Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sự biến động lãi suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.37 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất luôn được coi là một biến số nhạy cảm đối với đời sống kinh tế.
Nó tác động trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể kinh tế, ảnh hướng rất lớn đến
lợi nhuận của các nhà kinh doanh tài chính, quyết định hiệu quả kinh tế trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đã có rất nhiều các cuộc
nghiên cứu, tranh luận và bàn cãi về lãi suất, và diển biến của lãi suất được đưa
tin hầu như hàng ngày trên các bản tin, các báo, tạp chí và tập san chuyên ngành.
Lãi suất thực sự là một vấn đề nóng bỏng thu hút được sự quan tâm của nhiều
tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là các nhà kinh doanh trong thị trường tài chính.
Bàn về vấn đề lãi suất, chúng ta không thể phủ nhận lãi suất là một công
cụ sắc bén trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Song, việc sử dụng công cụ
này cũng giống như sử dụng một con dao hai lưỡi. Muốn điều hành nền kinh tế
có hiệu quả, đòi hỏi phải nắm bắt, nghiên cứu kỹ lưỡng lãi suất, nếu không nó sẽ
đem lại những kết quả nằm ngoài dự kiến. Đặc biệt đối với Việt Nam, vai trò
của lãi suất ngày càng trờ nên quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế thị
trường, đặc biệt trong giai đoạn đất nước ta tiến hành công cuộc công nghiệp
hóa- hiện đại hóa. Nhưng việc sử dụng công cụ này của chúng ta đã thực sự hiệu
quả chưa? Trong khoảng một năm trờ lại đây, lãi suất đã thực sự trở thành một
trong những vấn đề cấp thiết hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam. Và hiện nay,
việc dự đoán cũng như kiểm soát sự biến động của lãi suất là vô cùng khó khăn.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của lãi suất và tính thời sự của vấn đề này ở
Việt Nam, chúng em làm bài tiểu luận nghiên cứu về đề tài: “Sự biến động lãi
suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012”.
Đối tượng ngiên cứu của đề tài: Lãi suất ở Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Từ cuối năm 2010 đến tháng 2 năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tổng hợp.
Mục tiêu nghiên cứu: Đưa ra dự báo tình hình lãi suất năm 2012.
Kết cấu của tiểu luận: Ngoài lời mở đầu và kết luận, tiểu luận bao gồm ba
chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về lãi suất.
Chương 2: Thực trạng tình hình lãi suất năm 2011.


Chương 3: Dự báo lãi suất năm 2012.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
I. KHÁI NIỆM LÃI SUẤT
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị
thời gian nhất định (ngày, tuần, tháng hay năm). Hay ta có thể hiểu một cách đơn
giản như sau: Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả
thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của
phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi suất là
giá mà người đi vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và
là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Diễn biến của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của
mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của cá nhân như chi tiêu
hay để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiết kiệm. Lãi suất cũng tác
động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp. Do những ảnh hưởng
đó, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền
kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
II. PHÂN LOẠI LÃI SUÂT
Dưới đây là một số cách phân loại lãi suất dựa theo những tiêu chí khác
nhau:
1. Căn cứ vào nghiệp vụ ngân hàng
- Lãi suất tiền gửi ngân hàng: Là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản
tiền gửi vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tùy
thuộc vào loại tiền gửi (nội tệ hay ngoại tệ), loại tài khoản (tiền gửi thanh toán
hay tiền gửi tiết kiệm), loại thời hạn (không kỳ hạn, ngắn hạn hay dài hạn), quy
mô tiền gửi.
- Lãi suất tín dụng ngân hàng: Là lãi suất mà người đi vay phải trả cho
ngân hàng (người cho vay). Lãi suất tín dụng ngân hàng cũng có nhiều mức tùy
theo loại tiền, thời hạn, phương thức, mục đích của tiền vay.
- Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới

hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh
toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy
tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khách hàng.
- Lãi suất tái chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các
ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy
tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng
được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được
khấu trừ ngay khi ngân hàng trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng.
Lãi suất tái chiết khấu do ngân hàng trung ương ấn định và thông thường
nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong trường hợp cần hạn chế khả năng
mở rộng tín dungj của hệ thống ngân hàng, nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát,
ngân hàng trung ương có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng hoặc thậm chí
cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng.
- Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình
thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự
chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung
ương.
- Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để
ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác
nhau ở tùy từng nước nhưng đều được hình thành trên cơ sở thị trường và có
một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
2. Căn cứ vào giá trị của tiền lãi
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ.
Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng tín
dụng và ghi rõ trên công cụ nợ.
- Lãi suất thực: Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những
thay đổi về lạm phát. Lãi suất thực phản ảnh chính xác khoản thu nhập thực tế từ
tiền lãi mà người cho vay nhận được.
- Lãi suất thực trả: Lãi suất ghi trên hợp đồng thường là tỷ lệ %/năm,

