Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả năng tạo đa bội thể ở cây cam quýt (rutaceae)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 106 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
==========






NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH
HỌC VÀ KHẢ NĂNG TẠO ĐA BỘI THỂ Ở
CÂY CAM QUÝT (Rutaceae)








Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60.42.30






LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC








Thái Nguyên - 2010
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghề trồng cây ăn quả hiện nay đã trở thành một ngành kinh doanh
quan trọng ở nhiều nước thế giới như Trung Quốc nổi tiếng thế giới với
quả táo Tàu; Ấn Độ xuất khẩu xoài; Italy và Tây Ban Nha xuất khẩu
chanh; Isaren, Ai Cập, Ma Rốc xuất khẩu cam; Equado, Philippin xuất
khẩu chuối… Sản phẩm tươi và chế biến từ quả đã mang lại nguồn thu
đáng kể [28].
Người làm vườn cũng đã hiểu rõ trồng cây ăn quả là một nghề đem lại
hiệu quả kinh tế cao, vừa có thu nhập ổn định, bảo vệ tài nguyên môi trường,

đặc biệt là vùng đất dốc, vùng đồi núi Hiện nay phong trào trồng cây ăn quả
tăng nhanh và có chiều hướng phát triển mạnh, cây ăn quả cùng với một số
cây công nghiệp, cây đặc sản đang được đánh giá là cây trồng quan trọng
trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng cao hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi
trường sinh thái ở các tỉnh trung du miền núi [3], [28].
Các loài cây cam, quýt chanh, bưởi là những loài cây có giá trị dinh
dưỡng và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhiều loài cam quýt đang được trồng
trên thế giới cho quả với các vị đặc trưng như: chua, vị ngọt và chua nhẹ, ngọt
và rất ngọt đáp ứng được nhu cầu thị hiếu rất khác nhau của người tiêu dùng
ở mọi độ tuổi, sản phẩm quả dùng làm thức ăn bồi bổ sức khoẻ, cho ăn kiêng,
làm vị thuốc [3]. Tuỳ từng loại, quả cam quýt có các thành phần dinh dưỡng
khác nhau, hàm lượng đường tổng số vào khoảng 6 đến hơn 10% (trừ các loại
quả chua như chanh ), đạm từ 0,6 - 0,9%, chất béo khoảng 0,1 - 0,2%,
vitamin C khoảng 50- 100 mg / 100g quả tươi, axit hữu cơ 0,4 - 0,6% [53] .
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Ngoài ra cam quýt còn có nhiều loại vitamin khác như B1, E nhiều loại
khoáng như Ca, Fe, Zn và khoảng 15 loại axit amin tự do khác nhau.
Việt Nam được xác định là quê hương của cam quýt, ngoài những
giống cam quýt địa phương, nhập nội, hiện nay còn tìm thấy nhiều loài hoang
dại thuộc họ cam quýt . Nghề trồng cam quýt đã tồn tại hàng trăm năm nay ở
Việt Nam, trong quá trình sản xuất chọn lọc tự nhiên, một số giống địa
phương và giống nhập nội đã trở thành nổi tiếng và gắn liền với từng địa danh
như cam Bố Hạ, cam Xã Đoài, cam Sông Con, cam Vân Du, bưởi Phúc
Trạch, bưởi Đoan Hùng hiện nay cam quýt trở thành một trong những cây
ăn quả chủ yếu ở Việt Nam và được trồng ở nhiều vùng sinh thái với bộ giống

gồm khoảng trên 70 giống khác nhau [11], [27], [28].
Cùng với việc phát triển mạnh của nghề trồng cam quýt trên thế giới
và trong nước các nghiên cứu nhằm cải tạo giống, nâng cao năng suất, chất
lượng và khả năng chế biến của cam quýt được đầu tư nghiên cứu. Trong đó
việc chọn tạo quả không hạt là nghiên cứu quan trọng đang được xác định là
những nghiên cứu ưu tiên ở cây cam quýt.
Có nhiều hướng nghiên cứu khác nhau để đạt được mục tiêu chọn tạo
quả không hạt như: chọn tạo theo hướng bất dục đực, bất dục cái, bất dục cả
đực và cái, hiện tượng bất hòa hợp…[8]. Một trong hướng nghiên cứu chọn
tạo quả không hạt hiện nay là việc tạo ra các dòng đa bội để chọn giống
không hạt (thể tam bội, dị bội…) hoặc làm vật liệu lai tạo các dòng không hạt
(thể tứ bội…). Phạm vi của đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và
khả năng tạo đa bội thể ở cây cam quýt (Rutaceae)”. Kết quả nghiên cứu
của đề tài bổ sung thêm kiến thức trong chọn tạo giống cam quýt nói chung và
cây ăn quả nói riêng.
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3

1.2. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở nguồn vật liệu đánh giá đặc điểm sinh học của một số dòng
cam quýt và khả năng tạo đa bội thông qua lai hữu tính và xử lý đột biến.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học của các dòng cam quýt (nhị bội,
tam bội, tứ bội).
- Nghiên cứu khả năng tạo đa bội bằng lai hữu tính với các cặp lai
khác nhau.

- Nghiên cứu khả năng tạo đa bội thể bằng xử lý Chochicine.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Đề tài giúp sinh viên, học viên tiếp cận với công tác nghiên cứu khoa
học, vận dụng những kiến thức đã học trong suốt quá trình học tập tại trường
vào thực tế sản xuất, từ đó nâng cao kĩ năng thực hành cho bản thân.
Đối với nghiên cứu khoa học: là cơ sở cho chọn tạo giống mới phục vụ
cho sản xuất.
1.4.2. Đối với thực tiễn sản xuất:
- Xác định được nồng độ, thời gian thích hợp khi xử lý cholchicine tạo
thể tứ bội ở hạt bưởi.
- Kết quả của đề tài là tiền đề cho việc tạo nguồn vật liệu để chọn tạo
giống cho quả không hạt.



Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Phần II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học và lí luận của đề tài
Trong suốt hai thập kỉ qua, ngành sản xuất cam quýt trên thế giới
không ngừng tăng nhanh và mức tiêu thụ quả trên thị trường thế giới cũng
ngày càng cao. Tổng sản lượng Citrus hàng năm đạt trên 105 triệu tấn trong
giai đoạn 2000 - 2004 (FAO,2004) [26]. Có khoảng 140 nước trên thế giới

