Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

phân lập, xác định vai trò gây bệnh của salmonella typhimurium và salmonella enteritidis trên đàn vịt tại một số huyện thuộc tỉnh hưng yên và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 113 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



TRẦN VĂN THÀNH




PHÂN LẬP, XÁC ĐỊNH VAI TRÒ GÂY BỆNH CỦA
SALMONELLA TYPHIMURIUM VÀ SALMONELLA
ENTERITIDIS TRÊN ĐÀN VỊT TẠI MỘT SỐ HUYỆN THUỘC
TỈNH HƯNG YÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP









THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



TRẦN VĂN THÀNH




PHÂN LẬP, XÁC ĐỊNH VAI TRÒ GÂY BỆNH CỦA
SALMONELLA TYPHIMURIUM VÀ SALMONELLA
ENTERITIDIS TRÊN ĐÀN VỊT TẠI MỘT SỐ HUYỆN THUỘC
TỈNH HƯNG YÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60.62.50



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. NGUYỄN QUANG TUYÊN
2. PGS.TS. TRẦN THỊ HẠNH




THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế của nước ta đang phát triển cùng hội nhập kinh tế toàn cầu,
mức sống ngày càng được nâng cao. Do vậy, ngành chăn nuôi nước ta chiếm
một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu nền
kinh tế nói chung. Chăn nuôi với nhiều phương thức đã góp phần giải quyết
công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, tạo ra các sản phẩm có
giá trị xuất khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế, xã hội, nhất là khi nước ta vừa
gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì việc nâng cao chất lượng đàn
gia súc, gia cầm càng cần được đầu tư, chú trọng.
Mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển chăn nuôi của Việt Nam đến
năm 2010 cần đạt: đàn lợn 32,8 triệu con, sản lượng thịt lợn là 3,2 triệu tấn;
đàn bò thịt 7,1 triệu con, sản lượng thịt bò 210 ngàn tấn; đàn bò sữa 200 ngàn
con, sản lượng sữa 350 ngàn tấn; đàn gia cầm 283 triệu con, sản lượng thịt
1427 ngàn tấn và 7,95 tỷ quả trứng gà, vịt (Cục chăn nuôi, 2006)[3].
Để đạt được những mục tiêu trên cần phải đầu tư cho công tác giống,
quan tâm đến vấn đề thức ăn, các chương trình quản lý, đồng thời cũng phải
chú trọng hơn nữa công tác thú y, tăng cường áp dụng các biện pháp khoa học

kỹ thuật trong chẩn đoán làm cơ sở cho công tác phòng, chống dịch bệnh ở
vật nuôi có hiệu quả.
Vịt là loài thuỷ cầm có tính thích nghi cao với các điều kiện sinh thái,
thích hợp cho việc chăn thả ở những nơi có nguồn nước để tìm kiếm thuỷ
động vật và thóc lúa rơi vãi sau thu hoạch. Những năm gần đây, chăn nuôi vịt
thịt phát triển mạnh, tuy nhiên, điều kiện nuôi vịt cần có nước là môi trường
rất thuận lợi cho việc phát triển bệnh do vi khuẩn gây ra, trong đó Salmonella
có vai trò quan trọng về dịch tễ, là một hạn chế đáng kể trong việc phát triển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
mạnh giống gia cầm này. Hầu hết các sản phẩm chăn nuôi vịt đều bị vấy
nhiễm Salmonella ở các mức độ khác nhau.
Nhiều kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước đã kết luận Salmonellosis
là bệnh chung của nhiều loài vật nuôi và gây bệnh cho cả con người. Nhằm
đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, tiêu chuẩn qui định đối với Salmonella
là không được có bất kỳ 1 type Salmonella nào trong 25 gam sản phẩm được
thực hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tiêu chuẩn này
cũng được quy định trong TCVN 7046-2002[49]. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề
an toàn vệ sinh thực phẩm, trong đó có gia cầm và thịt gia cầm sạch bệnh nhất
là sạch Salmonella là một yêu cầu cấp thiết.
Vi khuẩn Salmonella đã được nghiên cứu từ nhiều năm nay, trong
những năm gần đây chúng được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều bởi sự
gia tăng của các bệnh ngộ độc thực phẩm ở người mà nguyên nhân chủ yếu là
do độc tố của chúng gây ra. Việc nghiên cứu vi khuẩn Salmonella, tỷ lệ
nhiễm, vai trò gây bệnh của chúng… đối với đàn gia cầm tại tỉnh Hưng Yên
là việc làm cần thiết, để từ đó có cơ sở xây dựng biện pháp phòng, chống
bệnh đạt hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy chăn nuôi gia cầm nói chung, chăn

