MỤC
LỤC
I. LÝ THUYẾT
CHUNG
1
I.1.
Các loại tiền tệ trong thanh toán quốc tế
1
I.1.1. Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền
tệ
1
I.1.2. Căn cứ vào sự chuyển đổi của tiền
tệ
2
I.1.3. Căn cứ vào hình thái tiền tệ
3
I.1.4. Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền tệ trong thanh
toán
3
I.2.
Rủi ro và biện pháp phòng ngừa khi lựa chọn điều kiện tiền
tệ
4
I.2.1. Rủi ro khi lựa chọn điều kiện tiền
tệ
4
I.2.2. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro khi lựa chọn điều kiện tiền tệ đối với
doanh nghiệp
5
II. THỰC TRẠNG LỰA CHỌN ĐỒNG TIỀN TTQT TRONG CÁC HỢP ĐỒNG
TMQT CỦA CÁC DNXNK VIỆT NAM, NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN
NGHỊ
8
II.1. Thực trạng lựa chọn đồng tiền thanh toán và nguyên
nhân
8
II.1.1. Thực
trạng
8
II.1.2. Nguyên nhân
11
II.2. Bất cập và kiến nghị
13
II.2.1. Bất
cập
13
II.2.2. Kiến
nghị
14
LỜI MỞ
ĐẦU
Trong mua bán hàng hóa, nếu mục đích của người mua hàng là nhận về quyền sở
hữu hàng hóa thì mục đích cao nhất của người bán là thu được khoản tiền thanh toán đủ
với giá trị hàng mình đã giao.
Vì
vậy,
thanh toán như thế nào để hiệu quả và thuận tiện
nhất cho cả hai bên là yêu cầu hàng đầu trong giao dịch thương mại, đặc biệt là trong mua
bán hàng hóa giữa các quốc gia khác nhau bởi những khác biệt
trong đơn
vị tiền tệ dùng để
tính giá trị hàng hóa cũng như sự khác nhau về giá trị giữa các đồng tiền của mỗi quốc gia.
Chính những khác biệt này đã dẫn tới thực trạng điều kiện thanh toán là một trong những
điều khoản cơ bản tạo ra rất nhiều rủi ro cho doanh nghiệp cũng như những tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh quốc tế.
Để góp phần làm rõ thực trạng thanh toán quốc tế hiện nay tại Việt Nam cũng như
những rủi ro mà doanh nghiệp Việt có thể gặp phải do quy định điều khoản thanh toán trong
hợp đồng ngoại thương, nhóm
2
xin
đưa ra nghiên cứu của mình về vấn đề “Phân biệt các
loại tiền tệ trong TTQT. Rủi ro và biện pháp phòng ngừa khi lựa chọn ĐK tiền tệ.
Thực trạng lựa chọn đồng tiền TTQT trong các Hợp đồng
thương mạ
i quốc tế của các
DNXNK Việt Nam. Các bất cập và kiến nghị.”. Với đề tài này, nhóm tập trung nghiên cứu
sâu về vấn vấn đề tiền tệ trong thanh toán quốc tế cũng như thực trạng, bất cập và một số
kiến nghị giải pháp cho những bất cập trong họat động thanh toán của các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu Việt, Nam từ đó giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh quốc
tế. Kết quả nghiên cứu của nhóm chia làm hai phần:
Phần I: Lý thuyết về các loại tiền tệ trong TTQT, rủi ro tỷ giá và các biện pháp
phòng ngừa.
Phần II: Thực trạng các Doanh nghiệp Xuất Nhập khẩu Việt Nam lựa chọn
đồng tiền thanh toán quốc tế trong các hợp đồng thương mại quốc tế, bất cập và
kiến nghị.
Trong quá trình tìm hiểu, nhóm chắc chắn vẫn còn nhiều sơ suất. Nhóm rất mong
nhận được lời góp ý và nhận xét từ cô giáo để đề tài của nhóm ngày càng hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
I. LÝ THUYẾT CHUNG
I.1. Các loại tiền tệ trong thanh toán quốc tế
I.1.1. Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền tệ
a) Tiền tệ thế giới (World currency)
Tiền tệ thế giới là tiền tệ được các quốc gia mặc nhiên thừa nhận làm phương tiện
thanh toán quốc tế, phương tiện dự trữ quốc tế mà không cần có sự thừa nhận trong các hiệp
định ký kết giữa hai hay nhiều bên. Hiện nay, trên thế giới chỉ có vàng thực hiện chức năng
này.
b) Tiền tệ quốc tế (International currency)
Tiền tệ quốc tế là tiền tệ chung của một khối kinh tế quốc tế, ra đời từ một hiệp định
tiền tệ ký kết giữa các nước thành viên. Theo đó, một số loại tiền tệ quốc tế thông dụng được
sử dụng như sau:
• Hiệp định tiền tệ Bretton Woods của IMF (1944 -1971): Hiệp định này thừa nhận
đồng USD của Hoa Kỳ là tiền tệ quốc tế của 44 quốc gia thành viên nhằm thực hiện chức
năng tính toán, thanh toán và dự trữ quốc tế. Để thực hiện đầy đủ ba chức năng này, Hoa Kỳ
phải cam kết đổi tự do USD ra vàng theo hàm lượng vàng chính thức cố định 0.888671 gam
vàng nguyên chất. Trong khi đó, tiền tệ của các nước thành viên sẽ phải đăng ký hàm lượng
vàng đồng tiền của mình tại IMF, sau đó trên cơ sở ngang giá vàng của USD, hàm lượng
vàng này được so sánh với hàm lượng vàng của USD để xác định tỷ giá hối đoái chính thức
và tỷ giá thị trường.
• Hiệp định tiền tệ Jamaica 1976: Hiệp định này sử dụng “Quyền rút vốn đặc biệt”
(Special Drawing Right – SDR) làm tiền tệ quốc tế. SDR là đồng tiền tín dụng mà IMF dành
cho ngân hàng trung ương các nước thành viên vay, không được đổi ra vàng, giá trị của SDR
được xác định trên cơ sở rổ tiền tệ quy định. Ban đầu, rổ tiền này bao gồm 16 đồng tiền của
những nước có GDP chiếm hơn 1% tổng GDP của các nước thành viên nhưng bây giờ chỉ
còn 5 đồng tiền của Mỹ, Đức, Nhật, Anh, Pháp. SDR thực hiện chức năng tiền tín dụng, tiền
tính toán trong lĩnh vực phi thương mại và tiền dự trữ quốc tế.
• Hiệp định thanh toán bù trừ nhiều bên ký kết giữa các nước thành viên của Hội
đồng tương trợ kinh tế quốc tế xã hội chủ nghĩa sử dụng đồng Rúp chuyển khoản làm tiền
tệ thế giới. Rúp chuyển khoản không được đổi ra vàng và ngoại tệ khác một cách tự do, chỉ
1
được ghi trên tài khoản Rúp chuyển khoản của các nước thành viên mở tại Ngân hàng hợp
tác kinh tế quốc tế xã hội chủ nghĩa và Ngân hàng đầu tư quốc tế xã hội chủ nghĩa. Cơ chế
thanh toán Rúp chuyển khoản thực hiện
trên
nguyên
tắc bù trừ giữa các tài khoản của các
nước thành viên mở tại 2 ngân hàng nói trên, nước mắc nợ và
nước
chủ
nợ sẽ tìm các giải
pháp để quyết toán bằng Rúp chuyển khoản. Rúp chuyển khoản có chức năng tính toán quốc
tế XHCN, thanh toán quốc tế XHCN, dự trữ quốc tế XHCN.
