Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SỬ 11 BÀI 20 : CHIẾN SỰ LAN RỘNG RA TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN TA TỪ NĂM 1873 ĐẾN 1884 NHÀ NGUYỄN ĐẦU HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.33 KB, 15 trang )

Sử 11-Bài 20:CHIẾN SỰ LAN RỘNG RA TOÀN QUỐC .CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA
NHÂN DÂN TA TỪ NĂM 1873 ĐẾN NĂM 1884 , NHÀ NGUYỄN ĐẦU HÀNG.
I. THỰC DÂN PHÁP ĐÁNH CHIẾM BẮC KÌ LẦN THỨ NHẤT (1873). KHANG
CHIẾN LAN RỘNG RA BẮC KÌ
1. Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất
Sau khi Pháp đánh chiếm 6 tỉnh Nam Kì, tư tưởng chủ hòa trong triều đình thắng
thế .
- Chính trị: triều Nguyễn tiếp tục chính sách “bế quan tỏa cảng”.
- Kinh tế: ngày càng kiệt quệ.
- Xã hội: nhân dân bất bình, nổi dậy chống triều đình .
- Nhiều sĩ phu muốn canh tân đất nước nhưng đa phần các đề nghị cài cách không
được thực hiện.
2. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc kì lần thứ nhất (1873).
-Sau khi chiếm Nam Kì, Pháp thiết lập bộ máy cai trị, biến nơi đây thành bàn đạp xâm
chiếm Bắc Kì.
- Viện cớ giúp triều đình nhà Nguyễn giải quyết vụ lái buôn Đuy-puy đang gây rối ở Hà
Nội, Pháp đem quân xâm chiếm Bắc Kì.
- Tháng 11/1873, Gác-ni-ê đem quân tới Hà Nội. Ngày 19/11/1873, Gác-ni-ê gửi tối hậu
thư cho Nguyễn Tri Phương – Tổng đốc thành Hà Nội, yêu cầu giải tán quân đội, nộp vũ
khí và cho Pháp đóng quân trong nội thành. Không đợi trả lời, ngày 20/11/1873, Pháp
chiếm thành; sau đó mở rộng đánh chiếm Hưng Yên, Phủ Lí, Hải Dương, Ninh Bình,
Nam Định.

Pháp đánh Bắc Kỳ năm 1873-1882
3. Phong trào kháng chiến ở Bắc Kì trong những năm 1873 – 1874.

Chiến trường Hà Nội
- Khi Pháp đánh thành Hà Nội, 100 binh lính đã chiến đấu và anh dũng hi sinh tại ô Quan
Chưởng.
- Tổng đốc Nguyễn Tri Phương (73 tuổi )chỉ huy quân sĩ chiến đấu dũng cảm. Nguyễn
Tri Phương hi sinh, thành Hà Nội thất thủ, quân triều đình nhanh chóng tan rã. Con trai


ông Nguyễn Lâm cũng hi sinh
- Nhân dân tiếp tục chiến đấu quyết liệt, buộc Pháp phải rút về các tỉnh lị cố thủ.
- Trận đánh gây tiếng vang lớn là trận Cầu Giấy (21/12/1873). Gác-ni-ê tử trận.
-Pháp hoảng hốt, tìm cách thương lượng với triều Huế kí Hiệp ước 1874. Theo đó, triều
Huế nhượng hẳn 6 tỉnh Nam Kì cho Pháp, Việt Nam “chiểu” theo đường lối ngoại giao
của Pháp, Pháp được tự do buôn bán và được đóng quân tại những vị trí then chốt ở Bắc
Kì.
-Hiệp ước gây nên làn sóng bất bình trong nhân dân. Cuộc kháng chiến của nhân dân
chuyển sang giai đoạn mới: vừa chống Pháp vừa chống triều đình phong kiến đầu hàng.
Ô Quan Chưởng: Đây là một trong những cửa Ô còn sót lại của toà thành Thăng
Long cũ, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749) , đến năm Gia Long thứ 3
được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay (cho HS xem ảnh của Ô Quan
Chưởng hoặc trình chiếu Powerpoint ). Hiện ở cửa ô còn nguyên cửa chính và hai cửa
phụ hai bên. Bên trên cửa lớn có ghi ba chữ Hán “Đông Hà Môn” tức là cửa ô Đông
Hà. Sở dĩ cửa ô còn có tên gọi là Ô Quan Chưởng vì ngày 20.11.1873 Pháp đánh thành
Hà Nội, khi đến cửa ô Đông Hà chúng đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của 100 binh
sĩ triều đình do một viên quan Chưởng cơ chỉ huy anh dũng chặn giặc, kết cục viên
Chưởng cơ cùng toàn thể 100 binh sĩ đều anh dũng hy sinh. Để tỏ lòng ngưỡng mộ người
chưởng cơ anh dũng , nhân dân đổi tên cửa ô là Ô Quan Chưởng. Từ bấy đến nay người
ta vẫn chưa xác minh được tên gọi của vị chưởng cơ anh hùng. Vì vậy tên Ô Quan
Chưởng vẫn còn đó như một tồn nghi của lịch sử.

