Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất tại công ty ô tô toyota việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.29 KB, 138 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
“HOÀN THIỆN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ SẢN XUẤT TẠI
CÔNG TY Ô TÔ TOYOTA VIỆT NAM”
* Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
phải có những quyết định sản xuất kinh doanh nhanh chóng, kịp thời và chính xác.
Muốn vậy, nhà quản trị cần được cung cấp những thông tin chính xác và kịp thời từ hệ
thống kế toán trong doanh nghiệp. Kế toán với chức năng thông tin và kiểm tra các
hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc cung
cấp thông tin cho những đối tượng quan tâm sử dụng tuỳ theo mục đích của họ.
Thông tin kế toán gồm thông tin kế toán tài chính và thông tin kế toán quản trị.
Thông tin kế toán tài chính chủ yếu phục vụ cho các đối tượng bên ngoài đơn vị, còn
thông tin kế toán quản trị lại chủ yếu phục vụ cho nhà quản trị để ra những quyết định
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy còn non trẻ nhưng kế toán quản trị đã
thực sự trở thành một công cụ khoa học giúp nhà quản trị điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh của đơn vị hiệu quả nhất.
Tuy đã xuất hiện và được các nước phát triển sử dụng từ lâu, nhưng kế toán quản
trị vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam. Các doanh nghiệp chủ yếu mới
chỉ có hệ thống kế toán tài chính hoàn chỉnh còn hệ thống kế toán quản trị chưa thực sự
được quan tâm đến. Hơn nữa, hiện nay, chỉ có kế toán tài chính mới có hệ thống văn
bản pháp quy quy định về hệ thống kế toán tài chính bắt buộc, còn kế toán quản trị mới
chỉ được hướng dẫn trong những văn bản chung chung, không mang tính bắt buộc mà
mang tính chất giải nghĩa các thuật ngữ là chủ yếu.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thế giới hiện nay, môi trường kinh doanh gặp
khó khăn và thách thức lớn, doanh nghiệp khó gia tăng lợi nhuận nhờ vào việc tăng giá
sản phẩm, chính thực tế này đã đặt ra yêu cầu phải quản lý thật tốt chi phí nói chung và
chi phí sản xuất nói riêng để tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá lợi nhuận. Như vậy,
quản lý chi phí trở thành vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh
hiện nay. Ý thức được thực tế này, công ty ô tô Toyota Việt Nam đã quan tâm nhất định
đến kế toán quản trị ngay từ khi mới thành lập và hệ thống kế toán quản trị của Công ty


đã hoàn thiện hơn qua từng năm.
Hơn nữa, ngành sản xuất ô tô đang đứng trước thách thức lớn do áp lực từ nhiều
phía. Khủng hoảng kinh tế thế giới khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, Chính phủ
ra quyết định hạn chế ô tô cá nhân để giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông bằng cách
tăng các loại phí, thuế, lệ phí. Những thực tế ấy đặt công ty ô tô Toyota Việt Nam vào
vị thế buộc phải hạn chế tối đa những khoản lãng phí trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, mà muốn vậy, Công ty phải có một hệ thống kế toán quản trị hiệu quả.
Thực tế khảo sát ở công ty ô tô Toyota Việt Nam cho thấy, tuy đã có sự quan tâm
nhất định đến kế toán quản trị nhưng thực trạng hệ thống kế toán quản trị tại công ty ô
tô Toyota Việt Nam vẫn còn tồn tại một số vấn đề, điều này đặt ra sự cần thiết phải
hoàn thiện hệ thống kế toán quản trị chi phí sản xuất để giúp nhà quản trị quản lý được
chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất, từ đó đưa ra được nhưng quyết định kịp thời và
chính xác.
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kế toán quản trị nói
chung, kế toán quản trị chi phí sản xuất nói riêng tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài:
“Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất tại công ty ô tô Toyota Việt Nam” nhằm
góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý chi phí của công ty ô tô Toyota Việt
Nam nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất ô tô nói chung.
* Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu và hệ thống hóa vấn đề lý luận cơ bản và thực tế về kế toán quản trị
chi phí sản xuất ở các công ty sản xuất nói chung và công ty sản xuất ô tô nói riêng.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng kế toán quản trị chi phí sản xuất ở Công ty ô tô
Toyota Việt Nam.
- Đề ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện công tác kế toán quản trị chi phí
sản xuất tại Công ty ô tô Toyota Việt Nam.
* Câu hỏi nghiên cứu
- Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, mô hình kế toán quản trị chi phí sản
xuất doanh nghiệp là gì?
- Mô hình kế toán quản trị tại Công ty ô tô Toyota Việt Nam có khác biệt với mô
hình chung?

- Những ưu điểm và tồn tại của mô hình này? Phân tích tác động của những mặt
tồn tại đến hiệu quả quản trị chi phí sản xuất tại Công ty?
- Để khắc phục những tồn tại đó cần những biện pháp như thế nào? Điều kiện
thực hiện và tính khả thi của từng biện pháp ra sao?
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với mục tiêu nghiên cứu đã nêu ở trên, đề tài khảo sát và sử dụng thông tin, tài
liệu về kế toán quản trị chi phí sản xuất của Công ty ô tô Toyota Việt Nam trong năm
2011 để minh hoạ.
Như vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài là: hoạt động sản xuất, lắp ráp ô tô của
Công ty ô tô Toyota Việt Nam trong năm 2011.
* Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn, tác giả dựa vào phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu và đánh giá vấn đề
một cách toàn diện, hệ thống, logic…
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp: thu thập thông tin
số liệu, khảo sát thực tế kết hợp cùng các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp,
so sánh đảm bảo kết quả nghiên cứu có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tế đối với
Công ty ô tô Toyota Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất nói chung.
* Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Mặc dù còn nhiều hạn chế trong quá trình nghiên cứu cũng như giới hạn về đối
tượng và phạm vi nghiên cứu, nhưng luận văn cũng đóng góp những giá trị nhất định
về lý luận và thực tiễn:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về công tác kế toán quản trị chi phí
sản xuất trong giai đoạn hiện nay. Từ đó khái quát hoá những mô hình kế toán quản trị
trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho những doanh nghiệp sản xuất ở Việt
Nam nói chung và doanh nghiệp sản xuất ô tô nói riêng.
- Tìm hiểu đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty ô tô Toyota Việt Nam, phân
tích ảnh hưởng của đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty đến công tác kế toán
quản trị chi phí sản xuất.
- Tiến hành tổng hợp phân tích thực trạng, tìm ra ưu điểm và những vấn đề còn