sản xuất quả Citrus (FAO, 2004) [26]. Tuy nhiên, hầu hết sản lượng tập trung
ở những vùng nhất định. Ba nước sản xuất cây ăn quả lớn nhất là Braxin, Mỹ,
Trung Quốc, chiếm khoảng 60% tổng sản lượng toàn cầu. Khoảng 60% sản
lượng cam quýt được tiêu thụ dưới dạng quả tươi, 40% còn lại là chế biến.
Sao Paulo (Braxin) và Florida (Mỹ) là hai vùng sản xuất cam chủ lực, chiếm
90% sản lượng nước cam toàn cầu. Braxin là nước sản xuất cam quýt lớn
nhất chiếm 20% tổng sản lượng Citrus của thế giới, tiếp theo là Mỹ (14%),
Trung Quốc (12% ) và Mexico (6%) (FAO, 2004) [26].
Sản xuất cây ăn quả vẫn đang tiếp tục tăng do thu nhập của người dân
tăng nhanh. Trong đó quả có múi xếp thứ nhất trong số các loại cây ăn quả về
giá trị thương mại quốc tế. Trong 20 năm cuối thế kỉ 20, thị trường quả có
múi tăng nhanh. Ngoài ra, người tiêu dùng còn có xu hướng tăng sử dụng quả
có múi do giá trị dinh dưỡng cao và tiện lợi
Tổng sản lượng cam tươi của EU-27 năm 2008/09 dự báo đạt 6,0 triệu
tấn, không thay đổi so với 5,999 triệu tấn của năm 2007/08. Nhập khẩu cam
dự báo đạt 1 triệu tấn trong năm 2008/09 bằng mức nhập khẩu của năm
2007/08, trong khi xuất khẩu sẽ đạt 250 ngàn tấn, cũng bằng mức xuất khẩu
năm 2007/08 (FAO, 2007) [27].
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Tổng sản lượng quýt tươi của EU 27 dự báo đạt 3,205 triệu tấn trong
năm 2008/09, tăng so với 2,744 triệu tấn của năm 2007/08. Nhập khẩu quýt
dự báo sẽ đạt 350 ngàn tấn, giảm so với 400 ngàn tấn nhập năm 2007/08;
trong khi đó xuất khẩu dự báo sẽ đạt 250 ngàn tấn, bằng mức xuất năm
2007/08 [27], [28].
Tổng sản lượng chanh tươi của EU-27 năm 2008/09 dự báo đạt 1,445

triệu tấn, tăng so với 1,136 triệu tấn của năm 2007/08. Nhập khẩu chanh dự
báo sẽ đạt 300 ngàn tấn, giảm so với 350 ngàn tấn nhập năm 2007/08; trong
khi đó xuất khẩu dự báo đạt 50 ngàn tấn, tăng so với 40 ngàn tấn xuất năm
2007/08 [27].
Nhiều giống cây ăn quả thương mại quan trọng dùng ăn quả tươi là
giống có hạt, nhất là các giống lai như Tangerine, Tanger và Tangelos. Tính
trạng có hạt làm giảm giá trị thương mại của công nghiệp cây ăn quả.
Nước ta nằm ở trung tâm phát sinh và vùng phân bố của nhiều giống
cây ăn quả với những điều kiện thích thời tiết khí hậu thích hợp với phát triển
cây ăn quả ở quy mô lớn. Hầu hết cây ăn quả ở nước ta là các giống có hạt, tiêu
chuẩn chất lượng thấp [3], [13]. Các giống được trồng phổ biến ở nước ta như
cam Xã Đoài, Sông Con, Vân Du, cam Sành, bưởi Phúc Trạch… là các giống
nhiều hạt. Một số giống đặc sản chất lượng cao, có tiềm năng xuất khẩu như
bưởi Năm Roi. Do vậy nghiên cứu tạo giống cam quýt không hạt và đặc điểm
di truyền tính trạng không hạt ở cây ăn quả là mục tiêu quan trọng của công tác
giống [5], [8]
Hầu hết các loài cây ăn quả là con lai tự nhiên hoặc lai nhân tạo. Về bản
chất di truyền là con lai dị hợp tử. Do vậy sau khi chọn được các cá thể có ưu
thế lai cao (sức sống khoẻ, năng suất cao, thích nghi với môi trường sinh thái,
chống chịu bệnh) và ưu việt về chất lượng, sử dụng phương pháp nhân giống
vô tính để tạo ra hàng triệu cây giống nhau về bản chất di truyền [29].
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Nhiều phương pháp nghiên cứu tạo giống không hạt như phương pháp
đột biến thực nghiệm (tạo đột biến bằng chiếu xạ mắt ghép hoặc hạt, chọn lọc
các biến dị dòng tế bào soma xảy ra trong quá trình nuôi cấy mô tế bào); tạo

các giống tam bội thể bằng lai giữa mức bội thể nhị bội và tứ bội; tạo cây tam
bội bằng cứu phôi tam bội thể từ hạt nhỏ, hạt lép (kém phát triển) có nguồn gốc
từ con lai giữa 2 giống nhị bội với nhau; tạo giống tứ bội thể làm vật liệu lai
tạo giống giữa cây tứ bội và cây nhị bội [8], [48]. Bởi vậy, bằng đột biến thực
nghiệm và lai hữu tính có thể chọn tạo được các dòng cho quả không hạt ở thể
tam bội hoặc dị bội.
Ở Việt Nam, cây ăn quả có tầm quan trọng và ý nghĩa kinh tế. Diện tích
trồng cây ăn quả tăng nhanh. Các nhà nghiên cứu tạo giống không hạt ở cam
quýt vẫn là động lực thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu và tạo ra nhiều
giống chất lượng cao và có tiềm năng xuất khẩu [7], [8].
2.2. Nguồn gốc, lịch sử nghề trồng cam quýt và các vùng trồng cam quýt
trên thế giới
2.2.1. Nguồn gốc, lịch sử nghề trồng cam quýt trên thế giới
Trong các loại cây ăn quả, cam quýt có lịch sử trồng trọt lâu đời nhất.
Có nhiều báo cáo nói về nguồn gốc của cam quýt, phần lớn đều nhất trí cam
quýt có nguồn gốc từ miền nam Châu Á, trải dài từ Ấn Độ qua Himalaya
xuống vùng quần đảo Philippin, Malaysia, miền nam Inđônesia hoặc kéo đến
lục địa Úc [25], [53]. Những báo cáo gần đây nhận định rằng, tỉnh Vân Nam
Trung Quốc có thể là nơi khởi nguyên của nhiều loài cam quýt quan trọng, tại
đây còn tìm thấy rất nhiều loài cam quýt hoang dại [31], [53]. Trước đây có
một vài tờ báo cho rằng, loài chanh yên, phật thủ (Citrus medica) có thể có
nguồn gốc ở Địa Trung Hải hoặc Bắc Phi, nhưng hiện nay điều này đã được
sáng tỏ. Citrus medica có nguồn gốc tại miền nam Trung quốc, nhưng là loài
cây ăn quả được mang đến trồng tại Địa Trung Hải và Bắc Phi rất sớm, trước
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