nuôi vịt nói riêng phát triển bền vững, tạo ra sản phẩm an toàn vệ sinh thực
phẩm, có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Ở nước ta cho tới nay những
nghiên cứu về Salmonella nói chung và đặc biệt là 2 loài Salmonella
typhimurium (S. typhimurium) và Salmonella enteritidis (S. enteritidis) gây
ngộ độc thực phẩm chủ yếu ở người còn ít được quan tâm.
Tại Hưng Yên chăn nuôi vịt trong những năm gần đây vẫn được duy trì
và phát triển trong các hộ gia đình và trang trại góp phần tăng thu nhập kinh
tế cho các nông hộ. Tuy nhiên, ngoài một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
như cúm gia cầm, viêm gan thì đàn thủy cầm nuôi tại Hưng Yên còn bị tổn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
thất nhiều do nhiễm bệnh Salmonellosis. Để có cơ sở trong việc nghiên cứu
và xây dựng những biện pháp phòng và trị Salmonellosis ở đàn vịt cho hiệu
quả cao tại Hưng Yên, chúng tôi đã phân lập, xác định Serotype và kiểm tra
động lực của các chủng vi khuẩn Salmonella gây bệnh phân lập được.
Xuất phát từ những vấn đề trên, được sự đồng ý của tập thể thầy cô
giáo hướng dẫn và cơ sở nghiên cứu chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Phân lập, xác định vai trò gây bệnh của Salmonella typhimurium và
Salmonella enteritidis trên đàn vịt tại một số huyện thuộc tỉnh Hưng Yên và
biện pháp phòng trị”.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Xác định đặc tính sinh vật, hoá học và đặc tính gây bệnh của vi khuẩn
S. typhimurium và S. enteritidis trên vịt tại một số huyện thuộc tỉnh Hưng Yên.
Xác định một số yếu tố gây bệnh của vi khuẩn Salmonella phân lập được.
Kiểm tra độc lực, độc tố, khả năng bám dính… của các chủng Salmonella
phân lập được.
Đề xuất biện pháp phòng trị thích hợp.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đây là công trình nghiên cứu tập trung về 2 chủng Salmonella trên đàn
vịt tại một số huyện thuộc tỉnh Hưng Yên. Bước đầu đã xác định một số đặc
tính của Salmonella. Xác định được nhóm kháng nguyên, định type vi khuẩn
phân lập được và xây dựng biện pháp phòng chống bệnh do Salmonella gây ra
ở vịt.
Kết quả nghiên cứu của đề tài bổ sung thêm nguồn tư liệu cho những
nghiên cứu về Salmonella trên vịt nói riêng và Salmonella trên gia cầm nói
chung của Việt Nam và thế giới.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở để xây dựng chương trình phòng bệnh tổng
hợp để từng bước giám sát và khống chế bệnh do Salmonella gây ra trên vịt
cũng như góp phần bảo vệ sức khoẻ vật nuôi và cộng đồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy ở vịt và vi khuẩn Salmonella
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về vai trò gây bệnh của S. typhimurium và
S. enteritidis trên vịt
Salmonella là một thành viên của họ vi khuẩn đường ruột
Enterobacteriaceae, giống vi khuẩn này được gọi tên của bác sỹ Thú y Daniel
E. Salmon và Smith, để kỉ niệm người đầu tiên tìm ra. Kể từ năm 1985 sau
khi Daniel E. Salmon và Smith phân lập được vi khuẩn Salmonella đến nay
người ta tìm thấy trên 2100 chủng (serova) khác nhau của loài vi khuẩn này.
Vi khuẩn Salmonella là trực khuẩn Gram âm,hai đầu tròn, không hình
thành nha bào. S. typhimurium và S. enteritidis gây bệnh cho gia cầm.
Nghiên cứu thực hiện ở học viện Metnhicốp (1956 - 1958) đã cho thấy
trong 156 mẫu Salmonella phân lập được từ gia cầm (trong đó có vịt) có 96/156
(52,9%) là do S. typhimurium (Trần Xuân Hạnh và cs, 1998)[18].

Ở Long An, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, cho thấy:
8,8% vịt đẻ, 24,7% vịt con, 31,7% phôi trứng bị chết và 64,8% cứt xu đã bị
nhiễm Salmonella (Trần Xuân Hạnh và cs, 1998[18]).
Ở Inđônêsia, năm 1992 - 1993, đã xác định 26 mẫu huyết thanh vịt,
trong đó S. tyhimurium là 24%, S. amsterdam là 10,5%, S. virchov là 7,5% và
S. thompson là 6,8% (Trần Thị Hạnh và cs, 2002)[15].
Đối với tất cả các loài gia cầm, Salmonellosis thể hiện các thể bệnh như
nhiễm trùng, nhiễm trùng không xuất hiện triệu chứng, không bệnh tích trở
thành những con vật khoẻ mang trùng, chúng suốt đời bài tiết thường xuyên
hoặc gián đoạn Salmonella ra môi trường hoặc dưới thể bệnh với những triệu
chứng khi nở hoặc chết ngay khi mới nở. Các vịt con bị xù lông, sợ rét,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
cuộn mình dưới chụp sưởi, khát nước và chết do mất nước. Đôi khi biểu
hiện viêm khớp, viêm rốn, đặc biệt khi nhiễm S. typhimurium. Trong một số
trường hợp biểu hiện triệu chứng tiêu hoá như ỉa lỏng nước trắng hoặc xanh,
có vết máu, tỷ lệ chết có thể tới 70%. Trong thể cấp tính, bệnh kéo dài 3 hoặc
4 ngày và không có triệu chứng điển hình nào. Ở vịt đẻ, thể cấp tính đặc trưng
bằng những triệu chứng như ủ rũ, sốt, manh tràng xanh sẫm. Thể mãn tính
trước hết biểu hiện ở triệu chứng sinh sản như chậm đẻ, giảm tỷ lệ đẻ, viêm
buồng trứng - vòi trứng và trứng không có vỏ. Ở vịt con, những tổn thương
viêm ống tiêu hoá, gan và màng ngoài tim thể hiện khá rõ hội chứng phó
thương hàn (PTH). Tuy nhiên, ở vịt đẻ những thể hiện tổn thương trên ít rõ
ràng hơn.
Vịt có thể là nơi cư trú của những type Salmonalla khác nhau phân bố
rộng rãi, đặc biệt là S. enteritidis, S. saintpaul, S. typhimurium, S. montevideo,
S. panama… Ở Pháp, vào những năm 1994-1995 đã thấy 27 type huyết thanh
khác nhau ở vịt. Tại Việt Nam, 14 type huyết thanh đã được xác định ở cứt su

và phân vịt tại các tỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Long An.
Trong những type huyết thanh chiếm ưu thế là S. typhimurium, S. senftenberg,
S. amsterdam, S. takssony… (Trần Xuân Hạnh và cs, 1998[18]).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn Salmonella
1.1.2.1. Nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu, phát hiện Salmonella và bệnh do chúng gây ra, cùng với
các bệnh dịch tả, lao, nhiệt thán, thương hàn thuộc những dịch bệnh đã được
bắt đầu nghiên cứu cách đây trên 120 năm trong lĩnh vực vi sinh vật y học.
Năm 1880 E berth lần đầu tiên quan sát thấy vi khuẩn dưới kính hiển vi. Sau
đó 4 năm, năm 1884 Gaffky đã nuôi cấy thành công vi khuẩn. Loài vi khuẩn
S. typhi lúc đầu được gọi với các tên như Bacillus typhous, Bacterium typhi và
Eberthella typhy typhosa. Còn tên giống Salmonella được Lignires sử dụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
đặt cho trực khuẩn gây bệnh dịch tả “Hog-cholera bacillus” vào năm 1900
(Selbitz và cs, 1995)[74].
Tên của loài vi khuẩn quen thuộc đối với chúng ta ngày nay là S. cholerae
suis, lần đầu xuất hiện trong báo cáo năm của phòng Chăn nuôi Công nghiệp
Mỹ năm 1885 với sự nhìn nhận nhầm lẫn cho là tác nhân gây bệnh dịch tả lợn
(Barnes D.M và Sorensen K.D, 1975)[51]. D.E. Salmon lúc bấy giờ là trưởng
phòng nghiên cứu, vì vậy mà tên ông được lấy để đặt tên cho vi khuẩn mới
này. Song người chính thức phát hiện ra loài vi khuẩn Salmonella lại là
T. Smith, một cộng sự của ông.
Những năm tiếp theo, các nhà khoa học tiếp tục phân lập được vi khuẩn
này gây bệnh ở người, tìm thấy vi khuẩn trong thịt bò, trong chuột bạch…
Năm 1988, A.Gartner ở Jena (Đức) đã xác định được nguyên nhân gây
viêm ruột người do ăn phải thịt bò chết ở Frankenhausen (Đức) là vi khuẩn,
lúc đó được gọi là Bacillus enteritidis (nay là S.enteritidis); căn cứ vào tên