tồn tại trong công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất của công ty và tìm ra nguyên
nhân của những tồn tại này.
- Chỉ ra sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất tại Công ty,
từ đó đề xuất những giải pháp để hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất tại công
ty ô tô Toyota Việt Nam.
* Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán quản trị chi phí sản xuất trong các doanh
nghiệp sản xuất
Chương 2: Thực trạng kế toán quản trị chi phí sản xuất tại công ty ô tô Toyota
Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất tại công ty ô tô
Toyota Việt Nam.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI
PHÍ SẢN XUẤT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1.1. Khái niệm và bản chất của kế toán quản trị
1.1.1.1. Khái niệm kế toán quản trị
Hệ thống kế toán Việt Nam đang được chuyển đổi phù hợp với cơ chế thị trường,
thông lệ và chuẩn mực quốc tế về kế toán. Như chúng ta đã biết, chức năng của kế toán
là cung cấp và truyền đạt các thông tin kinh tế về một tổ chức cho các đối tượng sử
dụng khác nhau; mục đích của kế toán nhắm cung cấp các thông tin hữu ích cho việc ra
quyết định kinh tế - xã hội, cho việc đánh giá hiệu quả tổ chức và quản lý. Do vậy,
thông tin kế toán phục vụ cả trong và ngoài doanh nghiệp.
Kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành của hệ thống thông tin kế toán nói
chung trong các tổ chức hoạt động. Sự cạnh tranh nhau giữa các doanh nghiệp, tập
đoàn, quốc gia trong tổng thể nền kinh tế thị trường là tiền đề cho sự hình thành và
phát triển của kế toán quản trị. Nhưng trong bất kỳ một tổ chức hoạt động nào thì chức
năng cơ bản của thông tin kế toán quản trị cũng là công cụ hữu hiệu để các cấp lãnh
đạo đưa ra các quyết định điều hành mọi hoạt động hướng tới mục tiêu tối thiểu hoá

chi phí, tối đa hoá doanh thu và lợi nhuận. Tuỳ theo quan điểm và góc độ xem xét khác
nhau mà có nhiều khái niệm về kế toán quản trị.
Theo kế toán quản trị Mỹ, “Kế toán quản trị là một bộ phận của hệ thống thông
tin quản trị trong các tổ chức mà nhà quản trị dựa vào đó để hoạch định và kiểm soát
các hoạt động của tổ chức”. Như vậy, theo quan điểm này, kế toán quản trị đóng vai trò
quan trọng cho các tổ chức xây dựng các dự toán, hoạch định các chính sách và kiểm
soát mọi hoạt động của tổ chức.
Theo kế toán quản trị Pháp, “Kế toán quản trị là một hệ thống thông tin định
lượng cung cấp cho các nhà quản trị đưa ra quyết định điều hành các tổ chức nhằm đạt
kết quả cao”.
Theo Hiệp hội kế toán hợp chủng quốc Hoa Kỳ, “Kế toán quản trị là quy trình
định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, truyền đạt các thông tin tài chính và phi tài
chính cho các nhà quản trị để điều hành các hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn”.
Theo Luật kế toán Việt Nam, “Kế toán quản trị là việc thu thập xử lý phân tích và
cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài
chính trong nội bộ đơn vị kế toán”.
Theo quan điểm của các nhà quản trị, “Kế toán quản trị là một công cụ cung cấp
thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và phân tích các thông tin đó dể
giúp các nhà quản trị đưa ra các quyết định tối ưu”.
Các khái niệm trên tuy khác nhau về hình thức, song đều có 3 điểm cơ bản giống
nhau:
- Kế toán quản trị là công cụ không thể thiếu được trong các doanh nghiệp kinh
doanh theo cơ chế thị trường vì nó là cơ sở khoa học để đưa ra mọi quyết định kinh
doanh.
- Thông tin kế toán quản trị trong các tổ chức hoạt động giúp cho nhà quản trị
thực hiện chức năng quản trị doanh nghiệp: Lập kế hoạch; tổ chức thực hiện; kiểm tra,
đánh giá và ra quyết định.
Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm kế toán quản trị như sau: “Kế
toán quản trị là một môn khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin định lượng

kết hợp với định tính về các hoạt động của một đơn vị cụ thể. Các thông tin đó giúp
các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định liên quan đến việc lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, kiểm tra và đánh giá tình hình thực hiện các hoạt động của đơn vị”.
1.1.1.2. Bản chất kế toán quản trị
Do kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành nên thông tin kế toán nên trước hết
ta hãy cùng tìm hiểu bản chất của thông tin kế toán.
Thông tin kế toán là một bộ phận cấu thành cơ bản trong hệ thống các công cụ
quản lý kinh tế vi mô, nó có vai trò tích cực trong việc điều hành và kiểm soát các hoạt
động kinh tế của các đơn vị, có ý nghĩa cho mọi đối tượng tùy theo các lợi ích khác
nhau. Kế toán là một công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế nói chung và các đơn
vị trong nền kinh tế ở bất kỳ loại hình đơn vị nào nói riêng. Đối với các doanh nghiệp
kinh doanh, kế toán là một nguồn thông tin quan trọng để đưa ra các quyết định kinh
doanh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp,
kế toán là công cụ theo dõi tình hình sử dụng và cấp phát nguồn kinh phí của ngân sách
nhằm góp phần tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí. Thông tin kế toán
chia thành hai bộ phận cơ bản: Thông tin kế toán cung cấp cho các đối tượng bên ngoài
sử dụng để đưa ra quyết định hữu ích cho từng đối tượng (các nhà đầu tư, các cơ quan
thuế… ) được gọi là kế toán tài chính; thông tin kế toán chỉ cung cấp cho các cấp quản
trị trong nội bộ doanh nghiệp sử dụng để đưa ra quyết định điều hành các hoạt động
kinh doanh được gọi là kế toán quản trị.
Mục tiêu cuối cùng của các đơn vị kinh doanh là lợi nhuận. Để tối đa hóa lợi
nhuận, các nhà quản trị phải có quyết định sáng suốt và khoa học dựa vào hệ thống
thông tin kế toán quản trị cung cấp. Như vậy, kế toán quản trị có nhiệm vụ theo dõi
tình hình biến động của các tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí, kết quả của doanh
nghiệp bằng các thước đo khác nhau, gắn với các quan hệ tài chính để cung cấp cho
các cấp quản trị theo yêu cầu cụ thể.
Từ những phân tích trên ta có thể khái quát ở ba điểm sau:
- Thứ nhất, thông tin kế toán quản trị chủ yếu cung cấp cho các nhà quản trị
doanh nghiệp đưa ra các quyết định điều hành các hoạt động kinh doanh. Các cấp quản
trị từ Tổ trưởng sản xuất, Quản đốc phân xưởng, Trưởng các phòng ban đến Ban giám

