mạnh mẽ
nhất để đảm bảo trật tự xã hội.
• Thứ hai, pháp luật và đạo đức đều mang tính quy phạm phổ biến, là
những khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi con người. Chúng tác
động đến tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội, tác động đến hầu
hết các lĩnh vực trong đời sống với phạm vi khác nhau (từng vùng
miền hoặc trên toàn lãnh thổ quốc gia). Ví dụ cho điểm này là tập tục
tảo hôn. Về vấn đề này, có nhiều luồng quan điểm khác nhau. Ở
những vùng cao nơi tập trung dân tộc thiểu số thì đây là một điều bình
thường, thậm chí còn được ủng hộ và phổ biến, coi đây là “truyền
thống văn hóa”. Nhưng ở những vùng đồng bằng, điều kiện phát triển
hơn thì đây là một sự xâm hại đạo đức nghiêm trọng. Còn xét về khía
cạnh pháp luật thì đây là sự vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền
trẻ em. Nhưng dù thế nào thì mọi người, trong từng vùng miều nhất
định, vẫn coi đây là chuẩn mực để làm theo hoặc không làm theo, ủng
hộ hoặc phản đối.
• Thứ ba, pháp luật và đạo đức đều phản ánh sự tồn tại của xã hội trong
từng giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Chúng là kết quả của
6
quá trình nhận thức đời sống của chính mình. Pháp luật và đạo đức
đều chịu sự chi phối, đồng thời tác động lại đời sống kinh tế xã hội.
Tùy từng giai đoạn phát triển của xã hội mà chuẩn mực đạo đức thay
đổi và điều này cũng kéo theo sự thay đổi của pháp luật bởi pháp luật
phản ánh đời sống xã hội, qua đó điều chỉnh các hành vi của xã hội
thông qua việc xem xét các yếu tố xã hội khác để có thể điều chỉnh

một cách hiệu quả.
Tuy vậy, pháp luật và đạo đức là hai hiện tượng độc lập tương đối, do
đó chúng có sự khác nhau nhất định trong sự tồn tại và phát huy giá trị.
 Thứ nhất, về con đường hình thành, pháp luật được hình thành từ nhà
nước thông qua hoạt động xây dựng pháp lý của nhà nước còn đạo
đức được hình thành từ xã hội một cách tự phát do nhận thức của cá
nhân và cộng đồng. Trong quá trình hình thành thì pháp luật cần phải
cân nhắc đến những yếu tố xã hội khác, bao gồm cả đạo đức và đạo
đức cũng phải dựa vào một phần pháp luật.
 Điểm khác nhau thứ hai là hình thức thể hiện. Pháp luật được thể hiện
chủ yếu dưới dạng các văn bản còn đạo đức lại chủ yếu được truyền
miệng từ đời này sang đời khác. Hoạt động xây dựng pháp luật cần sự
rõ ràng minh bạch nên cần được thể hiện dưới dạng văn bản cụ thể,
tiện cho việc chỉnh sửa sau này. Còn đạo đức được hình thành từ cộng
đồng nên đối và chủ yếu tồn tại bằng truyền miệng và mang tính chính
xác tương đối bởi trong quá trình truyền đạt ít nhiều nội dung bị thay
đổi.
 Thứ ba, về tính xác định của hình thức văn bản thì đạo đức mang tính
chung, định hướng còn pháp luật thì cụ thể, rõ ràng. Đạo đức chỉ
nhằm định hướng cho con người nên con người cần tự tìm tòi khám
7
phá và qua dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi của mình cho phù
hợp. còn pháp luật mang tính bắt buộc chung nên tất cả mọi người đều
phải tuân theo những quy định đã được định sẵn.
 Đạo đức có nguồn gốc, giá trị lâu dài. Khi con người ý thức được
hành vi, tự họ sẽ điều chỉnh hành vi đó. Do sự điều chỉnh này xuất
phát từ bản thân chủ thể nên hành vi đạo đức tồn tại bền vững. Ngược
lại, pháp luật là sự cưỡng bức, ép buộc nên dù con người có không
muốn thay đổi cũng vẫn phải thay đổi hành vi của mình cho phù hợp
với pháp luật. Tuy nhiên sự thay đổi này diễn ra không bền vững bởi