thế kỉ 1 sau công nguyên, những tài liệu cổ xưa có ghi chép loài cây ăn quả
này ở Bắc phi đến mức làm nhiều người hiểu lầm chúng có nguồn gốc tại đây
[50]. Các loài chanh vỏ mỏng (Lime, C. Auranlifolia Swingle) được xác định
có nguồn gốc ở miền nam Trung Quốc và miền tây Ấn Độ, sau đó các thuỷ
thủ đầu tiên đến Ấn Độ đã mang về trồng ở Châu Phi, Địa Trung Hải, châu
Âu [49].
Các loài chanh núm (Lemon, Citruslemon) chưa xác định được nguồn
gốc, nhưng kĩ thuật di truyền hiện đại gần đây cho thấy có thể chanh núm là
con lai tự nhiên giữa Citrus medica và Citrus Aurantiflia, chính vì vậy mà
chanh núm có dạng hình thái trung gian giữa 2 loại vừa kể trên. Chanh núm
được xác định sử dụng như một loại qủa sớm nhất vào năm 1150 ở Bắc Phi,
vùng biển Địa Trung Hải và Châu Âu. Cam ngọt (Citrus Sinensis.L) được xác
định có nguồn gốc ở miền nam Trung Quốc, Ấn Độ về miền nam Indonexia,
sau đó cũng giống như loài Citrus medica được các thuỷ thủ và những người
lính viễn chinh mang về trồng ở Châu Âu, Địa Trung Hải, Châu Phi từ thế kỉ
13 đến thế kỉ 17 [31], [53].
Giống cam nổi tiếng thế giới "Washington Navel", ở Việt Nam vẫn
thường gọi là cam Navel được báo cáo là dạng đột biến tự nhiên từ một giống
cam ngọt [19], giống này được phát hiện ở Bahia Brazil, lần đầu tiên trồng ở
Úc năm 1824, ở Florida (Mỹ) năm 1835, ở Califorlia, năm 1870, và nó trở
nên rất nổi tiếng ở Washington D.C [23], [49]. Sau đó, giống Wasshington
Navel được du nhập và trồng khắp các vùng trồng cam quýt trên thế giới.
Các giống bưởi (Citrus grandis) được báo cáo có nguồn gốc ở
Malaysia, Ấn Độ, một thuyền trưởng người Ấn Độ có tên là Shaddock đã
mang giống bưởi này tới trồng ở vùng biển Caribe, sau đó theo gót các thủy
thủ bưởi được giới thiệu ở Palestin vào năm 900 sau công nguyên và ở Châu
Âu sau thời gian đó [24]. Bưởi chùm (Citrus paradisis) được xác định là dạng
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
đột biến hay dạng con lai tự nhiên của bưởi (Citrus grandis), nó xuất hiện sớm
nhất ở vùng Barbadas miền tây Ấn Độ và được trồng lần đầu tiên ở Florida
Mỹ năm 1809 và trở thành một trong những sản phẩm quả chất lượng cao ở
Châu Mỹ. Các giống quýt cũng được xác định có nguồn gốc ở miền nam
Châu Á, gồm miền nam Trung Quốc, bán đảo Đông Dương, sau đó các người
đi biển đã mang đến trồng ở Ấn Độ. Quýt (Citrus reticulata) được trồng ở
vùng Địa Trung Hải, Châu Âu và Châu Mỹ muộn hơn so với các loài quả có
múi khác vào khoảng năm 1805 [53].
Tóm lại, cam quýt có nguồn gốc ở miền nam Châu Á sự lan trải của
cam quýt trên thế giới gắn liền với lịch sử buôn bán đường biển và các cuộc
chiến tranh trước đây. Cam quýt được di chuyển đến Châu Phi từ Ấn Độ bởi
các đoàn thuyền buồm, di chuyển đến Châu Mỹ bởi các nhà thám hiểm và
thuyền buôn người Tây Ban Nha và Bồ Đầu Nha [51].
2.2.2. Các vùng trồng cam quýt trên thế giới
Trong suốt nhiều thập kỉ qua, năng suất, diện tích và sản lượng của
cam quýt không ngừng tăng nhanh. Vành đai trồng trọt cam quýt trải dài từ
40
o
vĩ bắc xuống 40
o
vĩ nam, có nghĩa là cam quýt chỉ được trồng trọt ở vùng
nhiệt đới và á nhiệt đới. Hiện nay vùng cây ăn quả nhiệt đới như Việt Nam,
Cuba, khó khăn lớn về phát triển cam quýt do một số bệnh hại. Khí hậu vùng
á nhiệt đới không cho phép các loại bệnh hại, chính vì thế vùng cam quýt ở
vùng này ngày càng có xu hướng tăng nhanh, phát triển mạnh về diện tích,
năng suất, sản lượng, chất lượng quả [49].
Các vùng trồng cam quýt nổi tiếng thế giới hiện nay chủ yếu nằm ở

những vùng khí hậu khá ôn hòa thuộc vùng á nhiệt đới hoặc vùng khí hậu ôn
hòa ven biển chịu ảnh hưởng nhiều của khí hậu Đại dương.
Những nước trồng cam quýt nổi tiếng hiện nay: một số nước vùng Địa
trung hải và Châu âu như: Tây Ban Nha, Italya, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kì, Moroco,
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Ai Cập, Israel, Tunisia, Algeria; vùng bắc Mỹ như: Hoa Kỳ, Mexico; vùng
Nam Mỹ như: Uruguay, Argentina, Braxin, Venezuela; các hòn đảo Châu mỹ
như: CuBa, Jamaica, cộng hòa Đominica,…; vùng cam Châu Á là Trung
Quốc, Nhật Bản; ngoài ra còn có vùng trồng cam Bắc Phi, Úc,… [27], [51].
Theo số liệu của FAO năm 2009 (bảng 1) cho thấy sản lượng một số
loại quả đạt sản lượng rất lớn hàng năm như cam quýt, táo, mơ, chuối, dứa….
Trong đó sản lượng cam quýt hai năm 2008-2009 ở các châu lục cũng đạt
mức đáng kể [28].
Sản lượng cam quýt của toàn thế giới đạt mức 7,452,302 tấn năm 2008-
2009. Trong đó tổng sản lượng cam quýt của Châu Phi là 4,051,770 tấn năm
2008-2009, tiếp đến là Châu Á tổng sản lượng cam quýt đạt 2,301,634
tấn/năm, sau là các khu vực Nam Mỹ, Bắc và Trung Mỹ, Châu Âu, Châu Đại
Dương, Úc.
Bảng 1: Sản lƣợng một số loại quả chính trên thế giới và các Châu
lục 2008 - 2009
Đơn vị: 1000 tấn
Loài
Khu vực
Cam quýt
Táo


Chuối
Dứa
Toàn thế giới
7,452,302
69,603,640
3,473,710
90,705,922
19,166,560
Châu Phi
4,051,770
1,978,968
465,226
12,196,099
2,470,393
Châu Á
2,301,634
41,681,431
2,130,960
51,499,248
9,596,337
Châu Âu
54,350
15,935,274
736,167
397,550
3,000
Bắc và Trung Mỹ
198,400
5,372,093