đốc và Hội đồng quản trị doanh nghiệp.
- Thứ hai, thông tin kế toán quản trị thường cụ thể và mang tính chất định lượng
nhiều vì gắn với các hoạt động kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp.
- Thứ ba, thông tin kế toán quản trị được cụ thể hoá thành các chức năng cơ bản
của các nhà quản trị như: Xây dựng kế hoạch; tổ chức thực hiện; phân tích, đánh giá và
ra các quyết định điều phối các hoạt động kinh doanh để tối đa hoá lợi nhuận.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của kế toán quản trị trong hoạt động quản lý
1.1.2.1. Chức năng của kế toán quản trị trong hoạt động quản lý
Để đạt được mục tiêu điều hành và quản lý hoạt động kinh doanh, công tác quản
trị doanh nghiệp đòi hỏi rất nhiều thông tin. Loại thông tin cần cho việc xây dựng kế
hoạch và kiểm tra hoạt động hàng ngày của đơn vị - đó là những thông tin giúp cho
công tác quản trị biết được những gì đang xảy ra và việc thực hiện các mục tiêu dự
kiến như thế nào. Loại thông tin thứ hai – chủ yếu cần thiết cho quản trị trong việc lập
kế hoạch dài hạn. Những thông tin này được dùng để xây dựng nên những chiến lược
tổng quát và đề ra các quyết định đặc biệt có tác động then chốt đối với đơn vị. Với ba
chức năng: chọn lọc và ghi chép số liệu; phân tích số liệu; lập báo cáo dùng cho quản
trị, kế toán quản trị cung cấp đầy đủ những thông tin để nhà quản lý thực hiện chức
năng quản lý của mình.
Có hai chức năng quản lý quan trọng nhất là hoạch định và kiểm tra chi tiết ở các
chức năng của nhà quản trị: Xây dựng kế hoạch; tổ chức thực hiện; kiểm soát, đánh giá
và ra quyết định.
Trước hết, kế toán quản trị rất cần thiết cho quá trình xây dựng kế hoạch ở doanh
nghiệp vì nó cung cấp thông tin để ra quyết định về kế hoạch nhằm đạt kết quả cao
nhất trong các hoạt động. Kế hoạch này được tiến hành với sự điều khiển của hội đồng
xét duyệt dự toán, có sự tham gia của kế toán trưởng. Chúng được lập hàng năm và
những mục tiêu của quản lý được biểu hiện dưới dạng các chỉ tiêu về số lượng và giá
trị. Để xây dựng kế hoạch, các nhà quản trị thường phải dự đoán, phán đoán kết quả
của các chỉ tiêu kinh tế sẽ xảy ra dựa trên những cơ sở khoa học sẵn có. Trong quá
trình xây dựng, nhà quản trị thường phải liên kết các chỉ tiêu kinh tế với nhau để thấy
rõ sự tác động về nguyên nhân và kết quả sẽ xảy ra trong tương lai. Thứ hai, trong

quản lý, việc lập ra kế hoạch chưa đủ mà quan trọng hơn là cần những thông tin có liên
quan đến việc thực hiện kế hoạch. Chức năng này yêu cầu các nhà quản lý phải liên kết
các bộ phận với nhau, sử dụng nguồn lao động hợp lý nhằm khai thác tối đa các yếu tố
của quá trình sản xuất để đạt được các mục tiêu đã định. Các nhà quản trị phải sử dụng
tổng hợp các thông tin của nhiều bộ phận trong doanh nghiệp, các thông tin bên trong
và bên ngoài, thông tin định lượng và thông tin định tính để từ đó phán đoán và thực
hiện tốt các quá trình kinh doanh. Kế toán quản trị giúp cho chức năng kiểm tra bằng
cách thiết kế nên các báo cáo có dạng so sánh. Các nhà quản trị sử dụng báo cáo đó để
kiểm tra, đánh giá trong các lĩnh vực trách nhiệm mà họ cần quan tâm, để xem xét và
điều chỉnh, tổ chức thực hiện các mục tiêu đặt ra. Do đó, kế toán quản trị phải làm sao
cho các nhà quản lý nhận được những thông tin mà họ cần hoặc họ muốn nhận. Cuối
cùng, trong việc điều hành hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp, các nhà quản lý phải
thường xuyên ra quyết định, mà phần lớn thông tin được coi là căn cứ chủ yếu để ra
quyết định lại do kế toán quản trị cung cấp. Các nhà quản trị thường đứng trước nhiều
phương án kinh doanh khác nhau. Mỗi phương án thường bao gồm nhiều hệ thống
thông tin đa dạng như là số lượng, chủng loại, chi phí, lợi nhuận, vốn, thị trường… Do
vậy đòi hỏi kế toán quản trị phải tổng hợp, phân tích và chọn lọc hệ thống thông tin
này. Trên cơ sở đánh giá hệ thống thông tin do kế toán quản trị cung cấp để đưa ra các
quyết định chọn các phương án tối ưu.
Như vậy, trong hoạt động kinh doanh, nhà quản lý phải điều hành các hoạt động
hàng ngày, lập kế hoạch cho tương lai, giải quyết các vấn đề và thực hiện một khối
lượng lớn các quyết định thường xuyên và không thường xuyên. Tất cả những điều này
đòi hỏi phải được cung cấp những thông tin đặc biệt khác nhau từ kế toán quản trị. Do
đó, rõ ràng kế toán quản trị là hệ thống đo lường, thu thập, tổng xử lý, cung cấp các
thông tin về kinh tế tài chính phục vụ cho yêu cầu quản lý trong việc lập kế hoạch, điều
hành, theo dõi thực hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp.
1.1.2.2. Nhiệm vụ của kế toán quản trị
Mục tiêu cơ bản của kế toán là cung cấp thông tin kinh tế, tài chính về một thực
thể kinh tế. Những thông tin tài chính do kế toán cung cấp rất cần thiết cho cả nội bộ
lẫn bên ngoài doanh nghiệp. Từ đó có thể thấy, nhiệm vụ cơ bản của kế toán là cung

cấp thông tin tài chính cho những người ra quyết định. Để thực hiện được nhiệm vụ
này, kế toán phải thực hiện các công việc sau:
- Ghi nhận, lượng hoá và phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh bằng hệ thống
chứng từ và sổ sách để ghi chép các hoạt động kinh doanh hàng ngày.
- Phân loại, hệ thống hoá và tập hợp các nghiệp vụ để ghi sổ theo các chỉ tiêu tổng
hợp và chi tiết.
- Tổng hợp và tính toán các chỉ tiêu thông tin theo yêu cầu quản lý trong và ngoài
doanh nghiệp
- Sau cùng là cung cấp số liệu để ra quyết định quản lý.
Là một trong hai nhánh của kế toán nói chung, kế toán quản trị là một phương
pháp xử lý các dữ kiện để đạt được các mục tiêu sau đây:
- Biết được từng thành phần chi phí, tính toán và tổng hợp chi phí sản xuất, giá
thành cho từng loại sản phẩm, từng loại công trình dịch vụ.
- Xây dựng được các khoản dự toán ngân sách cho các mục tiêu hoạt động.
- Kiểm soát thực hiện và giải trình các nguyên nhân chênh lệch giữa chi phí theo
dự toán và thực tế.
- Cung cấp các thông tin cần thiết để có các quyết định kinh doanh hợp lý.
1.1.3. Phân biệt kế toán quản trị và kế toán tài chính
1.1.3.1. Những điểm giống nhau
Kế toán quản trị và kế toán tài chính là hai bộ phận của hệ thống thông tin kế
toán, đều có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho các cấp quản trị về tình hình tài sản,
nguồn vốn, quan hệ tài chính, do vậy chúng giống nhau ở ba điểm chính sau đây:
Thứ nhất, cả kế toán quản trị và kế toán tài chính đều đề cập đến các nghiệp vụ
kinh tế của doanh nghiệp từ khi thành lập cho đến khi giải thể hoặc phá sản. Các
nghiệp vụ kinh tế chủ yếu phản ánh các khâu cung cấp, sản xuất, tiêu thụ và xác định
kết quả thường gắn với một chu kỳ kinh doanh của một doanh nghiệp.
Thứ hai, chúng đều dựa trên hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán đó là hệ thống
chứng từ. Hệ thống chứng từ bắt buộc và hệ thống chứng từ hướng dẫn là cơ sở để ghi
nhận thông tin ban đầu cho hệ thống thông tin kế toán quản trị trước khi đưa vào xử lý.
Thứ ba, thông tin kế toán quản trị và thông tin kế toán tài chính đều chịu trách