Ô Quan Chưởng - một trong năm cửa ô của thành Thăng Long xưa (Hà Nội nay).

Gác-ni-ê tử trận tại Cầu Giấy(21/12/1873 .
II. THỰC DÂN PHÁP TIẾN ĐÁNH BẮC KÌ LẦN THỨ HAI (1882). CUỘC KHÁNG
CHIẾN Ở BẮC KÌ VÀ TRUNG KÌ TRONG NHỮNG NĂM 1882 – 1884.
1. Quân Pháp đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh Bắc kì và Trung kì trong những năm
1882 và 1884.
- Năm 1882, Pháp vu cáo triều đình vi phạm Hiệp ước 1874 để lấy cớ kéo quân ra

Bắc Kì.
- Ngày 03/04/1882, Đại tá Ri-vi-e đổ bộ lên Hà Nội gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu,
yêu cầu giao thành trong ba tiếng đồng hồ. Chưa hết hạn, quân Pháp đã nổ súng chiếm
thành, sau đó chiếm mỏ than Hồng Gai, Quảng Yên, Nam Định.


Quân Pháp tấn công thành Hà Nội

2. Nhân dân Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì kháng chiến.
- Quan quân triều đình và Tổng đốc Hoàng Diệu anh dũng chiến đấu bảo vệ thành Hà
Nội. Khi thành mất, Hoàng Diệu tự vẫn. Triều Nguyễn hoang mang, cầu cứu nhà Thanh.
- Nhân dân ta dũng cảm chiến đấu chống Pháp:
+ Các sĩ phu không tuân lệnh triều đình, tiếp tục tổ chức kháng chiến.
+ Quân dân ta tích cực chiến đấu, gây cho Pháp nhiều khó khăn, tiêu biểu là trận Cầu
Giấy lần hai (19/05/1883), giết chết Ri-vi-e.
III. THỰC DÂN PHÁP TẤN CÔNG CỬA BIỂN THUẬN AN. HIỆP ƯỚC 1883 VÀ
1884

Pháp tấn công cửa biển Thuận An (Huế)

Chiến trường Huế 1883-1885
1. Quân Pháp tấn công cửa biển Thuận An.
- Lợi dụng Tự Đức mất, triều đình lục đục vua Tự Đức mất, Pháp đánh thẳng vào Huế,
buộc triều Nguyễn phải đầu hàng.
- Ngày 18/08/1883, Đô đốc Cuốc-bê chỉ huy chiếm các pháo đài ở cửa Thuận An. Đến
chiều tối20.8.1883 , toàn bộ cửa biển Thuận An lọt vào tay giặc.
2. Hai bản hiệp ước 1883 và 1884. Nhà nước phong kiến Nguyễn đầu hàng.
- Nghe tin Pháp tấn công Thuận An, triều Huế xin đình chiến, kí Hiệp ước Hác-măng
(1883). Nội dung: :
- Việt Nam đặt dưới sự “bảo hộ” của Pháp.

+ Nam Kì là thuộc địa, Bắc Kì là đất bảo hộ, Trung Kì do triều đình quản lí.
+ Đại diện của Pháp ở Huế trực tiếp điều khiển ở Trung Kì.
+ Ngoại giao của Việt Nam do Pháp nắm giữ.
- Về quân sự: triều đình phải nhận các huấn luyện viên và sĩ quan chỉ huy của Pháp,
phải triệt hồi binh lính từ Bắc Kì về kinh đô, Pháp được tự do đóng quân ở Bắc Kì, được
toàn quyền xử trí quân Cờ Đen.
- Về kinh tế: Pháp kiểm soát toàn bộ các nguồn lợi trong nước.
- Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến
- Sau hiệp ước Hác-măng, triều đình ra lệnh giải tán các phong trào kháng chiến nhưng
những hoạt động chống Pháp ở Bắc Kì vẫn không chấm dứ.
- Ngày 06/06/1884, Pháp kí với triều Nguyễn hiệp ước Pa-tơ-nốt, căn bản dựa trên Hiệp
ước Hác-măng nhưng sửa chữa một số điều nhằm xoa dịu dư luận và mua chuộc thêm
những phần tử phong kiến bán nước đầu hàng.