người phát hiện ra vi khuẩn, cũng như nơi mà vi khuẩn gây bệnh; trong một
khoảng thời gian dài loài vi khuẩn S. enteritidis được gọi là trực khuẩn
Gartner với các tên khác nhau như Gartner - bacillus hoặc Typus Gartner
Jena. Năm 1889 và 1890 tại Viện vệ sinh trường Đại học Greiswald (Đức) do
F.Loeffler phụ trách đã xảy ra dịch bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng đối với
chuột thí nghiệm. Nguyên nhân do loài vi khuẩn lúc đó được gọi tên là
Bacillus typhimurium. Năm 1891, C.O Jensen đã tách được S. dublin từ bệnh
phẩm của bê bị bệnh tiêu chảy. Cùng năm đó loài S. typhimurium được phát
hiện ở Greiswald và Breslau. Năm 1900, tên giống Salmonella được Lignieres
sử dụng đặt cho trực khuẩn gây bệnh dịch tả “Hogcholera bacillus”. Lúc đầu
tất cả các bệnh ở gia súc do Salmonella gây ra được gọi chung một tên là
bệnh PTH “Paratyphus”. Cho đến năm 1914 có tổng cộng 12 loài vi khuẩn
được mô tả và xếp vào giống Salmonella. Trong những năm 30 (thế kỷ XX)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
số lượng loài Salmonella đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1926, White đã có
những công trình nghiên cứu về cấu trúc kháng nguyên của Salmonella, bắt
đầu một thời kỳ khoa học mới về giống vi khuẩn này. F.Kauffmann tiếp tục
thành công trong những nghiên cứu sau đó và đã thiết lập được bảng kháng
nguyên đầu tiên vào năm 1934, làm nền tảng cho việc tra cứu. Bảng kháng
nguyên vi khuẩn Salmonella được gọi tên là bảng phân loại Kauffmann -
White đã thường xuyên được Trung tâm hợp tác của WHO về nghiên cứu
Salmonella tại Viện Pasteur - Pari bổ sung và công nhận. Cùng năm đó, hai
nhà bác học đã thiết lập được bảng cấu trúc kháng nguyên đầu tiên đặt tên là
bảng phân loại Kauffmann-White. Từ đó đến nay, bảng cấu trúc kháng
nguyên của Salmonella luôn luôn được bổ sung. Năm 1993 đã có 2375 type
Salmonella được định danh. Đến năm 1997 con số type Salmonella đã lên đến
3000. Năm 1998 lại có thêm 6 type khác được bổ sung. Như vậy giống

Salmonella luôn luôn thu hút sự chú ý của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực
Vi sinh vật và Y học (Selbitz và cs, 1995)[74].
Năm 1934, theo đề nghị của hội nghị các nhà sinh vật học quốc tế, để
kỷ niệm người đầu tiên tìm ra vi khuẩn là Salmon, tên chính thức của loài vi
khuẩn này được đặt là Salmonella (Nguyễn Như Thanh, 2001)[42].
Vi khuẩn Salmonella được tìm thấy ở tất cả các nước trên khắp thế giới
ở trong động vật khoẻ cũng như động vật ốm.
Năm 1972, tại nước Anh đã tìm thấy vi khuẩn Salmonella có trong
phân lợn là 9,9% số mẫu kiểm tra; năm 1973, tiếp tục phát hiện Salmonella
trong hạch ruột lợn ốm là 7,3%. Tại Mỹ, năm 1984 đã xét nghiệm thấy
Salmonella trong máu lợn chết là 4,3%. Năm 1989, Hungari công bố tỷ lệ
mẫu phân lợn có Salmonella tới 48% (Wilcock và Schwartz, 1992) [80].
Việc nghiên cứu chi tiết từng loài Salmonella gây bệnh cho từng loại
vật nuôi cũng đã được nhiều tác giả thông báo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Barnes và Sorensen (1975)[51]; Wilcock và Schwartz (1992)[80];
Selbitz và cs, (1995)[74]; Laval A (2000)[23] đều cho biết bệnh Phó thương
hàn cấp tính ở lợn con do S. cholerae suis var kunzendorf gây ra; bệnh viêm ruột
mãn tính do S. typhimurium. Gây bệnh chủ yếu ở trâu, bò là S. dublin, S. enteritidis.
Các loài S. abortus ovis, S. montevideo, S. dublin, S. anatum gây bệnh ở cừu.
S. abortus equi là tác nhân chính gây bệnh cho ngựa. Còn ở gia cầm và chim
chủ yếu do S. pullorum gallinarum, S. typhimurium, S. enteritidis gây ra.
Tại Mỹ rất nhiều công trình nghiên cứu về các chủng Salmonella gây
bệnh cho gia cầm đã được công bố. Williams và cs, (1976)[82] đã nghiên cứu
các biện pháp chẩn đoán phát hiện S. typhimurium ở gia cầm.
Tại các nước Đông Nam Á, Bela Toth (1985)[47] một chuyên gia thú y
của FAO đã dành nhiều năm nghiên cứu về bệnh của vịt cho biết bệnh do