• Đồng tiền chung châu Âu EURO: Hiệp ước Maastricht 1992 đã quyết định thành lập
liên minh châu Âu
EU
và
lựa chọn đồng EURO làm tiền tệ quốc tế từ năm 1999. Đồng
EURO vừa là tiền tệ quốc gia thay thế cho đồng tiền của các nước thành viên, vừa là tiền tệ
quốc tế khu vực thực hiện các chức năng tiền tệ quốc tế như phương tiện tính toán, phương
tiện thanh toán và phương tiện dự trữ quốc tế. Tiền thân của đồng EURO là đơn vị tiền tệ
Châu Âu ECU được tính toán dựa trên một rổ tiền tệ của các nước thành viên với tỷ trọng
của mỗi đồng tiền được tính toán dựa vào tỷ trọng GNP của nước đó trong tổng GNP toàn
khối và tỷ trọng mậu dịch của nước đó trong tổng kim ngạch mậu dịch của toàn khối.
c) Tiền tệ quốc gia (National currency)
Tiền tệ quốc gia là tiền tệ của từng quốc gia riêng biệt, được phát hành, tồn tại và lưu
thông dựa trên quy định của luật tiền tệ từng nước. Tiền quốc gia tồn tại dưới hai hình thái là
tiền mặt (tiền bằng giấy) và tiền tín dụng (tiền ghi trong tài khoản mở ở ngân hàng hoặc trung
gian tài chính). Tiền tín dụng có thể chia thành tiền tín dụng bằng giấy truyền thống và tiền
điện tử.
I.1.2. Căn cứ vào sự chuyển đổi của tiền tệ
a) Tiền tệ tự do chuyển đổi (Free convertible currency)
Tiền tệ tự do chuyển đổi là những tiền tệ mà luật tiền tệ của nước hoặc khối kinh tế có
tiền tệ đó cho phép bất cứ ai có thu nhập tiền tệ này đều có quyền yêu cầu hệ thống ngân
hàng nước đó chuyển đổi tiền tệ này ra các tiền tệ nước khác một cách tự do mà không cần
có giấy phép. Có 2 loại tiền tệ tự do chuyển đổi là tự do chuyển đổi toàn
bộ
và
tự do chuyển
đổi từng phần. Tiền tệ tự do chuyển đổi từng phần là loại tiền tệ mà việc chuyển đổi của nó
phụ thuộc vào chủ thể chuyển đổi, mức độ chuyển đổi và nguồn thu nhập tiền tệ như đồng
THB bạt của Thái Lan, đồng PHP Peso của Philippines, đồng KRW won của Hàn Quốc
Tiền tệ tự do chuyển đổi toàn phần là loại tiền tệ có thể chuyển đối ra bất cứ loại tiền quốc
2
gia nào mà không đi kèm yêu cầu gì như đồng USD của Mỹ, đồng EUR, đồng GBP của
Anh…
b) Tiền tệ chuyển khoản (Tranferable currency)
Tiền tệ chuyển khoản là tiền tệ mà luật tiền tệ của một nước hoặc của một khối kinh tế
quy định những khoản thu nhập bằng tiền tệ này sẽ được ghi vào tài khoản mở tại các ngân
hàng chỉ định và sẽ được quyền chuyển sang tài khoản chỉ định của một bên khác ở cùng một
ngân hàng hoặc một ngân hàng ở nước khác khi có yêu cầu mà không cần giấy phép. Tiền tệ
chuyển khoản không thể được tự do chuyển đổi sang các ngoại tệ khác, nó chỉ được quyền
chuyển nhượng quyền sở hữu tiền tệ từ người này sang người khác trên hệ thống tài khoản
mở tại một ngân hàng hoặc một/một số ngân hàng khác ở nước khác.
c) Tiền tệ thanh toán bù trừ (Clearing Currency)
Tiền tệ thanh toán bù trừ là tiền tệ quy định trong hiệp định thanh toán bù trừ hai bên,
ký kết giữa hai chính phủ hai nước với nhau. Tiền tệ clearing không được chuyển đổi sang
các tiền tệ khác, không được chuyển khoản sang các tài khoản khác, chỉ được ghi Có và ghi
Nợ trên tài khoản clearing do hiệp định quy định, cuối năm tiến hành
bù
trừ
bên Có và bên
Nợ của tài khoản.
I.1.3. Căn cứ vào hình thái tiền tệ
a) Tiền mặt (Cash)
Tiền mặt sử dụng trong thanh toán quốc tế thường là tiền giấy của Ngân hàng trung
ương phát hành. Tiền giấy của nước này lưu thông ở nước khác gọi là ngoại tệ tiền mặt.
b) Tiền tín dụng (Credit currency)
Tiền tín dụng là tiền ghi trên tài khoản mở tại các tổ chức tín dụng hoặc tài chính.
Hình thức tồn tại cơ bản của tiền tín dụng là giấy báo Có hoặc giấy báo Nợ của tổ chức nắm
giữ tài khoản báo cho chủ tài khoản hoặc lệnh của chủ tài khoản gửi cho tổ chức nắm giữa tài
khoản trích một số tiền nhất định từ tài khoản để trả cho người
được
chỉ
định ghi trên lệnh
đó.
I.1.4. Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền tệ trong thanh toán
a) Tiền tính toán (Account currency)
3
Tiền tính toán là tiền tệ dùng để thể hiện giá cả và tính tổng trị giá hợp đồng. Tiền tính
toán cần phải là tiền
tệ
có
tính thông dụng trong giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế và có
giá trị tương đối ổn định.
b) Tiền thanh toán (Payment currency)
Tiền thanh toán là tiền tệ được dùng để thanh toán trong các hợp đồng thương mại
hoặc vay nợ giữa các nước.
I.2. Rủi ro và biện pháp phòng ngừa khi lựa chọn điều kiện tiền tệ
I.2.1. Rủi ro khi lựa chọn điều kiện tiền tệ
Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do việc biến động tỷ giá làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ
vọng trong tương lai. Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh ở nhiều hoạt động của doanh nghiệp
nhưng nhìn chung bất cứ một hoạt động nào mà đầu vào phát sinh bằng một đồng tiền của
quốc gia, trong khi đầu ra lại phát sinh bằng một đồng tiền của một
quốc
gia
khác đều chứa
đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá. Đối với hoạt đông xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, sự thay đổi
tỷ giá của ngoại tệ đối với nội tệ làm thay đổi giá trị kỳ vọng của các khoản thu hoặc chi
ngoại tệ trong tương lai khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Thông thường, trong ngoại thương, giữa thời điểm ký kết hợp đồng và thời điểm thanh toán
thường có độ lệch thời gian nhất định; do đó, nhà kinh doanh xuất nhập khẩu phải đối mặt
với rủi ro tỷ giá khi có sự biến động giữa hai thời điểm này.
Rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể gây ra ba loại tổn
thất ngoại hối: tổn thất giao dịch, tổn thất kinh tế, tổn thất chuyển đổi.