Thái độ của triều đình Huế và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1858-1885)
Tham khảo :
1. Trận Cầu Giấy lần thứ nhất (21/12/1873) và ảnh hưởng của nó đến cục diện chiến
tranh?
a. Trận Cầu Giấy lần thứ nhất.
- Sau khi đánh chiếm thành Hà Nội, Gác-ni-ê liền mở rộng phạm vi chiếm đóng
ra các tỉnh Hưng Yên, Phủ Lý, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định.
- Quân của Hoàng Tá Viêm và quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở Sơn Tây
phối hợp với quân của Trương Quang Đản ở Bắc Ninh kéo về bao vây thành Hà Nội.
Gác-ni-ê phải kéo quân từ Nam Định về giữ Hà Nội.
- Sáng ngày 21/12/1873, Lưu Vĩnh Phúc kéo quân vào sát thành Hà Nội khiêu
chiến. Gác-ni-ê đang hội đàm với phái đoàn triều đình Huế đã bỏ dở cuộc họp, chỉ huy
quân đuổi theo, bị lọt vào trận phục kích của ta tại Cầu Giấy, Gác-ni-ê và nhiều binh sĩ
bị giết tại trận.
b. Cục diện chiến tranh sau trận Cầu Giấy.

* Về phía Pháp:
- Trận Cầu Giấy lần thứ nhất là tổn thất nặng nề nhất của Pháp kể từ khi tấn công Bắc
Kì lần thứ nhất, khiến quân Pháp hoang mang, lo sợ.
- Lúc này, nước Pháp đang gặp nhiều khó khăn nên chưa thể tăng viện, quân Pháp lúng
túng hoảng hốt , dự tính rút khỏi Bắc Kì.
* Về phía ta:
- Chiến thắng Cầu Giấy làm nức lòng nhân dân cả nước, nhân dân hăng hái chống
giặc, , rào làng kháng chiến, nhiều đội nghĩa binh thành lập…
- Các đội quân của Hoàng Tá Viêm, Lưu Vĩnh Phúc, Trương Quang Đản bất chấp lệnh
bãi binh của triều đình, tiếp tục mộ quân, củng cố lực lượng sẵn sàng đánh Pháp.
Sau trận Cầu Giấy, cục diện chiến tranh thay đổi có lợi cho ta, quân Pháp đứng trước
tình thế khó khăn, có thể bị tiêu diệt ở Bắc Kì, nhưng triều Nguyễn đã bỏ lỡ cơ hội tiêu
diệt giặc, ra lệnh bãi binh và giải tán các đội dân binh để thương lượng với Pháp kí Hiệp
ước 1874, nhờ đó, Pháp thoát khỏi thế bị tiêu diệt.
2. Nêu và nhận xét vê nội dung Hiệp ước Giáp Tuất 1874.
- Theo Hiệp ước 1874, triều Huế nhượng hẳn 6 tỉnh Nam Kì cho Pháp, Việt Nam “chiểu”
theo đường lối ngoại giao của Pháp, Pháp được tự do buôn bán và được đóng quân tại
những vị trí then chốt ở Bắc Kì.
- Qua Hiệp ước, Pháp đã đặt được cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế ở Bắc Kì, qua đó, đặt
cơ sở cho việc xâm chiếm Bắc Kì lần hai.
- Với Hiệp ước 1874, chủ quyền ngoại giao của Việt Nam bị xâm phạm nguyên trọng, là
nguyên cớ cho Pháp lợi dụng đánh chiếm Bắc Kì lần hai.
- Về lãnh thổ, chủ quyền triều Nguyễn bị thu hẹp, quyền chiếm đóng của Pháp ở Nam Kì
lục tỉnh đã được thừa nhận
- Hiệp ước gây nên làn sóng bất bình trong nhân dân. Cuộc kháng chiến của nhân dân
chuyển sang giai đoạn mới: vừa chống Pháp vừa chống triều đình phong kiến đầu hàng.
3. Cuộc kháng chiến ở Bắc Kì lần thứ nhất có điểm gì đáng chú ý?
- Về lãnh đạo: triều đình phong kiến, đại diện là Nguyễn Tri Phương chỉ huy
quân dân chống Pháp nhưng đã nhanh chóng thất bại. Sau đó, triều đình chuyển sang
thương thuyết với giặc, không quyết tâm kháng Pháp (mặc dù vần còn một số quan quân

