Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Phong trào thơ mới để thể nghiệm trong quá trình định hướng khai thác bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.41 KB, 30 trang )

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
A. MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong chương trình ngữ văn ở bậc THCS, học sinh được tiếp cận nhiều
tác phẩm thơ (Dân gian, Trung đại, Hiện đại). Chúng ta biết rằng phương
thức chủ yếu của thơ là phương trữ tình, nếu văn xuôi phản ánh cuộc sống
qua cốt truyện và nhân vật, thì thơ phản ánh những vấn đề xã hội thông qua
đời sống tâm thế của người nghệ sỹ - qua cảm xúc của nhà thơ. Vậy, giảng
dạy một tác phẩm thơ, giáo viên không có con đường nào khác là phải tiếp
cận với cách cảm, cách nghĩ, cách giải quyết cuộc sống thông qua cảm
hứng chủ đạo của nhà thơ thể hiện một cách sáng tạo trong từng tác phẩm.
Rõ ràng, trách nhiệm của giáo viên Ngữ văn từ cách cảm, cách nghĩ của
mình mà định hướng giúp học sinh vừa thẩm nhận giá trị thẩm mỹ vừa thu
hoạch lí tưởng nhân văn của tác giả. Qua đó giúp các em đồng sáng tạo với
người nghệ sỹ để các em trải qua một qui trình tự nhận thức để hướng
thiện, hướng mỹ trong quá trình thu gom hành trang cuộc sống.
Nhà thơ Vũ Đình Liên xuất hiện trong thời kì đầu của phong trào Thơ
mới bên cạnh những tác giả có tên tuổi khai sáng như: Thế Lữ, Lưu Trọng
Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp…. Bài thơ “Ông đồ” là tác phẩm đặc
sắc nhất trong sự nghiệp sáng tạo thi ca của Vũ Đình Liên. Ngay từ khi ra
đời tác phẩm được hai nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân
đánh giá là “bài thơ kiệt tác”.
Trong chương trình Ngữ văn 8 cả cũ và mới đều đưa bài thơ “Ông đồ”
vào chương trình chính khóa vừa thấy được vai trò cũng như giá trị giáo
dục, giáo dưỡng của bài thơ trong chương trình cấp học. Trong bài thơ với
một tấm lòng giàu trắc ẩn, nhà thơ đã nhận ra một sự thật là phần đông các
nhà nho còn sót lại chỉ đáng thương (Nhà thơ từng tâm sự khi viết về bài
thơ này: hình tượng ông đồ “chính là cái di tích tiều tụy của một thời tàn”)
và gián tiếp Vũ Đình Liên chỉ cho ta thái độ hợp lí hơn đối với một lớp
người trí thức đi trước. Bài thơ được xem là một nghĩa cử. Đưa bài thơ vào
1


Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
chương trình cấp học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc: thông qua hình tượng
ông đồ nhắc nhủ học sinh có thái độ ứng xử đúng đắn với nhà nho, đạo
Nho và rộng hơn là với nền văn hóa của dân tộc đồng thời bồi dưỡng tâm
hồn các em về tình nhân ái cao đẹp.
Điều đáng quan tâm bài thơ “Ông đồ” là một bài thơ trữ tình sâu sắc,
giàu sức ám ảnh nhưng lại là một bài dạy khó. Bởi, những vấn đề trong bài
thơ không gần gũi, thậm chí xa lạ với học sinh thời nay. Hơn thế, bài thơ
có sự dồn nén về ngôn từ, lẫn tứ thơ, có rất nhiều khoảng lặng, gợi ra nhiều
cách hiểu. Nên khi giáo viên tiếp cận với bài thơ để tìm một mạch đi đúng
quả là một thách thức.
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn đó, tôi nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, đặt
tác phẩm trong quá trình sáng tác của tác giả, đặt tác giả trong thi pháp
chung của trào lưu lãng mạn mà cụ thể là: “Phong trào Thơ mới để thể
nghiệm trong quá trình định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của Vũ
Đình Liên.”
2
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
B.NỘI DUNG:
I. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY
1. Khảo sát yêu cầu và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo
viên của lớp 8 cũ và mới:
Sự gợi ý và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên cũ và mới
đều có chung một quan điểm:
+ 4 khổ thơ đầu của bài thơ đều miêu tả hình ảnh ông đồ ngồi viết câu
đối bán trên hè phố ngày Tết qua cảm nhận của nhà thơ, nhưng ông đồ ở 2
khổ đầu và hình ảnh ông đồ ở 2 khổ sau là hai số phận, hai tâm trạng hoàn
toàn khác nhau:
- Hai khổ thơ đầu là hình ảnh ông đồ trong thời đắc ý của mình. Tết
đến hoa đào nở lại thấy ông đồ cùng mực tàu, giấy đỏ bên hè phố, góp mặt

vào sự đông vui, náo nhiệt của phố phường. Ông trở thành trung tâm của
mọi sự chú ý, là đối tượng của sự ngưỡng mộ của mọi người.
- Hai khổ thơ tiếp theo: hình ảnh ông đồ thời tàn. Vẫn là hình ảnh
ông đồ với mực tàu giấy đỏ bên hè phố ngày Tết, nhưng tất cả đã khác xưa.
Đường phố vẫn đông người qua nhưng không ai biết đến sự có mặt của
ông. Ông vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt với cuộc đời nhưng
cuộc đời thì đã quên hẳn ông.
+ Qua sự tương phản giữa hai cảnh tượng cùng miêu tả ông đồ ngồi viết
câu đối ngày Tết và khổ cuối để thấy rõ tâm tư của nhà thơ: Tâm tư ấy
được bộc lộ kín đáo qua những chi tiết miêu tả, nhưng có khi được nhà thơ
trực tiếp phát biểu ( 2 câu thơ kết). Đó là niềm thương cảm chân thành đối
với hoàn cảnh ông đồ đang tàn tạ trước sự thay đổi của thời cuộc, đồng
thời đó còn là niềm nhớ nhung luyến tiếc trước những cảnh cũ người nay
đã vắng bóng của nhà thơ.
Như vậy, theo định hướng của sách giáo viên văn 8 (cũ và mới) đều tập
trung phân tích hình tượng ông đồ qua cảm nhận của nhà thơ để từ đó thấy
3
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
rõ tâm tư, tình cảm của Vũ Đình Liên trước thân phận con người và sự đổi
thay của thời cuộc. Đó là một định hướng đúng.
Song, cách hiểu hình ảnh ông đồ trong hai khổ đầu là thời kì đắc ý của
ông đồ e là chưa thỏa đáng. Bởi, hình tượng ông đồ trong bài thơ ngay từ
đầu đã là “di tích của một thời tàn”. Sự xuất hiện của ông đồ đã gắn với
một thời điểm: thời điểm ông đi viết thuê, những nét chữ “phượng múa
rồng bay” kia là để bày bán trên hè phố. Và qua hình tượng ông đồ trong
bài thơ, nhà thơ không chỉ thể hiện niềm thương cảm cho số phận bất hạnh
của một kiếp người mà còn là nỗi niềm hoài cổ lắng sâu. Trong những vui
buồn, được mất của đời sống dân tộc, niềm tiếc thương cho những giá trị
tinh thần của một thời vẫn là những ám ảnh day dứt với tất cả những tấm
lòng biết trân trọng nhữnh giá trị tinh hoa của dân tộc. Do vậy, bài thơ “