nhiệm trước các nhà quản lý về trách nhiệm của thông tin trong việc cung cấp trong
các đối tượng sử dụng. Điểm này gắn với trách nhiệm của những người tạo ra thông tin
ban đầu nhằm nâng cao độ tin cậy của những thông tin sau.
1.1.3.2. Những điểm khác nhau
Xuất phát từ mục đích cơ bản của kế toán tài chính là cung cấp thông tin cho tất
cả các đối tượng để đưa ra quyết định mang lại lợi ích cho bản thân các đối tượng.
Trong khi đó, kế toán quản trị chỉ cung cấp thông tin cho các cấp quản trị nội bộ doanh
nghiệp để đưa ra quyết định điều hành các hoạt động kinh doanh. Dựa trên bảy căn cứ
phân biệt, ta có thể khái quát sự khác nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
trong bảng dưới đây:
Bảng 1.1: Phân biệt kế toán quản trị và kế toán tài chính
Căn cứ phân
biệt
Kế toán quản trị Kế toán tài chính
Mục đích
Phục vụ mục đích quản trị kinh
doanh
Phục vụ việc lập báo cáo tài
chính.
Đối tượng sử
dụng thông tin
Các cấp quản trị bên trong doanh
nghiệp (từ tổ trưởng sản xuất đến
giám đốc doanh nghiệp, chủ tịch
hội đồng quản trị) với các thông tin
diễn biến từ hoạt động kinh doanh
hàng ngày để điều chỉnh nhằm tối
đa hoá lợi nhuận của các hoạt động.
Chủ yếu phục vụ cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp

(cổ đông, nhà đầu tư, cơ quan
thuế, đối tác, ngân hàng…)
Đặc điểm của
thông tin
- Thông tin hướng tới tương lai,
hiện tại và rất linh hoạt; thường thể
hiện tính kịp thời, tốc độ để kịp đưa
ra các quyết định hàng ngày.
- Sử dụng nhiều loại thước đo (hiện
vật, giá trị, thời gian…), tuỳ theo
mục tiêu nghiên cứu và các quyết
định cụ thể mà coi trọng thước đo
nào.
- Mang tính sử dụng nội bộ doanh
nghiệp và thuộc về bí mật doanh
nghiệp. Tính bí mật phụ thuộc vào
tính chất của thông tin và vai trò
của từng cấp quản trị trong doanh
nghiệp.
- Thông tin thường phản ánh
quá khứ và tuân theo các
chuẩn mực, chế độ kế toán
hướng dẫn, mang tính chính
xác cao.
- Sử dụng thước đo giá trị là
cơ bản. Sản phẩm cuối cùng là
hệ thống báo cáo kế toán thể
hiện bằng thước đo giá trị.
- Mang tính công khai
Phạm vi thông

tin
- Chú trọng đến các bộ phận của
một tổ chức hơn là xem xét toàn bộ
doanh nghiệp.
- Trước hết liên hệ với các báo
cáo về hoạt động kinh doanh
trên toàn doanh nghiệp.
Kỳ báo cáo Linh động, phụ thuộc vào yêu cầu
của nhà quản trị (từng ngày, tuần,
Định kỳ: theo tháng, quý,
năm, theo chế độ quy định
tháng) do cần đảm bảo tính linh
hoạt và tốc độ.
Hình thức báo
cáo
Linh hoạt về cả số lượng, hình thức
mẫu biểu, quy cách và thời gian lập
tuỳ thuộc yêu cầu thu nhận thông
tin của các cấp quản lý và đặc điểm
hoạt động kinh doanh cụ thể của
doanh nghiệp.
Thống nhất về hình thức và
nội dung theo quy định. Các
chỉ tiêu được tính thống nhất
trong cả một kỳ hạch toán.
Tính pháp lệnh
Thông tin chỉ có ý nghĩa trong nội
bộ doanh nghiệp nên không có tính
pháp lệnh
Thông tin có tính pháp lệnh

cao do phục vụ cho bên ngoài
(cơ quan Nhà nước, Ngân
hàng…) và là căn cứ để xác
định nghĩa vụ nộp thuế cũng
như ra quyết định của các cơ
quan chức năng đối với doanh
nghiệp trong hoạt động kinh
doanh.
1.2. KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT
1.2.1. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của kế toán quản trị chi phí sản xuất
1.2.1.1. Khái niệm kế toán quản trị chi phí sản xuất.
Như đã phân tích ở trên, kế toán quản trị là một môn khoa học thu nhận, xử lý và
cung cấp thông tin định lượng kết hợp với định tính về các hoạt động của một đơn vị
cụ thể; các thông tin đó giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định liên quan
đến việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá tình hình thực hiện các
hoạt động của đơn vị.
Đối với chi phí sản xuất: dưới góc độ của kế toán tài chính, chi phí sản xuất là
những khoản phí tổn phát sinh gắn liền với hoạt động sản xuất trong một kỳ hạch toán,
có những khoản chi phí phát sinh của kỳ này nhưng không được tính vào chi phí trong
kỳ để xác định kết quả hoặc ngược lại, có những khoản chi phí chưa phát sinh ở kỳ này
nhưng đã được tính vào chi phí trong kỳ để xác định kết quả. Dưới góc độ của kế toán
quản trị, chi phí sản xuất được coi là những khoản phí tổn thực tế gắn liền với các
phương án, sản phẩm trong sản xuất; chi phí sản xuất mang tính cụ thể nhằm để xem
xét hiệu quả của các bộ phận sản xuất như thế nào, đó chính là cơ sở để đưa ra các
quyết định đầu tư, chọn phương án tối ưu.
Như vậy, kế toán quản trị chi phí sản xuất là một bộ phận của hệ thống thông tin
kế toán, nó thu nhận, xử lý, phân tích, đánh giá, tổng hợp và cung cấp thông tin định
tính và định lượng về những phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động sản xuất theo các
đối tượng phù hợp, từ đó giúp cho các nhà quản trị ra quyết định trong việc hoạch định,

