Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

nghiên cứu sử dụng nước biển nhân tạo trong sản xuất giống tôm thẻ chân trắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.94 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: D620301
Nghiên cứu sử dụng nước biển nhân tạo trong
sản xuất giống tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei)
Sinh viên thực hiện
Lê Chí Nguyễn
Lớp: NTTS K5
MSSV: 1053040014
Cần Thơ, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: D620301
Nghiên cứu sử dụng nước biển nhân tạo trong
sản xuất giống tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei)
Cán bộ hướng dẫn
ThS. Tăng Minh Khoa
Sinh viên thực hiện
Lê Chí Nguyễn
Lớp: NTTS K5
MSSV: 1053040014
Cần Thơ, 2014
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề


Hiện nay ngành nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn của đất nước. Trong đó, nghề nuôi tôm là đối tượng nuôi chủ yếu đem lại
lợi nhuận cao, góp phần nâng cao đời sống cho người dân, phát triển kinh tế,
giải quyết việc làm, hạn chế sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật biển.
Việt Nam nói chung và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng nghề
nuôi tôm sú (Penaeus monodon ) đã phát triển rất lâu, nhưng trong thời gian
gần đây nuôi tôm sú có dấu hiệu chậm lại do nhiều nguyên nhân như chi phí
cao, tốn nhiều công chăm sóc, con giống không ổn định, xuất hiện nhiều dịch
bệnh Trước tình hình đó, rất nhiều nông hộ đã chuyển sang nuôi tôm thẻ chân
trắng (Litopenaeus vannamei).
Những lợi thế của tôm thẻ chân trắng là thời gian thu hoạch nhanh, từ khi thả
tôm đến khi thu hoạch chỉ 70-80 ngày. Do vậy, có thể quay vòng đến 3 vụ nuôi
trong năm, chi phí thức ăn thấp, năng suất cao, mang lại lợi nhuận đáng kể cho
người nuôi. Điều này cho thấy đây là một đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao,
góp phần vào tăng sản lượng, giá trị tôm xuất khẩu. Chính vì thế, trong thời
gian gần đây diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng không ngừng tăng lên.
Từ việc mở rộng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng dẫn đến nhu cầu con giống
ngày càng lớn đã thúc đẩy các trại sản xuất giống ngày một phát triển. Hiện nay,
sản xuất giống tôm thẻ chân trắng đang phát triển rộng rãi do nhu cầu tôm
giống ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu nuôi tôm thịt đang phát triển mạnh ở
ĐBSCL. Trước tình hình đó các trại sản xuất giống có khuynh hướng phát triển
ở khu vực xa biển. Hầu hết các trại sản xuất giống sử dụng chủ yếu nước biển
hoặc nước ót để pha chế, do đó giá thành cao và đôi khi thiếu hụt nhất là trong
mùa mưa.
Đề tài “Nghiên cứu sử dụng nước biển nhân tạo trong sản xuất giống tôm
thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) được thực hiện nhằm khắc phục
những khó khăn trên.
1.2 Mục tiêu đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm khắc phục vấn đề thiếu nước mặn đặc biệt trong
mùa mưa, giúp ổn định quy trình sản xuất giống tôm thẻ chân trắng

1.3Nội dung nghiên cứu
-Tìm ra công thức nước biển nhân tạo thích hợp cho sản xuất giống tôm thẻ
chân trắng
-Tìm ra tỷ lệ pha trộn nước biển nhân tạo và nước biển tự nhiên phù hợp cho
sản xuất giống tôm thẻ chân trắng nhằm khắc phục vấn đề thiếu nước mặn hay
nước không đủ nồng độ muối cần thiết nhất là trong mùa mưa.
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng
2.1.1 Phân loại
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Lớp phụ: Eumalacostraca
Tổng bộ: Eucarida
Bộ: Decapoda
Bộ phụ: Dendrobranchiata
Tổng họ: Penaeoidea
Họ: Penaeidae
Giống: Litopenaeus
Loài: Litopenaeus vannamei (Boone, 1931)
Tên gọi
Tên khoa học: Litopenaeus vannamei
Tên tiếng Anh: White Leg shrimp
Tên Việt Nam: Tôm thẻ chân trắng
Tên của FAO: Camaron patiblanco
2.1.2. Đặc điểm hình thái
Theo Nguyễn Trọng Nho và ctv (2006), hình thái của tôm thẻ chân trắng được
chia làm hai phần: phần đầu ngực (Cephalothorax) ở phía trước và phần bụng
(Abdomen) ở phía sau.