Ông đồ” rung cảm sâu xa tâm hồn bao bạn đọc bởi nó gắn liền với một lớp
người đáng kính, với một nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều thế hệ
người Việt. Như vậy, khi nhắc đến hình ảnh ông đồ là “đánh động trong
chúng ta nỗi buồn hoài cổ, sự tiếc nuối quá khứ vàng son, lòng thương xót
số phận hẩm hiu của những nhà nho…Nó chứa đựng cả một hệ vấn đề: bi
kịch của sự gặp gỡ Đông-Tây, sự suy vong và cáo chung của một thời đại,
sự biến mất vĩnh viễn của một lớp người”.
Như vậy, định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của sách giáo viên
chưa thể hiện rõ mạch cảm xúc của chủ thể trữ tình và dường như là giảm
đi sức ngân vang của thi phẩm trong lòng người đọc.
2. Thực tiễn dạy học của giáo viên
Tuy định hướng chưa thật thỏa đáng như đã nói ở trên, nhưng trong
cách trình bày của sách giáo viên đã có sự gợi ý khá chi tiết, đầy đủ, tạo hệ
thống mạch đi rõ, cộng với quan niệm của đa số giáo viên: sách giáo viên
bao giờ cũng đúng và chuẩn do vậy giáo viên chủ yếu dựa vào định hướng
khai thác và sự gợi ý ấy để tìm hiểu tác phẩm mà chưa có sự trăn trở nhiều
để tìm ra một hướng đi thích hợp cho bài dạy của mình. Chính vì lệ thuộc
vào những gợi ý và định hướng khai thác của sách giáo viên nên giáo viên
4
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
trực tiếp giảng dạy chưa chủ động đặt ra nhiều suy nghĩ: ông đồ trong bài
thơ biểu tượng cho điều gì? Sự thất thế tàn lụi của ông đồ nêu vấn đề gì?
Để từ đó thẩm thấu sâu sắc tình cảm và nỗi lòng của Vũ Đình Liên kí thác
trong bài thơ. Hơn nữa, điều đáng chú ý là bài thơ là tiếng lòng của một
người thuộc thế hệ trí thức Tây học trẻ tuổi ( Vũ Đình Liên sinh năm 1913,
làm bài thơ này khi mới 23 tuổi – khi đang còn rất trẻ, chưa có nhiều trải
nghiệm) đang lặng lẽ xót xa để viết, để ngậm ngùi, thương cảm trước “cái
cảnh thương tâm của một nền nho học lúc mạt vận”.
II.TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY BÀI THƠ “ÔNG ĐỒ”
1. Phần chuẩn bị

a. Một số yếu tố ngoài văn bản giáo viên cần nghiên cứu để hỗ trợ cho
bài giảng
* Vài nét về phong trào thơ mới:
(1) Thơ mới thuộc trào lưu văn học lãng mạn 30 -45 (Ở giao đoạn này có
sự phát triển của nhóm Tự lực văn đoàn chuyên viết văn xuôi và phong
trào thơ mới)
(2) Về khái niệm thơ mới:
+ Đây là khái niệm có tính chất qui ước do Phan Khôi dùng đầu tiên trong
bài viết “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” (năm 1932). Trong bài
viết này Phan Khôi dùng khái niệm thơ mới để đối lập với thơ cũ.
+ Khái niệm thơ mới gắn với phong trào thơ mới – buổi bình minh của thơ
ca Việt Nam hiện đại.
+ Thơ mới là cuộc cách mạng về thơ ca. Cuộc cách mạng này không chỉ là
nội dung hay hình thức mà gồm cả hai gắn bó mật thiết với nhau “Thơ ta
phải mới, mới về văn thể, về ý tưởng”.
+ Thơ mới là một bước phát triển quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại
hóa nền văn học Việt Nam.
(3) Đặc điểm của thơ mới:
(a) Về nội dung cảm hứng:
5
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
+ Thơ mới là tiếng nói khẳng định của cái tôi cá nhân, cá thể. Cái tôi
được đưa lên bình diện đầu tiên – Cái tôi giàu khát vọng: khát vọng khẳng
định bản thân trong đời sống, khát vọng về một thế giới ước mơ lí tưởng.
Trước hết trong những bài thơ của thơ mới đã bộc lộ khát vọng được
sống là mình – một khát vọng rất nhân bản. Thơ mới là một cuộc đi tìm mình
do vậy trong những bài thơ mới xuất hiện nhiều định nghĩa về cái tôi “Tôi là
người bộ hành phiêu lãng/ đường trần gian xuôi ngược để vui chơi”, “Ta là
một là riêng là thứ nhất/Chẳng có ai bè bạn nổi cùng ta”…Chính lúc cái tôi
được giải phóng, nó có quyền lựa chọn và tự lựa chọn. Lúc ấy con người được

tự do phơi trải lòng mình, nói cho hết nói cho nhiều mong một sự cảm thông
bù đắp Do vậy âm điệu buồn tràn ngập các bài thơ. Đó là cái buồn của thế hệ
trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ đang loay hoay với cái tôi bản ngã, thấy mình
cô đơn, buồn đau, bất lực. Với những thất vọng cô đơn buồn đau ấy, cái tôi
thoát li thực tại tìm đến thế giới ước mơ của cái đẹp. Những tâm hồn lãng mạn
chạy trốn cuộc đời đã tìm vào cõi tiên , thoát li vào tình yêu, thiên nhiên hay
vào tôn giáo. Giấc mộng thoát li ấy vừa cho ta thấy được vẻ đẹp của tâm hồn
lãng mạn vừa hiểu hơn về tâm sự nỗi lòng của những trí thức tiểu tư sản trong
cảnh nước mất nhà tan.
Chính sự xuất hiện của cái tôi cá nhân đã làm nên cái mới của thơ ca
lãng mạn“với dáng dấp mới, nhịp đập mới, sinh khí mới, thơ mới đã trả lại
linh hồn và sức sống cho thơ ca”.
+ Như vậy, với sự khẳng định của cái tôi cá nhân thơ mới đã thể hiện
được khát khao dân chủ của thời đại
Bên cạnh đó Thơ mới còn thể hiện tinh thần dân tộc kín đáo nhưng sâu
sắc (Yêu Tiếng Việt, yêu quê hương đất nước, yêu những phong tục tập quán,
nhớ tiếc thời vàng son của dân tộc…)
Thơ mới còn bày tỏ lòng yêu thương những số phận vất vả, tình cảm xót
xa trước những biến đổi của cuộc đời… để rồi tự cảm thương mình. Và thể
hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với cuộc đời.
(b) Về hình thức nghệ thuật:
6
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
+ Phương thức trữ tình: trong thơ mới là cái tôi trực tiếp xưng danh. Cái
tôi nhà thơ là chủ thể do vậy cái nhìn nghệ thuật có dấu ấn cá thể hóa rất cao.
Nó chi phối toàn bộ cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu
trong việc xây dựng hình tượng thơ.
+ Cũng chính vì vậy, thơ mới đã cởi bỏ những ràng buộc có tính qui
phạm của thơ cũ: vần, luật, số câu, số chữ, nhịp, giọng điệu… Thơ mới đã căn
bản cải tạo thơ trữ tình Tiếng Việt từ điệu ngâm sang điệu nói.