triều đình kiên quyết chỉ huy nhân dân chống Pháp như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Tá
Viêm, Trương Quang Đản…)
- Về lực lượng: ngoài quân đội triều đình còn có đông đảo các tầng lớp nhân
dân.
- Về quy mô: phong trào diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp, đạt một số thành tựu (trận
Cầu Giấy), nhưng còn phân tán, thiếu thống nhất.
- Về tính chất: Cuộc kháng chiến mang tính dân tộc, thuộc phạm trù phong kiến.
Lúc đầu là triều đình lãnh đạo nhân dân chống Pháp, sau chuyển sang giai đoạn mới:
nhân dân vừa chống Pháp vừa chống triều đình phong kiến đầu hàng.
4. Nguyên nhân nào làm cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của quân dân ta
từ 1858 – 1884 bị thất bại?
Trong thời kỳ đầu tấn công xâm lược nước ta, giặc Pháp đã vấp phải sức kháng cự
ngoan cường của quân dân ta chiến đấu dưới ngọn cờ triều đình. Có lúc, giặc đã lâm
vào tình thế nguy ngập, phải tính đến chuyện rút quân về nước để tránh bị tiêu diệt. Thay
vì tiếp tục phát huy ưu thế, dựa vào sức mạnh toàn dân, chú trọng tập kích và tiêu diệt
địch, không cho chúng có điều kiện thuận lợi để thay đổi tình thế, thì ngược lại, nhà
Nguyễn đã lựa chọn con đường cầu hòa với Pháp để đối phó với phong trào nông dân
trong nước, thậm chí có lúc còn hợp tác với kẻ thù để đàn áp phong trào khởi nghĩa của
quần chúng, tạo điều kiện cho Pháp từng bước thôn tính nước ta.
- Một bộ phận quân triều đình kiên quyết đánh Pháp như Nguyễn Tri Phương, Hoàng
Diệu… thì bị chi phối bởi tư tưởng chiến thuật quân sự kiểu phong kiến (phòng ngự, dựa
vào thành lũy cố thủ) nên cuối cùng cũng thất bại.
- Phong trào kháng chiến của nhân dân diễn ra liên tục, rộng khắp , gây nhiều khó khăn,
tổn thất cho giặc nhưng lại thiếu tổ chức, thiếu sự lãnh đạo thống nhất nên cuối cùng đều
thất bại. Bộ phận lãnh đạo phong trào kháng chiến của nhân dân chủ yếu là các văn
thân sĩ phu yêu nước do hạn chế về giai cấp, về lịch sử nên chưa có đường lối sách lược
đúng đắn, còn mang nặng tư tưởng phong kiến.
- Là thế lực cầm quyền trị nước, nhà Nguyễn không thể không nhận lãnh trách nhiệm để
mất nước vào tay Pháp. Triều Nguyễn ban đầu đã có nhiều cố gắng chống chọi với cuộc
xâm lược của thực dân Pháp. Tuy nhiên, trước kẻ thù vừa hơn hẳn về quân sự lại hết sức