76,450
7,055,975
2,968,563
Nam Mỹ
827,143
4,008,528
44,060
16,659,621
3,707,378
Úc
1,000
270,476
17,327
213,193
164,732
Châu Đại Dương
10,883
625,476
20,827
1,214,623
195,044
(Nguồn: Statistic Report FAO 2009)
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của FAO (2009), sản lượng cam
quýt ở Châu Lục được thống kê ở bảng 2, trong đó các vùng sản xuất chính

trên thế giới theo địa giới ở các châu lục gồm Nam Mỹ với sản lượng cam cao
nhất, tiếp đến là Châu Á, Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Phi,… còn với sản lượng
quýt Châu Á có sản lượng cao nhất, tiếp đến là Châu Âu, Nam Mỹ, Châu
Phi,… Tuy nhiên con số này chưa thật đầy đủ vì còn thiếu những quốc gia có
sản lượng cam quýt lớn, ví dụ như Nhật Bản (Châu Á), một quốc gia có sản
lượng cam quýt lớn trên thế giới.
Bảng 2: Sản lƣợng cam quýt năm 2008 - 2009 ở một số vùng trên thế giới
Đơn vị: 1000 tấn
Loài
Địa danh
Cam
Quýt
Chanh
Bƣởi
- Châu Phi
6,152,872
1,579,823
852,162
650,394
Ai Cập
2,138,425
748,105
329,741
2,215
Nam Phi
1,472,872
135,150
233,905
417,976
- Bắc Mỹ

9,138,980
478,090
637,750
1,407,950
Mexico
4,306,633
469,037
2,224,382
394,865
- Nam Mỹ
20,883,378
2,285,771
2,926,894
321,273
Braxin
18,389,752
1,273,000
1,040,000
72,000
Achentina
766,000
520,000
1,260,000
176,000
- Châu Á
18,190,493
20,577,444
5,304,418
1,713,768
TrungQuốc

3,454,125
15,622,593
917,166
567,546
Ấn Độ
4,396,700

2,429,000
187,000
Thái Lan
350,000
670,000
82,000
22,000
Việt Nam
601,000
-
-
23,000
- Châu Âu
6,887,077
3,000,060
1,155,257
68,757
Tây Ban Nha
3,367,000
1,973,800
498,000
50,000
Italia

2,527,453
786,119
550,000
7,000
Hy Lạp
801,000
111,716
91,905
6,500
-Châu Đại Dƣơng
482,000
112,353
44,066
11,875
- Úc
10,475
104,433
35,915
10,475
(Nguồn: Statistic Report FAO 2009)
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Phân vùng địa lý trên thế giới hiện nay có các vùng trồng cam quýt
chính như sau:
 Vùng cam quýt Châu Mỹ:
Vùng cam quýt Châu Mỹ gồm chủ yếu ở các nước Trung Mỹ, kéo

lên phia bắc đến khoảng 40
o
vĩ Bắc xuống phía nam đến vĩ độ tương đương
bao gồm các nước như: Mexico, Cuba, Hoa Kỳ, Brazil, Honduras, Costarica,
Equado
Ngoài ra cam quýt còn được trồng trong nhà kính và ở những ở những
vùng ấm áp ven biển miền nam Canada. Tuy nhiên không phải là nơi khởi
nguyên của cam quýt nhưng lịch sử trồng cam quýt ở Châu Mỹ gắn liền với
lịch sử khám phá ra châu lục này của các nhà thám hiểm Châu Âu, đặc biệt là
của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Có nhiều ý kiến khác nhau về lịch sử
du nhập cam quýt vào Châu Mỹ, phần lớn cho rằng nhà thám hiểm người Tây
Ban Nha phó vương Columbo đã mang cam quýt đến Châu Mỹ trong chuyến
đi lần thứ 2 năm 1483 [29], [51].
Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng cam quýt được đưa vào Châu Mỹ
từ những người đi biển Bồ Đào Nha trước năm 1483, nhận định này cũng
giống như một số ý kiến của các nhà sử học cho rằng Châu Mỹ được người
Bồ Đầu Nha khám phá trước khi Columbo đặt chân lên châu lục này. Nhờ
điều kiện thiên nhiên ưu đãi cũng như sự phát triển nhanh về mọi mặt của lục
địa Châu Mỹ, cam quýt được phát triển mạnh cả về diện tích, năng suất và sản
lượng [51], [53].
Ở Châu Mỹ có một số giống cam quýt nổi tiếng, cam Navel được chọn
lọc ở đây. Ngoài các giống cam ngọt nổi tiếng, bưởi chùm (Citrus paradisis)
cũng là sản phẩm chính thức của Châu Mỹ, với đặc điểm vỏ mỏng, có mùi vị
thơm mềm, độ chua ngọt vừa phải, bưởi chùm được đặc biệt ưa chuộng làm
món tráng miệng trên thế giới. Châu Mỹ là nơi sản xuất và xuất khẩu chủ yếu
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
bưởi chùm, cam Navel và các giống cam ngọt khác [8], [19]. Năm 2009, sản
lượng cam Bắc Mỹ 9,138,980 tấn, đạt 478,090 tấn quýt, sản lượng chanh
637,750 tấn Vùng Nam Mỹ đạt 20,883,378 tấn cam, trên 2,285,771 tấn
quýt, sản lượng chanh 2,926,894 tấn, sản lượng bưởi đạt 321,273
tấn/năm [28]
Vùng cam quýt Địa Trung Hải và Châu Âu:
Bao gồm các nước như: Algeria, Ai Cập, Hy Lạp, Isarel, Italia,
Moroco, Bồ Đầu Nha, Tây Ban Nha, Syria, Tunisia, Thổ Nhĩ Kì. Vùng cam
quýt Địa Trung Hải có lịch sử lâu đời hơn cam quýt Châu Mỹ, được du nhập
từ Châu Á theo gót chân những người lính viễn chinh và các thủy thủ Ấn Độ.
Do ảnh hưởng của khí hậu đại dương khá ôn hòa mát mẻ, cộng với điều kiện
đất đai phù hợp, nghề trồng cam quýt rất phát triển, nổi tiếng với các giống có
vị ngọt thuộc loài Citrus medica [51], [53]. Nhiều nước xuất khẩu và chế biến
cam quýt với số lượng lớn như: Tây Ban Nha, Italia, Isarel
Vùng Địa Trung Hải có khí hậu và điều kiện sinh thái phù hợp đã
giúp cho loài cam quýt được trồng trọt có tuổi thọ rất cao mà vẫn cho năng
suất khá [53].
Sản lượng cam của Châu Âu đạt 6,887,077 tấn, khoảng 3,000,060 tấn
quýt, sản lượng chanh đạt 1,155,257 tấn, sản lượng bưởi đạt 68,757 tấn.
Những nước có sản lượng cam quýt chủ yếu là: Tây Ban Nha đạt 3,367,000
tấn cam, đạt 1,973,800 tấn quýt; Italya với sản lượng cam đạt được 2,527,453
tấn, quýt khoảng 786,119 tấn (2009); Hy Lạp khoảng 801,000 tấn cam,
khoảng 111,716 tấn quýt mỗi loại [28].
Vùng cam quýt Châu Á:
Châu Á là quê hương của cam quýt, tuy có sản lượng cao ở Trung
Quốc và Nhật Bản, Đài Loan nhưng do điều kiện kinh tế xã hội của các nước
Châu Á nên nghề trồng cam quýt chưa được quan tâm nhiều. Công tác chọn
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
tạo giống kĩ thuật canh tác (trừ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) còn rất nhiều
hạn chế so với các vùng trồng cam quýt khác trên thế giới [56]. Tuy nhiên
nghề trồng cam quýt ở Châu Á là sự pha trộn của kĩ thuật hiện đại (Nhật Bản,
Đài Loan) và sự canh tác truyền thống như: Trung Quốc, Ấn Độ, sản lượng
cam đạt 18,190,493 tấn, đạt 20,577,444 tấn quýt, trên 5 triệu tấn chanh, trên 1
triệu tấn bưởi [28].
Ngoài những vùng trên, cam quýt còn được trồng ở Châu Đại Dương
như Australia, Niuzilan Hiện nay cam quýt bắt đầu được trồng nhiều trong
nhà kính ở các nước có khí hậu lạnh như Nauy, Thụy Điển, Phần Lan, Tuy
nhiên sản lượng ở những nước này không nhiều, chủ yếu là chế biến phục vụ
nhu cầu trong nước.
2.3. Thị trƣờng và tình hình sản xuất cây ăn quả ở một số nƣớc Châu Á
2.3.1. Trung Quốc
Trung Quốc có diện tích cây ăn quả lớn nhất thế giới, năm 2007 cây ăn
quả cho thu hoạch với sản lượng cam đạt 412,000 triệu tấn, bình quân đầu
người đạt 54kg quả/năm [27]. Những loại cây ăn quả chủ yếu là táo, lê, cam,
quýt, vải, nhãn. Hiện nay Trung Quốc có sản lượng cam quýt đứng thứ 2 trên
Châu Á (2009), sản lượng bưởi đạt 443,000 tấn với diện tích thu hoạch
55,000 ha [28].
2.3.2. Ấn Độ
Ấn Độ là nước sản xuất cây ăn quả đứng thứ 1 ở khu vực Châu Á, với
diện tích cho thu hoạch quả là 134,000 triệu ha. Những cây ăn quả chủ yếu
gồm: xoài, cam, quýt, chuối, dứa, đu đủ, các cây ăn quả này chiếm 68,93%
tổng sản lượng quả của cả nước và có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế.
Ấn Độ có 6,500 ha bưởi, với sản lượng 142,000 tấn/năm. Sản lượng cam của
Ấn Độ đứng đầu khu vực, năng suất cam đạt được 23,130,000 với sản lượng