+ Thơ mới là một cuộc cách tân về thể loại. Thơ mới sử dụng thể thơ
truyền thống với những đổi mới về vần, nhịp và sáng tạo thể thơ mới (Thể thơ
8 chữ)
Thơ mới vừa biết cách tân, đổi mới vừa biết giữ gìn, khai thác những
tinh hoa của thơ truyền thống. “Thơ mới thực sự đã trả lại linh hồn và sức
sống cho thơ ca”.
* Tác giả: Vũ Đình Liên sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913- mất ngày 18
tháng 1 năm 1996 Ông sinh tại Hà Nội, quê gốc ở thôn Châu Khê, xã
Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đỗ tú tài trường Bưởi
năm 1932.
Ông là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt nam
Ông từng dạy học ở các trường tư thục Thăng Long, Gia Long, Trường
nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống, ông học thêm trường Luật. Ông tham gia
giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp trường Đại học
Quốc gia Hà Nội. Ông được nhân danh hiệu nhà giáo nhân dân năm 1990.
Như đã nói ở phần mở đầu,Vũ Đình Liên tham gia phong trào thơ mới
ngay từ ngày đầu. Năm 1936 ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" đăng
trên báo Tinh Hoa Ông rất say mê thơ Bôđơle, chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Bôđơle. Mọi người gọi ông thân mến là “Bô đơ Liên”, “Bô đơ le Việt
Nam”. Hai nguồn thi cảm chính là của ông là lòng thương người và tình
hoài cổ. Mặc dù được biết đến trong phong trào Thơ mới nhưng Vũ Đình
Liên chưa xuất bản một tập thơ nào. Những bài thơ hiếm hoi được biết đến
của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về luỹ tre xưa, về thành quách cũ
7
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
và "những người muôn năm cũ". Hoài niệm của ông cũng là nỗi niềm của
nhiều người và bức tranh bằng thơ về Ông Đồ vẫn sẽ còn tồn tại với thời
gian.
Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học
và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt nam.

* Những tác phẩm chính
Một số bài thơ: Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Luỹ tre
xanh, Người đàn bà điên ga Lưu xá
- Đôi mắt (1957)
- Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (cùng Nhóm Lê Quý Đôn-1957)
- Nguyễn Đình Chiểu (1957)
- Thơ Baudelaire (dịch-1995)
b. Phần nghiên cứu văn bản
*) “Ông đồ” là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ
Đình Liên. Hội tụ hai nguồn thi cảm chính trong thơ Vũ Đình Liên “lòng
thương người và tình hoài cổ”. Và bài thơ “Ông đồ” đã có vị trí xứng đáng
trong phong trào Thơ mới. Được đánh giá là một kiệt tác.
*) Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời vào năm 1936 – được đăng trên báo
Tinh hoa
+ Hoàn cảnh xã hội:
Những năm đầu của thế kỉ XX, với luồng gió mới ào ạt của văn hóa
phương Tây, với sự thay đổi của rường cột xã hội, nền Hán học và chữ
Nho ngày càng mất vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội Việt
Nam. Chế độ khoa cử phong kiến bị bãi bỏ (khoa thi hưong cuối cùng ở
Bắc kì là vào năm 1915), cả thành trì văn hóa cũ hầu như sụp đổ. Và các
nhà nho từ chỗ là nhân vật trung tâm của đời sống văn hóa dân tộc, được
xã hội tôn vinh, bỗng trở nên lạc bước trong thời đại mới, bị cuộc đời bỏ
quên và cuối cùng là vắng bóng.
+ Hoàn cảnh tâm thế của nhà thơ:
8
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Nhà thơ là một trí thức Tây học trẻ tuổi, có mặt ngay từ đầu trong
phong trào Thơ mới. Vũ Đình Liên với hồn thơ hồn hậu luôn sẵn có tấm
lòng cảm thương, trắc ẩn chân thành với những số phận con người bất
hạnh. Ông tự nhận mình là “thi sỹ của những thân tàn ma dại”.

*) Thể thơ: năm chữ ( ngũ ngôn) gồm nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu ( khác với
ngũ ngôn tứ tuyệt) có khả năng diễn tả phong phú. Nhưng thích hợp nhất
với việc diễn tả tâm tình sâu lắng. Trong bài thơ này, thể thơ năm chữ (ngũ
ngôn) rất phù hợp với việc diễn tả cảm xúc, tâm tư của nhà thơ.
*) Hình tượng nghệ thuật trung tâm của tác phẩm là hình tượng “ông đồ”.
Qua hình tượng ông đồ, tác giả kí thác nỗi ngậm ngùi day dứt trước sự tàn
tạ vắng bóng của ông đồ - con người của một thời đã qua. “Ông đồ chính là
di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn” như tác giả đã nói. Chọn
hình tượng ông đồ là đối tượng trữ tình đã chứa đựng cả một vấn đề lớn: số
phận của nền văn hóa dân tộc và những bước thăng trầm của lịch sử. Tự
thân hình tượng ông đồ trong bài thơ cũng đã chở tải nỗi niềm hoài cổ của
nhà thơ Vũ Đình Liên.
Trước khi phân tích bài thơ, giáo viên cần dành thời gian để giới thiệu
về nhân vật ông đồ trong đời sống văn hóa xã hội của người Việt Nam xưa:
Ông đồ là người Nho học nhưng không đỗ đạt, sống thanh bần bằng nghề
dạy học. Những năm 30 của thế kỉ XX thì vị trí của các thầy đồ dạy chữ
nho hầu như không còn nữa. Và người ta chỉ thấy ông khi tết đến với cái
câu đối phong tục treo câu đối đỏ một năm một lần.
2. Định hướng khai thác:
Trong bài thơ, ông đồ là hình tượng nghệ thuật đặc sắc diễn tả thân
phận bị chối từ của một lớp người nho học trong những năm biến động văn
hóa lớn lao đầu thế kỉ XX. “Ông đồ là di tích tiều tụy của một thời tàn”, là
một tứ thơ chở tải niềm thương cảm chân thành trước số phận bi kịch của
một lớp người trong cảm hứng hoài cổ tiếc nuối cảnh cũ người xưa, ngậm
ngùi sám hối trước cái cảnh thương tâm của một nền nho học lúc mạt vận.
Như vậy, ông đồ là đối tượng trữ tình để nhà thơ kí thác nỗi niềm, tâm
9
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
trạng. Để thẩm nhận được sâu sắc, trọn vẹn tư tưởng tình cảm của nhà thơ
ở trong bài thơ không thể tách rời cách hiểu về vai trò của ông đồ trong đời