tổ chức thực hiện, kiểm soát, đánh giá hệ thống để sử dụng có hiệu quả nguồn lực các
yếu tố đầu vào, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao giá trị doanh nghiệp.
1.2.1.2.Vai trò, nhiệm vụ của kế toán quản trị chi phí sản xuất.
Kế toán quản trị chi phí sản xuất có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí
trong các doanh nghiệp sản xuất. Vai trò thông tin kế toán quản trị chi phí sản xuất có
liên hệ chặt chẽ với các chức năng quản lý của nhà quản trị, giúp nhà quản trị ra quyết
định đảm bảo sự tồn tại, phát triển liên tục của doanh nghiệp và kiểm soát việc thực
hiện các quyết định đó.
Trước hết, trong xác định mục tiêu, kế toán quản trị chi phí sản xuất phải thiết lập
một hệ thống các chỉ tiêu sản xuất, mở tài khoản hàng hoá và chi phí, lập sổ sách chi
tiết và tổng hợp để ghi chép một cách có hệ thống hoạt động sản xuất. Ví dụ: phân loại
nguyên vật liệu theo sản phẩm sản xuất để ghi chép theo thời gian, theo đối tượng, khi
đó ta có thể phản ánh chính xác chi phí theo sản phẩm.
Thứ hai, trong lập kế hoạch, kế toán quản trị chi phí sản xuất tiến hành triển khai
lập các bản dự toán chung và dự toán chi tiết về tất cả các yếu tố phát sinh trong quá
trình sản xuất. Ví dụ: lập định mức tiêu thụ trên một sản phẩm, một giờ lao động… cho
các yếu tố thuộc chi phí biến đổi (tiêu hao nguyên vật liệu trực tiếp trên một sản phẩm,
tiêu hao nguyên vật liệu gián tiếp cho một sản phẩm, giờ công lao động trực tiếp trên
một sản phẩm…), và tổng chi phí dự kiến cho nhưng yếu tố thuộc chi phí cố định.
Thứ ba, trong tổ chức thực hiện, kế toán quản trị chi phí sản xuất thu thập kết quả
thực hiện trong thực tế quá trình sản xuất cả về số lượng và giá trị làm số liệu chi tiết
cho các báo cáo liên quan đến sản xuất cần lập.
Cuối cùng, trong kiểm tra và đánh giá, kế toán quản trị chi phí sản xuất tiến hành
tính toán các chỉ tiêu sản xuất theo yêu cầu quản trị nội bộ và tổng hợp thành các báo
cáo của các cấp quản trị khác nhau. Sau đó kiểm tra các thông tin trên các báo cáo sản
xuất, phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất và trợ giúp nhà quản lý đưa ra
quyết định phù hợp về sản xuất trong mối quan hệ với các phòng ban hành chính và
marketing.
1.2.2. Nội dung kế toán quản trị chi phí sản xuất trong doanh nghiệp.
1.2.2.1. Phân loại chi phí sản xuất

Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản lý doanh nghiệp là
các thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi
nhuận. Do vậy, các nhà quản lý cần phải kiểm soát chặt chẽ chi phí của doanh nghiệp,
trong đó không thể không kể đến chi phí sản xuất. Trong kế toán quản trị, chi phí sản
xuất được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, mỗi tiêu thức phân loại đều có ý
nghĩa đối với các nhà quản trị trong quá trình kiểm soát các loại chi phí nói chung và
chi phí sản xuất nói riêng. Mặt khác, các tiêu thức phân loại chi phí còn có ý nghĩa
cung cấp thông tin cho mọi đối tượng bên ngoài nhằm đạt được các mục tiêu khác
nhau. Có năm cách phân loại chi phí, đó là: Phân loại chi phí theo chức năng, theo mối
quan hệ với mức độ hoạt động, theo khả năng quy nạp, theo tính liên quan, theo khả
năng kiểm soát.
a. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Việc phân loại chi phí theo chức năng hoạt động để phục vụ hai mục đích chính.
Thứ nhất là để xác định vai trò, chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp. Thứ hai là để cung cấp thông tin có tính
hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính. Theo chức năng hoạt động, chi phí được
chia thành hai loại: Chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
* Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là các khoản chi phí phát sinh trong phạm vi sản xuất của doanh
nghiệp (phân xưởng, tổ, đội…). Chi phí sản xuất là sự tiêu hao của các yếu tố sản xuất
như lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và các chi phí khác để tạo ra giá thành
của sản phẩm hay dịch vụ trong kỳ. Chi phí sản xuất thường được chia thành ba khoản
mục cơ bản:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là các khoản chi về các loại vật liệu mà có thể
tập hợp thẳng cho các đối tượng chịu chi phí. Đặc điểm của chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp thường mang tính chất biến phí, nó cấu thành nên thực thể của sản phẩm,
chiếm tỉ trọng khá cao trong chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Thông thường, chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp có thể định mức cho một đơn vị sản phẩm vừa là cơ sở xây
dựng dự toán, vừa là cơ sở để kiểm soát chi phí.
Ngoài nguyên vật liệu chính, việc sản xuất sản phẩm cũng thường cần có các chi

phí của nguyên vật liệu gián tiếp. Nguyên vật liệu gián tiếp (hay vật liệu phụ) là những
nguyên vật liệu có tham gia vào việc cấu thành thực thể của sản phẩm nhưng có giá trị
nhỏ và không thể xác định được cụ thể, rõ ràng cho từng sản phẩm (keo dán cho sản
phẩm, đinh, ốc vít…) hoặc là những loại vật liệu được dùng kết hợp với nguyên vật
liệu chính nhằm tăng thêm chất lượng, vẻ đẹp vủa sản phẩm hoặc để tạo điều kiện cho
quá trình sản xuất được thuận lợi (chất xúc tác, dầu mỡ…) hoặc nhiên liệu.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể xác định cho từng đơn vị sản phẩm nên
được tính thẳng vào từng đơn vị sản phẩm. chi phí nguyên vật liệu gián tiếp không thể
xác định tách biệt cho từng đơn vị sản phẩm nên phải đưa vào chi phí sản xuất chung
rồi phân bổ sau.
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm các khoản tiền lương, phụ cấp và các
khoản trích theo lương, tiền ăn ca… của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm. Khoản
mục chi phí này thường mang tính chất biến phí, thường xây dựng định mức cho một
đơn vị sản phẩm nhằm góp phần kiểm soát chi phí, xây dựng hệ thống dự toán chi phí.
Ngoài nhân công trực tiếp còn có nhân công gián tiếp không trực tiếp tạo ra sản
phẩm nhưng cần thiết cho quá trình sản xuất của nhân công trực tiếp (quản đốc phân
xưởng, nhân viên bảo trì máy…). Chi phí thanh toán cho nhân công gián tiếp không
thể phân bổ cho bất kỳ sản phẩm cá biệt nào nên phải đưa vào chi phí sản xuất chung
để phân bổ sau.
Ngoài ra, trong cơ cấu chi phí nhân công, còn có các khoản mục chi phí như: chi
phí của thời gian ngừng sản xuất, chi phí phụ trội (làm thêm trong điều kiện sản xuất
bình thường hoặc để bù đắp thời gian ngừng sản xuất) thường được đưa vào chi phí sản
xuất chung dù nó liên quan đến lao động trực tiếp.
- Chi phí sản xuất chung: là phần chi phí sản xuất không thể xác định trực tiếp
cho từng sản phẩm. Trong thực tế quá trình sản xuất, chi phí sản xuất chung thường
bao gồm các yếu tố sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp
+ Chi phí công cụ, dụng cụ phục vụ phân xưởng và đội sản xuất.
+ Chi phí nhân công gián tiếp: tiền lương, phụ cấp, các khoản trích theo lương và
những chi phí khác phải trả cho quản lý phân xưởng ( quản đốc, phó quản đốc, đội