khôn khéo trong bước đường xâm lược, triều Nguyễn đã không tìm được những chủ
trương và biện pháp hữu hiệu để vượt qua thử thách quá khó khăn của lịch sử. Các chính
sách của họ đã khiến họ tách rời dần cuộc kháng chiến của nhân dân, làm cho khả năng
đề kháng của quân dân ta ngày càng hao mòn, tạo điều kiện cho kẻ địch lấn lướt từ bước
này đến bước khác.
Đường lối của triều Nguyễn trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cho thấy từ vị thế
lãnh đạo nhân dân chống giặc, họ đã đi những bước lùi nghiêm trọng sang chủ trương
“thủ để hòa” rồi đi đến “chủ hòa” và “đầu hàng”. Họ đã không có khả năng đoàn kết
toàn dân nhằm phát động một cuộc chiến tranh nhân dân chống giặc mà thậm chí còn
phá hoại cuộc kháng chiến của nhân dân, đi ngược lại quyền lợi dân tộc. Họ đã dần dần
từ bỏ vị trí lãnh đạo, để mặc người dân Việt phải tự vẫy vùng tìm lối thoát riêng cho
mình bằng các cuộc khởi nghĩa, nổi dậy chống cả Pháp lẫn triều Huế, buộc Pháp phải
mất gần 30 năm mới chinh phục và đô hộ được Việt Nam.
5. Dựa vào bài học, lập bảng thống kê (theo mẫu) về phong trào kháng chiến chống
Pháp của nhân dân ta từ 1858 – 1884.
Giai đoạn Diễn biến chính Tên nhân vật tiêu
biểu
1858 –
1862
- Khi Pháp tấn công Đà Nẵng, Gia Định, nhân
dân đã cùng triều đình chống giặc, là thất bại
âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp.
- Khi Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông,
nhân dân đã bất chấp lệnh bãi binh của triều
đình, tiếp tục lập căn cứ kháng Pháp, gây nhiều
tổn thất cho địch.
Trương Định,
Nguyễn Trung Trực,
Võ Duy Dương,
1863 đến

trước 1873
- Sau Hiệp ước 1862, Pháp tiếp tục đánh chiếm
3 tỉnh miền Tây, phong trào kháng chiến của
Trương Quyền,
Nguyễn Hữu Huân,
nhân dân Nam Kì phát triển, nhiều trung tâm
kháng chiến được xây dựng: Đồng Tháp Mười,
Tây Ninh, Bến Tre, Rạch Giá, Hà Tiên,….
Nguyễn Trung Trực,
Phan Tôn, Phan
Liêm…
1873 - 1884
- Pháp 2 lần tấn công Bắc Kì, nhân dân sát
cánh cùng triều đình, đào hào, đắp lũy, lập các
đội dân binh…. chống giặc.
- Pháp thiệt hại nặng ở hai trận Cầu Giấy
Hoàng Tá Viêm,
Trương Quang Đản,
Lưu Vĩnh Phúc,
Phạm Văn Nghị…

Lễ ký kết Hiệp ước Quý Mùi tại Thuận An-Huế, ngày 25 tháng 8 năm 1883, trong đó:
Trần Đình Túc (ngồi đầu bên trái), Francois Jules Harmand (thứ 3 bên trái) và Nguyễn
Trọng Hợp (người đứng bên phải).

Hiệp ước Giáp Tuất bao gồm 22 khoản với các khoản chính sau:
Điều 2: “Tổng thống nước cộng hòa Pháp thừa nhận chủ quyền của vua An Nam và
quyền hoàn toàn độc lập của nhà vua đối với tất cả các cướng quốc khác, hứa giúp đỡ
nhà vua, và hễ khi nhà vua yêu cầuthì, không đòi tổn phí, Pháp sẵn sàng giúp nhà vua để
giữ gìn trật tự và an ninh trong nước, để bảo vệ nhà vua khỏi một cuộc tiến công và để