3,100,000 triệu tấn [28].
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Đây là nước đứng đầu thế giới về năng xuất và sản lượng xoài. Tập
đoàn quĩ gene cây ăn quả Ấn Độ cũng rất phong phú bao gồm: xoài có 1106
giống, đu đủ có 107 giống, chuối 363 giống, các giống trồng trọt của cam
quýt lên tới 451 giống, táo gai 224 giống, lựu 212 giống và na 45 giống [26],
[28].
2.3.3. Thái Lan
Thái Lan có 9 loại quả được xuất khẩu: nhãn, sầu riêng, bưởi, vải,
xoài, măng cụt, chôm chôm, quýt, đu đủ.
Thái Lan có khoảng 20 loài cây ăn quả được trồng với mục đích
thương mại [14], [15]. Sự phân bố của các loài cây ăn quả trong nước dựa vào
sự thích nghi của khí hậu từng vùng: vùng đồng bằng miền Trung cây ăn quả
nhiệt đới chiếm ưu thế, vùng thấp ở các tỉnh phía Bắc chủ yếu trồng cây ăn á
nhiệt đới như vải, nhãn, cam và một số cây ăn quả nhiệt đới như xoài, bưởi.
Vùng cao các tỉnh phía Bắc nơi có độ cao 1000m so với mặt nước biển trồng
các cây ăn quả ôn đới như đào, mận, táo tây, lê, hồng, mơ [15].
Vùng đất ven biển quanh vịnh Thái Lan thì trồng dứa và tại đây có
nhiều nhà máy làm đồ hộp dứa. Các tỉnh miền Đông và miền Nam có khí hậu
nhiệt đới ẩm trồng sầu riêng, măng cụt, chôm chôm; vùng nhiệt đới khô thì
trồng me chua, me ngọt, na, đào lộn hột, đu đủ; xoài được trồng nhiều ở một
số tỉnh Đông Bắc [14].
Diện tích thu hoạch bưởi của Thái Lan là 12,000 ha/năm, sản lượng đạt
22,000 triệu tấn. Diện tích thu hoạch cam là 20,000 ha/năm, sản lượng đạt
350,000 triệu tấn [28].

2.3.4. Malaysia
Diện tích thu hoạch bưởi của Malaysia là 1,200 ha/năm, sản lượng đạt
8,700 triệu tấn. Diện tích thu hoạch cam là 2,000 ha/năm, sản lượng đạt
12,000 triệu tấn [28].
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Theo số liệu thống kê ở bảng 3 cho thấy, diện tích thu hoạch cam ở
Trung Quốc là lớn nhất, tiếp đến là Thái Lan, Ấn Độ, nhưng với năng suất
quả thì Ấn Độ có năng suất cao nhất, tiếp đến là Thái Lan, Việt Nam, Trung
Quốc, còn sản lượng thu được từ cam thì Ấn Độ có sản lượng cam cao nhất
khu vực, tiếp đến là Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, [28]
Với bưởi diện tích thu hoạch, năng suất và sản lượng ở các nước khác
nhau là khác nhau . Tuy nhiên số liệu thống kê ở bảng 3 cũng chưa thật đầy
đủ.
Bảng 3. Diện tích, năng suất và sản lƣợng một số cây ăn quả ở các
nƣớc Châu Á
Quốc gia
Bƣởi (C.grandis)
Cam
DT thu
hoạch
Năng
suất
Sản
lƣợng
DT thu

hoạch
Năng
suất
Sản lƣợng
Trung Quốc
55,00
8,05
443,0
319,5
7,55
2.412,0
Ấn Độ
6,50
21,85
142,0
134,0
23,13
3.100,0
Thái Lan
12,00
1,83
22,0
20,0
17,50
350,0
Philippine
5,00
8,00
40,0
5,0

5,80
29,0
Malaysia
1,20
7,00
8,7
2,0
6,00
12,0
Bangladesh
5,67
3,19
18,0
3,6
2,74
10,0
Cămpuchia
0,30
9,66
2,9
10,0
6,30
63,0
Lào
1,00
7,00
7,0
4,0
7,00
28,0

Việt nam
1,90
11,84
22,5
59,1
10,17
601,3
Ghi chú: đơn vị tính - Diện tích: 1000 ha
- Năng suất: tấn/ha
- Sản lượng: 1000 tấn
Nguồn: FAO Statistic Report 2009.
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
2.4. Tình hình sản xuất cam quýt ở Việt Nam
Theo tổng cục thống kê năm 2007, toàn miền Bắc có khoảng 21,000
ha cho thu hoạch với sản lượng ước đạt 165,000 tấn phân bố ở các vùng chính
sau: vùng đồng bằng sông Hông; vùng Đông Bắc, vùng Tây Bắc và vùng Bắc
Trung Bộ trong đó Đông Bắc được coi là vùng sản xuất cây ăn quả chủ lực
của miền Bắc [11], [14].
Ở Việt Nam cam quýt đứng thứ 2 sau chuối về tầm quan trọng và ý
nghĩa kinh tế.
Diện tích cam, quýt ở miền Nam nhiệt đới lớn hơn so với miền Bắc
(57,300 ha so với 29,800 ha) các giống thương mại chủ lực ở miền Nam là
cam sành và bưởi [14], [15]. Đây là hai loài cây ưa nóng, có chất lượng cao
trong điều kiện nhiệt đới.
Miền Bắc có hai vùng trồng cây ăn quả có múi lớn, vùng Đông Bắc