Phần đầu ngực có 14 đôi phụ bộ bao gồm: Chủy tôm có 2 răng cưa ở bụng và
8-9 răng cưa ở lưng, một đôi mắt kép có cuống mắt. Hai đôi râu: Anten 1 và
Anten 2 giữ chức năng khứu giác và thăng bằng. Ba đôi hàm: đôi hàm lớn, đôi
hàm nhỏ 1 và đôi hàm nhỏ 2 có chức năng giữ mồi, ăn mồi và hỗ trợ hoạt động
bơi lội của tôm. Năm đôi chân bò hay chân ngực giúp cho tôm bò trên mặt đáy.
Ở tôm cái, giữa gốc chân ngực 4 và 5 có thelycum (cơ quan sinh dục ngoài, nơi
nhận và giữ túi tinh từ con đực chuyển sang).
Phần bụng có 7 đốt: 5 đốt đầu mỗi đốt mang một đôi chân bơi hay còn gọi là
chân bụng. Mỗi chân bụng có một đốt chung bên trong. Đốt ngoài chia làm hai
nhánh: nhánh trong và nhánh ngoài, đốt bụng thứ 7 biến thành telson hợp với
đôi chân đuôi phân thành nhánh tạo thành đuôi giúp cho tôm chuyển động lên
xuống và búng nhảy. Ở tôm đực, hai nhánh trong của đôi chân bụng 2 biến
thành đôi phụ bộ đực là bộ phận sinh dục bên ngoài của tôm.
Tôm thẻ chân trắng có vỏ mỏng màu trắng đục nên có tên là tôm Bạc, bình
thường có màu xanh lam, chân bò có màu trắng ngư nên được gọi là tôm chân
trắng (Bùi Quang Tề, 2009).
Hình 2.1 Hình dạng bên ngoài của tôm thẻ chân trắng
(Nguồn Boone, 1931)
2.1.3. Phân bố và tập tính sống
Tôm Litopenaeus vannamei là loài tôm nhiệt đới, trong tự nhiên tôm phân bố
chủ yếu ở vùng ven bờ phía Đông Thái Bình Dương, từ biển Pêru đến Nam
Mê-hi-cô, nhiều nhất ở biển gần Equado. Ngoài ra, Tôm chân trắng còn được
di giống ở nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc, Thái Lan,
Indonexia, Malayxia và Việt Nam (Bùi Quang Tề, 2009).
Tôm chân trắng là loài tôm nhiệt đới, có khả năng thích nghi với giới hạn rộng
về độ mặn và nhiệt độ. Khả năng thích nghi về nhiệt độ trong khoảng (15 –
33
0
C), nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển của tôm là 23 – 30
0

C và nhiệt
độ tối ưu cho tôm lúc nhỏ (1g) là 30
0
C, cho tôm lớn (12 – 18g) là 27
0
C. Tuy
nhiên, trong điều kiện nhiệt độ thấp tôm mẫn cảm hơn với các bệnh do virus
như bệnh đốm trắng và hội chứng Taura. Tôm có khả năng thích nghi với độ
mặn 0,5 – 45 ‰ , thích hợp ở độ mặn 7 – 34 ‰ và tăng trưởng tốt ở độ mặn
khá thấp (10 – 15 ‰). Vì thế, tôm chân trắng được xem là ứng cử viên sáng giá
cho nuôi thủy sản nội địa.
Ở vùng biển tự nhiên, tôm chân trắng sống thích nghi với nơi có đáy là bùn, độ
sâu khoảng 72 m, có thể sống ở độ mặn 5 – 50 ‰, thích hợp ở độ mặn nước
biển 28 – 34 ‰, pH 7.7 – 8.3, nhiệt độ thích hợp 25 – 32
0
C, tuy nhiên chúng có
thể sống được ở nhiệt độ 12- 28
0
C (Bùi Quang Tề, 2009).
2.2 Đặc điểm sinh trưởng và dinh dưỡng qua các thời kỳ
Sự tăng trưởng về kích thước của tôm thẻ có dạng bậc thang, thể hiện sự sinh
trưởng không liên tục. Kích thước của tôm sẽ tăng vọt sau mỗi lần lột xác.
Trong khi đó sự tăng trưởng về trọng lượng có tính liên tục hơn. Tôm thẻ có
tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, tốc độ tăng trưởng tùy thuộc vào từng loài,
từng giai đoạn phát triển, giới tính và điều kiện môi trường, dinh dưỡng Từ
ấu trùng đến đầu thời kỳ thiếu niên không có sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng
giữa tôm đực và tôm cái. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối thời kỳ thiếu niên, con cái
lớn nhanh hơn con đực (Lục Minh Diệp và ctv, 2006).
Tôm chân trắng là loài ăn tạp thiên về động vật, tôm có phổ thức ăn rộng,
cường độ bắt mồi khỏe và sử dụng được nhiều loại thức ăn tự nhiên có kích cỡ