Tổn thất giao dịch: Trong hoạt động mua bán quốc tế, doanh nghiệp sẽ có các khoản
phải thu, phải trả cho doanh nghiệp đối tác gắn liền với đồng ngoại tệ. Do đó, các khoản này
sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp khi tỷ giá hối đoái giữa đồng ngoại tệ và nội tệ diễn biến theo
chiều hướng bất lợi từ đó phát sinh tổn thất giao dịch. Ví dụ: Tổng Công ty May 10 ký hợp
đồng xuất khẩu trị giá 500.000USD ngày 08/05/2007, hợp đồng được thanh toán sau 6 tháng
kể từ ngày ký - 08/11/2007. Tại thời điểm ký kết, tỷ giá USD/VND = 20.200. Vào ngày
thanh toán tỷ giá USD/VND = 20.000, như vậy cứ mỗi USD xuất khẩu công ty bị thiệt
200VND. Toàn bộ hợp đồng trị giá 500.000USD, công ty bị mất 10 triệu VND.
Tổn thất kinh tế: Tổn thất phát sinh do sự thay đổi của tỷ giá làm ảnh hưởng đến
dòng tiền quy ra
nội
t
ệ
hoặc ngoại tệ của doanh nghiệp thông qua giá cả hàng hóa, lượng
hàng hóa, và chi phí để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa. Ví dụ, công ty X của Việt Nam xuất
4
khẩu một lô hàng sang Mỹ, vào thời điểm này VND lên giá so với USD làm lô hàng này trở
nên đắt đỏ hơn với người dùng nước ngoài làm lượng hàng bán ra của công ty X ở Mỹ giảm,
doanh thu xuất khẩu của X giảm nên đương nhiên dòng tiền vào của công ty X giảm.
Tổn thất chuyển đổi là sự mất mát về giá trị tài sản cố định, lợi nhuận hay các khoản
mục khác của báo
cáo
tài
chính doanh nghiệp khi chuyển đổi từ loại tiền tệ này sang loại tiền
tệ khác. Vì thế, vào thời điểm chuyển đổi mà tỷ giá biến động theo hướng bất lợi cho doanh
nghiệp, tổn thất kế toán sẽ xảy ra.
I.2.2. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro khi lựa chọn điều kiện tiền tệ đối với
doanh nghiệp
a) Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá
Doanh nghiệp có thể sử dụng phương pháp phân tích cơ bản hoặc phân tích kỹ thuật
để dự báo tỷ giá. Phân tích cơ bản (Fundamental analysis) là phương pháp phân tích tập
trung vào việc nghiên cứu các lý do hoặc nguyên nhân làm cho giá tăng lên hoặc giảm
xuống, tiến đến một giá trị dự đoán về giá trị sinh lời tiềm ẩn của một thị trường để xác định
xem thị trường được đánh giá cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực. Phần khó nhất của phương
pháp này là quyết định xem thông tin nào và bao nhiêu tiền đã được tính vào cơ cấu giá hiện
hành. Phân tích kỹ thuật (Technical analysis) đơn giản là một phương pháp dự báo dựa vào
đồ thị tỉ giá và số lượng mua bán của quá khứ
đã
được
tập hợp lại để dự đoán khuynh hướng
của tỉ giá trong tương lai. Điều lưu ý là phân tích kỹ thuật có thể là công cụ giúp ta dự báo xu
hướng đúng, nhưng nó phải được sử dụng theo nguyên tắc đã được tính toán chứ không phải
theo cảm tính.
Như vậy mỗi loại hình phân tích có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Vì vậy nhà
kinh doanh phải linh hoạt sử dụng các công cụ này cùng với quyết định trực quan của mình
để ra quyết định nhanh chóng và chính xác.
b) Lựa chọn ngoại tệ thanh toán
Do sự biến động tỷ giá của từng loại ngoại tệ khác nhau phụ thuộc vào tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội ở mỗi quốc gia nên mức độ rủi ro tỷ giá phát sinh với mỗi loại ngoại tệ
cũng không giống nhau. Việc lựa chọn
loại
ngoại
tệ có giá trị tương đối ổn định sẽ giúp cho
doanh nghiệp giảm thiểu tác động của biến thiên tỷ giá. Vì thế, các doanh nghiệp cần thận
trọng dự báo xu hướng giá của đồng tiền mình lựa chọn, đa dạng hóa các loại tiền thanh toán
để giảm bớt rủi ro về tỷ giá. Tuy nhiên để có thể giành lợi thế trong đàm phán thì sức cạnh
tranh hàng hóa của doanh nghiệp phải đủ lớn.
5
c) Sử dụng hợp đồng xuất nhập khẩu song hành
Đây là phương pháp tự bảo hiểm rủi ro tỷ giá đơn giản bằng cách tiến hành song hành
cùng một lúc cả
ha
i
hợp
đồng xuất khẩu và nhập khẩu có giá trị và thời hạn tương đương
nhau. Ví dụ, nếu USD lên giá so với VND thì công ty sẽ sử dụng phần lãi do biến động tỷ giá
từ hợp đồng xuất khẩu để bù đắp phần tổn thất do biến động tỷ giá của hợp động nhập khẩu.
Ngược lại, nếu USD giảm giá so với VND thì công ty sẽ sử dụng phần lợi do biến động tỷ
giá
từ
hợp đồng nhập khẩu để bù đắp thiệt hại do biến động tỷ giá của hợp đồng xuất khẩu.
Kết quả là dù USD lên giá hay xuống giá rủi ro tỷ giá luôn được trung hoà. Cách này đơn
giản, hữu hiệu, dễ thực hiện và ít tốn kém nếu như công ty có thể hoạt động đa dạng hoá cả
xuất khẩu và nhập khẩu. Tuy nhiên, vấn đề của phương pháp này là khả năng có thể kiếm
được cùng một lúc cả hai hợp đồng có thời hạn và giá trị tương đương nhau hay không.
d) Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tỷ giá
Theo phương pháp này, khi nào kiếm được phần lợi nhuận dôi thêm do biến động tỷ
giá thuận lợi công t
y
sẽ
trích phần lợi nhuận này lập ra quỹ dự phòng bù đắp rủi ro tỷ giá.
Khi nào tỷ giá biến động bất lợi khiến công ty bị tổn thất, thì sử dụng quỹ này để bù đắp, trên
cơ sở đó hạn chế tác động tiêu cực đến kết quả hoạt động kinh doanh. Phương pháp này khá
đơn giản và không tốn kém chi phí khi thực hiện. Vấn đề là thủ tục kế toán và công tác quản
lý quỹ dự phòng sao cho quỹ này không bị lạm dụng vào việc khác.
e) Sử dụng thị trường tiền tệ
Sử dụng thị trường tiền tệ để tự bảo hiểm rủi ro tỷ giá là cách thức vận dụng kết hợp
các giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối với các giao dịch vay và cho vay
trên thị trường tiền tệ để cố định các khoản phải thu hoặc phải trả sao cho chúng khỏi lệ
thuộc vào sự biến động tỷ giá.