đóng vai trò chủ lực, giống quan trọng nhất là cam Sành; vùng Bắc Trung Bộ
(Nghệ An) chủ yếu là trồng cam ngọt lớn và tập trung nhất trong nước [11].
Việt Nam có bộ giống cam quýt khá phong phú, các giống cam quýt hiện
nay trồng ở Việt Nam chủ yếu được chọn lọc tự phát của người dân từ những
vùng trồng cam quýt truyền thống Nhiều giống cam quýt gắn liền với tên một
địa phương như là nơi xuất xứ của các giống này như: bưởi Năm Roi (Nam
Bộ), cam sành (Tuyên Quang), bưởi Phúc Trạch (Quảng Bình), bưởi Đoan
Hùng (Phú Thọ), cam Mường Pồn (Lai Châu), quýt vàng Bắc Sơn (Lạng Sơn),
cam giấy Hà Đông, quất Quảng Bá (Hà Nội), Cam Bố Hạ (Bắc Giang) [11].
Năm 2008 khảo sát miền Bắc, miền Trung và một số tỉnh miền Nam thu nhập
thêm được 75 giống cam quýt hiện đang trồng ở Việt Nam [8], [14].
Qua bảng 4 cho thấy diện tích và sản lượng chuối là cao nhất qua 3 năm
đều ở mức khá ổn định với sản lượng đạt 1,350,000 tấn/năm.
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Trong vòng ba năm từ 2006 – 2008, sản lượng cam ở Việt Nam rất ổn
định, diện tích cả 3 năm sản lượng đều giữ mức 59,100 ha, sản lượng cả ba
năm cũng đều ở mức 601,000 tấn (bảng 4) [28].
Bảng 4: Diện tích, sản lƣợng của một số cây ăn quả ở Việt Nam

Loại quả
2006
2007
2008
Diện tích
(ha)

Sản
lƣợng
(tấn)
Diện tích
(ha)
Sản
lƣợng
(tấn)
Diện tích
(ha)
Sản
lƣợng
(tấn)
Chuối
94,000
1,350,000
95,000
1,355,000
95,000
1,355,000
Bưởi
12,000
123,000
13,000
123,000
13,000
123,000
Nho
2,000
29,000

2,000
29,000
2,000
29,000
Xoài
52,000
370,00
52,000
370,000
52,000
370,000
Cam
59,100
601,000
59,100
601,000
59,100
601,000
Dứa
36,200
470,000
36,200
470,000
36,200
470,000
Dừa
133,000
1,000,700
135,300
1,034,900

138,300
1,086,000
(Nguồn: FAO Statistic Report 2009)
2.5. Các vùng trồng cam quýt chủ yếu ở Việt Nam
Vùng cam quýt miền Bắc:
Theo tổng cục thống kê năm 2007, toàn miền Bắc có khoảng 21,000 ha
cho thu hoạch với sản lượng ước đạt 165,000 tấn phân bố ở các vùng chính
sau: vùng đồng bằng sông Hông; vùng Đông Bắc, vùng Tây Bắc và vùng
Bắc Trung Bộ trong đó Đông Bắc được coi là vùng sản xuất cam, quýt chủ
lực của miền Bắc [11], [14].
Vùng cam quýt miền Trung:
Trọng điểm trồng cam quýt vùng khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long
phải kể đến vùng Phủ Quỳ - Nghệ An, vùng cam Phủ Quỳ gồm một cụm các
nông trường chuyên cam quýt có diện tích hàng ngàn ha. Đây là khu vực
trồng cam quýt có ưu thế về tiềm năng đất đai, được nhà nước đầu tư xây
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
dựng các nông trường vì vậy nơi đây có đội ngũ cán bộ kĩ thuật và công nhân
có kinh nghiệm về cây ăn quả [11].
Vùng cam quýt đồng bằng Sông Cửu Long:
Bao gồm các tỉnh như Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long,
Trà Vinh… Vùng đồng bằng Sông Cửu Long có lịch sử trồng cam quýt khá
lâu đời gắn liền với việc khai phá vùng đất này. Đồng bằng Sông Cửu Long
có diện tích cây ăn trái xấp xỉ 300,000 ha, trong đó có khoảng 120,000 ha
[14], [15]. Trồng các loại cây đặc sản như: sầu riêng, xoài cát Hòa Lộc, vú
sữa Lò Rèn, bưởi Năm Roi, bưởi Da Xanh, cam sành, chôm chôm. Tập trung

nhiều ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Hậu Giang…
Sản lượng trái cây hàng năm dự tính khoảng 4 triệu tấn [11].
2.6. Một số hiểu biết về cam quýt
2.6.1. Các loài trong họ cam quýt
Trong nhóm cam quýt nói chung vài nhóm cây trong họ hoa hồng
(Rutaceae) đều có chung những đặc điểm phân loại như: cây có mang tuyến
dầu a (chủ yếu phân bố ở lá), bầu mọc nối trên đài hoa, lá phần lớn có đỉnh
viền răng cưa, quả gồm 2 hay nhiều noãn bên trong [49].
Họ hoa hồng (Rutaceae) được phân chia thành 130 giống (genus) với
những đặc điểm chung như đã trình bày ở trên, 130 giống này nằm trong 7 họ
phụ khác nhau, trong đó họ phụ hoa hồng (Aurantirideae) có ý nghĩa nhất
[32]. Sự phân loại chi tiết hơn dưới họ phụ Aurantirideae có tộc Citreae (28
giống) và tộc phụ Citrinae (13 giống), 3 nhóm tộc phụ Citrinae (13 giống), 3
nhóm: "tiền cam quýt", "gần cam quýt” và cam quýt thực sự (True Citrus
Group) được phân nhóm từ Citreace.
Sự phân loại cam quýt khá phức tạp vì có các yếu tố như: có rất nhiều
giống (Cultivars) trong sản xuất và các dạng con lai của các giống này
(Hybrids), hiện tượng hạt đa phôi, đột biến và hiện tượng đa bội thể cũng là
những nhân tố gây khó khăn cho phân loại cam quýt [5], [7], [8].
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Hiện nay tồn tại 2 hệ thống phân loại cam quý t được nhiều người áp
dụng, theo Tanaka Nhật Bản cam quý t gồm 160 - 162 loài (species) [50].
Tanaka quan sát thực tiễn sản xuất và cho rằng các giống (cultivars)
cam quít qua trồng trọt đã có nhiều biến dị trở thành giống mới, ông quan sát,
ghi chép tỉ mỉ đặc điểm hình thái của các giống đã biến dị và phân chúng