tuy nhiên việc trả lãi lại có thể diễn ra định kỳ hàng tháng, quý,…, do đó, so với
mức lãi suất ghi trên hợp đồng thì mức lãi suất thực trả sẽ cao hơn mức lãi suất
ghi trên hợp đồng.
3. Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
- Lãi suất cố định: Là lãi suất được quy định cố định trong suốt thời hạn
vay. Nó có ưu điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước nhưng nhược điểm
là bị ràng buộc vào một mức lãi suất nhất định trong một khoảng thời gian dù
cho lãi suất thị trường đã thay đổi.
- Lãi suất thả nổi: Là lãi suất được quy định là có thể lên xuống theo lãi
suất thị trường trong thời hạn tín dụng. Nó vừa chứa đựng cả rủi ro lẫn lợi
nhuận. Khi lãi suất tăng lên thì người đi vay bị thiệt trong khi người cho vay
được lợi và ngược lại với trường hợp lãi suất giảm xuống.
4. Căn cứ vào loại tiền cho vay
- Lãi suất nội tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ
- Lãi suất ngoại tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ.
5. Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế
- Lãi suất trong nước (Lãi suất địa phương): Là lãi suất áp dụng cho các
hợp đồng tín dụng trong một quốc gia.
- Lãi suất quốc tế: Là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng quốc
tế.
Các hợp đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất của thị trường quốc
gia nào thì lãi suất của quốc gia đó trở thành lãi suất quốc tế.
III. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
1. Lãi suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn
và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công
nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt
Nam, trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích lũy và sử dụng vốn có tầm
quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy
chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn

nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế. Việc đảm bảo đúng định hướng vốn
trong nước là quyết định, và sử dụng hiệu quả vốn ngoài nước là rất quan trọng
trong chiến lược công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất
phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích lũy cho cả người cho vay và
người đi vay. Cụ thể:
- Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi
nhuận bình quân.
- Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (Đối với cả tiền gửi và tiền vay).
2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi
mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả
cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất thấp, các doanh nghiệp có
điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại, khi lãi suất cao thì họ sẽ cân
nhắc kỹ hơn việc đầu tư mở rộng.
Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa
vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho
việc đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán
hay gửi tiền vào ngân hàng nếu lãi suất cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị định trệ, hàng hóa ứ đọng và hạ giá,
có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất (vì nguyên tắc
cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư), sự chênh lệch
đó sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
Có thể nói rằng đầu tư và lãi suất có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhâp của mỗt hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu
dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu
nhập, vấn đề hàng hóa lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm
trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho

việc tiêu dùng hàng hóa nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn; khi lãi suất cao sẽ đem lại
thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết
kiệm tăng.
4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động suất khẩu
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ.
Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa.
Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì
tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát
không đổi) thì tỷ giá tăng. Khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá
(tỷ giá giảm) và ngược lại.
Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình xuất nhập khẩu: Khi lãi suất
thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá đối đoái cao hơn làm
hàng hóa của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn và hàng hóa nước ngoài ở
nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng.
Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng: Khi lãi suất tiền gửi
bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch chuyển sang
phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu sẽ trở nên rẻ hơn so với các quốc
gia khác.
5. Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và
lạm phát. Fishes đã chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do đó lãi
suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát. Cụ thể là việc tăng lãi suất sẽ thu hẹp
được lượng tiền trong lưu thông, từ đó lạm phát được kìm chế.
Tuy nhiên, việc dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài
vì nó sẽ làm giảm đầu tư, tổng cầu và sản lượng. Do vậy phải áp dụng kết hợp
với các công cụ khác một cách có hiệu quả.
6. Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân
bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị
trường cho thấy giá cả đóng vai trờ cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các

nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá
cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã
hội. Để quyết định đầu từ vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản nào
đó, chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu
được với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét việc đầu tư này có
mang lại lợi nhuận hay không và có đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản
tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Nói cách khác, khi quyết
định đầu tư, ta phải quan tâm tới chênh lệch giữa lợi nhuận đem lại với số tiền
vay phải trả. Khi chênh lệch này là dương thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó,
đó là sự phân bổ có hiệu quả.
7. Vai trò của lãi suất đối với Ngân hàng thương mại(NHTM)
Hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của NHTM là huy động
vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của mình. Với phương
châm: “ đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm thời nhãn rỗi trong các
doanh nghiệp và hộ gia đình để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu tiêu
dùng khác của người dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải
xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy
động tiền gửi quá thấp thì không thể khuyến khích các danh nghiệp và hộ gia
đình gửi tiền vào, dẫn đến NHTM không đủ vốn đề đáp ứng nhu cầu vay vốn
của khách hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh không có lãi hoặc lãi quá thấp sẽ thi hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt
động để gửi vốn vào ngân hàng.
Lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động
kinh doanh của NHTM và khách hàng. Nếu lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan
trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triền và ngược lại. Bởi vậy, lãi
suất vừa là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô
của các NHTM.

×