trưởng…) hoặc các nhân viên của các bộ phận không tham gia vào quá trình trực tiếp
tạo nên sản phẩm.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định phục vụ quá trình sản xuất. Thời gian khấu hao
của tài sản cố định phụ thuộc vào đặc điểm của tài sản, thông thường, các máy móc có
công nghệ biến đổi nhanh thường áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần, các tài sản
cố định như nhà xưởng thường áp dụng phương pháp khấu hao bình quân.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài (tiền điện, tiền nước…) phục vụ quá trình sản xuất
+ Chi phí khác liên quan đến quá trình sản xuất: thiệt hại trong sản xuất…
Chi phí sản xuất chung có bốn đặc điểm: Thứ nhất, bao gồm nhiều khoản mục chi
phí khác nhau; thứ hai, các khoản mục thuộc chi phí sản xuất chung đều có tính gián
tiếp với từng đơn vị sản phẩm, nên không thể tính thẳng vào sản phẩm; thứ ba, cơ cấu
chi phí sản xuất chung gồm cả biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp; thứ tư, do gồm
nhiều khoản mục chi phí nên chúng được nhiều bộ phận khác nhau quản lý và rất khó
kiểm soát.
* Chi phí ngoài sản xuất
Để tổ chức và thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp còn phải thực hiện
một số khoản chi phí ở khâu ngoài sản xuất được gọi là chi phí ngoài sản xuất. Chi phí
ngoài sản xuất gồm hai loại: chi phí bàn hang và chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Chi phí bán hàng: là các khoản chi phí phục vụ cho việc tiêu thụ hàng hoá, sản
phẩm của các tổ chức hoạt động kinh doanh. Chi phí này gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố
thường bao gồm cả định phí và biến phí. Chi phí bán hàng thường gồm: chi phí nhân
viên bán hàng (lương, tiền thưởng, phụ cấp, các khoản trích theo lương của nhân viên
bán hàng); chi phí vật liệu phụ cho bán hàng (văn phòng phẩm, bao gói sản phẩm); chi
phí công cụ dụng cụ phục vụ cho bán hàng (dụng cụ quầy hàng, tủ hàng…); chi phí
khấu hao tài sản cố định phục vụ bán hàng; chi phí mua ngoài (tiền điện, nước, dịch vụ
quảng cáo, tiếp thị…) và các chi phí khác (tiếp khách, hoa hồng cho khách…)
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là các khoản chi phí điều hành, tổ chức và phục
vụ hành chính. Chi phí này cũng bao gồm nhiều yếu tố cả định phí và biến phí. Do đó
các nhà quản trị muốn kiểm soát các yếu tố chi phí cũng cần kiểm soát trên hai bộ phận
là định phí và biến phí. Chi phí quản lý doanh nghiệp gồm: chi phí nhân viên bộ máy

điều hành, chi phí vật liệu cho quản lý, chi phí công cụ cho quản lý, chi phí khấu hao
tài sản cố định, chi phí mua ngoài cho quản lý và chi phí khác. Xét theo mối quan hệ
với đối tượng chịu chi phí, thông thường chi phí ngoài sản xuất thường được coi là chi
phí gián tiếp.
* Ngoài ra, trong kế toán quản trị, chi phí còn được phân thành chi phí sản phẩm
và chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm: gồm những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất
ra hoặc mua vào để bán lại. Đối với doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản phẩm gồm chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Như vậy, chi phí sản phẩm cũng chính là chi phí sản xuất.
- Chi phí thời kỳ: gồm những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán. Chúng
không phải là những chi phí tạo thành thực thể sản phẩm hay nằm trong các yếu tố cấu
thành giá vốn hàng hoá mua vào, chúng gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp. Như vậy, chi phí thời kỳ cũng chính là chi phí ngoài sản xuất.
b. Phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động (theo cách ứng xử
của phí)
Xét theo cách ứng xử của phí, chi phí được phân thành ba loại: biến phí, định phí
và chi phí hỗn hợp. Việc phân loại chi phí theo cách này có những ý nghĩa quan trọng
đối với các nhà quản trị như sau:
- Phân loại chi phí thành biến phí và định phí góp phần cho các nhà quản trị
doanh nghiệp hiểu đúng bản chất sự vận động của các yếu tố chi phí, từ đó góp phần
kiểm soát các khoản chi theo các tính chất biến phí và định phí.
- Xây dựng Báo cáo kết quả kinh doanh theo cách ứng xử của phí, Báo cáo kết
quả kinh doanh theo các bộ phận nhằm phân tích và đánh giá hiệu quả của từng bộ
phận để đưa ra các quyết định điều hành những hoạt động hàng ngày.
- Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, sản lượng sản phẩm sản xuất, tiêu thụ và lợi
nhuận của các tổ chức hoạt động. Thông tin từ kết quả phân tích để đưa ra các quyết
định đầu tư, lựa chọn các sản phẩm sản xuất và tiêu thụ nhằm đạt các mục tiêu tối đa
cho doanh nghiệp.
* Biến phí (chi phí biến đổi): là các khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ với kết quả sản