thành một loài mới hoặc giống mới với tên khoa học được bắt đầu bằng tên
của giống hoặc loài đã sinh ra chúng và kết thúc bằng chữ Horticulture
Tanaka [50], [53], [54].
Swingle đã phân chia cam quý t ra thành 16 loài [49], bảng phân loại
của Swingle đơn giản hơn nên được sử dụng nhiều hơn , tuy nhiên các nhà
khoa học vẫn phải dùng bảng phân loại của Tanaka để gọi tên các giống cam
quýt vì bảng phân loại này chi tiết đến tên từng giống [50]. Có 10 loài quan
trọng nhất trong nhóm “true citrus group” và nhóm con lai được liệt kê ở bả ng
5, và tên của một số nhóm con lai phổ biến, đây là những loài được trồng phổ
biến và có ý nghĩa với con người, cụ thể được mô tả như sau:
Bảng 5a. Các loài cam quý t thực sự có ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất

Tên loài
Tên tiếng Anh
Tên tiếng Việt
C. sinensis
C. aurantium
C. reticulata
C. paradisis
C. grandis
C. limon
C. medica
C. aurantifolia
C. trifoliate
C. F. margarita
Sweets orange
Sour orange
Mandarin
Pomelo (grapefruit)
Shadock (pummelo)

Lemon
Citron
Lime
Tritoliate (poncirus)
Kumquat
Cam ngọt
Cam chua
Quýt
Bưởi chùm
Bưởi
Chanh ta
Chanh núm
Chanh vỏ mỏng có núm
Chanh đắng (chanh 3 lá)
Quất

Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Bảng 5b. Tên gọi của các nhóm con lai (hybrids)
Tangar
Tangelo
Lemonlime
Citrange
Citrumelo
Limequat
=

=
=
=
=
=
Mandarin x sweet orange
Mandarin x graefruit
Lemon x lime
Poncirus x sweet orange
Poncirus x grapefruit
Lime x kumquat

Bưởi (C.grandis) quả to nhất trong các loài cam quýt, vị chua hoặc
ngọt, bầu có từ 13–15 noãn, eo lá khá lớn, hạt nhiều. Hiện nay các giống bưởi
phần lớn thuộc dạng hạt đơn phôi và được trồng chủ yếu ở các nước nhiệt đới
như Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Trung Quốc. Việt Nam có rất nhiều giống
bưởi nổi tiếng như bưởi Đoan Hùng, bưởi Phúc Trạch, bưởi Năm Roi [34],
[46].
Bưởi chùm (C.paradisi): Được đánh giá là dạng con lai tự nhiên của
bưởi (C.grandis) vì vậy hình thái bưởi chùm khá giống với bưởi (C.grandis)
nhưng lá nhỏ hơn, eo cũng nhỏ hơn, quả nhỏ, cùi mỏng, vỏ mỏng, vị chua nhẹ
[2], [29]. Bưởi chùm cho những giống ít hạt như Duncan, phần lớn các giống
bưởi chùm có hạt đa phôi nên cũng có thể sử dụng làm gốc ghép [49], [53],
[54]. Bưởi chùm được trồng nhiều ở Mỹ, Brazil, riêng bang Florida của Mỹ
chiếm 70% sản lượng bưởi chùm của thế giới. Ở Việt Nam vào những năm 60
đã nhập nội một số giống bưởi chùm như Duncan, Marsh, Forterpinke, cho
năng suất cao tuy nhiên bưởi chùm chưa được ưa chuộng thực sự ở Việt Nam.
Cam ngọt (C.sinensis) cam ngọt quả to hơn các loài cam khác, mùi vị
tinh dầu ở các loài cam quýt là một đặc điểm để phân loại, lá quýt có mùi cay
đậm hơn các loại lá khác. Đặc điểm cam ngọt có vị rất ngọt, quả có từ 9–13

múi, vỏ mỏng và mịn [29]. Cam ngọt chiếm tới 2/3 sản lượng cam quýt trên
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
thế giới, là sản phẩm được ưa chuộng nhất trong các loại quả có múi. Cam
ngọt được chia làm rất nhiều nhóm giống như cam Navel, cam Valencia, cam
vàng, cam máu, cam Pineapple [49], [53], [54].
Quýt (C.Reticulata) Tuyến dầu của quýt có múi dặc trưng giúp có thể
phân biệt được với các loài khác, quả quýt nhỏ, vỏ nhẵn, rất rễ bóc vỏ, lá có
răng cưa điển hình, ở một số giống, mặt dưới lá có màu xanh nhạt, hoa mọc
đơn hoặc chùm nhưng không bao giờ mọc thành chùm có nhánh, màu sắc vỏ
quả rất hấp dẫn từ vàng đến vàng – đỏ, đỏ [29], [49].
Các loại chanh bao gồm: Chanh núm (C. medica), chanh núm vỏ
mỏng (C. aurantifolia), chanh ta (C. limon). Các giống chanh được chia chủ
yếu thành 2 nhóm chanh chua và chanh ngọt. Hạt chanh đa số là hạt đa phôi,
múi tinh dầu của lá cũng đặc trưng cho từng loài, chanh chua độ axit có thể
lên đến 7-8%. Hoa của chanh núm và chanh vỏ mỏng có màu tím trước khi nở
rất đặc trưng, gân lá của 3 loại chanh kể trên cũng rất khác nhau, dựa vào đó
có thể phân biệt được từng loại khi không có quả trên cây [49], [53], [54]. Ở
Việt Nam cho thấy có cả 3 loại bao gồm chanh yên, phật thủ (C. medica)
chanh giấy, chanh vỏ mỏng có núm (C. aurantifolia), chanh ta (C. limon).
2.6.2. Yêu cầu sinh thái của cam quýt.
2.6.2.1. Nhiệt độ
Trong phạm vi nhiệt độ 12 - 39
o
C cam quýt đều có thể sinh trưởng
được, phạm vi thích hợp cho cam quýt phát triển là từ 23-29

o
C và tốt nhất là
26
o
C, một báo cáo khác lại cho rằng nhiệt độ thích hợp với cam quýt là từ 26-
30
o
C. Nhiệt độ và biên độ ngày đêm có ảnh hưởng khá lớn đến phẩm chất
cam quýt, thông thường cam quýt vùng á nhiệt đới lạnh có chất lượng, mã quả
tốt hơn so với cam quýt vùng nhiệt đới [16], [18].
Nhiệt độ cao ở vùng xứ nóng thường làm vỏ cam quýt vẫn còn xanh
khi quả đã chín. Nhiệt độ hạ thấp vào thời kì chín giúp quả có màu tươi đậm.
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Cam huyết vùng Địa Trung Hải khi trồng ở Florida ấm hơn ở Địa Trung Hải.
Biên độ nhiệt độ ngày đêm cũng ảnh hưởng khá lớn đến phân hóa chồi hoa,
khi nhiệt độ ban ngày và đêm là 20-15
o
C thì tỷ lệ chồi hoa nhiều hơn so với
nhiệt độ ngày đêm là 20-18
o
C hoặc 21-17
o
C. Khi nhiệt độ xuống dưới -3 hoặc
-4
o