tiêu diệt kẻ cướp đường phá hoại một phần duyên hải của vương quốc”.
Nói một cách khác hơn, Pháp có thể lấy cớ đánh giặc bể và gìn giữ trị an giùm mà đem
binh vào Trung Bắc nhất là Bắc, điều ấy chúng sẽ tự tiện làm về sau, lúc chúng quyết
định chinh phục cả nước Việt Nam, chúng sẽ viện cớ là đem quân vào đánh quân Lưu
Vĩnh Phúc. Theo điều 2 này, Tự Đức đã mất một phần quyền nội chính. Hơn nữa câu
“Độc lập của nhà vua đối với tất cả các cường quốc” trong trí của Pháp, có ý nghĩa là
Tự Đức được coi như là hoàn toàn không tùy thuộc gì đối với triều đình Bắc Kinh.
Điều 3: “Để trả ơn cho sự bảo hộ đó, nhà vua An Nam cam kết là chính sách ngoại giao
của Pháp, nhà vua cũng cam kết không thay đổi trong quan hệ ngoại giao hiện tại”.
Nhà vua không được kí thương ước với nước nào trái với ý muốn của Pháp mà không
cho Pháp biết trước.
Như hết là nếu thi hành hòa ước 1874 thì, về mặt ngoại, triều đình Tự đức đã làm chư
hầu của Pháp rồi. Và thị trường Việt Nam bị bắt đầu thành ra nơi giành riêng cho tư bản
Pháp.
-Điều 4: nói rằng “Pháp sẽ biếu cho Tự Đức 1.000 tay súng, nhưng mỗi khẩu chỉ có 500
viên đạn, 100 đại bác nhưng mỗi khẩu chỉ có 200 viên đạn và 5 tầu máy nhỏ, lẽ tất nhiên
đó chỉ là miếng mồi để nhử Tự Đức phải nhận dùng võ quan Pháp để huấn luyện bộ đội,
dùng thủy quân Pháp để trong nom tầu, và hơn nữa, dùng chuyên gia về tài chính để tổ
chức thuế vụ, dùng giáo sư Pháp để lập trường trung học ở Huế.
Đó là cách hay nhất để nắm tài chính và quân đội”
-Điều 5: Triều đình Huế thừa nhận chủ quyền của Pháp trên tất cả Nam Kì lục tỉnh (Ta
nhớ rằng tới nay triều đình chưa thừa nhận việc Pháp chính chiếm chiếm ban tỉnh miền
Tây Nam Kì). Điều này thật là quá ý muốn của Đuy-pơ-rê, tên này nghĩa rằng có thể
“trả” lại ba tỉnh miền Tây nếu Tự Đức nhận kí hiệp ước đặt quyền bảo hộ của Pháp.
-Điều 8: Nói rằng triều đình Huế phải ân xá tất cả những người Việt Nam đã cộng tác
với Pháp
-Điều 9: Triều đình thừa nhận quyền tự do đi lại truyền giáo của các giáo sĩ phương
Tây, vào làng ra xóm khỏi phải trình, quyền tự do theo đạo và làm lễ của người Việt
Nam, triều đình không được thống kê người theo đạo, người theo đạo được quyền đi thi
cử, được quyền làm các chức vụ, triều đình không được dùng lời lẽ thóa mạ công giáo.

Họ đạo có quyền lập nhà thờ trường học,…
Bằng 8 điều này, thực dân pháp tiếp tục chuẩn bị những điều kiện chính trị để hành động
mạnh hơn khi có thời cơ thuận lợi hơn nay.
-Điều 11: Triều đình cam kết mở cảng Thị Nại (Quy Nhơn) ở Bình Định, Ninh Hải (tức
Hải Phòng), ở Hải Dương mở thương cảng Hà Nội, mở sông Nhị Hà. Và tùy theo tình thế
về sau, sẽ mở thêm nhiều sông rạch và thương cảng khác
Điều 12: Ở các tỉnh thành đã kể trên, người Pháp được tự do làm thương mại hay kỹ
nghệ mà triều đinh phải cung cấp đất cát cho họ cất kho làm nhà. Họ được tự do buôn
bán với Vân Nam, được tự do mướn người Việt Nam vào các công việc của họ
-Điều thứ 13: Ở mỗi nơi khai phóng cho thương mại thì người lãnh sự hay viên đại lý
Pháp có quyền tối đa 100 quân lính riêng
Như thế Pháp có khả năng có nhiều quân ở Trung Bắc hơn là hồi Gác-nhê hoành hành.
-Điều thứ 15: Người Pháp hay người ngoại quốc nào muốn đi vào nội địa Việt Nam phải
có giấy thông hành của Pháp cho, và họ không có quyền buôn bán, nếu buôn bán thì
hàng hóa bị tịch thu.
Rõ ràng là Pháp muốn dành hẳn thị trường này cho Pháp, Pháp cố ngăn trở không cho
triều đình Huế giao thiệp với nước khác trừ nước Pháp.
-Điều thứ 16 : Có sự kiện cáo của người Việt Nam và người Pháp tòa án Việt Nam
không có quyền tự ý xử người Pháp, và ngay trên đất Trung và Bắc của Việt Nam, người
Việt Nam và người Pháp có gì xung đột nhau thì chỉ có tòa án Pháp có quyền phân xử
mà thôi.
Đó là nhận quyền trị ngoại, đó là cầm cố chủ quyền của đất nước rồi.