xuất hay quy mô hoạt động. Biến phí thường có hai đặc điểm sau: Thứ nhất, biến phí
tính cho một đơn vị sản phẩm thường không thay đổi. Xét theo tổng quy mô hoạt động
thì biến phí thay đổi và khi đó tổng chi phí biến đổi của hoạt động thường tỷ lệ với kết
quả sản xuất, nếu doanh nghiệp không hoạt động thì biến phí không phát sinh. Dựa vào
đặc điểm này, các nhà quản trị xây dựng định mức biến phí để kiểm soát các khoản chi
phí. Thứ hai, biến phí của doanh nghiệp có nhiều loại khác nhau, nếu chia theo tính
chất tác động, biến phí gồm hai loại cơ bản là biến phí tỷ lệ và biến phí cấp bậc. Biến
phí tỷ lệ là biến phí hoàn toàn tỷ lệ thuận với kết quả sản xuất hoặc quy mô hoạt động.
biến phí cấp bậc là biến phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ
ràng ( ví dụ như chi phí bảo dưỡng máy móc…).
Biến phí sẽ biến đổi theo căn cứ được xem là nguyên nhân phát sinh ra chi phí đó
– thường được gọi là hoạt động căn cứ. Các hoạt động căn cứ thường được dùng gồm:
Sản lượng sản xuất; số giờ máy hoạt động; số giờ lao động trực tiếp; số km vận
chuyển; mức tiêu thụ sản phẩm; diện tích gieo trồng…. Tuỳ theo từng loại chi phí cụ
thể phát sinh trong doanh nghiệp, nhà quản trị cần xác định được hoạt động căn cứ của
từng loại chi phí để có thể xây dựng hệ thống định mức cũng như kiểm soát tốt nhất chi
phí phát sinh.
Đặc điểm của biến phí được minh hoạ theo hai đồ thị dưới đây
chi
phí
chi
phí
biến
phí
cấp
bậc
biến phí tỷ lệ
mức độ hoạt động mức độ hoạt động
Sơ đồ 1.1 Đồ thị minh hoạ biến phí.
* Định phí (chi phí cố định): là những khoản chi phí không thay đổi trong giới

hạn của quy mô hoạt động. Giới hạn của quy mô hoạt động là phạm vi giữa khối lượng
sản phẩm tối thiểu và khối lượng sản phẩm tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất.
Trong thực tế, chi phí cố định thường phức tạp hơn chi phí biến đổi vì nó phụ thuộc
vào giới hạn của quy mô hoạt động. Khi giới hạn của quy mô hoạt động thay đổi thì
định phí chuyển sang một lượng khác – chính là sự biến đổi lượng, chất trong quá trình
biến đổi kinh tế.
Định phí thường có hai đặc điểm sau: Thứ nhất, xét trong tổng thể giới hạn của
quy mô hoạt động thì định phí thường không thay đổi, tức là định phí tính cho một đơn
vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng sản phẩm sản xuất thay đổi. Nếu muốn định phí
trên một đơn vị sản phẩm thấp nhất thì cần khai thác tối đa công suất của các tài sản
tạo ra định phí đó. Thứ hai, định phí trong doanh nghiệp cũng đa dạng, có thể chia
thành hai dạng cơ bản là định phí bộ phận và định phí chung. Định phí bộ phận thường
gắn với sự tồn tại và phát sinh của các bộ phận trong một tổ chức hoạt động. Khi bộ
phận trong tổ chức hoạt động không tồn tại thì định phí đó cũng không tồn tại. Định
phí chung (định phí bắt buộc) là định phí liên quan đến cơ sở hạ tầng của một doanh
nghiệp, do vậy khi một bộ phận trong tổ chức không tồn tại thì định phí chung vẫn phát
sinh ( ví dụ: tiền thuê văn phòng, chi phí quảng cáo thương hiệu công ty…)
Định phí có thể được minh hoạ theo hai đồ thị dưới đây
Sơ đồ 1.2 Đồ thị minh hoạ định phí
* Chi phí hỗn hợp: là các khoản chi phí bao gồm cả biến phí và định phí. Thông
thường, ở mức độ hoạt động căn bản thì chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của
định phí, khi vượt khỏi mức độ hoạt động căn bản thì nó lại thể hiện đặc tính của biến
phí. Trong chi phí sản xuất, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực
tiếp là biến phí, còn chi phí sản xuất chung mang đặc điểm chi phí hỗn hợp.
Chi phí hỗn hợp thường khó kiểm soát, trong thực tế các nhà quản trị muốn kiểm
soát nó cần phải xác định quy mô hoạt động của doanh nghiệp và sử dụng các phương
pháp tách chi phí hỗn hợp thành hai bộ phận là biến phí và định phí. Nếu việc phân
tách này được thực hiện một cách cẩn thận thì sẽ cho phép dự đoán khá chính xác chi
phí hỗn hợp sẽ phát sinh trong điều kiện cụ thể. Các phương pháp thường được sử
dụng để phân tách chi phí hỗn hợp là: phương pháp cực đại – cực tiểu, phương pháp

bình phương bé nhất, phương pháp hồi quy bội, phương pháp đồ thị phân tán và các
phương pháp khác.
- Phương pháp cực đại – cực tiểu:
Thực chất của phương pháp này là quan sát mức độ cao nhất và thấp nhất của chi
phí hỗn hợp gắn với quy mô hoạt động, từ đó bộ phận biến phí được xác định bằng
cách lấy chênh lệch chi phí ở mức độ hoạt động cao nhất và thấp nhất chia cho chênh
lệch của mức độ hoạt động ở hai điểm này.
Biến phí 1 đơn vị sản phẩm =
Từ đó tính ra tổng định phí bằng cách lấy tổng chi phí hỗn hợp (ở mức độ hoạt
động cao nhất hoặc thấp nhất) trừ đi tổng biến phí.
Tổng định phí = Tổng chi phí – Tổng biến phí
Và xây dựng phương trình dự đoán chi phí hỗn hợp có dạng:
= a + b.x
Trong đó: a là định phí
b là biến phí 1 đơn vị sản phẩm
x là quy mô hoạt động của doanh nghiệp
Phương pháp này có ưu điểm là công việc tính toán đơn giản, song độ chính xác
chưa cao khi dự đoán chi phí hỗn hợp ngoài phạm vi hoạt động của quy mô xác định.
- Phương pháp bình phương bé nhất: dựa trên sự biến thiên của hàm chi phí tuyến
tính có dạng: Y = a + b.x
Trong đó: a là định phí
b là biến phí 1 đơn vị sản phẩm
x là quy mô hoạt động của doanh nghiệp
Từ phương trình tuyến tính căn bản này với n phần tử nghiên cứu ta xây dựng hệ
phương trình bậc nhất có hai ẩn số là a và b
Sử dụng phương pháp bình phương bé nhất để tách định phí và biến phí trong chi
phí hỗn hợp cho kết quả chính xác hơn phương pháp cực đại – cực tiểu vì nó sử dụng
phân tích thống kê để xác định đường hồi quy cho các điểm, tuy nhiên công việc tính
toán lại phức tạp hơn.
- Phương pháp hồi quy bội: dựa trên cơ sở hàm hồi quy bội có dạng tổng quát:

Y = a + + + … +
Trong đó: X1, X2… là các biến số độc lập (quy mô hoạt động doanh nghiệp)
b1, b2… là các hệ số biến phí trong chi phí hỗn hợp
a là định phí
Y là hàm chi phí hỗn hợp cần dự đoán.
Trong thực tế, các hoạt động kinh doanh có nhiều loại chi phí hỗn hợp phụ thuộc
vào các yếu tố khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp. Do vậy để
phân tách chi phí hỗn hợp, ta áp dụng phương pháp hồi quy bội.
- Phương pháp đồ thị phân tán: Phương pháp này cần phải nghiên cứu quan hệ
giữa chi phí hỗn hợp với quy mô hoạt động trong các kỳ khác nhau, từ đó minh hoạ các
kết quả trên đồ thị để xác định phương trình dự đoán chi phí có dạng Y = a + bX. Quá
trình thực hiện theo các bước sau:
+ Vẽ trục Oy biểu diễn chi phí hỗn hợp; trục Ox biểu diễn mức độ hoạt động.
+ Căn cứ vào n phần tử quan sát thực nghiệm thống kê, vẽ các điểm trên đồ thị
biểu diễn hoạt động tạo ra chi phí hỗn hợp tương ứng.
+ Dựng một đường thẳng nằm giữa các điểm đã vẽ ở bước trên. Đường này cắt
Oy tại điểm a – là định phí của hoạt động.
+ Xác định biến phí thông qua phương trình b = ( Y – a ) / x
c. Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp vào đối tượng chịu phí
Căn cứ theo khả năng quy nạp vào đối tượng chịu phí, chi phí chia thành hai
dạng: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
* Chi phí trực tiếp: là chi phí mà kế toán có thể xác định trực tiếp cho đối tượng
chịu chi phí một cách dễ dàng và thuận tiện. Một đối tượng chịu chi phí mà có tỷ trọng
chi phí trực tiếp cao thì độ chính xác của chỉ tiêu giá thành sản phẩm, kết quả kinh
doanh của các đối tượng càng cao.
* Chi phí gián tiếp: là chi phí không thể xác định trực tiếp cho đối tượng chịu chi
phí một cách dễ dàng và thuận tiện, do vậy đối với từng yếu tố chi phí gián tiếp, kế
toán phải tiền hành phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí. Độ chính xác của chi phí
gián tiếp cần phân bổ còn phụ thuộc vào tiêu thức phân bổ, tiêu thức phân bổ phù hợp
là tiêu thức đáp ứng được ba yêu cầu sau: Thuận tiện cho việc tính toán, thống nhất cả

kỳ hạch toán, và có tính đại diện cao cho chi phí gián tiếp cần phân bổ.
d. Phân loại chi phí theo tính liên quan
Căn cứ theo sự ảnh hưởng tới việc lựa chọn các phương án, chi phí được chia
thành ba loại: chi phí chênh lệch, chi phí chìm và chi phí cơ hội.
* Chi phí chìm: là khoản chi phí mà doanh nghiệp vẫn phải chịu mặc dù các nhà
quản trị chọn bất kỳ phương án kinh doanh nào. Nó thường là chi phí đã phát sinh
trong quá khứ và không bị ảnh hưởng bởi các phương án hoạt động trong hiện tại cũng
như trong tương lai.
* Chi phí cơ hội: Trong thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp hầu như các
khoản chi phí phát sinh đều được ghi nhận vào hệ thống sổ kế toán. Tuy nhiên có
những loại chi phí rất quan trọng thường tồn tại nhưng không được ghi vào sổ kế toán
– đó chính là chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là phần lợi nhuận tiềm năng bị từ bỏ khi lựa
chọn một phương án thay vì phương án khác.
* Chi phí chênh lệch: Trong kinh doanh, mọi quyết định đều liên quan đến ít nhất
hai phương án lựa chọn. Chi phí chênh lệch là chi phí khác nhau giữa hai phương án và
chỉ chi phí chênh lệch mới liên quan đến việc lựa chọn các phương án.
e. Phân loại chi phí theo khả năng kiểm soát
Căn cứ theo mối quan hệ của chi phí với mức độ kiểm soát của các nhà quản trị,
chi phí được chia thành hai dạng: chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát
được.
* Chi phí kiểm soát được: là khoản chi phí mà nhà quản trị có quyền quyết định
hoặc nhà quản trị có ảnh hưởng đáng kể tới mức độ phát sinh chi phí.
* Chi phí không kiểm soát được: là những chi phí mà nhà quản trị không có
quyền quyết định hoặc nhà quản trị có ảnh hưởng không đáng kể tới mức độ phát sinh
chi phí.
1.2.2.2. Các phương pháp xác định chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ
Xác định chi phí sản xuất có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà quản trị trong
việc đưa ra mọi quyết định kinh doanh. Mục đích xác định chi phí là để cung cấp thông
tin về giá thành đơn vị sản phẩm, dịch vụ cần thiết cho nhà quản trị để điều hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh như:

- Định giá bán sản phẩm cho phù hợp với thị trường nhằm tối đa hoá lợi nhuận và
đảm bảo được sự cạnh tranh phát triển bền vững
- Định giá hàng tồn kho cuối kỳ có căn cứ để lập kế hoạch thu mua hàng tồn kho
cho phù hợp.
- Xác định kết quả tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và kết quả kinh doanh trong các bộ
phận và toàn doanh nghiệp một cách chính xác.
- Ứng xử các tình huống và đưa ra quyết định hàng ngày.
Trong thực tế, các doanh nghiệp thường vận dụng một trong hai phương pháp xác
định chi phí: phương pháp xác định chi phí theo công việc (đơn đặt hàng) và phương
pháp xác định chi phí theo quá trình sản xuất (công nghệ)
a. Phương pháp xác định chi phí theo công việc (đơn đặt hàng)
Phương pháp này ghi chép lại một cách chi tiết thông tin của từng sản phẩm riêng
biệt hoặc từng nhóm nhỏ sản phẩm tương tự nhau. Phương pháp này áp dụng cho
những sản phẩm có bốn đặc điểm dưới đây:
- Sản phẩm mang tính đơn chiếc do sản xuất theo đơn đặt hàng
- Sản phẩm thường có giá trị cao
- Giá bán sản phẩm được xác định trước khi sản xuất theo hợp đồng đã ký kết
- Sản phẩm thường có kích thước lớn, gắn liền với các yêu cầu kỹ thuật, tính thẩm
mỹ và thường thông qua bản thiết kế kỹ thuật, dự toán chi phí.
* Nội dung phương pháp xác định chi phí theo công việc:
Để tập hợp chính xác và đúng đối tượng chi phí theo công việc, hệ thống kế toán
cần phải phản ánh những hoạt động của doanh nghiệp theo từng đơn đặt hàng, đó là
- Khách hàng đặt hàng và nêu rõ yêu cầu về sản phẩm mong muốn
- Doanh nghiệp đánh giá đơn đặt hàng để xác định giá bán cho sản phẩm trong
đơn đặt hàng. Căn cứ vào yêu cầu của khách hàng, tính toán chi phí dự toán cho việc
hạch toán từng đơn đặt hàng.
- Cộng dự toán vừa tính với số lãi mong muốn để tính ra giá bán cho sản phẩm
trong đơn đặt hàng,.
- Doanh nghiệp thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng, kế toán tập hợp chi phí theo
từng đơn đặt hàng trong khi sản xuất.

Quá trình vận động của chứng từ được khái quát theo sơ đồ sau:

×