Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Phương pháp tính và hạch toán thuế giá trị gia tăng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.08 KB, 37 trang )

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ một quốc gia nào thì thuế cũng đóng một vai trò quan
trọng và chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Việc thực thi một
chính sách thuế có hiệu quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này, từ đó tạo
điều kiện để mở rộng sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Việt
Nam, theo thống kê của Tổng cục thuế thì 92% ngân sách Nhà nước là thu từ
thuế nên cần phải có các chính sách thuế hoàn chỉnh, mà muốn vậy luật thuế
đưa ra phải có phương pháp tính thuế hợp lý nhằm đảm bảo sự công bằng cho
các đối tượng nộp thuế kết hợp với việc hạch toán thuế tại các doanh nghiệp
phải theo đúng chế độ kế toán, tài chính và qui định của pháp luật. Nếu như
trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thuế lợi tức, thuế hàng hoá
và thuế doanh thu tỏ ra tương đối phù hợp và góp phần không nhỏ vào thu
ngân sách Nhà nước thì khi chuyển sang kinh tế thị trường những loại thuế này
trở nên không còn phù hợp, mắc phải nhiều nhược điểm. Chính vì vậy, từ đầu
những năm 1990, nước ta đã có chủ trương cải cách thuế và đến ngày 1/1/1999
thì cùng một lúc 3 luật thuế - thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt và một số sửa đổi của luật thuế xuất nhập khẩu có hiệu
lực thi hành. Như vậy, có thể nói rằng năm 1999 là năm bước ngoặt trong quá
trình cải cách thuế giai đoạn II của nước ta.
Nói chung, việc thực thi các loại thuế này nhằm mục đích thúc đẩy sản
xuất, khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân, tăng thu ngân sách Nhà
nước. Nhưng trong phạm vi bài viết này em chỉ đề cập đến “Phương pháp
tính và hạch toán thuế giá trị gia tăng hiện nay” vì dù sao nó cũng là yếu tố
góp phần không nhỏ vào sự thành công của việc thi hành các loại thuế này. Cụ
thể, bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
37


1
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Phần I: Những vấn đề cơ bản về thuế
Phần II: Nội dung phương pháp tính và hạch toán thuế giá trị gia tăng
Phần III: Tình hình áp dụng phương pháp tính và hạch toán thuế giá trị
gia tăng hiện nay
Do kiến thức còn hạn chế, bài viết của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót,
em rất mong có được sự giúp đỡ góp ý của các cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!.

37
2
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG
PHẦN I – NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ
1. Khái niệm:
Thuế là một trong những biện pháp tài chính xuất hiện sớm nhất trong
lịch sử. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước.
Bởi vậy, cho đến nay đã tồn tại nhiều khái niệm về thuế, trong đó rõ nét nhất là
3 khái niệm sau:
Khái niệm 1: Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc phi hình sự
nguồn của cải từ lĩnh vực tư nhân cho lĩnh vực công, được đặt ra trên cơ sở

những tiêu thức đã xác định trước mà không cần phải xem xét đến các khoản
lợi ích cụ thể của người nộp thuế nhằm thực hiện một số mục tiêu Kinh tế - Xã
hội của quốc gia.Khái niệm này chỉ ra được tính bắt buộc và tính đối giá của
thuế nhưng không chỉ ra được các hình thức của thuế.
Khái niệm 2: Thuế là một biện pháp của Nhà nước đánh trên thu nhập
của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp, đánh trên chi tiêu
hàng hoá, dịch vụ và tài sản.
Ngược với khái niệm trên, khái niệm này đã chỉ ra được hình thức cụ thể
của thuế nhưng lại không thể hiện được tính chất và mục đích của thuế.
Để khắc phục những hạn chế của 2 khái niệm trên, người ta đưa ra khái
niệm thứ 3 về thuế một cách tổng quát hơn:
37
3
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Khái niệm 3: Thuế là một biện pháp tài chính bắt buộc phi hình sự của
Nhà nước nhằm động viên một phần thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc
chi tiêu hàng hóa, dịch vụ và từ việc lưu giữ chuyển dịch tài sản của các thể
nhân và pháp nhân nhằm trang trải cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường:
2.1/ Vai trò đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là một bộ phận của tài chính. Xét về mặt khách
quan, nó bao gồm các quan hệ kinh tế trong phân phối gắn liền với việc hình
thành và sử dụng quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước nhằm phục vụ cho
nhu cầu của nhà nước và cho lợi ích của xã hội. Nội dung các nguồn thu của
ngân sách nhà nước thì gồm nhiều khoản nhưng ngày nay ở mọi quốc gia thì
thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu vì đó là nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế

quốc dân. Việc tạo lập nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước sẽ đảm bảo
cho việc chi tiêu của nhà nước được ổn định đồng thời còn giúp cho việc nắm
bắt được các tín hiệu thị trường, trên cơ sở đó điều chỉnh chính sách cho phù
hợp.
Ở nước ta, thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà
nước kể từ khi chúng ta tiến hành công cuộc cải cách thuế năm 1990. Nguồn
thu này tăng nhanh qua các năm và theo thống kê của tổng cục thuế thì hiện
nay thuế chiếm khoảng 92% trong tổng thu ngân sách nhà nước.
2.2/ Vai trò làm công cụ điều tiết vĩ mô cơ bản của nhà nước:
a. Thuế góp phần bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát:
Nền kinh tế thị trường phát triển theo qui luật riêng có của nó trong đó
có qui luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Qui luật này nói lên rằng khi giá cả một
loại hàng hoá nào đó ngoài thị trường giảm xuống thì nhà kinh doanh sẽ tìm
mọi cách di chuyển vốn đầu tư sang ngành kinh tế khác có giá cả cao để thu lợi
37
4
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
nhuận bình quân. Sự di chuyển này sẽ gây lãng phí và phá vỡ cơ cấu kinh tế.
Mặt khác, khi giá cả hàng hoá nào đó lên giá thì dễ gây phản ứng dây chuyền
lạm phát do tâm lý. Do vậy, nhà nước sẽ sử dụng nguồn ngân sách nhà nước
(mà trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu - như đã nói trên) để điều chỉnh giá cả
chẳng hạn khi giá cả một hàng hoá nào đó giảm thì nhà nước sẽ bỏ tiền ra mua
để chống lại sự giảm giá.
Ngoài ra, chính sách thuế cũng được sử dụng để kiềm chế lạm phát. Cụ
thể:
Khi lạm phát xảy ra do cung < cầu ( Lạm phát cầu kéo) thì nhà nước sẽ

đánh thuế vào tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ để giảm cầu.
Hay lạm phát do chi phí đầu vào cao (Lạm phát chi phí đẩy) thì sẽ giảm
việc đánh thuế vào các yếu tố chi phí đầu vào.
b. Thuế là công cụ để định hướng sản xuất, định hướng tiêu dùng:
Mỗi quốc gia, mỗi ngành đều có các ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy,
việc định hướng sản xuất, định hướng tiêu dùng để khai thác tiềm năng của
ngành này là điều cần thiết của Nhà nước. Để thực hiện được công việc này,
bên cạnh những chính sách chi tiêu, trợ cấp, Nhà nước còn sử dụng chính sách
thuế. Ví dụ như khi Nhà nước muốn khuyến khích một ngành nghề phát triển
thì có thể áp dụng chính sách giảm thuế. Ngược lại, để hạn chế sản xuất Nhà
nước tăng thuế thu nhập hay thuế đầu vào hoạt động tiêu dùng đối với những
hàng hoá do doanh nghiệp đó sản xuất ra như thuế giá trị gia tăng.
Việc áp dụng chính sách thuế ở đây cũng nhằm tạo ra sự phát triển cân
đối, hài hòa giữa các ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế làm giảm bớt
chi phí sản xuất xã hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
c. Thuế là công cụ quan trọng để điều tiết thu nhập:
37
5
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Kinh tế thị trường làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo mà nhiều khi bất
hợp lý làm giảm tính hiệu quả kinh tế của xã hội. Do đó cần phải có một biện
pháp để phân phối lại thu nhập nhằm hạn chế sự phân hóa này, làm lành mạnh
xã hội. Phân phối lại của thuế được xác lập dựa trên quyền lực của Nhà nước
nên mang lại hiệu quả cao như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc
biệt.
d. Thuế là một công cụ có hiệu quản nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, thúc