C thì lá bắt đầu bị chết do rét. Nếu xuống dưới -7
o
C thì cây bị chết hoàn
toàn, tuy nhiên nhiệt độ cao thuận lợi cho việc ra lộc [45]. Cam ngọt Valencia
ở nhiệt độ trung bình 30-32
o
C chỉ cần 29-30 ngày là ra xong một đợt lộc mới ,
trong khi đó nếu ở nhiệt độ 20
o
C thì cần 40-50 ngày [12], [14].
2.6.2.2. Nƣớc
Nước là một thành phần quan trọng xây dựng nên cơ thể cây. Nước
chiếm 90% trọng lượng chất nguyên sinh tế bào, nó quyết định tính ổn định
của cấu trúc nguyên sinh chất cũng như các biến đổi của trạng thái keo
nguyên sinh chất. Mất nước sẽ làm giảm tính bền vững của keo nguyên sinh
chất và ở mức độ cao có thể gây nên biến tính keo nguyên sinh chất và cây sẽ
chết [4], [7].
Nước có chức năng sinh hóa vô cùng quan trọng trong cây. Nước là
dung môi đặc hiệu cho các phản ứng hóa sinh xảy ra trong cây đồng thời là
nguyên liệu quan trọng trong một số phản ứng như các phản ứng thủy phân
tinh bột, prôtêin… Nước trong cây là môi trường hòa tan tất cả các chất
khoáng lấy từ đất lên cùng tất cả các chất hữu cơ đồng thời vận chuyển lưu
thông đến tất cả các tế bào, các mô và các cơ quan trong cơ thể để đảm bảo
mối quan hệ mật thiết và hài hòa giữa các cơ quan trong cơ thể như một chỉnh
thể thống nhất [4], [7], [13].
Nước là chất điều chỉnh nhiệt. khi gặp nhiệt độ không khí cao, nhờ quá
trình bay hơi nước làm giảm nhiệt độ ở bề mặt lá tạo điều kiện cho quá trình
quang hợp và các hoạt động sống khác tiến hành thuận lợi.
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
Nước được xem như là một chất dự trữ. Như vậy nước vừa tham gia
cấu trúc nên cơ thể cây, vừa quyết định các biến đổi sinh hóa và các hoạt
động sinh lí trong cây cũng như quyết định quá trình sinh trưởng, phát
triển của cây [6], [13].
Cam quýt rất cần nước cho các thời kì sinh trưởng, phát triển, thời kì
nảy mầm, ra hoa kết quả và quả phát triển mạnh. Yêu cầu nước của các loài
giống có khác nhau như chanh cần nhiều nước hơn quýt, quýt cần nhiều nước
hơn cam… Ở miền Bắc Việt Nam lượng mưa là 1500mm/năm, chủ yếu vào
mùa hạ là mùa sinh trưởng của cam quýt. Còn ở miền Nam, Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên có mùa khô rõ rệt, lượng nước bốc hơi lớn, cần thiết phải cung
cấp đủ lượng nước cho cây [11]. Ở miền Nam Việt Nam không có rét làm
cho cam quýt ngừng sinh trưởng, đến đầu mùa mưa vào tháng 4, tháng 5 thì
sau mưa 25-30 ngày cam quýt sẽ ra hoa [4], [5].
Ở vùng nhiệt đới, nhiệt độ thấp không phải là điều kiện chính để cam
quýt ra hoa mà là nước.
Ẩm độ không khí là một yếu tố khá quan trọng ảnh hưởng đến sinh
trưởng của cam quýt, khi ẩm độ không khí cao làm cây ít thoát hơi nước, ít
tiêu hao năng lượng cho quá trình hút nước. Nếu ẩm độ quá cao sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho bệnh hại phát triển như bệnh thối gốc, bệnh ghẻ, bệnh rám
quả do nấm. Ẩm độ quá cao sẽ hấp thu nhiều tia tử ngoại làm màu sắc cam
quýt tươi thắm hơn, nhiệt độ cùng với ẩm độ quá cao làm quả phồng xốp chất
lượng kém. Ẩm độ không khí phù hợp nhất vào khoảng 70-75%, nước rất cần
cho cam quýt đặc biệt vào các giai đoạn ra chồi, ra hoa và quả đang đậu vào
cuối tháng 2 và đầu tháng 3 và giai đoạn phình quả đến khi quả chuẩn bị chín
[5], [7].
Lượng mưa thích hợp cho trồng cam quýt là từ 1000-2400mm/năm, tối

thuận là 1200mm. Các vùng trồng cam quýt trên thế giới để có sản lượng cao
Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
đều có các phương pháp tưới hợp lí không phụ thuộc vào nước trời, ở những
vùng trồng cam quýt có kĩ thuật cao người ta có thể dùng biện pháp tưới nước
để điều khiển sự phân hóa hoa, tỷ lệ nở hoa, hoa nở sớm hoặc muộn và đặc
biệt là chất lượng quả [11].
2.6.2.3. Đất đai
Đất có 2 chức năng quan trọng nhất là cung cấp nước và cung cấp chất
dinh dưỡng.
Các yếu tố đất đai quan trọng khi lựa chọn đất trồng cam quýt đó là
tầng sâu đất, đất rễ thoát nước, mực nước ngầm sâu hoặc mực nước ngầm ổn
định. Mực nước ngầm trong đất nếu hơi cao một chút nhưng ổn định không
lên xuống thấp thường thì cũng ít ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cam
quýt. Mực nước ngầm đảm bảo an toàn cho cây phải tối thiểu sâu 1,5m dưới
mặt đất [3], [15],
Độ pH thích hợp với sinh trưởng của cam quýt từ 5,5–5,6, đất quá chua
sẽ có nhiều dinh dưỡng bị rửa trôi và cũng có thể gây ngộ độc một số nguyên
tố như đồng (Cu). Đất quá kiềm làm cây khó hút một số nguyên tố nên có
biểu hiện thiếu kẽm (Zn), sắt (Fe) [3].
Ở Tây Ban Nha người ta xác định thành phần đất trồng cam quýt tốt
nhất như sau sét 15-20%, Limon [bùn] 15-20%, cát mịn 20-30%, cát thô 30-
50%, đá vôi 5-10% [26].
Nhìn chung đất phù hợp với cam quýt là đất phù xa, phù xa cổ, đất bồi
tụ, đất đỏ bazan, đất mùn đá vôi. Đất có hàm lượng mùn cao, tỷ lệ khoáng cân
đối sẽ là đất phù hợp với trồng cam quýt.

2.6.2.4. Ánh sáng
Năng lượng ánh sáng mặt trời được biến đổi thành hóa học dưới dạng
các hợp chất hữu cơ nhờ quá trình quang hợp của cây. Các loại cam, quýt
không thích ánh sáng mạnh, ưa ánh sáng tán xạ có cường độ 10,000-15,000

×