phù hợp từ mùn bã hữu cơ đến các động, thực vật thủy sinh. Nhờ đặc tính ăn
tạp, bắt mồi khỏe, linh hoạt, nên tôm chân trắng trong quần đàn có khả năng
bắt mồi như nhau, vì thế tôm nuôi tăng trưởng khá đồng đều, ít bị phân đàn
(Trần Viết Mỹ, 2009).
Trong điều kiện tự nhiên thức ăn của tôm thay đổi theo từng giai đoạn phát
triển và có liên quan mật thiết đến sinh vật phù du và sinh vật đáy (Lục Minh
Diệp và ctv, 2006).
Tôm chân trắng cũng như các loài tôm he khác, thức ăn của nó cũng cần các
thành phần: protid, lipid, glucid, vitamin và muối khoáng… Thiếu hay không
cân đối đều ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ lớn của tôm. Tôm thẻ chân trắng
cần 30% hàm lượng đạm trong thức ăn là thích hợp. Khả năng chuyển hóa thức
ăn của tôm thẻ chân trắng rất cao. Trong điều kiện nuôi lớn bình thường, lượng
cho ăn chỉ cần bằng 5% trọng lượng cơ thể của tôm. Trong thời kỳ tôm sinh
sản, đặc biệt là giữa và cuối giai đoạn phát dục của buồng trứng thì nhu cầu về
lượng thức ăn hằng ngày tăng lên gấp 3 – 5 lần (Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư,
2011).
2.2.1 Thời kỳ phôi
Theo Lục Minh Diệp và ctv (2006), thời kỳ phôi tôm thẻ chân trắng bắt đầu từ
khi trứng thụ tinh đến khi trứng nở, thời gian phát triển phôi tùy thuộc vào
nhiệt độ nước.
Trứng sau khi thụ tinh khoảng 14 – 16 giờ sẽ nở thành Nauplius (N) (Thái Bá
Hồ và Ngô Trọng Lư, 2011).
2.2.2 Thời kỳ ấu trùng
Ấu trùng Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua nhiều lần lột xác và biến thái hoàn toàn.
Ấu trùng trải qua giai đoạn sau Nauplius kéo dài khoảng 1,5 ngày, Zoae (Z) 5
ngày, Mysis (M) 3 ngày và sau cùng là giai đoạn Postlarvae (Thái Bá Hồ và
Ngô Trọng Lư, 2011).
Giai đoạn Nauplius: Sau khi nở ra, ấu trùng Nauplius không cử động được
trong khoảng 30 phút. Sau đó bắt đầu bơi và rất dễ bị lôi cuốn bởi ánh sáng.
Nauplius thay vỏ cả thảy 4 lần từ (N

1
– N
5
) mỗi lần kéo dài 7 giờ (Theo các nhà
sinh học Đài Loan thì có đến 6 giai đoạn). Giai đoạn N
1
, chiều dài khoảng 0,4
mm, độ dày khoảng 0,2 mm. Giai đoạn N
2
, chiều dài khoảng 0,45 mm, độ dày
khoảng 0,2 mm, hai đầu gần và đuôi hướng xa nhau. Giai đoạn N
3
, chiều dài
khoảng 0,49 mm, độ dày khoảng 0,2 mm. Lúc này, thân ấu trùng xuất hiện vài
đoạn nhưng còn rất mờ, mỗi chạc có 3 gai. Giai đoạn N
4
, chiều dài khoảng
0,55mm, độ dày khoảng 0,2 mm. Lúc này, các cặp chân đã bắt đầu phân đoạn,
hàm trên và mảnh chân hàm cũng xuất hiện nhưng khó thấy. Giai đoạn N
5
,
chiều dài khoảng 0,61 mm, độ dày khoảng 0,2 mm. Ở giai đoạn này, cửa miệng
đã xuất hiện, bên ngoài của phần lưng đã nhìn thấy được. Trong thời kỳ này ấu
trùng cứ bơi một đoạn rất ngắn rồi lại nghỉ và lại tiếp tục bơi. Không cần cho
Nauplius ăn, chúng tự dinh dưỡng bằng noãn hoàng có sẵn (Thái Bá Hồ và Ngô
Trọng Lư, 2011).
Theo Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư (2011), sau giai đoạn N
5
ấu trùng chuyển
sang giai đoạn Zoae hay còn gọi là Protozoae. Ấu trùng Zoae bơi liên tục và ăn