đẩy hội nhập kinh tế:
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc
liệt từ bên ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các nước chậm phát triển
và đang phát triển. Thuế thực hiện sự bảo hộ nền sản xuất nội địa và kiểm soát
hoạt động ngoại thương thông qua thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt
và chính sách miễn giảm thuế phù hợp. Sự ưu đãi các hiệp định về thuế, tính
thông lệ quốc tế của chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hội nhập về kinh tế
giữa một quốc gia với khu vực và cộng đồng quốc tế.
3. Phân loại thuế:
Việc phân loại thuế có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý thuế từ khâu
lập chính sách đến khâu triển khai thực hiện. Có các cách phân loại cơ bản sau:
3.1/ Căn cứ vào đối tượng chịu thuế :
a. Thuế trực thu:
Tất cả các sắc thuế mà người nộp thuế theo sắc thuế đó không có khả
năng và cơ hội chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác, nghĩa là người
nộp thuế cũng đồng thời là người chịu thuế. Đặc điểm của thuế trực thu là phần
thuế do các sắc thuế đó động viên không nằm trong giá cả của hàng hoá, dịch
vụ và thường phải nộp sau khi quá trình kinh doanh có kết quả (thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân).
37
6
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
b. Thuế gián thu:
Tất cả các sắc thuế mà người nộp thuế theo sắc thuế đó có khả năng và
cơ hội chuyển gánh nặng thuế cho người khác tức là người nộp thuế không
đồng nhất với người chịu thuế (Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,

thuế xuất nhập khẩu,...). Đặc điểm của thuế gián thu là số thuế do các sắc thuế
đó động viên nằm trong giá cả hàng hoá, dịch vụ.
3.2/ Căn cứ vào đối tượng thuế:
a. Thuế thu nhập:
Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là mức thu nhập. Dựa vào đó
thường có sắc thuế sau:
- Thuế thu nhập thường xuyên: là loại thuế đánh vào thu nhập hàng năm
của các cá nhân và doanh nghiệp.
- Thuế thu nhập không thường xuyên: là khoản thuế đánh vào thu nhập
bất thường của tổ chức, cá nhân.
- Thuế đánh vào lợi nhuận siêu ngạch: là loại thuế có cơ sở đánh thuế là
lợi nhuận siêu ngạch. Thuế này thường xuất hiện vào thời kỳ khủng hoảng
kinh tế và lợi nhuận được xác định bằng cách so sánh lợi nhuận thực tế có
trong thời kỳ khủng hoảng và lợi nhuận trung bình có trong thời kỳ phát triển
bình thường.
b. Thuế tài sản:
Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là mức tài sản. Thuế này có các
dạng chủ yếu sau:
- Thuế đánh vào bất động sản (thuế đánh vào đất đai, nhà cửa, vật kiến
trúc,...)
- Thuế đánh vào một số tài sản cá nhân
37
7
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
- Thuế đánh vào tài sản thuần: là loại thuế đánh vào tất cả các dạng tài
sản nhưng chỉ đánh vào phần giá trị tài sản trừ phần đi vay để mua tài sản.

- Thuế chuyển giao tài sản: là thuế đánh vào chuyển giao quyền sở hữu
tài sản
c. Thuế đánh vào hoạt động bán hàng và hàng hóa:
Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là việc bán hàng và hàng hoá.
Việc bán hàng là thực hiện một giao dịch nghiệp vụ vì vậy người ta còn
gọi là thuế giao dịch nghiệp vụ, cơ sở đánh thuế là giá trị bằng tiền của từng
nghiệp vụ. Thực chất của loại thuế này là đánh vào tiêu dùng hàng hóa. Trong
thuế bán hàng, người ta còn đánh vào việc tiêu dùng một số hàng hóa đặc biệt
và được gọi là thuế hàng hóa.
4. Sự cần thiết phải nghiên cứu phương pháp tính và hạch toán thuế:
Xét về mặt lý luận, bất kỳ một sắc thuế nào cũng bao gồm nhiều nội
dung như đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, kê khai
thu nộp quyết toán thuế,... trong đó phương pháp tính thuế là một bộ phận cấu
thành không thể thiếu của pháp luật thuế. Phương pháp tính thuế do Nhà nước
đặt ra dựa trên các căn cứ tính thuế ( giá tính thuế và thuế suất) và một số điều
kiện khác có liên quan để xác định số thuế mà đối tượng nộp thuế cụ thể phải
nộp. Thông qua phương pháp tính thuế, các căn cứ tính thuế được chuyển
thành các đối tượng cụ thể và rất có ý nghĩa thực tiễn. Đó là số thuế mỗi nhóm
nhất định phải nộp. Số thuế này sẽ được các đối tượng nộp thuế đưa vào ngân
sách qua con đường là chế độ kê khai, thu nộp, miễn giảm thuế. Điều đó có
nghĩa là phương pháp tính thuế đã cụ thể hoá, liên kết các nội dung của pháp
luật thuế với nhau và qua đó thể hiện bản chất của thuế. Vì vậy, việc đưa ra
một phương pháp tính thuế đúng đắn, khoa học và phù hợp với tình hình thực
tiễn hay không là vô cùng quan trọng. Còn kế toán tổng hợp nói chung và kế
37
8
Website:

Email :


Tel : 0918.775.368
toán thuế nói riêng với chức năng giúp chủ doanh nghiệp trong công tác tổ
chức kế toán, thống kê nhằm cung cấp được những thông tin về hoạt động kinh
tế - tài chính của doanh nghiệp một cách đầy đủ, kịp thời do đó cần phải tổ
chức hạch toán các loại thuế theo các qui định của chế độ kế toán cũng như của
pháp luật hiện hành.
Xét về mặt thực tiễn, bắt đầu từ ngày 1/1/1999 hai luật thuế mới là thuế
giá trị gia tăng (còn gọi là VAT) và thuế thu nhập doanh nghiệp được đưa vào
áp dụng thay thế cho luật thuế lợi tức và thuế doanh thu. Sự thay thế này có
nghĩa là đã có một số sự thay đổi so với hai luật thuế trước đây như thay đổi về
phương pháp tính thuế trong “thuế giá trị gia tăng” hay mở rộng đối tượng
đánh thuế trong “thuế thu nhập doanh nghiệp”. Và khi đưa vào thực thi trong
giai đoạn đầu này thì không tránh khỏi những khó khăn vướng mắc nhất định.
Ngoài ra, một số loại thuế khác trong doanh nghiệp cũng có một vài sửa đổi
cho phù hợp với tình hình kinh tế đất nước và thông lệ quốc tế như thuế tiêu
thụ đặc biệt (Luật thuế tiêu thụ đặc biệt mới; Sửa đổi, bổ sung thuế xuất nhập
khẩu - có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999) nhằm giúp cho Việt Nam dễ
dàng hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Như vậy, cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy sự cần thiết phải nghiên
cứu vấn đề “phương pháp tính và hạch toán thuế” mà trong phạm vi bài viết
này chỉ là một số loại thuế trong doanh nghiệp, đó là thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt. Hơn nữa, qua các cách phân loại thuế đã nêu trên thì cách
“phân loại theo đối tượng nộp thuế” là đơn giản, dễ hiểu và thấy rõ được ưu
nhược điểm của từng loại thuế hơn cả nên bài viết sẽ được trình bày theo cách
phân loại này.
37
9
Website:

Email :


Tel : 0918.775.368
PHẦN II - NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP TÍNH VÀ HẠCH TOÁN
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1. Khái quát chung về thuế GTGT :
- Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
- Đây là một điển hình của loại thuế gián thu bởi vì thuế này do các nhà
sản xuất kinh doanh nộp hộ người tiêu dùng thông qua việc tính gộp vào giá
bán mà người tiêu dùng phải thanh toán tức là người nộp thuế không đồng nhất
với người chịu thuế. Mục đích của thuế GTGT là nhằm “góp phần thúc đẩy sản
xuất, mở rộng lưu thông hàng hóa, dịch vụ, khuyến khích phát triển nền kinh tế
quốc dân động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà
nước” (trích Lời nói đầu của Luật thuế giá trị gia tăng).
- Đối tượng nộp thuế GTGT bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân sản
xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế ở Việt Nam, không phân biệt
ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và
các tổ chức cá nhân khác có nhập khẩu hàng hóa chịu thuế (gọi chung là người
nhập khẩu).
- Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất,
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam trừ các đối tượng thuộc diện không phải
chịu thuế giá trị gia tăng (đã được qui định chi tiết tại Điều 4 - Nghị định số
28/1998/NĐ - CP).
2. Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
Hiện nay tại Việt Nam, chúng ta áp dụng cả hai phương pháp tính thuế
GTGT, đó là phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT (phương pháp
37
10
x
Website:


Email :