sống văn hóa tinh thần của dân tộc gắn với nền nho học.
A. Mạch cảm xúc: Cảm nhận của tác giả về hình ảnh ông đồ qua thời gian
B. Mạch cảm xúc đó được thể hiện qua 3 tiết đoạn:
- Hai khổ thơ đầu (Khổ 1,2)
- Hai khổ thơ tiếp (Khổ 3,4)
- Khổ thơ cuối
(1). Khổ 1,2:
Ở khổ thơ 1,2 cần thấy rõ hình ảnh ông đồ được gắn với một thời điểm:
ông đi viết thuê, những nét chữ phượng múa rồng bay kia chỉ để bày bán trên
hè phố. Trong khung cảnh của dịp tết đến xuân về, hoa đào khoe sắc thắm,
phố phường đông vui, tấp nập, hình ảnh ông đồ xuất hiện bên hè phố bán chữ
trên giấy điều cho những ai còn yêu lối chữ tượng hình và âm hưởng của một
thời xa đã cho ta thấy một bước suy tàn của nền Nho học. Bởi, ông đồ từ thư
phòng trang nghiêm đã phải lận đận ra tận hè phố để kiếm sống bằng việc bán
chữ. Bán chữ là cái cực của kẻ sỹ ở mọi thời.
Nhưng dẫu sao mọi người còn chuộng phong tục tết đến xuân về treo câu
đối đỏ trên vách để trang hoàng nhà cửa và ông đồ vẫn được mọi người tìm
đến: “Bao nhiêu người thuê viết / Tấm tắc ngợi khen tài”. Với mực tàu giấy
đỏ, với những câu đối đỏ, hình ảnh ông đồ gợi lại một phong tục đẹp của
ngày tết cổ truyền. Người thuê viết lúc ấy cũng còn đông đảo lắm, họ hào
phóng khen ngợi tài của ông mà cụ thể là tài viết chữ như “phượng múa rồng
bay”. Những nét chữ thật sống động, dường như cái hồn của người viết đang
truyền lên từng con chữ. Lúc này người thuê viết lẫn người viết thuê đều biết
trọng cõi tinh thần, hướng đời sống vào những vẻ đẹp thanh cao. Có lẽ ông đồ
cũng tìm được cho mình một niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê được công
chúng mến mộ. Nền nho học tuy đã suy tàn nhưng vẫn còn hiện diện trong
một phong tục đẹp, chữ nho vẫn còn tồn tại trong một góc của đời sống tinh
thần của con người.
10
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:

Như vậy, hình ảnh ông đồ gắn với phong tục đẹp chỉ là một sự an
ủi cuối cùng cho sự tàn tạ của một nền nho học. Nói một cách khác, ngay ở
hai khổ thơ đầu ông đồ cũng đã là “di tích của một thời tàn” tuy chưa lộ
hết vẻ tiều tụy đáng thương.
Hiểu như vậy về hình ảnh ông đồ trong khổ thơ 1,2 để cảm nhận được
trong cái đông vui tấp nập của phố phường, trong cái niềm vui nho nhỏ
của kẻ viết thuê cứ có điều gì đó phảng phất nỗi buồn, ngậm ngùi của nhà
thơ. Điều đó nó nén chặt trong tứ thơ “ông đồ”, nó lắng trong âm điệu
trầm buồn có ngay từ những câu thơ ngũ ngôn đầu tiên của bài thơ, lắng
trong từng câu chữ : Mỗi năm hoa đào nở / Lại thấy ông đồ già, trong
hình ảnh dường như đối lập: hoa đào nở, phố phường tấp nập, cuộc sống
sinh sôi với hình ảnh ông đồ già nua, đơn lẻ…
Hiểu như vậy để thấy được những đoạn sau chỉ là sự phát triển, lộ rõ tứ
thơ đã phảng phất ở đoạn trên mà thôi. Toàn bộ bài thơ kết cấu trên một
âm hưởng ngày một mở rộng, lan xa…
(2) Khổ 3,4:
Vẫn không gian của phố phường tấp nập, vẫn vào dịp tết đến xuân về,
nhân vật, cảnh vật vẫn chừng ấy (ông đồ, giấy, mực, phố phường). Nhưng
phong tục treo câu đối đỏ ngày tết đã không còn được người ta chuộng nữa.
Từ “nhưng” với điệp từ “mỗi” đánh dấu sự thay đổi trong bước đi chầm
chậm của thời gian. Người tri âm hôm qua nay đã là khách qua đường.
Niềm vui nho nhỏ của ông là được thảo những nét “phượng múa rồng bay”
đem lại chút vui cho mọi người khi tết đến xuân về nay cũng không còn.
Nỗi buồn của lòng người như lan tỏa đến những vật vô tri “Giấy đỏ buồn
không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu”. Giấy cũng thấm buồn mực cũng
nhuộm sầu. Biện pháp nhân hóa sử dụng thật đắc địa, nỗi đau của con
người làm tái tê cả cảnh vật. “Ông đồ vẫn ngồi đấy / Qua đường không ai
hay”. Ông cô đơn, trơ trọi, lạc lõng và hoàn toàn bị quên lãng giữa phố
phường tấp nập. Xót xa thay, ông đồ bị người đời lãng quên trong lúc còn
hiện hữu. Phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền còn đâu nữa. Chút an ủi,vớt