Ví dụ: Ngày 15/07/2012 doanh nghiệp ký hợp đồng nhập khẩu thanh toán bằng USD,
thời hạn thanh toán sau 6 tháng (15/01/2013). Với dự báo là giá USD giảm tại thời điểm
thanh toán, nếu bán USD ngay bây giờ sẽ có lợi hơn. DN tìm hiểu lãi suất thị trường rồi vay
ngân hàng một số tiền USD với thời hạn 6 tháng. Số tiền vay bằng USD này được tính sao
cho khi đáo hạn, tổng thanh toán cả nợ và lãi trả cho ngân hàng bằng giá trị hợp đồng đã ký
kết. Số tiền này có thể được coi chính là doanh thu của doanh nghiệp. Trong lúc đó, DN
chuyển toàn bộ số USD thành VND để sử dụng cho mục đích kinh doanh hoặc đơn giản là
gửi ngân hàng lấy lãi suất tiết kiệm. Khi kết thúc hợp đồng, tiền thu được sẽ dùng để trả cho
ngân hàng. Như vậy bằng các giao dịch vay mượn và mua bán trên thị trường tiền tệ và thị
6
trường ngoại hối, DN biết chắc được mình sẽ thu được bao nhiêu VND từ hợp đồng xuất
khẩu, do đó, tránh
được
rủi
ro sự biến động của tỷ giá. Tuy nhiên, hiệu quả của công cụ này
phụ thuộc nhiều vào khả năng chi trả đúng hạn của khách hàng.
f) Các công cụ phái sinh
Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể lựa chọn các công cụ phái sinh do các ngân hàng
cung cấp để thực hiện bảo hiểm tỷ giá, phòng tránh rủi ro có thể xảy ra như:
Spot (giao dịch giao ngay): Là giao dịch mà hai bên thực hiện mua, bán một lượng
ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng 2
ngày làm việc tiếp theo. Giao dịch này phù hợp với các doanh nghiệp có nguồn thu chi ngoại
tệ nhỏ, không có kế hoạch ổn định.
Forward (giao dịch kỳ hạn): Là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua, bán với
nhau một lượng
ngoại
tệ
theo một tỷ giá xác định và việc thanh toán sẽ được thực hiện vào
thời điểm xác định trong tương lai. Khách
hàng
có
thể xác định tỷ giá ngay tại thời điểm ký
hợp đồng và hạn chế một phần rủi ro biến động tỷ giá. Loại hình này thích hợp với các doanh
nghiệp có kế hoạch thu chi ngoại tệ ổn định, ít có kinh nghiệm về sự biến động tỷ giá hàng
ngày.
Swap (giao dịch hoán đổi): Là giao dịch đồng thời mua và bán cùng một lượng ngoại
tệ (chỉ có 2 ngoại
tệ
được
sử dụng trong giao dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao
dịch là khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký hợp đồng. Giao
dịch này cho phép doanh nghiệp tận dụng lợi thế lãi suất của các đồng tiền và quản lý hiệu
quả nguồn vốn ngoại tệ của mình.
Option (giao dịch quyền lựa chọn): Là giao dịch giữa bên mua quyền và bên bán
quyền, trong đó bên mua quyền có quyền nhưng không có nghĩa vụ mua hoặc bán một lượng
ngoại tệ xác định ở một mức tỷ giá xác định trong một khoảng thời gian thỏa thuận trước.
Nếu bên mua quyền lựa chọn thực hiện quyền của mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc
mua lượng ngoại tệ trong hợp đồng theo tỷ giá thỏa thuận trước. Loại giao dịch này tối ưu
hóa
việc
phòng ngừa rủi ro tỷ giá, phù hợp với doanh nghiệp có kế hoạch thu chi ngoại tệ ổn
định, có kinh nghiệm theo dõi biến động tỷ giá ngoại tệ hàng ngày. Đây được coi là công cụ
hiệu quả nhất và được sử dụng khá phổ biến trên thế giới.
7
II. THỰC TRẠNG LỰA CHỌN ĐỒNG TIỀN TTQT TRONG CÁC HỢP ĐỒNG
TMQT CỦA CÁC DNXNK VIỆT NAM, NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ
II.1. Thực trạng lựa chọn đồng tiền thanh toán và nguyên nhân
II.1.1. Thực trạng
Các doanh nghiệp trên thị trường Việt Nam từ khi mở cửa vẫn chủ yếu sử dụng đồng
USD cho hoạt động thương mại của mình. Năm 2008, theo thống kê của Vụ quản lý ngoại
hối, Ngân
hàng
Nhà nước, có tới 90% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam được
thanh toán bằng USD. Tình trạng đó tiếp tục tiếp diễn ra trong năm 2009, số lượng doanh
nghiệp Việt Nam sử dụng USD trong giao dịch là hơn 70%, Euro (EUR) đạt chưa tới 30%,
các đồng ngoại tệ khác như Bảng Anh, Yên Nhật, chỉ được sử dụng ở mức không đáng kể.
Từ năm 2010 đến nay,
xu
hướng
sử dụng USD trong thanh toán quốc tế không thay đổi.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường lựa chọn đồng tiền trong hợp đồng
và chấp nhận thanh toán bằng USD trong hầu hết các giao dịch thương mại quốc tế với các
quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Ví dụ, đa phần các nhà nhập khẩu (có văn phòng đại diện tại TPHCM) đều lấy USD làm
đồng tiền thanh toán hầu hết các hợp đồng mua bán các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam. Các thị trường không truyền thống khác, như đấu thầu xuất khẩu gạo
vào Philippines,
Indonesia
hay xuất hàng đi châu Phi, doanh nghiệp trong nước đều chọn USD làm đồng tiền
thanh toán trong nhiều năm.
Minh họa: Hợp đồng xuất khẩu gạo giữa Công ty TNHH Galluck Limited ở Hongkong
và Hanoi Food Export Import Company
8
Trong lĩnh vực khác, ví dụ như xuất nhập khẩu các sản phẩm từ thị trường Singapore
hay Tokyo Nhật Bản, dù ở hai thị trường này, giao dịch niêm yết bằng đô la Singapore hay
yên Nhật, nhưng khi ký bán cho khách hàng nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
quy ra giá USD. Hơn nữa, những năm trước, khi USD chưa mất giá, hợp đồng xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nước vẫn ghi thanh toán bằng yên Nhật hay Euro, nhưng đều lấy tỷ giá
giữa USD với Euro hay yên Nhật để làm mốc thanh toán khi tỷ giá lên xuống.
Minh họa: Hợp đồng nhập khẩu thép góc không hợp kim từ Nhật về Việt Nam giữa
Công ty Cổ phần Chế tạo Giàn khoan Dầu Khí và Tập đoàn Sumitomo Nhật Bản
Hiện nay, bên cạnh USD, một số doanh nghiệp cũng đang tiến tới sử dụng đồng bản tệ
của một trong hai nước làm đồng tiền thanh toán nhưng tỷ lệ này tương đối thấp.
Minh họa: Hợp đồng mua bán thiết bị Gas Detector giữa Công ty PV Shipyard và
Marshal System Ltd Singapore sử dụng đồng tiền thanh toán là SGD.
9
Ngoài ra, trong các giao dịch thương mại quốc tế hiện nay, đa số các doanh nghiệp
Việt Nam thường quy định đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính toán cùng là một và cùng
là USD để thuận tiện trong thanh toán. Việc lựa chọn đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính
toán khác nhau vẫn tồn tại nhưng với tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu chỉ xảy ra đối với các hợp đồng
mua bán trong nước hoặc trong các trường hợp mua bán đặc biệt.