Hòa ước 25-8-1883
(Hiệp ước Hác - Măng)
Trong tình hình rối loạn của triều đình sau khi vua Tự Đức chết, trong tình hình thất bại ở
Thuận An dồn dập đến, triều đình Huế bị áp lực của súng đồng phải làm hòa ước mới.
Giữa lúc đó tin thắng trận ở ngoại thành Hà Nội không làm triều đình phấn khởi chút nào.
Triều đình sai Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp làm chính và phó toàn quyền đến
quán sứ Pháp, nói thương thuyết, chớ kì thật là đến nhận điều kiện của Hác Măng.

Theo hòa ước này thì triều đình Huế hoàn toàn thừa nhận sự đô hộ của Pháp. Tỉnh Bình
Thuận bị sát nhập vào Nam Kì lục tỉnh (thuộc địa). Quân Pháp vĩnh viễn chiếm đóng
phòng tuyến Thuận An và các pháo đài ở cửa sông Hương. Triều đình thừa nhận Pháp đặt
ở mỗi tỉnh Bắc Kì và Thanh Hóa, Nghệ An, một viên công sự, có một đội quân Pháp trợ
uy (ý định của Pháp từ nay đã tỏ rõ chia cắt Việt Nam ra làm ba, Nghệ Tĩnh trở ra Bình
Thuận trở vào là thuộc địa, triều đình Huế còn lại một số tỉnh nghèo nàn, ít dân thì bị
“bảo hộ”, mở cảng Xuân Đài và Đà Nẵng. Tất cả thuế thương chính của toàn bộ Việt
Nam về tay Pháp quản trị. Pháp có quyền lập dây thép từ Sài Gòn đến Hà Nội qua các
tỉnh. Ở Huế có một khâm sứ giám sát mọi việc của triều đình. Vua phải trực tiếp với
Khâm sứ. Triều đình giao tỉnh Bình Thuận nhập vào Nam Kì thì khỏi phải trả chiến phí.
Nhưng ít ra thì mỗi năm, nhà vua được lĩnh lương 2 triệu lấy trong số tiền thuế và chính
thương ở Bắc Kì. Sứ giả Pháp không quên ông Bầu của sự xâm lăng: tiền của nhà băng
Đông Dương đã lưu hành Nam Kì nay được lưu hành cả nước Việt Nam
Hác Măng liền trở ra Bắc Kì để tiếp tục chiến tranh. Trước khi đi, hắn xin pháp gắn huân
chương cho vua Hiệp Hòa và giao cho hai sứ giả của triều đình và Trần Đình Túc và
Nguyễn Trọng Hiệp (bộ trưởng bộ nội vụ và bộ trưởng ngoại giao), xin gắn huân chương
cho cố Cát-pa – những kẻ “có công” với Pháp trong việc lập hòa ước nô lệ 1883 (cũng
gọi là hiệp ước Hác Măng)
Hòa ước này chứng tỏ thái độ đầu hàng của phần đông bọn cầm quyền ở Huế, trừ số đông
của cánh cửa quan muốn đánh. Hòa ước này không khỏi làm nhụt một phần chí khí chiến
đấu của quan quân và nhân dân ở các nơi. Tuy nhiên quân dân ngoài Bắc vẫn quyết tâm
đánh giặc và nhân dân Trung Nam, mặc dù không lệnh khởi nghĩa, đã tụ hợp nhau để ứng
phó làm cho hòa ước Hắc Măng không được thực hiện đầy đủ (ví như ở Bình Thuận ở
Thanh Nghệ Pháp không đặt công sứ được)
[Trần Văn Giàu, 2001, Chống Xâm lăng, tr 432 -433
Hiệp ước Pa-tơ-nốt(Gồm 19 khoản).Đây là khoản cơ bản nhất
Khoản 1- Nước Đại Nam tự nhận quyền nước Đại Pháp bảo hộ. Do đó, nếu Đại Nam có
cùng giao thông với ngoại quốc nào thì nước Pháp che chở làm hộ cho công việc ấy,
người Nam cư trú ở nước ngoài thì thuộc quyền bảo hộ của nước Pháp.
Khoản 2- Quân Pháp chiếm đóng đồn Thuận An từ Thuận An suốt đến kinh thành, mọi