Salmonella gây trên vịt xảy ra ở hầu khắp thế giới và tỷ lệ thay đổi từ 1 -
60%. Trong một ổ dịch thường thấy vịt chết ngay từ những ngày đầu sau khi
đưa ra khỏi lò ấp, vịt ở mọi lứa tuổi đều mẫn cảm với bệnh, tuy nhiên triệu
chứng lâm sàng thường chỉ thấy ở vịt con. Đã có những nghiên cứu về
các chủng Salmonella gây bệnh trên vịt, một số tác giả đã phân lập được
S. typhimurium từ một số ổ dịch tự nhiên xảy ra trên vịt con và vịt đẻ. Tuy
nhiên, các tác giả cũng nhận thấy rằng vịt có sức đề kháng với Salmonella
cao hơn so với gà. S. typhimurium và S. enteritidis đựơc coi là nguyên nhân
chủ yếu gây bệnh cho vịt. Tại Thái Lan, đã phân lập được S. typhimurium từ
các ổ dịch tự nhiên xảy ra trên vịt.
Vai trò gây bệnh của Salmonella đối với gia cầm được đề cập từ đầu
thế kỷ XX, tuy nhiên triệu chứng bệnh đã được mô tả sớm hơn nhiều. Vào
năm 1888 một vụ dịch xảy ra ở Anh tại một cơ sở chăn nuôi gà công nghiệp
đã gây chết 400 con. Lúc bấy giờ người ta nghi đây là bệnh dịch tả gà, ngay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
sau đó Klein phân lập được căn bệnh và đặt tên là Bacillus gallinarum. Một
vài năm sau Lucet ở Pháp, Pfeiler và Rhese ở Đức cũng mô tả căn bệnh tương
tự. Cho đến năm 1892, Loeff đã gọi Bacterium typhimurium là vi trùng gây
bệnh chủ yếu của bệnh thương hàn ở gia cầm. Từ năm 1933 đến năm 1956 tại
Anh đã có rất nhiều tác giả để tâm nghiên cứu về bệnh này. Hầu hết các loài
gia cầm như gà, gà tây, vịt, ngan, ngỗng và bồ câu đều bị nhiễm Salmonella ở
mọi lứa tuổi, tỷ lệ nhiễm thay đổi từ 1 - 9,8% (Nagaraja và cs, 1991)[66].
Nhờ có sự tiến bộ của khoa học như kính hiển vi điện tử, công nghệ gen
Việc nghiên cứu vi khuẩn Salmonella liên tục được các nhà khoa học trên thế
giới bổ sung, định danh, phân loại. Bảng phân loại của Kauffmann - White bổ
sung đến 1993 đã có 2375 type được định danh. Còn cho biết bộ gene “genom”
của Salmonella được nghiên cứu tương đối kỹ. Cho đến nay ít nhất đã chứng

minh được 750 gene, trong đó có 680 gene đã có trong bản đồ gene (Selbitz và
cs, 1995)[74]. Năm 1997, số type đã lên đến 3000 (Plonait và Birkhardt,
1997)[69]. Năm 1998, lại thêm 14 type Salmonella được công nhận và bổ sung
các đặc tính.
Như vậy, trong ngành vi sinh vật, vi khuẩn Salmonella đã gây được sự chú
ý cao và có nhiều nghiên cứu cơ bản với mục tiêu tìm ra những biện pháp có hiệu
quả để ngăn chặn và đẩy lùi bệnh do Salmonella gây ra ở động vật và người.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu vi khuẩn Salmonella ở trong nước
Salmonellosis là bệnh truyền lây giữa người và động vật. Vi khuẩn
sống hoại sinh trong đường tiêu hoá, khi sức đề kháng của con vật giảm sút,
Salmonella sẽ xâm nhập và gây bệnh. Chính vì lẽ đó mà Salmonella và bệnh
do Salmonella gây nên đã được nghiên cứu trên nhiều loài vật nuôi.
Ngay từ những năm 1951 - 1953, viện Pasteur Sài Gòn đã phân lập
được 6 type Salmonella ở người và 35 type Salmonella ở lợn tại lò sát sinh.
Năm 1963, Viện vệ sinh dịch tễ Hà Nội kiểm tra và phát hiện 6,3% mẫu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
phân của công nhân giết mổ và 22% mẫu thịt lợn nhiễm Salmonella, với
phần lớn là các type thuộc nhóm E (Nguyễn Quang Tuyên, 1996)[48].
* Salmonella ở lợn:
Nghiên cứu Salmonella ở lợn có công trình của Phùng Quốc Chướng
(1995)[9], Trần Xuân Hạnh (1995)[17], Hồ Văn Nam và cs, (1997)[25],
Cù Hữu Phú và cs, (2000)[33], Đỗ Trung Cứ và cs, (2001)[5], Nguyễn Bá Hiên
(2001)[19], Đặng Xuân Bình và cs, (2010)[2], Trịnh Tuấn Anh và cs,
(2010)[1].
Trần Xuân Hạnh (1995)[17] khi phân lập vi khuẩn Salmonella trên lợn
ở tuổi giết thịt tại lò mổ ở thành phố Hồ Chí Minh (nguồn lợn từ 6 tỉnh: Minh
Hải, Hậu Giang, Đồng Nai, Tiền Giang, Ninh Thuận, Bình Thuận và Thành