Minh họa: Hợp đồng có đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính toán khác nhau
10
II.1.2. Nguyên nhân
a) Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam chọn USD làm đồng tiền thanh toán bởi đồng
USD đã được sử dụng làm dự trữ và thanh toán quốc tế trong một khoảng thời gian dài. Theo
số liệu từ Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), đồng USD được sử dụng trong 85% các giao
dịch ngoại hối trên toàn cầu. Đồng thời, theo Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, hơn 60% lượng dự trữ
của các NHTW là đồng USD. Thực tế cho thấy sử dụng USD đã trở thành tập quán trên thế
giới,
hơn
80% các thanh toán, giao dịch quốc tế trên thế giới vẫn lựa chọn đôla Mỹ. Do đó,
các doanh nghiệp xuất
nhập
khẩu
Việt Nam cũng không nằm ngoài tập quán quốc tế này.
Thứ hai, USD được lựa chọn làm đồng tiền thanh toán và tính toán chủ yếu trong các
giao dịch ngoại thương tại Việt Nam vì nó mang cả 3 đặc điểm của một đồng tiền mạnh:
Tính thanh khoản: Thị trường cho các công cụ nợ bằng USD rất phát triển và có tính
thanh khoản cao. Cụ thể, tại thị trường ngoại hối Forex, đồng USD là đồng tiền được giao
dịch nhiều nhất, chiếm 84,9% của tất cả các giao dịch, đồng Euro đứng thứ hai chỉ với 39,1%
(goldwalk.com, 2012).
Tính an toàn: Để chọn lựa một đồng tiền cho việc trao đổi hàng hóa, các bên cần phải
lựa chọn một đồng tiền được xem là an toàn nhất. Tính an toàn này, xét một cách vĩ mô, là
nhìn từ hệ thống tài khóa và tiền tệ, khả năng phá giá đồng tiền, in tiền trả nợ hoặc vỡ nợ của
quốc gia sở hữu đồng tiền đó. Theo đó, USD được tín nhiệm là đồng tiền thanh toán quốc tế
chủ yếu trên thế giới chính vì niềm tin của thế giới đối với nền kinh tế và chính trị Mỹ.
Tính tự do chuyển đổi: USD là một trong số những đồng tiền có tự do chuyển đổi toàn
phần thông dụng trên thế giới nên người xuất khẩu Việt Nam khi giao hàng và nhận đồng
USD về, có thể dễ dàng đổi USD sang VND tại các ngân hàng thương mại để sử dụng trong
nước mà không cần giấy phép.
Thứ ba, nước Mỹ có nền kinh tế mạnh và có uy tín hàng đầu thế giới, nếu xảy ra
những cú sốc gây ra hiện tượng bán tháo đồng tiền USD trên thế giới thì nước Mỹ vẫn hoàn
toàn có thể chịu đựng được vì họ là nền kinh tế mạnh nên các doanh nghiệp Việt Nam có thể
yên tâm về tính ổn định của đồng tiền này.
b) Nguyên nhân chủ quan
(1) Khả năng thương lượng thanh toán bằng đồng tiền khác của doanh nghiệp Việt
Nam còn hạn chế. Các đối nước ngoài cũng có những lo sợ về rủi ro tỷ giá, và họ có xu
11
hướng lựa chọn những đồng tiền sao cho giảm thiểu rủi ro, hay đáp ứng nhu cầu thanh toán
khác của họ. Do vậy, việc thương lượng sử dụng đồng tiền khác USD trong thanh toán không
phải là điều dễ thực hiện nếu như không mang lại lợi ích cho cả hai bên hoặc các bên không
muốn làm khác với thói quen kinh doanh của mình. Trong khi đó, việc chứng minh được lợi
ích mang lại cho đôi bên khi sử dụng VND hoặc đồng tiền khác USD trong thanh toán không
phải là chuyện dễ với các doanh nghiệp Việt Nam trên bàn đàm phán. Nhiều doanh nghiệp đã
cho biết, một số bạn hàng của họ tại các nước ASEAN đều yêu cầu thanh toán bằng USD và
từ chối cả đồng bản tệ bởi tính thanh khoản cao của USD.
(2) Thêm vào đó, giá cả các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam (dầu thô, cà
phê, than đá, gạo và thủy sản,…) được niêm yết bằng đồng USD trên hầu hết các thị
trường toàn cầu. Ví dụ như 100% cà phê Robusta của Việt Nam giao dịch bằng USD, khó
để nói nhà nhập khẩu chuyển qua giao dịch bằng euro dù là xuất khẩu vào thị trường EU, bởi
giá cà phê Robusta xuất khẩu của Việt Nam dựa theo giá của thị trường kỳ hạn London,
mà
hàng
chục năm qua, họ giao dịch bằng USD.
Minh họa: Điều khoản giá cả của hợp đồng xuất khẩu cà phê giữa công ty cà phê
Phước Sơn và Roburst International. Co. Ltd.
(3) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thi hành chính sách neo giá VND vào USD để
kiểm soát biên độ tỷ giá. Cụ thể, các loại ngoại tệ khác tại Việt Nam không bị khống chế tỷ
giá như đôla Mỹ nên sự biến động tỷ giá
của
các
loại ngoại tệ khác nhanh hơn rất nhiều so
với đôla Mỹ. Trong khi đó, đồng USD liên quan trực tiếp đến thanh toán quốc tế giữa các
nước và đã trở nên quá quen thuộc, dễ dàng; đồng thời, việc dự đoán trạng thái của đồng
12
USD cũng dễ hơn các đồng tiền khác nên doanh nghiệp có xu hướng chọn USD sử dụng
trong thanh toán.
(4) Thói quen sử dụng USD đã ăn sâu vào các doanh nghiệp XNK Việt Nam dù USD
rớt giá. Cả năm 2007, theo tính toán, đồng USD rớt giá 9,9% so với Euro, và trong hai tháng
rưỡi đầu năm 2008, USD rớt giá 6,6% so với Euro, trong khi EU là thị trường xuất khẩu lớn
và truyền thống của Việt Nam. Thế nhưng, các doanh nghiệp
xuất
khẩu
trong nước không
chọn các đồng tiền mạnh, không bị rớt giá như Euro, yên Nhật để thanh toán khi xuất khẩu
vào các thị trường này để giảm thiểu thiệt hại do đồng Việt Nam lên giá so với USD mà vẫn
lựa chọn USD. Lý
do
được
nhiều doanh nghiệp Việt Nam đưa ra là, trong nhiều năm liền,
các doanh nghiệp và ngân hàng hỗ trợ t
hanh
toán
của họ đều muốn lấy USD làm đồng tiền
thanh toán và đã thành thói quen khiến doanh nghiệp ngại thay đổi.
Từ những lý do trên, rõ ràng, việc đa dạng đồng tiền thanh toán trong hoạt động xuất
nhập khẩu tại Việt Nam không phải việc đơn giản.