thực vật phù du (vi tảo), đặc biệt là các loài tảo khuê. Zoae lột xác 2 lần từ Z
1
đến Z
3
trong 5 ngày, mỗi lần kéo dài 36 giờ với các đặc điểm sau: Giai đoạn Z
1
chiều dài khoảng 1 mm, chiều dày khoảng 0,45 mm. Cơ thể thay đổi căn bản
xuất hiện từ giai đoạn N
5
. Cơ thể chia làm 2 phần đầu và bụng rõ rệt. Lúc này
ấu trùng đã xuất hiện mắt, ống tiêu hóa từ miệng đến hậu môn. Giai đoạn Z
2

chiều dài khoảng 1,9 mm, đã xuất hiện chủy và một đôi gai trên mắt. Giai đoạn
Z
3
chiều dài khoảng 2,7 mm, các gai đã xuất hiện trên mỗi đoạn bụng, các đốt
bụng phát triển dài (Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư, 2011).
Ấu trùng Zoae bơi lội nhờ hai đôi râu (đôi 1 phân đốt đôi 2 phân nhánh kép) và
3 đôi chân hàm phân nhánh. Chúng bơi lội liên tục có định hướng về phía trước.
Ấu trùng Zoae bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài, thức ăn chủ yếu là thực vật nổi
thuộc nhóm tảo Silic như: Skeletonema costatum, Chaetoceros, Cossinodiscus,
Nitzschia, Rhizosolena Ở giai đoạn này ấu trùng lọc mồi liên tục, thức ăn
trong ruột không ngắt quãng, đuôi phân dài. Đây là đặc điểm để nhận biết giai
đoạn này. Vì vậy khi nuôi ấu trùng Zoae, thức ăn cung cấp trong môi trường
nước phải đạt mật độ đủ cho Zoae có thể lọc mồi liên tục suốt giai đoạn này.
Mật độ thức ăn tăng dần từ Z
1
đến Z
3

. Ngoài hình thức ăn lọc, ở giai đoạn này
ấu trùng còn có khả năng bắt mồi chủ động và ăn được các động vật nổi có
kích thước nhỏ (Nauplius của Artemia, luân trùng ) đặc biệt vào cuối giai
đoạn Z
3
(Lục Minh Diệp và ctv, 2006).
Sau khi hoàn tất giai đoạn Z
3
, Ấu trùng trở thành Mysis. Thời kỳ này ấu trùng
qua 3 giai đoạn (M
1
, M
2
, M
3
), mỗi giai đoạn kéo dài 24 giờ, tất cả là 3 ngày rồi
trở thành Postlarve (Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư, 2011).
Giai đoạn M
1
ấu trùng có chiều dài khoảng 3,4 mm, cơ thể đã có hình dáng tôm
trưởng thành, các cặp chân bụng bắt đầu nhú ra ở 5 khúc, xuất hiện đuôi và
quạt đuôi, các gai thu nhỏ lại và 5 đôi chân bơi xuất hiện. Giai đoạn M
2
chiều
dài khoảng 4 mm, chân bụng đã chồi ra nhưng chưa xuất hiện các đoạn nhỏ,
vết lõm vào ở cuối quạt đuôi nông hơn so với giai đoạn M
1
. Giai đoạn M
3
chiều