phố Hồ Chí Minh) đã cho biết 20,82% mẫu hạch màng treo ruột, 11,28% mẫu
phân có Salmonella.
Phùng Quốc Chướng (1995)[9] trong thời gian 5 năm (1989-1994) xét
nghiệm một lượng lớn mẫu phân lợn lấy từ các địa phương, xác định tỷ lệ lợn
ở 4 tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng) nhiễm vi
khuẩn Salmonella ở các vùng khác nhau, lợn các lứa tuổi và theo các mùa
trong năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợn nuôi tại Tây Nguyên có tỷ lệ
nhiễm Salmonella 24,83%; 15% số mẫu thức ăn thừa trong máng ăn, 30% số
mẫu nước rửa chuồng tại trại nhiễm Salmonella. Tác giả đã theo dõi biến
động số lợn nhiễm Salmonella ở lợn khoẻ và ở lợn bị tiêu chảy.
Hồ Văn Nam và cs (1997)[25] nghiên cứu sự phân bố của Salmonella
trong cơ thể lợn bị bệnh Phó thương hàn; đã tiến hành gây viêm ruột cho 12
lợn sau cai sữa bằng cách cho uống nước muối và sau 10 giờ cho uống thêm 5
ml canh trùng Salmonella. Sau 4 - 7 ngày lợn sốt (40 - 41
0
C), ỉa chảy phân
khắm; chứng tỏ viêm ruột ở giai đoạn nhiễm trùng. Và tiến hành xét nghiệm
vi khuẩn 12 lợn trên, 100% bệnh phẩm lấy ở ruột; 85,71% đến 100% bệnh
phẩm là hạch lâm ba, gan, lách có Salmonella cả thể cấp tính và mãn tính.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Cù Hữu Phú và cs (2000)[33] nghiên cứu Salmonella trong bệnh tiêu
chảy ở lợn 35 ngày đến 4 tháng tuổi nuôi xung quanh Hà Nội cho biết 80%
mẫu phân lợn tiêu chảy có nhiễm Salmonella. Xác định đặc tính sinh học, khả
năng sản sinh độc tố đường ruột của các chủng Salmonella phân lập được; các
tác giả đã chế thử nghiệm autovacxin phòng bệnh tiêu chảy cho lợn, kết quả
đạt 89,22% lợn được phòng bệnh sau 4 tháng tiêm phòng.
Nghiên cứu vi khuẩn Salmonella gây bệnh Phó thường hàn lợn ở một

số tỉnh miền núi phía bắc, Đỗ Trung Cứ và cs, (2001)[5] cũng công bố những
kết quả tương tự; ngoài ra các tác giả đã cho biết ở lợn bệnh vi khuẩn được
tìm thấy nhiều nhất là ở hạch ruột (94,59%) và ít nhất là ở thận (20,08%).
Theo Đặng Xuân Bình, Dương Thùy Dung (2010)[2] nghiên cứu
Salmonella trên thịt lợn tươi được thu thập tại các chợ khu vực trung tâm
thành phố Thái Nguyên từ 5/2009 đến 4/2010 chiếm từ 10% đến 19,5%.mẫu
thịt nhiễm Salmonella không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật.
Trịnh Tuấn Anh và cs (2010)[1] nghiên cứu Salmonella trong bệnh tiêu
chảy ở lợn 1 ngày đến 90 ngày tuổi nuôi tại Thái Nguyên. Qua xét nghiệm
516 mẫu phân và bệnh phẩm lợn bệnh có 83 mấu nhiễm Salmonella spp
(chiếm tỷ lệ 16,08%).
* Salmonella ở trâu, bò:
Nguyễn Quang Tuyên (1996)[48] nghiên cứu đặc tính một số chủng
Salmonella gây bệnh tiêu chảy ở bê, nghé ở các địa phương Phù Đổng (Hà Nội),
Ba Vì (Hà Tây) và Bắc Thái (Thái Nguyên và Bắc Kạn ngày nay) đã có những
nhận xét về triệu chứng lâm sàng, bệnh lý của bê, nghé bị bệnh. Tác giả đã xét
nghiệm mẫu bệnh phẩm, khảo sát các chủng vi khuẩn Salmonella phân lập
được và chế tạo chế phẩm sinh học cho uống, tạo miễn dịch tại chỗ, ngăn cản
sự bám dính của Salmonella, phòng bệnh có hiệu quả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Nguyễn Văn Quang (1998)[35] có công trình nghiên cứu mang tính bao
quát về một số vi khuẩn hiếu khí thường gặp và vai trò của Salmonella trong
hội chứng tiêu chảy của bò, bê ở một số tỉnh Nam Trung Bộ.
* Salmonella ở gia cầm:
Bệnh Phó thương hàn gia cầm được Nguyễn Vĩnh Phước (1974)[30] đề
cập đến từ những năm đầu của thập kỷ 70. Từ đó đến nay bệnh đã xuất hiện ở
nhiều cơ sở chăn nuôi gia cầm trong cả nước. Trong những năm gần đây có

rất nhiều tác giả nghiên cứu căn bệnh do Salmonella trên gà công nghiệp.
Nguyễn Thị Ngọc Liên (1997)[24] nghiên cứu bệnh Phó thương hàn vịt ở
Hà Tây cũ đã phát hiện vịt các lứa tuổi đều nhiễm Salmonella; vịt con (1 - 56 ngày
tuổi) nhiễm cao nhất (20,97% - 25,42%); vịt đẻ nhiễm thấp hơn (8,78% - 14,4%).
Ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, Trần Xuân Hạnh và cs,
(1998)[18] cũng thông báo tình hình tương tự. Ngoài mẫu phân, tác giả còn xét
nghiệm các mẫu trứng và cho kết quả đáng chú ý là tỷ lệ nhiễm Salmonella cao
nhất ở mẫu trứng đã nở (64,8%) tiếp theo là trứng sát (31,7%).
Trần Thị Hạnh và cs (1999)[14] nghiên cứu tình trạng nhiễm
Salmonella tại các cơ sở chăn nuôi gà công nghiệp, đã xác định vi khuẩn ở
thức ăn hỗn hợp, nước uống, nước thải, chất độn chuồng, vỏ trứng và lòng đỏ
trứng. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm Salmonella cao nhất ở chất độn chuồng
(80,00%); thấp nhất là vỏ trứng và lòng đỏ trứng (18,29%).
Nguyễn Bá Hiên (2001)[19] đã cho biết kết quả phân lập vi khuẩn
thường gặp trong đường ruột, biến động các loài vi khuẩn khi gia súc bị tiêu
chảy, đặc biệt là tình trạng bội nhiễm Salmonella.
Nguyễn Ngọc Huân và cs (2006)[21] nghiên cứu sự lưu hành Salmonella
trên vịt tại trại vịt giống Vigova, đã nghiên cứu trên các mẫu phân vịt, trứng
chết phôi ở lò ấp và mẫu nước môi trường. Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Salmonella không cao (8,83%) và tỷ lệ nhiễm cao nhất là ở mẫu xét nghiệm
trứng chết phôi ở lò ấp (16,19%), thấp nhất là ở mẫu nước (0%).
Theo Nguyễn Thị Chinh và cs (2010)[11] Nghiên cứu Salmonella trên
đàn vịt tại hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang có tỷ lệ nhiễm 19,02%. Tỷ lệ
nhiễm cao nhất là trứng chết phôi.
Salmonella là vi khuẩn gây ra quá trình bệnh lý đường tiêu hoá cho
nhiều loài vật nuôi. Do vậy, để phòng chống bệnh đạt hiệu quả cao góp phần