II.2. Bất cập và kiến nghị
II.2.1. Bất cập
Thực trạng trên đã làm nảy sinh nhiều bất cập. Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng quan hệ
thương mại với nhiều nước trên thế giới ngoài Mỹ. Các giao dịch như vậy nếu cứ dùng USD
là đồng tiền tính giá hoặc thanh toán sẽ
dẫn
đến
những rủi ro về tỷ giá cao hơn việc chọn
đồng tiền của một trong hai bên để thực hiện giao dịch. Giả sử, rủi ro về biến động tỷ giá
trung bình của hai đồng tiền quốc gia khác nhau là bằng 0.2. Nếu một giao dịch giữa một
công ty xuất khẩu Việt với một doanh nghiệp Trung Quốc sử dụng VND hoặc CNY làm
đồng tiền thanh toán thì rủi ro này chỉ là 0.2; tuy nhiên, nếu giao dịch này sử dụng đồng tiền
thanh toán là USD – ngoại tệ với cả hai nước- thì rủi ro này sẽ tăng lên gấp đôi. Cụ thể, khi
đưa ra một đề án kinh doanh, mọi tính toán về lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp đều dựa
trên dự báo tỷ giá vào thời điểm nào đó trong tương lai là bao nhiêu. Nếu tỷ giá biến động
thất thường, một
dự
án
từ chỗ đang hoạt động hiệu quả, có thể biến thành thua lỗ do khoản
lợi nhuận thu được không đủ bù đắp những chi phí phát sinh thêm khi tỷ giá biến động như là
việc mua ngoại tệ trở lên đắt đỏ hơn, sự khan hiếm ngoại tệ thanh toán
Dẫn chứng rõ nhất, việc Chính phủ kéo dài chính sách “neo” VND vào USD đã khiến
cho doanh nghiệp Việt Nam quá gắn kết và phụ thuộc vào đồng tiền này. Hậu quả là rủi ro
cho doanh nghiệp tăng lên mỗi khi USD mất
giá
so
với ngoại tệ khác. Cụ thể, có thời điểm 1
13
USD “ăn” hơn 1,22 Euro nhưng vào thời điểm sau đó, 1 Euro có giá trị bằng 1,4 USD. Do sự
phụ thuộc quá nhiều vào đồng USD, doanh nghiệp Việt sẽ không chủ động phân tán được
những rủi ro trên, và có thể gánh chịu những hậu quả đáng tiếc trong kinh doanh trên thị
trường quốc tế đầy biến động. Hơn nữa, việc giao dịch bằng USD còn khiến hai bên trong
giao dịch quốc tế phải bỏ ra chi phí mua USD tại ngân hàng để tiến hành giao dịch – một chi
phí
không
cần
thiết nếu thương lượng được việc sử dụng nội tệ của một trong hai nước. Ví
dụ, việc buôn bán hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc theo hiệp định biên mậu có thể sử
dụng VND hoặc NDT hay vì lãng phí khoản tiền mua USD ở ngân hàng để thanh toán cho
đối tác.
Ở một khía cạnh khách, cục diện kinh tế - chính trị thế giới ngày nay đã có nhiều thay
đổi, vị thế nền kinh tế hàng đầu thế giới của Mỹ đang có nguy cơ bị lung lay và đồng USD tỏ
ra mất uy thế so với một số đồng tiền chủ chốt, đặc biệt đã giảm khoảng 60% giá trị so với
Euro kể từ khi Euro chính thức được đưa vào sử dụng. Trong khi đó, Mỹ vẫn đang là con nợ
lớn nhất thế giới, thâm hụt ngân sách ngày càng lớn, các gói cứu trợ hàng tỷ USD được đưa
ra
nhằm
cứu thị trường tài chính trong thời kì khủng hoảng (Vietnamplus.com). Do vậy,
không thể không lo ngại một ngày đồng USD mất giá và sự ổn định kinh tế, tài chính toàn
cầu cũng nói chung và tại Việt Nam nói riêng khó được đảm bảo. Nếu tiếp tục chỉ chú trọng
sử dụng và nắm giữ USD trong các giao dịch quốc tế, kinh tế Việt Nam sẽ bị phụ thuộc quá
nhiều vào nền kinh tế đang có nhiều dấu hiệu tiêu cực của Mỹ, cũng như các nhà xuất khẩu
Việt Nam sẽ đối mặt với những rủi ro và thiệt hại khó lường.
II.2.2. Kiến nghị
a) Về phía doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề
* Lựa chọn đồng tiền bản tệ làm phương tiện thanh toán
Biện pháp an toàn và tiết kiệm nhất cho các nhà xuất khẩu và nhập khẩu Việt Nam là
tận dụng tối đa cơ hội đàm phán trong giao dịch để đưa ra quyết định chọn VND là đồng tiền
thanh toán, đặc biệt là trong các hiệp định biên mậu với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Tuy
nhiên, việc này là không dễ dàng, đặc biệt là trong giao thương với các quốc gia khác, bởi
VND vốn là một đồng tiền yếu, không có khả năng tự do chuyển đổi, nên sẽ khó được chấp
nhận bởi phía đối tác nước ngoài. Hơn nữa, ngay người dân và doanh nghiệp Việt Nam vẫn
còn có tâm lý chuộng USD, và luôn kỳ vọng VND mất giá do lo lắng về việc phá giá VND
đã xảy ra vài năm trở lại đây.
14
Nga và Việt Nam đang tiến tới giảm thiểu vai trò của USD trong thương mại song
phương và
chuyển
sang
thanh toán lẫn nhau bằng bản tệ của nước là rúp Nga và đồng Việt
Nam. Kể từ cuối năm 2010 một số doanh nghiệp Nga và Việt Nam đã khai trương hoạt động
thanh toán bằng đồng tiền quốc gia hai nước. Một số hợp đồng bán hàng cho Việt Nam của
nhà máy chế tạo ô tô KAMAZ đã được thực hiện theo cơ chế này. Điều này làm giảm thời
gian chuyển tiền, giảm chi phí dịch vụ ngân hàng. Hơn nữa, các nhà sản xuất giảm được chi
phí cho bảo hiểm rủi ro ngoại hối vào giỏ hàng, tiếp đến giảm giá bán. Đối với các nhà nhập
khẩu của hai nước, việc sử dụng đồng tiền quốc qua sẽ có nghĩa làm rẻ đi các mặt hàng đặt
mua, đồng thời giảm rủi ro trước biến động cao của các đồng tiền chuyển đổi tự do, mà các
thanh toán hiện nay vẫn dựa vào.
* Áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá
Nếu như việc thay thế USD hay các ngoại tệ khác tiềm ẩn rủi ro tỷ giá trong thanh
toán cần phải có thời gian và lộ trình, giải pháp trước mắt cho các doanh nghiệp là áp dụng
các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá như dự báo tỷ giá, sử dụng hợp đồng xuất nhập khẩu
song hành, sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tỷ giá, các công cụ phái sinh. Các doanh nghiệp
cũng nên kết hợp các biện pháp một cách linh hoạt và hợp lý để mang lại hiệu quả cao nhất.
b) Về phía chính phủ
Chính sự mất niềm tin của người dân vào việc điều hành chính sách tài chính – tiền tệ
của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước là nguyên nhân sâu xa cho tâm lý quen dùng ngoại tệ
trong thanh toán. Để giải quyết tình hình
này,
chính
phủ cần có biện pháp dần dần nâng giá
VNĐ, tiến hành các chính sách tài khóa – tiền tệ một cách minh bạch, rõ ràng để lấy lại niềm
tin nơi người nắm giữ đồng bản tệ của Việt Nam. Có như vậy, doanh nghiệp Việt và đối tác
nước ngoài mới có cơ sở để nắm giữ và chấp nhận đồng tiền Việt trong thanh toán quốc tế.