11
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
vát cuối cùng của nho học lúc mạt vận cũng tiêu tan. Nho học đã hoàn
toàn mất chỗ đứng trong đời sống tinh thần của con người.
Cần phân tích kĩ hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút để thấy rõ nỗi
niềm thương cảm sâu sắc của nhà thơ đối với ông đồ: “Lá vàng rơi trên
giấy / Ngoài trời mưa bụi bay”. Lá vàng đã trút hết trên trang giấy nhạt
phai như chấm hết sự sinh sôi. Mưa bụi bay trong không gian tê tái nhạt
hòa như khóc thương, tiễn biệt một số phận con người, một thời đại đã dần
khép vào dĩ vãng. Hiện thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng. Chỉ là
mưa bụi bay rất nhẹ vậy sao mà ảm đạm, lạnh lẽo tới buốt giá. Nó diễn tả
lòng người trĩu nặng sầu đau, dường như nỗi đau của người trong cuộc lẫn
người chứng kiến hòa chung trong một điệu, tràn ngập cả không gian.
Chính nỗi lòng thương cảm sâu sắc của nhà thơ về số phận của ông đồ đã
cất lên những tiếng thơ nức nở nghẹn ngào. Ông đồ quả thực là “di tích của
một thời tàn”.
Như vậy, ở khổ 1,2 trong tương quan với khổ 3,4 không thể là thời đắc
ý, huy hoàng của ông đồ. Có chăng hình ảnh ông đồ gắn với phong tục đẹp
của văn hóa truyền thống là một sự níu kéo cuối cùng của nho học đã bước
vào thời tàn. Có chăng chỉ là cái tình của người đời đối với ông đồ vào thời
mạt vận mà thôi.
Định hướng như vậy để thấy được lòng thương cảm của Vũ Đình Liên
đối với thân phận ông đồ thấm đẫm từ đầu đến cuối bài thơ, nó càng thấm
sâu với bao xót xa, day dứt ám ảnh. Khổ 3,4 chỉ để làm rõ hơn những điều
đã hé lộ ở 2 khổ thơ đầu. Và cũng để thấy rõ hơn cho tứ thơ “ông đồ” :
thương cảm cho một kiếp người cũng là bộc lộ nỗi niềm hoài cổ, nhớ tiếc
cho một thời đã qua, gắn với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.
(3) Khổ thơ cuối:
Với kết cấu đầu cuối tương ứng (mở đầu: “Mỗi năm hoa đào nở / Lại
thấy ông đồ già” và kết thúc “Năm nay đào lại nở / Không thấy ông đồ

xưa”) đã làm rõ cái mâu thuẫn giữa cái vô hạn của thời gian, cứ luân
12
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
chuyển theo chu kì bất biến và cái hữu hạn của đời người, một đi không trở
lại để bật ra cái bi kịch của một kiếp người trong nỗi thương cảm da diết
của nhà thơ. Đồng thời đó cũng là cái tứ cảnh cũ người đâu thuờng gặp
trong thơ xưa đầy gợi cảm: năm nay đào lại nở, tết đến, mùa xuân lại về,
nhưng ông đồ già đã thành “ông đồ xưa”, thành “người muôn năm cũ”.
Cách dùng từ đầy dụng ý và giàu sức gợi đã xoáy vào lòng người bao nỗi
xót thương trắc ẩn về hình bóng ông đồ già đã khuất nẻo dương gian, xót
thương cho bao danh nho vang bóng một thời nay đã hoàn toàn vắng bóng.
Hai câu thơ cuối là lời tự vấn của nhà thơ: “Những người muôn năm
cũ / Hồn ở đâu bây giờ?”. Nhà thơ tự hỏi mình, hỏi mọi người, hỏi vọng về
quá khứ với bao nỗi xót xa, thương tiếc ngậm ngùi…Ông đồ vắng bóng
không chỉ là khép lại thân phận của một kiếp người mà là sự biến mất vĩnh
viễn của của một lớp người, sự suy vong cáo chung của một thời đại, sự
mai một, phôi pha của những nét đẹp văn hóa truyền thống. Nỗi buồn về
thân thế đã trở thành nỗi buồn cảm hoài về thời thế. “Những người muôn
năm cũ” không còn nữa nhưng linh hồn họ, những giá trị mà họ đã đóng
góp vào cuộc sống tinh thần của quê hương, đất nước này, giờ ở đâu? “Câu
thơ dùng chữ “hồn” – một cách nói rất Việt Nam đã chạm đến những rung
cảm sâu xa nhất trong tâm linh giống nòi, nó khắc khoải mãi, da diết mãi”.
Hơn nữa, bài thơ là tiếng lòng của một trí thức Tây học trẻ tuổi nhìn về
quá khứ, khi Nho học đã đi đến hồi kết. Đó là nỗi cảm thương, ngậm ngùi,
tiếc nuối thoáng chút ân hận của lớp người đương đại khi lòng mình không
dủ thương đủ quí để níu giữ những nét đẹp của văn hóa truyền thống, dẫu
nhà thơ ý thức sâu sắc qui luật vận động của cuộc đời và xã hội. Bởi thế,
trong nỗi niềm hoài cổ của Vũ Đình Liên còn là cái nhìn nhân hậu với quá
khứ và với những gì đang trở thành quá khứ. Tiếng lòng ấy dễ dàng tìm
được tiếng nói tri âm.

13
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
3.Thực hành soạn giáo án:
Từ định hướng và lưu ý trên, kết hợp với thực tiễn giảng dạy, tôi xin đề
xuất giáo án bài dạy như sau:
Tiết 65,66:
ÔNG ĐỒ
(Vũ Đình Liên)
A. Mục tiêu cần đạt:
Giúp học sinh:
1. -Cảm nhận được hình ảnh tàn tạ của ông đồ - một con người đã và
đang trở nên lạc lõng và bị gạt ra ngoài lề cuộc sống lúc ấy – được
thể hiện đầy ám ảnh trong toàn bộ bài thơ
- Qua đó thấy được niềm cảm thương chân thành và nỗi nhớ tiếc ngậm
ngùi của tác giả đối với cảnh cũ người xưa gắn liền với một nét đẹp văn
hóa cổ truyền.
- Hiểu và đánh giá được giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài thơ
2. Giáo dục sự trân trọng đối với những nét đẹp văn hóa truyền thống
3. Rèn luyện kĩ măng phân tích, cảm thụ thơ ngũ ngôn.
B. Tiến trình thực hiện các bước lên lớp:
1. Bài cũ:
Cảm nhận về tâm sự của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ “Muốn làm thằng
Cuội”
2. Bài mới:
Theo dõi chú thích * và cho
biết những nét chính về tác
giả?
I. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả:
- Vũ Đình Liên (1913 - 1996)