bảo vệ đàn vật nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng, giữ vệ sinh an
toàn thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ con người thì nghiên cứu về vi khuẩn
Salmonella toàn diện là yêu cầu hết sức cần thiết.
1.2. Vi khuẩn Salmonella
1.2.1. Đặc điểm về hình thái
Salmonella là một loại vi khuẩn hình gậy ngắn, hai đầu tròn, kích thước
0,4 - 0,6 x 1 - 3 µ, không hình thành giáp mô và nha bào, có 7 - 12 lông
(trừ S. pullorum - gallinarum không có lông). Vi khuẩn dễ nhuộm với
thuốc nhuộm, bắt màu Gram âm đều toàn thân hoặc hơi đậm ở hai đầu
(Nguyễn Như Thanh, 2001)[42].

Hình ảnh vi khuẩn Salmonella
Theo Lê Văn Tạo (1993)[39] thời gian gần đây nhờ kính hiển vi điện
tử, bằng phương pháp nhuộm của Haschem (1972) người ta phát hiện trên bề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
mặt vi khuẩn Salmonella ngoài lông còn có các cấu trúc Fimbriae. Đây là một
cấu trúc ngắn hơn lông vi khuẩn, thường có kết cấu hình xoắn, được mọc lên
từ một hạt gốc nằm trên thành tế bào, có thể quan sát được dưới kính hiển vi
điện tử có độ phóng đại từ 6.500 lần trở lên. Trên mỗi tế bào vi khuẩn có từ 2
- 400 Fimbriae, với hai chức năng là giúp vi khuẩn bám dính vào tế bào
nhung mao ruột non để gây bệnh và liên kết với nhau để trao đổi thông tin di
truyền bằng hình thức tiếp hợp, di truyền ngang. Vi khuẩn Salmonella nào có
Fimbriae để thực hiện tiếp hợp gọi là Salmonella F
+
hay vi khuẩn cho. Vi
khuẩn không có Fimbriae gọi là Salmonella F
-

hay vi khuẩn nhận. Do
Fimbriae tạo ra bởi gen di truyền nằm trong ADN plasmid nên khả năng hình
thành phụ thuộc vào môi trường nuôi cấy. Theo Lê Văn Tạo (1993)[39] môi
trường tốt nhất để hình thành Fimbriae là môi trường MINCA và BHI. Hiện
nay có khoảng 2600 type Salmonella được phát hiện, tuy nhiên không phải tất
cả đều gây bệnh cho người. Hai loại S. typhimurium và S. enteritidis được biết
đến là nguyên nhân chính gây bệnh Salmonellosis ở người.
1.2.2. Đặc điểm về tính chất nuôi cấy
Salmonella là những vi khuẩn sống hiếu khí và yếm khí không bắt
buộc, phát triển trên các môi trường thông thường. Có rất nhiều loại môi
trường dinh dưỡng chọn lọc được dùng trong phân lập Salmonella, hiện nay
thường dùng các loại như môi trường bồi dưỡng (tăng sinh) Buffered Pepton
Water (BPW), môi trường tăng sinh chọn lọc đặc hiệu là Tetrathionate hay
còn gọi là môi trường Mueller- Kauffmann và Rappaport Vassiliadis (RV).
Các loại môi trường thạch dùng để nhận dạng các khuẩn lạc Salmonella cũng
như kiểm tra một số đặc tính sinh hoá bao gồm Brilliant Green Agar (BGA),
Bismuth Sulfite Agar (BSA), Triple Sugar Ion (TSI), Xylose Lysine
Deroxycholate (XLD), Xylose Lysine Tetrathionate 4 (XLT
4
), Modified
Semisolid Rappaport Vassiliadis (MSRV), Rambach, Kligler.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Trên môi trường BSA: sau 48 giờ nuôi cấy ở 37
o
C, vi khuẩn Salmonella
mọc lên những khuẩn lạc đặc trưng, xung quanh khuẩn lạc màu nâu thẫm, giữa
khuẩn lạc màu nâu chuyển dần sang màu đen, khuẩn lạc có màu ánh kim.

Trên môi trường MacConkey (MacC) vi khuẩn mọc thành khuẩn lạc
tròn, không màu. Trên môi trường BSA Salmonella mọc những khuẩn lạc đặc
trưng xung quanh màu nâu sẫm, giữa màu vàng đậm, gần đen, khuẩn lạc có
màu ánh kim (Timoney và cs, 1988)[77].
Trên môi trường thạch thường vi khuẩn mọc thành khuẩn lạc dạng S
(Smooth) tròn, trong sáng hoặc xám, nhẵn bóng, rìa gọn, hơi lồi ở giữa,
đường kính khoảng từ 1 - 1,5 mm, thỉnh thoảng có thể thấy khuẩn lạc dạng R
(rough), nhám, mặt trong mờ. Môi trường thạch máu, vi khuẩn mọc thành
khuẩn lạc tròn, màu xám, trơn bóng, ở giữa hơi lồi lên (Nguyễn Như Thanh,
2001)[42].
Vi khuẩn Salmonella thể hiện tính kiềm hình thành khuẩn lạc màu đỏ
trên môi trường BGA. Trong môi trường TSI hình thành khuẩn lạc nhạt màu,
mặt nghiêng môi trường có màu đỏ, màu hồng ở đáy cùng sản sinh H
2
S làm
cho môi trường chuyển màu đen (Quinn và cs, 1994)[71].
Trên môi trường MSRV, là môi trường chọn lọc những Salmonella có
khả năng di động, vi khuẩn di động trên bề mặt môi trường tạo thành vòng
màu trắng có thể quan sát được bằng mắt thường.
Trên môi trường XLD, vi khuẩn hình thành khuẩn lạc có kích thước
trung bình màu đen.
Trên môi trường Rambach, vi khuẩn hình thành những khuẩn lạc trung
bình, màu đỏ tím, bóng.
Trên môi trường XLT
4
, vi khuẩn hình thành khuẩn lạc trung bình, màu
đen, bóng, hơi lồi giống như khuẩn lạc mọc trên môi trường XLD, tuy nhiên
khả năng ức chế tạp khuẩn của XLT
4
tốt hơn XLD.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Trên môi trường Kligler, mặt nghiêng môi trường không đổi màu do vi
khuẩn không lên men đường lactose, phần thạch đứng môi trường đổi từ màu
đỏ tím sang màu vàng chanh, xen kẽ trong thạch có các bọt khí do vi khuẩn
lên men đường glucose làm thay đổi pH của môi trường và sinh hơi. Trong
thực tế do vi khuẩn sinh H
2
S, nên phần thạch đứng có màu đen, nên màu vàng
thường bị lấn át, khó quan sát được bằng mắt thường.
Nhiệt độ nuôi cấy, PH môi trường và nồng độ muối, liên quan chặt chẽ
đến sự phát triển của vi khuẩn Salmonella. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sự
phát triển của vi khuẩn là 37
o
C. Tuy nhiên Salmonella cũng mọc tốt ở nhiệt
độ 42
o
C. Đặc tính này ứng dụng trong phân lập Salmonella nhằm ức chế vi
khuẩn khác trong bệnh phẩm bị ô nhiễm. Môi trường có pH 6,5-7,5 là thích
hợp nhất cho sự phát triển của vi khuẩn. Tuy vậy Salmonella có thể phát triển
được ở pH từ 4,5-9,0. Nồng độ muối NaCl 3-4% trong môi trường có thể ức
chế sự phát triển của Salmonella (Nguyễn Như Thanh, 1990)[41].
1.2.3. Đặc tính sinh hóa
Mỗi loài Salmonella có khả năng lên men một số đường nhất định và
không đổi. Phần lớn các loài Salmonella lên men có sinh hơi đường glucoza,
mannit, mantoza, galactoza, levuloza, arabinoza. Một số loài như S. abortus
equi, S. abortus bovis, S. abortus ovis, S. typhisuis, S. typhi, S. choleraesuis,
S. gallinarum, S. enteritidis cũng lên men các đường nhưng không sinh hơi.