dài khoảng 4,4 mm, chân bụng dài hơn và đã phân chia thành khúc nhỏ, xuất
hiện răng trên chũy đầu tiên. Ấu trùng Mysis sống trôi nổi có đặc tính treo
ngược mình trong nước, khi bơi đuôi đi trước đầu đi sau theo kiểu búng ngược,
vận động chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bò. Khi bơi ngược đầu Mysis dùng năm
cặp chân bơi ở dưới bụng tạo ra những dòng nước nhỏ đẩy khuê tảo vào miệng
và đẩy động vật phù du về phía cặp chân đi để tóm lấy dễ dàng hơn. Mysis ít bị
lôi cuốn bởi ánh sáng như Nauplius và Zoae (Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư,
2011).
Giai đoạn Mysis tôm bắt mồi chủ động. Thức ăn chủ yếu là động vật nổi như
luân trùng, ấu trùng Nauplius, Copepoda, Nauplius artemia, ấu trùng động vật
thân mềm Tuy nhiên, thực tế sản xuất cho thấy ấu trùng Mysis vẫn có khả
năng ăn được tảo Silic (Lục Minh Diệp và ctv, 2006).
2.2.3 Thời kỳ hậu ấu trùng Postlarvae (PL)
Theo Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư (2011), PL1 có chiều dài khoảng 5,4 mm,
lông bụng xuất hiện và có thể bơi tới phía trước được.
Hậu ấu trùng PL đã có hình dạng của loài nhưng sắc tố chưa hoàn thiện, nhánh
trong anten 2 chưa kéo dài. PL bơi thẳng có định hướng về phía trước, bơi lội
chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bụng, PL hoạt động nhanh nhẹn và bắt mồi chủ
động, thức ăn chủ yếu ở giai đoạn này là động vật nổi. Tuổi của PL được tính
theo tập tính chuyển sang sống đáy, PL chuyển sang sống đáy hoàn toàn ở
PL
9
– PL
10
(Lục Minh Diệp và ctv, 2006).
Giai đoạn Postlarvae tôm bắt mồi chủ động, thức ăn chủ yếu là động vật nổi
như: Artemia, Copepoda, ấu trùng của giáp xác, ấu trùng của động vật thân
mềm, Cần chú ý ở giai đoạn này, tôm thích ăn mồi sống nên trong sản xuất
nếu cho ăn thiếu Nauplius Artemia tôm sẽ ăn thịt lẫn nhau. (Lục Minh Diệp và
ctv, 2006).

2.2.4 Thời kỳ ấu niên đến trưởng thành
Từ thời ấu niên, tôm thẻ chân trắng thể hiện tính ăn của loài (ăn tạp thiên về
động vật). Thức ăn của tôm là các động vật khác như giáp xác, động vật thân
mềm, gium nhìu tơ.
Trong sản xuất giống nhân tạo ấu trùng tôm thẻ còn được cho ăn các loại thức
ăn nhân tạo tự chế biến như lòng đỏ trứng, sữa đậu nành, thịt tôm, thịt hầu và
các lạo thức ăn nhân tạo sản xuất công nghiệp thường gọi là thức ăn tổng hợp.
2.3 Vòng đời
Ở thời kỳ ấu niên và thiếu niên tôm thẻ sống ở vùng cửa sông. Ở giai đoạn sắp
trưởng thành và trưởng thành, khi tôm có thể tham gia sinh sản lần đầu thì
chúng sống ở vùng triều ở độ sâu khoảng 7- 20m nước. Đối với những con
trưởng thành và sản phẩm sinh dục đã chín hoàn toàn thì chúng di chuyển ra
vùng biển khơi ở độ sâu khoảng 70m nước và tham gia sinh sản tại đây. Trứng
và ấu trùng Mysis sống và phát triển tại vùng biển khơi theo dòng nước trôi dạt
vào bờ. Khi đến vùng triều thì ấu trùng đã chuyển sang giai đoạn Postlarvae và
tiếp tục theo thủy triều trôi dạt vào vùng cửa sông, phát triển thành ấu niên và
tiếp tục vòng đời của chúng (Lục Minh Diệp ctv, 2006).
Hình 2.2: Vòng đời tôm he chân trắng ngoài tự nhiên
(Nguồn: Chase and Abbott, 1980 trích dẫn bởi Irene Tetreault Miranda,
Ph.D.Independent Contractor, 2010)
2.4 Tình hình nuôi và sản xuất giống tôm thẻ chân trắng
2.4.1 Trên thế giới
Sinh sản đầu tiên của tôm thẻ chân trắng được thực hiện ở Florida vào năm
1973 tôm bố mẹ được đánh bắt ngoài tự nhiên và được giao vĩ sẵn (FAO, 2004)
Trên thế giới tôm chân trắng nuôi nhân tạo đúng hàng thứ hai, sau tôm sú
nhưng ở châu Mỹ đứng hàng đầu. Ở châu Mỹ có 12 quốc gia nuôi tôm chân
trắng sản lượng của chúng chiếm hơn 90% sản lượng tôm nuôi ở Tây Bán Cầu
năm 1998.
Equado: từ lâu đã là nước nuôi tôm nổi tiếng trên thế giới và luôn dẫn đầu cho
tới năm 1999. Sản lượng tôm đạt được 120.000 tấn (1998), 130.000 tấn (1999).