- Tham gia phong trào thơ mới ngay từ
những ngày đầu
- Cảm hứng thơ Vũ Đình Liên tập trung
14
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Những hiểu biết của em về
bài thơ “Ông đồ”?
Baì thơ này nên đọc như thế
nào?
Bài thơ viết theo thể thơ gì?
Nêu phương thức biểu đạt của
bài thơ?
Nhân vật trữ tình trong bài
thơ?
Dựa vào sự giải thích của
vào hai nội dung chính: Lòng thương
người và tình hoài cổ
- Ngoài sáng tác thơ ông còn nghiên cứu,
dịch thuật, giảng dạy văn học. Năm
1990 ông được phong là nhà giáo nhân
dân.
2. Tác phẩm:
- Bài thơ Ông đồ là bài thơ tiêu biểu cho
hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình
Liên.
- Bài thơ được đánh giá là một kiệt tác
(Hoài Thanh-> Vũ Đình Liên có vị trí
xứng đáng trong phong trào thơ mới.
II. Đọc và tìm hiểu chung :
1. Đọc: Bài thơ nên đọc với giọng chậm

rãi, trầm lắng để diễn tả nỗi lòng của
nhà thơ.
2. Tìm hiểu chung :
a.Thể thơ: Ngũ ngôn
-> Rất quen thuộc rất phù hợp với việc diễn tả
cảm xúc, tâm tư của nhà thơ. Ngôn ngữ cô
đọng, nhiều ý nghĩa dư vang
b. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm là chính
xen tự sự, miêu tả
c. Nhân vật trữ tình:
- Chủ thể trữ tình: tác giả
- Đối tượng trữ tình: Ông
đồ
- Ông đồ: là người Nho học nhưng không đỗ
15
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
SGK em hiểu như thế nào về
hình ảnh ông đồ trong đời
sống văn hóa xã hội của
người Việt nam xưa?
Tìm hiểu mạch cảm xúc?
Mạch cảm ấy được thể hiện
như thế nào trong bài thơ?
Hình ảnh ông đồ được tác giả
cảm nhận trong khung cảnh
như thế nào? Thể hiện qua
hình ảnh từ
ngữ nào? Nhận xét về khung
cảnh đó?
Trong khung cảnh đó ông đồ

hiện lên qua những từ ngữ
nào?
Nhận xét cách dùng từ? Qua
đó gợi lên điều gì?
đạt, sống thanh bần bằng nghề dạy học.
Những năm 30 thì vị trí của các thầy đồ dạy
chữ nho hầu như không còn nữa. Và người ta
chỉ thấy khi ông khi tết đến với cái câu đối
phong tục treo câu đối đỏ một năm một lần.
-> ông đồ trở thành một tứ thơ giàu sức nén
của bài thơ. Qua hình tượng ông đồ tác giả
khái quát được những bước thăng trầm của
thời đại và số phận của nền Nho học.
d. Mạch cảm xúc: Cảm nhận của tác giả về
hình ảnh ông đồ qua thời gian
- Triển khai qua 3 tiết đoạn:
- Khổ thơ 1,2
- Khổ thơ 3,4
- Khổ thơ cuối
III. Tìm hiểu chi tiết:
(+) Khổ 1,2:
- Khung cảnh: - Hoa đào nở
- Phố đông người qua
-> Gợi khung cảnh tết đến xuân về. hoa đào
khoe sắc thắm, phố phường tấp nập đông
vui…
-> Cảnh đẹp tràn đầy sức sống, mọi vật dường
như tươi trẻ lại.
- Ông đồ: - Lại thấy
- mực tàu, giấy đỏ

Lại: phó từ chỉ sự tiếp diễn, lặp đi lặp lại.
- Tác dụng: - hình ảnh ông đồ xuất hiện nơi
nơi phố phường vào ngày tết đã trở nên quen
thuộc
16
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Hãy nhớ lại phần tìm hiểu
chung đã cho ta biết ông đồ là
ai. Vậy hình ảnh ông đồ trong
bài thơ xuất hiện trong vị thế
nào?Có còn là thầy đồ dạy
chữ? Hình ảnh ông đồ viết
thuê giúp em nhận ra điều gì?
Thế nhưng, thái độ của mọi
người đối với nghề viết chữ
của ông lúc ấy ra sao? Nhận
xét cách dùng từ? Qua đó em
hiểu gì về thái độ của mọi
người?
Cảm nhận của tác giả về nét
chữ của ông đồ lúc ấy ra sao?
Từ đó, hình dung tâm trạng
của ông đồ lúc này?
Trong cảnh kẻ thuê người viết
- Gợi một phong tục đẹp, một
thú vui tao nhã vào ngày tết cổ truyền với
bánh chưng xanh câu đối đỏ.
-Vị thế ông đồ không còn như xưa: Ông đồ đã
phải rời bỏ thư phòng trang nghiêm để lận đận
ra hè phố bán chữ.

-> Nền nho học đã bước vào thời tàn.
- Thái độ mọi người: - Bao nhiêu người thuê
- Tấm tắc ngợi khen
- Đại từ phiếm chỉ, chỉ số nhiều
->Khách tìm đến mua chữ nhiều không sao kể
xiết luôn miệng tấm tắc ngợi ca tài viết chữ
của ông đồ
- Nét chữ: như phượng múa rồng bay -> sử
dụng so sánh + thành ngữ
-> Gợi nên nét chữ đẹp, sống động như có linh
hồn. Hồn của người vết chữ như truyền sang
từng con chữ. Người viết thuê trong cái thú
chơi tao nhã như một nhu cầu giao cảm với
con người, đất trời mỗi độ xuân về.
- Ông đồ vui khi còn được thể hiện vốn chữ
tài hoa của mình. Dường như lúc này ông đã
tạm quên đi nỗi buồn thân phận để kiếm tìm
một chút tri âm, một niềm an ủi cuối cùng cho
nền nho học…
- Dẫu nền Nho học đã bước vào thời tàn,
17
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
mỗi độ xuân về ấy giúp em
cảm nhận rõ nét điều gì?
Hình dung về tâm trạng nhà
thơ lúc ấy?
Qua cách miêu tả hình ảnh
ông đồ trong khổ 1 và 2 em
còn cảm nhận được gì về nỗi
lòng của nhà thơ đối với ông

đồ?(Gợi: hai khổ thơ cất lên
với giọng điệu như thế nào?
Tâm trạng ấy còn chất chứa ở
đâu nữa? )
Vậy ở đây t/giả sử dụng cách
biểu cảm gì?
Cùng với sự tuần hoàn của
thời gian nhà thơ đã nhận ra
sự thay đổi trong số phận ông
đồ như thế nào? Thể hiện qua
những từ ngữ, biện pháp nghệ
thuật nào? Hãy phân tích?
Trước sự đổi thay của số phận
ông đồ, tác giả đã bày tỏ thái
độ qua câu thơ nào? Nhận xét
về nghệ thuật? Qua đó em
song vẫn còn hiện diện trong một phong tục
đẹp. Chữ nho còn là thú vui tao nhã và vẫn
còn tồn tại trong một góc của đời sống tinh
thần của con người.
+ Tâm trạng của nhà thơ:
- Yêu mến trân trọng, tự hào đối với ông
đồ và phong tục đẹp của dân tộc
- Giọng thơ cất lên trầm buồn ngay từ
câu thơ ngũ ngôn đầu tiên của bài thơ.
- Từ ngữ: Lại thấy
Ông đồ già
- Hình ảnh thơ: Hoa đào nở, phố phường
tấp nập >< ông đồ già nua, đơn lẻ
-> cảm nhận được trong cái đông vui tấp nập