Thực tế, chính sách phá
giá
VNĐ
mấy năm trở lại đây của chính phủ Việt Nam đã làm giá trị
đồng VNĐ giảm đi đáng kể so với các đồng
tiền
khác
trên thế giới khiến cho VNĐ không
hấp dẫn được người nắm giữ. Vì vậy, nâng giá VND sẽ tạo tâm lý tin tưởng của người dân
vào đồng tiền này và người dân sẽ tích cực thanh toán và chấp nhận thanh toán bằng VND
hơn. Ngoài ra, chính sách tài chính – tiền tệ minh bạch, rõ ràng sẽ khiến cho tỷ giá dễ dự
đoán, tâm lý người dân cũng dần ổn định theo sự ổn định của tỷ giá. Có thực hiện được đồng
bộ các chính sách như vậy, doanh nghiệp Việt và đối tác nước ngoài mới có cơ sở để nắm giữ
và chấp nhận đồng tiền Việt trong thanh toán quốc tế.
15
Chính phủ Việt Nam cũng cần xem xét dỡ bỏ chính sách neo giá VND vào USD, thay
vào đó là định giá đồng nội tệ dựa trên một rổ tiền tệ mạnh, để tỷ giá có thể phản ánh chính
xác hơn chứ không chỉ phụ thuộc vào sự mạnh yếu của USD (Baomoi.com). Có như vậy,
doanh nghiệp Việt mới bớt nỗi lo về rủi ro tỷ giá khi kinh doanh trên thị trường quốc tế mỗi
khi xảy ra sự sụt giá của đồng USD.
Trên quan điểm này, một chuyên gia trong ngành ngân hàng đã chia các quốc gia,
vùng lãnh thổ có
các
đồng
ngoại tệ mạnh ra làm 3 nhóm và xét khả năng thay thế USD trong
thanh toán quốc tế tại Việt Nam nếu sử dụng 3 nhóm ngoại tệ đó.
Nhóm thứ nhất: Bao gồm các quốc gia, vùng lãnh thổ có các loại tiền tệ mạnh mà
chúng ta có thể mua ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ lúc nào với một khối lượng lớn. Đó là các đồng
tiền Euro, Yên Nhật, Đô la Canada, Đô la Úc,
Đô
la
Hồng Kông, Đô la Singapore, Franc
Thụy Sỹ và Bạt Thái. Năm 2008, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ những quốc gia,
vùng lãnh thổ này chiếm 44% trên tổng kim ngạch nhập khẩu, và như vậy nếu chúng ta sử
dụng các loại tiền này trong thanh toán nhập khẩu thì sẽ làm giảm nhu cầu mua USD cho
thanh toán nhập khẩu xuống 44%.
Nhóm thứ hai: Là một số quốc gia, vùng lãnh thổ có các loại tiền tệ được mua bán tự
do, tuy nhiên nó cũng có một số hạn chế về mặt thời gian cũng như về mặt vị trí địa lý. Các
loại tiền tệ này chưa được tự do chuyển đổi đối với các giao dịch vốn. Nếu chúng ta bổ sung
đồng tiền của Malaysia, Indonesia, Đài Loan, Hàn Quốc, Philippines để phục vụ cho thanh
toán hàng nhập khẩu, thì tổng kim ngạch nhập khẩu thông qua các quốc gia, vùng lãnh thổ
thuộc nhóm thứ hai và của nhóm thứ nhất sẽ lên tới 71% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam.
Nhóm thứ ba là đồng Nhân dân tệ (CNY) trong những năm gần đây, kim ngạch nhập
khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc luôn luôn đạt trên 20% tổng kim ngạch nhập khẩu của
chúng ta. Gần đây, cùng với sự tăng trưởng kinh ngạc của nền kinh tế Trung Quốc xu thế
biến đổi trong cách sử dụng đồng Nhân dân tệ trong hoạt động thanh toán ngoại thương đang
ngày càng rõ rệt.
Nếu chúng ta đưa đồng tiền thuộc nhóm thứ nhất, nhóm thứ hai và đồng Nhân dân tệ
vào thanh toán nhập khẩu, thì lượng ngoại tệ thanh toán hàng nhập khẩu không dùng USD có
thể lên tới 93% tổng kim ngạch.
Chính phủ cũng có thể xúc tiến các hiệp định biên mậu với các quốc gia khác, sử dụng
đồng bản tệ của
hai
nước
làm đồng tiền thanh toán. Điều này tạo hành lang thông thoáng cho
16
các doanh nghiệp giao thương ở cả hai nước. Trung Quốc và Nga là một ví dụ. Thủ
tướng của hai nước lớn nhất châu Á đã quyết định bỏ đồng USD và dùng tiền của
hai nước trong thương mại song phương từ năm 2011.
c) Về phía các
ngân hàng
Hệ thống ngân hàng Việt Nam có lẽ sẽ làm được một số việc để giúp cho
khách hàng của mình có thể ti
ết
kiệm
cả được về mặt thời gian và chi phí trong hoạt
động thanh toán xuất nhập khẩu.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam vì sức ép phải mua USD phục vụ thanh toán cho
khách hàng nên chi phí cơ hội là rất cao. Nếu như khách hàng sử dụng đồng tiền
khác sẽ làm cho chi phí cơ hội cho ngân hàng thương mại giảm xuống, vì thế ngân
hàng có điều kiện giảm phí cho khách hàng của mình trong quá trình thanh toán với
các ngân hàng nước ngoài.
Ví dụ: Ngân hàng ACB đã cung cấp dịch vụ thanh toán đa tệ cho các doanh
nghiệp có nhu cầu chuyển tiền thanh toán tiền hàng nhập khẩu hàng hóa/dịch vụ
bằng đồng tiền của nước người bán/người cung cấp hoặc các
cá
nhân
có nhu cầu
chuyển tiền ra nước ngoài bằng đồng tiền của nước người nhận. Theo đó, tiện ích của
dịch vụ này là:
• ACB cung cấp thêm dịch vụ mua bán và thanh toán cho hơn 14 loại tiền tệ
ngoài 13 loại tiền tệ thông dụng hiện hành.
• Đáp ứng nhu cầu mua và chuyển thanh toán các ngoại tệ của các quốc gia: Hàn
Quốc
(KRW), Đài Loan (TWD), Indonesia (IDR), Malaysia (MYR),
• Khách hàng có thể mua ngoại tệ với giá cạnh tranh
• Khách hàng được ACB cung cấp thông tin quy định quản lý ngoại hối của
quốc gia người thụ hưởng nhằm hạn chế rủi ro pháp lý khi thanh toán.
Thực tế trên thế giới, nhiều nước đã có những biện pháp khuyến khích sử
dụng đồng bản tệ trong việc thanh toán quốc tế. Theo đó, ví dụ như các ngân hàng
của Trung Quốc, Nhật Bản, sau hiệp định sử dụng đồng bản tệ trong thanh toán
song phương, đã có những chương trình hoàn trả lại một phần phí thanh toán họ thu
được cho ngân hàng phục vụ nhập
khẩu.