hành vi cũ vẫn có thể lặp lại ở những nơi vắng bóng pháp luật, hoặc
bởi những cá nhân ngoài vòng pháp luật.
 Cuối cùng là về biện pháp đảm bảo thực hiện. Pháp luật được đảm
bảo thực hiện bằng các biện pháp nhà nước như nhà tù, cảnh sát… còn
đạo đức được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp như dư luận xã
hội, bài xích xã hội, lương tâm con người… Đây đều là những biện
pháp hiệu quả và toàn diện, đưa con người đi theo những chuẩn mực
trong xã hội.
2. Pháp luật và đạo đức có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, ảnh
hưởng lẫn nhau.
2.1. Tác động của đạo đức tới pháp luật.
a. Đầu tiên, đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định pháp
luật. Bất kì quy định pháp luật nào ra đời đều tồn tại trên nền tảng đạo đức
nhất định. Đạo đức là môi trường phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp
luật, là một trong những chất liệu làm nên các quy định trong hệ thống pháp
luật. Những quan điểm, quan niệm, chuẩn mực đạo đức đóng vai trò là tiền
đề tư tưởng, chỉ đạo việc xây dựng pháp luật. Pháp luật hình thành, trước
8
tiên là phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức trước khi xem xét đến các
chuẩn mực khác vì chuẩn mực đạo đức luôn là chuẩn mực có tác động sâu
sắc nhất đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, luôn là căn cứ, cơ sở cho mọi
hoạt động trong xã hội.
Sự tác động của đạo đức tới việc hình thành pháp luật diễn ra ở nhiều
cấp độ. Ở cấp độ thấp nhất thì các quy định pháp luật được xây dựng không
trái với đạo đức xã hội như việc con cái phải có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ,
vừa là pháp luật và không trái đạo đức . Ở cấp độ cao hơn thì các quy định
được ban hành có sự thống nhất, phù hợp với những quan niệm đạo đức. Ở
cấp độ này thì đạo đức đã ảnh hưởng tới việc hình thành quy định trong hệ
thống pháp luật như thừa nhận một tập tục, tập quán đạo đức thành tập quán
pháp hay giải quyết một vấn đề, một vụ việc cụ thể dựa trên quan niệm đạo

đức trở thành tiền lệ pháp.
Trong đạo đức xã hội, đạo đức của giai cấp thống trị có ảnh hưởng
đến pháp luật mạnh mẽ nhất vì bộ máy nhà nước được cấu thành trước hết
và chủ yếu từ các thành viên của giai cấp thống trị. Bất kì chuẩn mực đạo
đức nào, nếu không được giai cấp thống trị chấp nhận sẽ không thể tồn tại và
ngược lại, những chuẩn mực đạo đức được giai cấp thống trị thừa nhận sẽ
được nâng lên thành pháp luật và được bảo đảm thực hiện bằng những công
cụ mạnh mẽ. Hơn nữa, giai cấp này còn có tiềm lực kinh tế, các công cụ
tuyên truyền… Những chuẩn mực đạo đức truyền thống cũng ảnh hưởng
mạnh mẽ đến pháp luật vì truyền thống làm nên bản sắc dân tộc, là cơ sở,
động lực của phát triển. Nó đã ăn sâu vào đời sống của người dân nên việc
thay đổi hoặc xóa bỏ nó là một việc khó khăn.
9
b. Thứ hai, đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ
thể. Sự tác động này phụ thuộc vào hai yếu tố: sự phù hợp của đạo đức với
pháp luật và ý thức đạo đức của mỗi chủ thể cá nhân trong xã hội.
Sự phù hợp của đạo đức và pháp luật ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc
thực hiện pháp luật. Nếu như pháp luật được xây dựng phù hợp với đạo đức
thì nó sẽ được công dân chấp hành nghiêm chỉnh. Nhưng nếu như có những
điều lệ pháp luật đưa ra mà trái với đạo đức thì nó khó có thể đi vào cuộc
sống của mọi người và từ đó gây khó khăn cho việc thực hiện. Trên thực tế,
cho tới nay, nhìn chung ở Việt Nam các quy phạm pháp luật vẫn đang hòa
hợp với chuẩn mực đạo đức, mặc dù có một số quy định hơi cứng nhắc mà
những vụ việc liên quan tới nó thường không được giải quyết thỏa đáng.
Tiêu biểu là quy định về xét xử tội phạm hình sự dưới 18 tuổi. Bộ Luật Hình
sự quy định người dưới 18 tuổi phạm tội hình sự thì phải chịu mức án tối đa
là 18 năm. Và thực tế đã có một số vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, gây bất
bình gay gắt trong dư luận mà thủ phạm chỉ phải chịu mức án quá nhẹ chỉ vì
dưới 18 tuổi. Đây cũng là một bất cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
phần nào ảnh hưởng đến chuẩn mực đạo đức.