của phố phường, trong cái niềm vui nho nhỏ
của kẻ viết thuê cứ có điều gì đó phảng phất
nỗi buồn, ngậm ngùi của nhà thơ.
-> Cách biểu cảm gián tiếp qua miêu tả, tự sự
(+). Khổ 3,4:
+ Sự đổi thay của số phận ông đồ qua thái độ
của mọi người:
-Từ “nhưng” mở đầu khổ 3: chỉ ý
đối lập, bước ngoặt của thời gian, đánh dấu
sự đổi thay.
- Điệp từ mỗi: diễn tả bước đi chầm
chậm của của thời gian, nhịp độ khách thưa
vắng dần. Người tri âm hôm qua nay đã là
khách qua đường.
+ Thái độ của tác giả: Thốt lên “Người thuê
viết nay đâu”?-> câu hỏi tu từ
18
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
hiểu thái độ gì?
Nhà thơ đã diễn tả nỗi lòng
của ông đồ qua hình ảnh nào?
Phân tích giá trị biểu đạt?
Trong tình cảnh đó hình ảnh
ông đồ hiện lên như thế nào?
Từ hình ảnh đó của ông đồ
em cảm nhận được điều gì xót
xa?
Hai câu thơ cuối của khổ 3 đã
diễn tả sâu sắc tình cảnh của
ông đồ cũng như nỗi lòng của

nhà thơ. Em hãy phân tích
làm rõ cái hay của hai câu thơ
đó?
-> Tâm trạng bàng hoàng thoảng thốt trước
cảnh vắng người vắng khách
+ Nỗi lòng của ông đồ: “ Giấy đỏ buồn /
nghiên sầu -> Hình ảnh nhân hóa
-> Làm cho cảnh vật vô tri trở nên có linh
hồn, trĩu nặng sầu đau.
-> Trang giấy có phải thấm nỗi buồn đau khôn
tả của lòng người mà không còn thắm đỏ.
Mực tàu trong nghiên bao ngày không được
dùng đến nên đặc quánh lại trong nỗi sầu đau.
-> Nỗi đau của lòng người làm tái tê cả cảnh
vật.
+ Ông đồ vẫn ngồi đấy/ không ai hay…
- Phó từ “vẫn” -> ông đồ vẫn ngồi đấy giữa
phố phường tấp nập, trong khung cảnh tết đến
xuân về kiên nhẫn đợi chờ khách qua đường
mà cô đơn,trơ trọi, lạc lõng giữa dòng người
xa lạ.
-> Ông đồ bị lãng quên ngay khi còn hiện
hữu. Phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền còn
đâu nữa. Chút an ủi,vớt vát cuối cùng của nho
học lúc mạt vận cũng tiêu tan. Nho học đã
hoàn toàn mất chỗ đứng trong đời sống tinh
thần của người Việt.
+ “Lá vàng rơi trên giấy/ ngoài trời mưa bụi
bay”
-> Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc

=> Lá vàng đã trút hết trên trang giấy nhạt
phai như chấm hết sự sinh sôi. Mưa bụi bay
trong không gian tê tái nhạt nhòa như khóc
19
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Câu hỏi thảo luận nhóm để
củng cố kiến thức vừa học
qua 4 khổ thơ: Theo em từ sự
thay đổi của số phận ông đồ
ở khổ 3,4 có thể khẳng định
có sự thay đổi trong tình cảm
của tác giả không? Vì sao?
So sánh hai câu thơ mở đầu
bài thơ với 2 câu thơ của khổ
cuối để phát hiện nét nghệ
thuật đặc sắc gì? Tác dụng?
Cách dùng từ lại trong câu
thơ còn gợi ra điều gì?
Trong sự mất mát đó tác giả
thương, tiễn biệt một số phận con người, một
thời đại đã dần khép vào dĩ vãng. Dường như
nỗi đau của người trong cuộc lẫn người chứng
kiến hòa chung trong một điệu, tràn ngập cả
không gian.
=>Chính nỗi lòng thương cảm sâu sắc của
nhà thơ về số phận của ông đồ đã cất lên
những tiếng thơ trĩu nặng sầu đau. Ông đồ
quả thực là “di tích của một thời tàn”.
-> Củng cố qua thảo luận nhóm: Toàn bộ bài
thơ kết cấu trên một âm hưởng ngày một mở

rộng, lan xa… lòng thương cảm của Vũ Đình
Liên đối với thân phận ông đồ thấm đẫm từ
đầu đến cuối bài thơ, nó càng lúc càng thấm
sâu với bao xót xa, day dứt ám ảnh.
(+). Khổ thơ cuối
-Nghệ thuật đối lập: -Mở đầu: Mỗi năm hoa
đào nở /Lại thấy ông đồ già
- Kết thúc: Năm nay đào lại nở/
Không thấy ông đồ xưa
-> kết cấu đầu cuối tương ứng
-> thời gian luân chuyển theo chu kì bất biến
đặt bên cạnh cái hữu hạn của đời người, một
đi không trở lại
- Tác dụng: để bật ra cái bi kịch của một kiếp
người trong nỗi thương cảm da diết của nhà
thơ.
- Từ lại: diễn tả vòng tuần hoàn của thời gian
đồng thời đó cũng là cái tứ “cảnh cũ người
20
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
thốt lên như thế nào? Nhận
xét cách diễn đạt? Tác giả hỏi
ai? Hỏi về điều gì?
Qua đó em hiểu được tâm
trạng gì của tác giả?
đâu” thuờng gặp trong thơ xưa đầy gợi cảm:
năm nay đào lại nở, tết đến, mùa xuân lại về,
nhưng ông đồ già đã thành “ông đồ xưa”
-> Sự ra đi không tiễn biệt của một kiếp
người, một nền văn hóa.

+ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu
bây giờ”?
- Câu hỏi tu từ: Hỏi mình, hỏi người, hỏi
cả thời đại, hỏi vọng về quá khứ
- Hồn của người muôn năm cũ:
- Hồn của ông đồ
-Hồn của lớp
người đã đóng góp vào cuộc sống tinh thần
của quê hương, đất nước này
- Hồn của một nét
đẹp văn hóa truyền thống
- Câu thơ dùng chữ “hồn” – một cách nói rất
Việt Nam đã chạm đến những rung cảm sâu
xa nhất trong tâm linh giống nòi, nó khắc
khoải mãi, da diết mãi.
=>Bộc lộ bao nỗi xót xa, thương tiếc, ngậm
ngùi của nhà thơ trước sự ra đi lặng lẽ của ông
đồ, của các bậc tiền nhân cùng với sự đổi thay
giá trị của những nét đẹp văn hóa truyền
thống. -> Nỗi buồn về thân thế đã trở thành
nỗi buồn cảm hoài về thời thế.
=>GV: Hơn nữa, bài thơ là tiếng lòng của
một trí thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ,
khi Nho học đã đi đến hồi kết. Đó là nỗi cảm
thương, ngậm ngùi, tiếc nuối thoáng chút ân
21
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Đánh giá chung về giá trị
nghệ thuật của bài thơ?
Qua đó em cảm nhận gì về