Năm 2000 gặp dịch bệnh đốm trắng sản lượng giảm còn 35.000 tấn gây tổn
thất ước tính 500-600 triệu USD. Mêhico: nhanh chóng trở thành nước nuôi
tôm chân trắng thứ nhì của châu Mỹ không chỉ tạo ra phong trào nuôi tôm rầm
rộ ở Mêhico mà còn ở hàng loạt các nước Mỹ La Tinh. Sản lượng đạt được
2.000 tấn (1990) lên 16.000 tấn (1994), 24.000 tấn (2000). Panama: đứng hàng
thứ 3 về nuôi tôm chân trắng và các nước khác như Belize, Peru,
Colombia…các nước này đều có kế hoạch phát triển nuôi tôm chân trắng xuất
khẩu sang Mỹ ( Bộ thủy sản, 2004).
Sản lượng tôm thẻ chân trắng từ các nước châu Mỹ tăng, sau khi giảm dần từ
sản xuất cao điểm trước đây sản lượng 193.000 tấn năm (1998) giảm xuống
143.000 tấn năm (2000) và tăng lên rất nhanh vào năm 2004 đạt được sản
lượng 270.000 tấn. Sau khi các nước châu Mỹ nuôi thành công và có hiệu quả
cao tôm chân trắng được di giống sang Hawaii của Mỹ. Từ đây nuôi tôm chân
trắng được lan sang các nước Đông Á. Trung Quốc là nước Châu Á quan tâm
tới tôm chân trắng sớm nhất (Bộ thủy sản trung tâm khuyến Ngư Quốc gia,
2004).
Theo thống kê của FAO năm 2002 thì sản lượng tôm sú, thẻ chân trắng và tôm
thẻ Trung Quốc chiếm cao nhất. Trong số các loài tôm biển nuôi trong giai
đoạn này thì tôm sú chiếm khoảng 50-60% tổng sản lượng tôm nuôi trên thế
giới, thẻ chân trắng chỉ được nuôi chủ yếu ở các nước Nam Mỹ (Trần Ngọc Hải,
Nguyễn Thanh Phương, 2009).
Đến nay, thẻ chân trắng đã trở thành đối tượng nuôi phổ biến ở những quốc gia
này, đặc biệt Trung Quốc và Thái Lan. Năm 2007 sản lượng thẻ chân trắng
tăng lên nhanh chóng đạt trên 2.200.000 tấn đứng đầu sản lượng tôm nuôi trên
thế giới vượt qua cả sản lượng tôm sú, đang có xu hướng giảm xuống chưa tới
600.000 tấn (Sở Nông Nghiệp và PTNT. TPHCM, 2009).
2.4.2 Trong nước
Diện tích và sản lượng tôm nuôi, năm 2013 cả nước có 30 tỉnh/thành nuôi tôm
nước lợ. Tính tới thời điểm hiện tại diện tích đã thả nuôi đạt 652.612 ha bằng
99,2% so với cùng kì năm 2012. Trong đó, diện tích nuôi tôm sú là 588.894 ha,

nuôi tôm thẻ chân trắng 63.719 ha. Sản lượng thu hoạch tôm là 475.854 tấn,
trong đó sản lượng tôm sú là 232.853 tấn, tôm chân trắng là 243.001 tấn. Giá
trị xuất khẩu tôm đạt 2,5 tỷ USD tăng gần 33% so với cùng kì năm 2012 và
chiếm 44% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước (Nguồn: VASEP).
Năm 2013 diện tích tôm chân trắng đã đạt 63.719 ha, tăng 23.429 ha ( đạt
159,9% so với năm 2012) và chỉ chiếm 9,8% tổng diện tích nuôi tôm nhưng
sản lượng đã vượt sản lượng của tôm sú. Tôm chân trắng hiện đang được thả
nuôi với diện tích và sản lượng ngày càng tăng. Điểm hình tại Bạc Liêu, diện
tích nuôi tôm chân trắng đã đạt 479.8% so với cùng kì năm 2012 và bằng
472.7% so với kế hoạch (Hội nghị tổng kết nuôi tôm các tỉnh phía nam 2013 và
triển khai kế hoạch năm 2014. Bộ NN & PTNN).
Khu vực ĐBSCL chiếm 92,5% về diện tích và 79,8% sản lượng nuôi tôm nước
lợ của cả nước. Điểm hình, tỉnh Cà Mau có diện tích và sản lượng tôm nuôi
nước lợ cao nhất trong các tỉnh ở ĐBSCL, diện tích đạt 266.735 ha, sản lượng
133.500 tấn. Trong đó, diện tích tôm sú là 263.485, tôm thẻ là 3.250 ha. Sản
lượng tôm sú là 170.500 tấn, tôm thẻ chân trắng là 26.000 tấn (Hội nghị tổng
kết nuôi tôm các tỉnh phía nam 2013 và triển khai kế hoạch năm 2014. Bộ NN
& PTNN).
Tình hình sản xuất và cung ứng giống, năm 2013 cả nước có 1.722 cơ sở sản
xuất giống tôm sú và 583 cơ sở sản xuất giống tôm thẻ chân trắng. Sản lượng
giống sản xuất ước khoảng 68,4 tỷ con giống (trong đó: Tôm chân trắng: 47,2
tỷ, tôm sú: 21,3 tỷ con) (Hội nghị tổng kết nuôi tôm các tỉnh phía nam 2013 và
triển khai kế hoạch năm 2014. Bộ NN & PTNN).
Số lượng trại sản xuất tôm nước lợ chủ yếu tập chung tại các tỉnh Nam Trung
Bộ và Tây Nam Bộ, trong đó tại Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú
Yên chiếm khoảng 40% tổng số trại sản xuất tôm trên cả nước, sản lượng giống
tôm nước lợ ở khu vực này cung cấp chiếm khoảng 70% sản lượng giống của
cả nước. Các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang cũng cung cấp cho thị
trường một lượng lớn tôm giống. Trong đó, Ninh Thuận là tỉnh có số cơ sở sản
xuất giống tôm thẻ chân trắng cao nhất so với các tỉnh của cả nước, có 200 cỏ