Bên cạnh đó, chính ý thức đạo đức của mỗi cá nhân cũng ảnh hưởng
tới việc thực hiện pháp luật. Đạo đức là môi trường thuận lợi để tiếp thu,
cảm nhận và thực hiện pháp luật. Những người có ý thức đạo đức cao thì
trong mọi trường hợp đều thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Trái lại, những
người có ý thức đạo đức thấp, sống trong môi trường đạo đức thấp thì
thường hay vi phạm pháp luật. Vì lý do này mà giáo dục ý thức pháp luật
ngay từ khi còn nhỏ là một điều cần thiết và quan trọng, giúp sớm hình
thành trong mỗi con người ý thức đạo đức tốt, hạn chế những trường hợp vi
phạm pháp luật.
10
2.2. Tác động của pháp luật tới đạo đức.
a. Thứ nhất, pháp luật dựa trên một cơ sở đạo đức nhất định và ghi
nhận, củng cố, bảo vệ những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực
đạo đức của giai cấp thống trị, những giá trị đạo đức truyền thống.
Bằng cách này, pháp luật góp phần cũng cố, giữ gìn, phát huy các giá
trị đạo đức xã hội, bảo đảm cho đạo đức phổ biến hơn trên toàn xã hội, đồng
thời góp phần hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức, đảm bảo cho chúng được thực
hiện nghiêm chỉnh trên thực tế thông qua những biện pháp tác động nhà
nước cụ thể. Điều 131 Luật Dân sự đã quy định: “Những giao dịch dân sự
trái với pháp luật, đạo đức thì bị coi là vô hiệu. Điều đó có nghĩa là chủ thể
khi xác lập giao dịch dân sự phải cân nhắc xem hành vi của mình có hợp
pháp và hợp đạo đức hay không”.
b. Thứ hai, pháp luật giữ vai trò loại bỏ những quan điểm, tư tưởng
đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ trong đời sống xã hội, đồng thời ngăn chặn sự
thoái hóa, xuống cấp của đạo đức, ngăn chặn việc hình thành những quan
niệm đạo đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc và của xã hội tiến bộ.
Mặc dù đạo đức là chuẩn mực có tác động mạnh mẽ nhất đến con người
những không phải lúc nào chuẩn mực này cũng là đúng nhất. Quá trình phát
triển của xã hội kéo theo sự thay đổi trong lối sống, lối nghĩ của người dân.
Và cùng với nó, đạo đức không còn hoàn toàn là phù hợp. Và pháp luật đã