Riêng S. pullorum không lên men mantoza, S. choleraesuis không lên men
arabinoza.
Tất cả các vi khuẩn Salmonella đều không lên men lactoza, saccaroza.
Trên môi trường có kalixyanua, tất cả các Samonella đều không mọc.
Khoảng 96% Salmonella tiết ra enzym khử cacboxyn đối với lyzin, ocnitin và
arginin. Đa số Salmonella khômg làm tan chảy gelatin, không phân giải urê,
không sản sinh Indol. Phản ứng MR, catalaza dương tính (trừ S. cholerae suis,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
S. gallinarum - pullorum có MR âm tính). Phản ứng H
2
S dương tính (trừ
S. paratyphi A, S. abortusequi, S. typhisuis) (Erwing Edwars, 1970)[58].
Đặc tính sinh hóa có ý nghĩa lớn trong quá trình phân lập và giám định
vi khuẩn. Chính vì vậy, khi xét nghiệm mẫu vật xác định sự có mặt của
Salmonella cần thiết phải tiến hành các phản ứng sinh hóa. Dựa vào đặc điểm
phản ứng sinh hoá để phân biệt loài, các phụ loài và type của Salmonella.
* Sức đề kháng:
S. typhimurium có thể tồn tại hơn 7 tháng trong đất, nước, phân súc vật
và trên đồng cỏ (Blood and Henderson, 1975)[52].
Trực khuẩn Salmonella bị tiêu diệt ở nhiệt độ 60
0
C trong một giờ, ở
75
0
C trong 5 phút. Ánh sáng mặt trời chiếu thẳng diệt vi khuẩn trong nước
sau 5 giờ, trong nước đục 9 giờ.
Salmonella tồn tại trong xác chết 100 ngày, trong thịt ướp muối ở 6

0
C-
12
0
C từ 4 đến 8 tháng. Thịt ướp ít có tác dụng diệt Salmonella ở bên trong,
Salmonella có khả năng tồn tại nhiều tháng trong phân, đất, nước và trong
chuồng nuôi động vật. Vi khuẩn có sức đề kháng cao đối với các loại hóa
chất, phải dùng NaOH nóng 3-4%, Formalin 2-5% thì mới tiêu diệt được
chúng (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978)[31].
Trên mặt đất S. abortus có thể sống trong 10 ngày ở độ sâu 0,5cm trong
2 tháng. Ở nơi khô ráo, ánh sáng phân tán vi khuẩn sống trong 5 tháng, ở sàn
gỗ 87 ngày, ở tường gỗ 78 ngày, ở máng gỗ 108 ngày (Đào Trọng Đạt và cs,
1996)[13].
1.2.4. Đặc điểm dịch tễ học của Salmonella
Barnes và Sorensen (1975)[51] cho biết Salmonella phân tán, lây lan
nhanh, rộng rãi hơn ta tưởng. Chỉ cần 1 con trong đàn bị ỉa chảy do
Salmonella gây ra thì 24 giờ sau đó cả đàn đã bị lây nhiễm mầm bệnh. Trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
quá trình nổ ra dịch bệnh, vi khuẩn Salmonella cũng được tìm thấy ở khắp
mọi nơi như chuồng trại, rác rưởi, thức ăn, nước uống.
Nguồn cảm nhiễm chính là tất cả lợn trưởng thành mang trùng. Trực
khuẩn Phó thương hàn sống hoại sinh trong cơ thể lợn khỏe từ 25 - 50% lợn
khỏe mang trùng. Lợn khỏi bệnh là vật mang trùng và bài tiết vi trùng ra
ngoài theo phân. Cũng như hầu hết các loài vi khuẩn khác, Salmonella không
gây bệnh một cách đơn độc, mà bệnh nổ ra thường là kết quả của sự hội tụ
nhiều yếu tố. Trong một số yếu tố có thể chỉ là phụ, không đặc hiệu, song các
yếu tố này làm thay đổi khả năng miễn dịch bẩm sinh và là cơ hội cho bệnh nổ