sở và hàng năm các cơ sở này sản xuất 15.000 triệu con giống. Hiện nay, giá
giống tôm thẻ chân trắng từ 80-90 đồng/con, các tỉnh miền Bắc như Quảng
Ninh, Thái Bình, Nam Định do chi phí vận chuyển tăng cao, giá bán lên đến
hơn 90 đồng/con (Hội nghị tổng kết nuôi tôm các tỉnh phía nam 2013 và triển
khai kế hoạch năm 2014. Bộ NN
&
PTNN).
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài
Thời gian: Ngày 1 tháng 3 năm 2014 đến ngày 1 tháng 5 năm 2014.
Địa điểm: Trại sản xuất tôm sú giống Đăng Khoa. Địa chỉ 179C/5 Khu vực 1,
Phường An Bình, Quận Ninh Kiều, Thành Phố Cần Thơ.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên ấu trùng Nauplius tôm thẻ chân trắng được
mua từ công ty TNHH Đại thịnh, Vĩnh Tân - Tuy Phong - Bình Thuận. Các
công thức nước biển nhân tạo bao gồm công thức Chandra, công thức Dietrich
và kalle và công thức Dietrich và kalle cải tiến (Thạch Thanh và ctv, 2004)
3.3. Vật liệu nghiên cứu
3.3.1. Dụng cụ và trang thiết bị
Bể pha và xử lý nước thể tích 4m
3
Thùng nhựa 60 lít sử dụng để ương ấu trùng.
Bể nuôi tảo : bể composite 1m³.
Bể ấp Artemia.
Máy thổi khí, dây sục khí, đá bọt, val điều chỉnh.
Máy bơm nước, máy phát điện, máy ozone.
Túi lọc vải, túi lọc gòn.
Muỗng, ray, vợt với các mắt lưới tương ứng với từng giai đoạn.
Các bộ test pH, kH, NO

2
, Chlorine.
Kính hiển vi, ống siphon, thau nhựa, cốc thủy tinh, cân, khúc xạ kế, và một
số dụng cụ khác.
3.3.2 Hóa chất
Các hóa chất xử lý nước như: Chlorine, EDTA, Formaline, Thiosulphatenatri,
Bicarbonatnatri
3.3.3 Thức ăn
Tảo tươi Chaetoceros sp. được mua từ nguồn tảo đã phân lập sẵn tại Khoa
Thủy Sản, Trường đại học Cần Thơ.
Thức ăn gồm Lansy, Frippak1, Frippak2, Frippak150, Artemia Vĩnh Châu và
Artemia Mỹ.
3.3.4 Nguồn ấu trùng tôm thẻ
Ấu trùng Nauplius thẻ chân trắng được mua từ công ty TNHH Đại Thịnh, Vĩnh
Tân - Tuy Phong - Bình Thuận.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Xử lý nước
Nguồn nước trong các nghiệm thức đều được pha đến độ mặn 30‰, xử lý
60ppm Chlorine, sục khí 48 giờ, trung hòa Chlorine dư vừa đủ bởi Na
2
S
2
O
3,
lắng 24 giờ, lọc qua lưới lọc kích cỡ mắt lưới 1µm, Dùng EDTA 10 ppm để kết
tủa kim loại nặng. Kiểm tra nồng độ kiềm và pH nếu còn thấp thì dùng
Bicarbonatnatri và vôi CaCO
3
để nâng lên trước khi sử dụng.
3.4.2. Nuôi tảo