Tel : 0918.775.368
trực tiếp) và phương pháp khấu trừ. Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế
phải nộp theo từng phương pháp sau:
a. Phương pháp khấu trừ thuế:
- Đối tượng áp dụng:
Các đơn vị, tổ chức kinh doanh, bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước,
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần,
hợp tác xã và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng
tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
- Xác định thuế GTGT phải nộp:
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
Thuế GTGT Giá tính thuế của hàng hoá, Thuế suất thuế GTGT
đầu ra dịch vụ chịu thuế bán ra của hàng hóa, dịch vụ đó
Thuế GTGT Tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa,
đầu vào dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu.
Giá tính thuế là giá của hàng hóa dịch vụ chưa có thuế GTGT . Đối với
hàng hóa, dịch vụ có tính đặc thù dùng các chứng từ như tem bưu chính, vé
cước vận tải, ... ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì giá chưa có thuế
được xác định như sau:
Giá thanh toán (tiền bán vé, bán tem,...)
1+(%) thuế suất của hàng hóa, dịch vụ đó.
37
11
=
=
=

Giá chưa có
thuế
GTGT
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
- Khấu trừ thuế GTGT đầu vào:
+ Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng vào sản xuất kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ.
+ Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong
tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó,
không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho.
Riêng đầu vào của tài sản cố định (TSCĐ) được khấu trừ lớn thì được
khấu trừ dần hoặc hoàn thuế theo qui định của Chính phủ.
+ Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng đồng thời cho sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì
chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT.
+ Trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản
chưa qua chế biến của người sản xuất mà không có hoá đơn GTGT thì được
khấu trừ đầu vào theo một tỷ lệ (%) tính trên giá trị hàng hóa mua. Tỷ lệ này
do Chính phủ qui định đối với từng loại hàng hóa. Việc tính khấu trừ trên
không được áp dụng đối với trường hợp các sản phẩm này được làm nguyên
liệu để sản xuất chế biến hàng xuất khẩu.
b. Phương pháp trực tiếp:
- Đối tượng áp dụng:
+ Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam.
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật

đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế
toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế.
37
12
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
+ Cơ sở kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ.
- Xác định thuế GTGT phải nộp:
(1) Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên
mua phải thanh toán cho bên bán, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ
thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
(2) Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng của hàng
hóa, dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào (giá
mua bao gồm cả thuế GTGT) mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã dùng vào sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra.
 GTGT xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh như sau:
+ Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh bán hàng hóa là số chênh lệch giữa
doanh số bán với doanh số vật tư, hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng cho sản
xuất kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được số vật
tư, hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số bán ra thì xác định như
sau:
37
13
Thuế GTGT
phải nộp
=

Giá trị gia tăng của hàng
hóa, dịch vụ chịu thuế
x
Thuế suất thuế GTGT
của hàng hóa, dịch vụ
GTGT của hàng
hóa, dịch vụ
=
Giá thanh toán của
hàng hóa, dịch vụ bán ra
Giá thanh toán của hàng
hóa, dịch vụ mua vào
-
Giá vốn
hàng bán
Doanh số
tồn đầu kỳ
Doanh số
mua trong kỳ
=
+
-
Doanh số
tồn cuối kỳ
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
+ Đối với xây dựng lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng,

lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư, nguyên liệu, chi
phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí mua ngoài khác để phục vụ cho hoạt
động xây dựng lắp đặt công trình, hạng mục công trình.
+ Đối với các hoạt động kinh doanh khác là số chênh lệch giữa tiền thu
về hoạt động kinh doanh trừ (-) doanh số hàng hóa, dịch vụ mua ngoài để phục
vụ hoạt động kinh doanh đó.
 Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với
từng cơ sở kinh doanh như sau:
+ Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hóa,
dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác
định căn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ.
+ Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán
hàng hóa, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ theo
hoá đơn bán hàng hóa, dịch vụ nhưng không có đủ hóa đơn mua hàng hóa,
dịch vụ thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính
trên doanh thu.
3. Nguyên tắc hạch toán thuế GTGT:
- Giá trị vật tư, hàng hóa, TSCĐ, dịch vụ mua vào:
+ Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng phải nộp thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ thuế thì giá trị vật tư, hàng hóa, TSCĐ, dịch vụ mua vào
là giá mua thực tế không có thuế GTGT đầu vào.
+ Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp và cơ sở kinh doanh không thuộc đối tượng chịu thuế
GTGT thì giá trị vật tư, hàng hóa, TSCĐ, dịch vụ mua vào là tổng giá thanh
toán (bao gồm cả thuế GTGT đầu vào).
37
14

×