KẾT
LUẬN
Trong giao dịch với bạn hàng nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn quá
phụ thuộc vào USD và dè dặt với những đồng tiền mạnh khác. Thực trạng này sẽ dẫn
tới những bất cập trong thanh toán giữa doanh nghiệp của hai quốc gia như lãng phí
chi phí mua USD từ ngân hàng và thời gian quy đổi USD sang đồng bản tệ để thực
hiện các giao dịch trong nước, hay khiến doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam
phả
i
gánh
chịu những rủi ro về tỷ giá, đặc biệt khi giá USD đang có xu hướng biến động do
những tín hiệu xấu từ nền kinh tế Mỹ. Để khắc phục những bất cập này, đầu tiên
chúng ta cần có một cái nhìn toàn cảnh chung từ lý thuyết về các loại tiền tệ sử dụng
trong thanh toán quốc tế để doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn loại tiền tệ phù
hợp nhất với giao dịch của mình với đối tác nước ngoài, ngân hàng mạnh dạn hơn
trong việc chấp nhận cung cấp và mua lại những loại ngọai tệ có tính thanh khoản cao
ngoài USD, cũng như chính phủ có thể đưa ra chính sách về tỷ giá và yết giá tiền tệ
linh hoạt nhất. Ngoài ra, việc nắm vững lý thuyết về rủi ro tỷ giá trong thanh toán quốc
tế sẽ tạo điều kiện cho những doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế nhận thức
rõ
hơn
về rủi ro mà mình phải đối mặt liên quan tới đồng tiền thanh toán. Hơn nữa,
những biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá với ưu và nhược điểm cụ thể được đề xuất
trong lý thuyết này cũng giúp chính bản thân doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn
biện pháp phòng tránh tiết kiệm và hiệu quả nhất cho doanh nghiệp mình trong bối
cảnh thị trường kinh doanh quốc tế đầy biến động
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Baomoi.com, 2010, Làm gì để doanh nghiệp không găm giữ USD. Available at
http://w w
w.ba o
moi.c o
m /
L a
m -gi -
de-doan h
-n g
hiep-khon g
-g a
m -g i
u
-
USD/126 /
29353 5
6.epi
(truy cập ngày 2/12/2012)
2. Công ty TNHH Gold Walk, 2012, Quy mô thị trường và tính thanh khoản.
Available at http:/ /
gol d
walk.c o
m . v
n/kie n
- t
hu c
/ho c
- f
orex-toan-tap /
6 6
-f
orex-
la- gi/145-q u
y -
m o
-th i
-tru o
ng-va-tinh- t
han h
- k
ho a
n (truy cập ngày 2/12/2012)
3. Doanh nhân 360, 2011, Những điều thú vị về tiền mà chưa ai biết. Available at
http://w w
w. k
y na n
g.c o
m .
vn/k e
-to a
n/153 2
-nh u
ng-thu-vi- v
e-tien -
m a
- c
hua-ai-
biet.h t
m l (truy cập ngày 30/11/2012)
4. Đinh Xuân Trình và Đặng Thị Thanh Nhàn, 2011, Giáo trình thanh toán quốc
tế, Nhà xuất bản khoa học và xã hội.
5. Hồng Vân, 2008, Thay đổi thói quen thanh toán bằng USD quá khó. Available
at
http://w w
w.tin2 4
7.c o
m/th a
y _doi _
thoi_q u
en_ t
hanh_toan _
bang_ u
sd _
qua_kh o
-3-
64155.h t
ml (truy cập ngày 29/11/2012)
6. Kim Chi, 2010, Khó có thể giảm sự phụ thuộc vào USD trong thanh toán quốc
tế. Available at htt p
:// w
ww.ba o
m o
i.c o
m / K
h o
- c
o-the-gi a
m -
su-ph u
-
th u
oc-vao-
USD-tro n
g-than h
- t
oan -
quoc-te/12 6
/3466 0
80. e
pi (truy cập ngày 29/11/2012)
7. Kim Chi và Hồng Phúc, 2003, Thanh toán Việt Trung còn quá nhiều bất cập.
Available at http:/ /
vie t
bao.vn/Ki nh
-te/Th a
n h
-
toan-Viet-T r
ung-co n
- q
ua-
nhieu- bat-cap/20 0
29868 /
90/
(
truy cập ngày 30/11/2012)
8. Linh Linh, 2012, Trung Quốc dự trữ USD: Tiến thoái lưỡng nan. Available at
http://w w
w.ti n
m o
i.vn/ t
run g
-quoc -
du-tr u
- u
sd- t
ien-thoai-l u
ong-na n
-
1010661 2
5.h t
m l
(
truy cập ngày 2/12/2012)
9. Nguyễn Thị Mùi.n.d, Tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay: những vấn đề đặt ra.
Available at http:/ /
w w
w.vietinba n
k.vn/ w
e b
/ h
ome/vn/res e
arch/10 /
1 0
0917.h t
m l
(truy cập ngày 29/11/2012)
10.
Nguyễn Hồng Hải, 2011, Vì sao khó thay thế vai trò đồng USD. Available at
http://ve f
.vn/201 1
-
05- 1
7-vi-sao-k h
o-th a
y - t
he -
vai-tro-do- n
g-usd- (
truy cập ngày
2/12/2012)
11.
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.n.d, Điều kiện để phát triển các công cụ
phái sinh ngoại hối ở Việt Nam. Available at
http://w w
w.vieti n
bank .
vn/web/h o
me/vn/r e
sea r
ch/08/080 7
21.h t
ml
(truy cập
ngày 30/11/2012)
12.
Phạm Minh Đức, 2011, Sử dụng 5 ngoại tệ để giảm thiểu sự phụ thuộc vào
đồng USD trong thanh toán quốc tế của các DNTM Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng.
13.
Phạm Thị Hoàng Anh, 2008, Ứng dụng công cụ phái sinh tiền tệ tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam.
14.
Phạm Thị Lan Anh (2010), Một số biện pháp hạn chế tỷ giá hối đoái trong cơ
chế thị trường mở, trường Đại học Giao thông vận tải.
15.
Thế giới Vàng, 2009, USD thất thế trong thanh toán giao dịch dầu mỏ?.
Available at http:/ /
w w
w.vietn a
m p
lus.vn /
H o
me/US D
-tha t
-the-tr o
n g
- t
hanh-toan- giao-
dich-d a
u -
m o/ 2
00 9
11/25488 .
vnplus
(
truy cập ngày 30/11/2012)
16.
Tăng Thị Thu Hương (2010), Khóa luận: Rủi ro tỷ giá trong kinh doanh của
các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập – thực trạng và giải pháp,
trường Đại học Ngoại thương
17.
Vnsea.net, 2011, Nga và Việt Nam cam kết chuyển sang thanh toán bằng đồng bản
địa. Available at h t
tp://79.1 7
4.68.54 /
tabid /
128/Article I
D/714 /
lan g
uage/v i
-
VN/De f
ault.aspx ?
retu r
nUrl=/tabi d
/128/F i
lte rT
y p
eID/Fa l
se/Filt e
rDa t
e/201 2
-10-
11/currentp a
g e
/1/la n
g u
age/v i
-VN /
De f
ault.as p
x
(truy cập ngày 2/12/2012)