nội dung gì của bài thơ?
hận của lớp người đương đại khi lòng mình
không dủ thương đủ quí để níu giữ những nét
đẹp của văn hóa truyền thống, dẫu nhà thơ ý
thức sâu sắc qui luật vận động của cuộc đời và
xã hội. Bởi thế, trong nỗi niềm hoài cổ của Vũ
Đình Liên còn là cái nhìn nhân hậu với quá
khứ và với những gì đang trở thành quá khứ.
IV. Tổng kết:
1.Nghệ thuật:
- Thể thơ ngũ ngôn hàm súc cô đọng
- Giọng điệu chủ đạo của bài thơ là trầm lắng
ngậm ngùi, phù hợp với việc diễn tả tâm tư,
cảm xúc của nhà thơ
- Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chẽ: theo
trình tự thời gian bằng cái nhìn hướng ngoại
từ tâm thức nhà thơ; kết cấu đầu cuối tương
ứng với những cảnh tượng đối lập để thể hiện
đầy ám ảnh sự thất thế của ông đồ, nỗi buồn
thương của tác giả.
- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rất trong sáng, bình
dị nhưng tinh tế giàu sức gợi -> có sức truyền
cảm lớn.
2. Nội dung:
Bài thơ thể hiện niềm cảm thương chân
thành trước tình cảnh đáng thương của ông
đồ, trước lớp người đang tàn tạ cùng với nỗi
niềm hoài cổ bâng khuâng tiếc nhớ về một nét
đẹp của văn hóa truyền thống nay đã mai một
phôi pha, về một nền văn hóa đã từng vang

bóng một thời.
22
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
V. Luyện tập: Cảm nhận về tấm lòng của nhà thơ Vũ Đình Liên qua bài thơ
C. Củng cố, dặn dò: Tìm đọc truyện ngắn “Ông đồ nho” của Thạch Lam xuất
hiện cùng thời với bài thơ “Ông đồ” để thấy được sự cộng hưởng cảm xúc và
từ đó hiểu hơn về nỗi lòng tâm trạng của nhà thơ Vũ Đình Liên.
23
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
4.Khảo sát:
a. Đề khảo sát: Cảm nhận về hình ảnh ông đồ trong hai khổ thơ đầu của bài
thơ “Ông đồ”
b. Kết quả:
SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ KẾT QUẢ GIẢNG DẠY THEO ĐỊNH HƯỚNG
SÁCH GIÁO VIÊN VÀ ĐỊNH HƯỚNG MỚI
NĂM
HỌC
LỚP SĨ
SỐ
ĐIỂM 9-
10
ĐIỂM 7-
8
ĐIỂM 5
-6
ĐIỂM
DƯỚI TB
2007-
2008
8B 45 0

(0%)
16
(35,5%)
25
(55,5%)
4
(9 %)
2011-
2012
8C 40 5
(12,5%)
25
(62,5%)
10
(25%)
0
(0%)
So sánh: Phương pháp mới đã đạt kết quả chất lượng cao hơn. Năm học 2007
– 2008 so với năm 2011 – 2012:
1. Điểm dưới trung bình: Không có
2. Điểm 5-6: ít hơn 30,5%
3. Điểm 7-8: hơn 27%
4. Điểm 9 -10: hơn 12%
Sở dĩ cách dạy mới đạt hiệu quả hơn, bởi sự định vị kiến thức cơ bản về
hình tượng ông đồ ở hai khổ thơ đầu của sách giáo viên và thực tiễn giảng dạy
của giáo viên là không thỏa đáng (Hai khổ thơ đầu là thời kì đắc ý của ông đồ)
nên giáo viên hướng dẫn học sinh thẩm nhận hình tượng nghệ thuật không
đúng ý đồ sáng tạo của tác giả. Theo cách dạy mới, giáo viên đã giúp học sinh
hiểu được hình tượng ông đồ ngay từ đầu đã là “di tích của một thời tàn” và
thấm trong từng câu chữ, hình ảnh, giọng điệu là nỗi buồn thương phảng phất

của tác giả - một trí thức trẻ có lương tâm lương tri, giàu lòng trắc ẩn và luôn
đau đáu trước những đổi thay của thời cuộc. Từ đó để thấy rõ toàn bộ bài thơ
24
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
kết cấu trên một âm hưởng ngày một mở rộng, lan xa…nỗi niềm của nhà thơ
ngày càng da diết, ám ảnh…Có như thế mới bật ra được nét độc đáo của bài
thơ: là sự hội tụ hai nguồn cảm hứng chính trong thơ Vũ Đình Liên: lòng
thương người và tình hoài cổ.
C. KẾT LUẬN
Giảng dạy văn học là khó, dạy văn có hiệu quả lại càng khó hơn. Đăc
biệt là giảng dạy thơ. Bởi thơ là nghệ thuật của ngôn từ, là nơi gửi gắm của
tâm hồn thi sỹ, ngoài việc nắm bắt nền hiện thực đời sống (thời đại) thì ta còn
phải nắm được một cách thấu đáo đời sống tâm hồn của nhà thơ được thể hiện
trong tác phẩm đưa vào chương trình trong “phông” chung của hồn thơ tác
giả.
Dạy văn nói chung và dạy thơ nói riêng phải nghiên cứu kĩ văn bản và
yếu tố ngoài văn bản (có liên quan đến văn bản) để tìm ra một định hướng
khai thác chuẩn xác. Từ mạch cảm xúc của tác giả kết hợp hệ thống tín hiệu
nghệ thuật trong tác phẩm mà tìm ra chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Với bài thơ “Ông đồ”, bằng cách dạy như trên, tôi xin đề xuất một số
giải pháp sau:
- Bám sát đặc trưng thơ trữ tình: không chỉ giúp học sinh khám phá vẻ
đẹp của ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ mà còn giúp các em cùng rung động với
tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình. Chọn hình ảnh ông đồ là đối tượng trữ
tình đã tạo nên một tứ thơ “nén”, do vậy, tiếp cận hình tượng thơ cần phải đi
hết “tầng”, “vỉa” của nó, có như vậy mới thẩm nhận được hết được lòng
thương cảm sâu sắc của Vũ Đình Liên đối với một kiếp người và hơn hết là
nỗi niềm hoài cổ lắng sâu của một hồn thơ mới luôn có cái nhìn đau đáu với
quá khứ, thời cuộc.
- Khám phá được mạch cảm xúc của bài thơ có kết cấu trên một âm

hưởng ngày một mở rộng, lan xa… Nỗi ngậm ngùi thương cảm chân thành
trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi nhớ tiếc cảnh cũ người xưa của nhà
25

×