đồn lũy, mọi công sự phòng bị ở ven sông đều phải bỏ hết.
Khoản 3- Địa giới nước Đại Nam từ giáp giới ở tỉnh Biên Hòa (Nam Kì) tới giáp giới
với tỉnh Ninh Bình (Bắc Kì), các quan viên đều làm việc cai trị như cũ. Trừ các việc
thương chính và tạo tác cần có quan Pháp cai trị, thì những việc thường khác nếu có
dùng người Pháp hay bác vật, những người này chỉ làm quản đốc thôi.
Khoản 4- Từ giáp biên giới Biên Hòa đến giáp Ninh Bình, trong mọi tỉnh, trừ bến Thị
Nại đã mở buôn bán rồi, nay hai bến Đà Nẵng thuộc Quãng Nam và Xuân Đài thuộc Phú
Yên, phải khai mở buôn bán, ngoài ra mọi bến từ nay về sau nếu xét ra có lợi thì cùng
hội nghị bàn khai thương thêm đó. Các quan ấy đều tuân theo mạng lệnh của trú kinh
khâm sứ đại thần.
Khoản 5- Trú kinh khâm sứ đại thần của đại Pháp chuyên giữ việc bảo hộ Đại Nam,
giao thiệp với ngoại quốc, không dự vào việc chính trị các tỉnh của các tỉnh trong giới
hạn của khoản 3, khâm sứ đại thần ấy lại được vào điện tâu với Hoàng đế Đại Nam. Tại
kinh thành, quan khâm sứ ấy có Pháp tùy tùng.
Khoàn 6- Nước Đại Nam từ giáp Ninh Bình vào giáp Biên Hòa, tỉnh nào mà xét thấy có
việc cần kíp thì Đại Pháp đặt các quan công sứ, hoặc phó công sứ, các quan này đều
theo lệnh của trú kinh khâm sứ đại thần. Tỉnh nàocó công sứ hay phó công sứ thì công sứ
hay phó công sứ cư trú ngay trong tỉnh thành, gần chỗ quan tỉnh cư trú, có quân Pháp
hoặc quân Nam theo hầu.
Khoản 7- Công sứ Pháp đặt ở tỉnh nào ở Bắc Kì cũng không có dự làm mọi việc dân
chính ở tỉnh ấy, các quan tỉnh vô luận thuộc phẩm hạng nào cứ cai trị hạt dân như cũ,
duy quan Pháp kiểm soát coi viên quân Nam nào nên đổi cách, nếu quan Pháp xin đổi
cách thì lập tức quan Nam thi hành đối cách.
Khoản 8- Bất luận hạng viên quan nào của Pháp như có việc gì nên tư báo với nước Đại
Nam thì do công sứ Pháp tư báo mà thôi.
Khoản 9- Nước Đại Pháp sẽ lập một đường điện báo theo duyên lộ từ Sài Gòn đến Hà
Nội do người pháp chuyên đảm nhận, số tiền được lợi từ khoản này, Pháp sẽ trích một
phần cho nước Nam tiêu dùng vì nước Nam có phần nhường đất để xây dựng nhà cửa,
phòng làm việc, cư trú cho nhân viên điện báo.
Khoản 10- Mọi người ngoại quốc ngụ ở nước Đại Nam từ giáp giới Ninh Bình đến giáp

giới Biên Hòa và cả địa hạt Bắc Kì đều do nước Đại Pháp xử đoán, như người Nam với
người ngoại quốc, có việc gì kiện nhau thì do Đại Pháp phân xử.
Và ngày 9-6-1885, Pháp và Trung Quốc kí hiệp ước “hòa bình, hữu nghị, và thương
mại” tại Thiên Tân, gồm 10 điều khoản. (minh họa)
Trong đó Pháp sẽ rút khỏi Đài Loan, còn Trung Quốc thừa nhận Pháp thống trị Việt
Nam. Sau hiệp ước này, Mãn Thanh nhượng cho Pháp thêm quyền lợi trên đất Trung
Quốc, đồng thời cũng thương lượng để Pháp nhượng cho nhiều vùng đất của Việt Nam ở
biên giới, sát nhập vào các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông của Trung Quốc. Trung Quốc đã
nhân lúc Việt Nam chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược để chiếm thêm đất đai của Việt
Nam. Pháp và Mãn Thanh kí hai công ước ngày 26-6-1887 và 20-6-1895 hoạch định
biên giới Việt-Trung và biên giới hai nước trên vùng vịnh Bắc Kì cũng được chúng quy
định trong bản công ước ngày 26-6-1887.

×