giúp đạo đức tồn tại trong xã hội bằng cách loại bỏ những quan niệm đạo
đức cổ hủ lạc hậu và duy trì, phát huy những quan niệm đúng đắn, đẹp đẽ
trong cuộc sống, phát huy giá trị của chuẩn mực đạo đức.
Thông qua những quy định cụ thể, pháp luật không cho phép hoặc
cấm những hành vi thực hiện theo những quan niệm, tư tưởng đạo đức xưa
cũ, lạc hậu, không phù hợp với cuộc sống hiện đại. Thêm vào đó, xã hội
11
ngày nay ngày càng phát triển, hội nhập sâu rộng, mang theo ảnh hưởng của
kinh tế, chính trị, văn hóa… khác nhau, hoặc khi giá trị đạo đức truyền
thống không còn được nhận thức đúng đắn, việc giáo dục đạo đức trong gia
đình và nhà trường bị coi nhẹ. Trong những trường hợp ấy, pháp luật là
phương tiện, công cụ hữu hiệu nhất để diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự băng
hoại đạo đức trong xã hội.
IV. Liên hệ với Việt Nam.
Ở nước ta hiện nay, vị trí, vai trò cũng như mối quan hệ của đạo đức và
pháp luật ngày càng được nhìn nhận đúng đắn, tích cực.
Pháp luật được xây dựng để trở thành công cụ quan trọng nhất của
nhà nước để quản lý các quan hệ xã hội. Tuy vậy, với đời sống xã hội rộng
lớn thì còn cần nhiều công cụ khác nữa, trong đó có đạo đức. Tại Đại Hội
Đại Biểu Toàn Quốc lần VIII, Đảng ta đã khẳng định quan điểm: “Quản lý
xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
Do được xây dựng trên cơ sở các quan niệm đạo đức của nhân dân,
pháp luật không những thể hiện được tư tưởng đạo đức cách mạng, đạo đức
tiến bộ mà còn thể hiện được ý chí, nguyện vọng và hướng tới lợi ích của
nhân dân lao động. Tại Hiến Pháp 1992, Điều 2 quy định: “Nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân.”.
Pháp luật còn phản ánh rõ nét tinh thần nhân đạo – tư tưởng đạo đức
cơ bản của nhân dân ta. Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam
được thể hiện rất rõ trong các quy định về chính sách xã hội của nhà nước.

Nhà nước Việt Nam có nhiều chính sách ưu đãi, quan tâm đặc biệt đến
thương binh liệt sĩ, người có công với cách mạng, người già, trẻ em, người
tàn tật…
12
Đạo đức trong xã hội đã bổ sung và hoàn thiện cho pháp luật, tạo điều
kiện cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Nhà nước
ta thừa nhận tập quán có thể thay thế pháp luật trong một số trường hợp nhất
định và nội dung tập quán không trái với pháp luật. Ngược lại, pháp luật đã
góp phần quan trọng trọng việc gìn giữ và phát huy những quan niệm đạo
đức tốt đẹp, hình thành những tư tưởng tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hóa
xuống cấp của đạo đức. Trong chừng mực nhât định, nhà nước pháp luật hóa
các quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành các quy phạm pháp luật – những
quy tắc xử sự tương đối cụ thể cho các chủ thể trong xã hội, xác định rõ
hành vi nào được thực hiện, không được thực hiện…
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp thì ranh giới điều chỉnh giữa
pháp luật và đạo đức chưa rõ ràng. Chẳng hạn, Bộ Luật Dân sự quy định các
giao dịch dân sự không được trái với đạo đức xã hội. Trên thực tế, đánh giá
một hành vi nào đó là trái hay không trái với đạo đức xã hội không phải là
vấn đề đơn giản.
Đạo đức xã hội xuống cấp là nguyên nhân chính làm gia tăng các vi
phạm pháp luật cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng ở mọi cáp độ: người
dân, công chức, cán bộ… Văn kiện Đại hội lần 9 đã nêu: “Tình trạng tham
nhũng (…) ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”.
Nguyên nhân cơ bản là sự nhận thức không đúng đắn về vai trò của đạo đức,
nhất là đạo đức truyền thống.
13
Kết luận
Pháp luật và đạo đức luôn nằm trong một mối quan hệ tác động qua
lại lẫ nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người, hướng tới sự hoàn thiện,
góp phần vào sự ổn định xã hội. Hiều được mối quan hệ này giúp xã hội cân

bằng, phát triển ổn định và tốt đẹp,
Trong quá trình làm bài, dù đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi
thiếu sót. Em mong thầy cô chỉ bảo và giúp đỡ. Em xin cảm ơn.
14
Danh mục tài liệu tham khảo:
 Ts. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội
-2010;
 ;
 ;

dong/405333/phap-luat-va-dao-duc!.htm;
Và một số tài liệu tham khảo khác.
15

×