Tảo Chaetoceros, được nuôi theo môi trường Mac, giống tảo được mua từ khoa
thủy sản trường Đại Học Cần Thơ. Nuôi tảo trong nhà có mái che (ở S‰ =
25‰, nhiệt độ 26 - 29ºC, cường độ ánh sáng buổi sáng 1.100Lux, cường độ
ánh sáng buổi chiều 1.900Lux, ban đêm 400Lux) sau 3 - 4 ngày có thể dùng tảo
để cho vào bể ương ấu trùng theo từng giai đoạn Z
1
đến Z
3
.
3.4.3. Phương pháp ấp trứng Artemia
Trứng Artemia được khử trùng trước khi cho nở nhằm loại bỏ mầm bệnh bám
trên vỏ. Trứng trước khi ấp được ngâm trong nước ngọt khoảng 30 phút, sau đó
cho ngâm Javel 5 phút rồi rửa thật sạch bằng nước ngọt và đem ấp trứng trong
nước mặn từ 12 - 20‰ , sục khí liên tục. Sau 24h trứng nở, tắt sục khí dùng vợt
thu và xử lý bằng dung dịch formol 100 ppm trong 3 - 5 phút, rửa lại bằng
nước ngọt thật sạch trước khi cho ăn. Cho ấu trùng tôm ăn 2 lần/ngày vào các
giờ cố định: 9 giờ và 21 giờ bắt đầu từ giai đoạn Mysis 2.
3.4.4. Bố trí thí nghiệm
a) Thí nghiêm 1: Đánh giá sự ảnh hưởng của nước biển nhân tạo được pha từ 4
công thức khác nhau lên sự phát triển của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm thẻ
chân trắng.
 Nước ót có độ mặn khoảng 120‰ pha ra nước mặn 30‰, gọi là công
thức đối chứng (Nghiệm thức 1).
 Nước biển nhân tạo pha theo công thức của Chandra (Nghiệm thức 2).
 Nước biển nhân tạo pha theo công thức của D&K (Nghiệm thức 3).
 Nước biển nhân tạo pha theo công thức D&K cải tiến (Nghiệm thức 4)
(Thạch Thanh và ctv, 2004).
Thí nghiệm được bố trí trong nhà có mái che tránh gió và ánh sáng trực tiếp.
Mỗi nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trên bể 60 lít chứa 50 lít
nước, với mật độ ương là 200 ấu trùng/ lít và 4 lần lặp lại. Ban đầu cấp nước

vào mỗi bể 30 lít, quá trình chăm sóc cho ăn tảo dần dần nâng lượng nước lên
50 lít, sục khí liên tục 24/24 giờ, 1 viên đá bọt/ bể (giai đoạn N, Z
1,
Z
2,
sục khí
vừa, Z
3
sục khí nhẹ để lắng phân hút cặn ra ngoài)
Từ thí nghiệm 1 rút ra công thức nước biển tối ưu có tỉ lệ sống và tăng trưởng
chiều dài tốt nhất trong 3 công thức nước biển nhân tạo dẫn đến bố trí thí
nghiệm 2.
b) Thí nghiệm 2: ương nuôi ấu trùng và hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng trong
5 nghiệm thức với tỉ lệ pha trộn khác nhau dựa trên thí nghiệm 1.
 100% nước biển tự nhiên (nghiệm thức 1).
 25% nước biển nhân tạo 75% nước biển tự nhiên (nghiệm thức 2).
 50% nước biển nhân tạo 50% nước biển tự nhiên (nghiệm thức 3).
 75% nước biển nhân tạo 25% nước biển tự nhiên (nghiệm thức 4).
 100% nước biển nhân tạo (nghiệm thức 5).
Nước biển nhân tạo là công thức nước biển nhân tạo tốt nhất từ thí nghiệm 1.
Thí nghiệm được bố trí trong nhà có mái che tránh gió và ánh sáng trực tiếp.
Mổi nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẩu nhiên trên bể 60 lít chứa 50 lít
nước, với mật độ ương là 200 ấu trùng/ lít và 4 lần lặp lại.
Ban đầu cấp nước vào mỗi bể 30 lít, quá trình chăm sóc cho ăn tảo dần dần
nâng lượng nước lên 50 lít, sục khí liên tục 24/24 giờ, 1 viên đá bọt/ bể.
3.4.5. Chăm sóc và quản lý

×