ra. Thường bệnh Phó thương hàn xảy ra như một cảm nhiễm thứ phát, sau khi
bị các bệnh khác như bệnh cúm hoặc các bệnh giun sán khác. tỷ lệ lợn mắc
bệnh do Salmonella gây ra thường tăng lên vào thời kỳ lợn cai sữa, vì lúc đó
cơ thể lợn con thay đổi, dễ nhiễm bệnh. (Phan Thanh Phượng, 1988)[34].
Lợn con trước cai sữa bệnh ít nổ ra, bởi chúng được bảo hộ qua sữa
đầu. Song nguy cơ nổ ra bệnh tăng dần theo lứa tuổi, đặc biệt là sau cai sữa,
khi mà khả năng miễn dịch chủ động chưa thể bù đắp kịp thời để thay thế
miễn dịch thụ động. Khi xuất lợn đi có nghĩa xuất theo mầm bệnh. Ở
lợn’bệnh Phó thương hàn thể cấp tính gây nhiễm trùng huyết, rối loạn sinh
sản là do S.choleraesuis var kunzendorf gây ra. Thể bệnh này có thể lưu hành
ở trang trại từ đời này sang đời khác theo phương thức “truyền dọc” từ mẹ
sang con. Thể bệnh viêm ruột, ỉa chảy mãn tính ở lợn chủ yếu là do S.
typhimurium gây ra. Song loài vi khuẩn này lại lây truyền theo phương thức
“truyền ngang” từ lợn này sang lợn khác trong đàn. (Laval A, 2000)[23].
Salmonella khó sinh sản trong nước thường nhưng có thể tồn tại 1 tuần;
trong nước đá có thể sống 2 - 3 tháng. Trong xác động vật chết chôn ở bùn, cát
có thể sống 2 - 3 tháng. Trong thịt ướp muối (nồng độ muối 29%) Salmonella
có thể sống được 4 - 8 tháng ở nhiệt độ từ 8 - 12
0
C. Vi khuẩn gây ra bệnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
PTH cho lợn con từ 2 - 4 tháng tuổi với tỷ lệ tử vong khoảng 25%, có khi
lên đến 95%; bệnh có thể ở lợn lớn với thể mãn tính và ít gây chết.
(Nguyễn Như Thanh, 2001)[42].
Vi khuẩn Salmonella gây bệnh cho người và vật nuôi, phân bố khắp nơi
trên thế giới, vì thế các nghiên cứu về cách truyền lây của vi khuẩn này được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Một đặc điểm dịch tễ quan trọng của

Salmonella là trạng thái mang trùng và thải trùng của gia súc.
Nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu về đường nhiễm Salmonella đều
cho rằng: vi khuẩn Salmonella theo thức ăn, nước uống vào đường tiêu hoá và
có thể do tiếp xúc. Bình thường, chúng sống trong ống tiêu hoá mà không gây
bệnh. Chỉ khi nào sức đề kháng của lợn giảm sút, vi khuẩn xâm nhập vào máu
và nội tạng gây bệnh. Bệnh Phó thương hàn chỉ gây thành dịch địa phương,
dịch bệnh phụ thuộc vào cơ cấu đàn, tình hình vệ sinh thú y, chế độ chăm sóc nuôi
dưỡng và đặc điểm dịch tễ học của cơ sở đó. (Phan Thanh Phượng, 1988 [34];
Laval A, 2000[23], Nguyễn Như Thanh, 2001[42]).
Theo Archie Hunter (2002)[22] một nguồn bệnh đặc biệt quan trọng là
gia súc mang vi khuẩn Salmonella nhưng bình thường về lâm sàng. Những
gia súc này cơ thể đã khỏi về lâm sàng hoặc nhiễm vi khuẩn nhưng không
phát triển biểu hiện triệu chứng lâm sàng, chúng có thể thải vi khuẩn vào phân
trong vài tháng. Gia súc nhiễm bệnh thải vi khuẩn Salmonella vào trong phân
và bệnh xảy ra do tiếp xúc trực tiếp hay ô nhiễm phân vào thức ăn, nước uống
hay chuồng trại gia súc.
Gia súc nhập đàn cũng như gia súc xuất đàn là nguồn lây lan mầm bệnh
giữa các trang trại. Đặc biệt là các cơ sở cung cấp giống.
1.2.5. Cấu trúc kháng nguyên
Cấu trúc kháng nguyên của Salmonella hết sức phức tạp, gồm rất nhiều
loại. Theo Phạm Hồng Sơn (2002)[36] Salmonella có hơn 67 loại kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
nguyên O (có nhiều tài liệu công bố hơn 80 loại), 94 loại kháng nguyên H pha
1, hơn 11 kháng nguyên H pha 2, kháng nguyên K là kháng nguyên Vi.
Những năm gần đây, người ta phát hiện thêm kháng nguyên Pili của
Salmonella, yếu tố giúp vi khuẩn bám dính vào tế bào biếu mô. Có tới 80%
type Salmonella sản sinh kháng nguyên Pili, trong đó có S. typhimurium.

Cần phân biệt 4 loại kháng nguyên của vi khuẩn Salmonella là:
Kháng nguyên O (O-Antigen): kháng nguyên thân.
Kháng nguyên H (H-Antigen): kháng nguyên lông.
Kháng nguyên K (K-Antigen): kháng nguyên vỏ.
Kháng nguyên F (Fimbriae Antigen): kháng nguyên Pili.
Trong đó kháng nguyên có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán là
kháng nguyên thân (O - Antigen) và kháng nguyên lông (H - Antigen).
1.2.5.1. Kháng nguyên O
KN O - Lypopolysacharide (LPS) là một thành phần cơ bản tạo nên
màng ngoài của thành phần tế bào vi khuẩn. LPS có cấu tạo phân tử lớn, gồm
3 vùng riêng biệt: vùng ưa nước, vùng lõi và vùng lipid A.



KN - O là loại kháng nguyên chịu nhiệt, có thể chịu được 100
o
C trong
nhiều giờ, chịu được cồn và HCl ở nồng độ 1N trong 20 giờ. Oligosacharide
sắp xếp kế tiếp nhau, là đơn vị cơ sở của KN - O thuộc nhóm vi khuẩn Gram
âm. Thành phần, trật tự sắp xếp các loại đường và mối liên kết giữa chúng sẽ
quyết định đặc tính kháng nguyên O, góp phần tạo nên sự đa dạng của các
chủng Salmonella.
KN - O không phải là độc tố nhưng là yếu tố gây bệnh của vi khuẩn,
giúp vi khuẩn chống lại khả năng phòng vệ của cơ thể, chống lại hiện tượng
thực bào. (Morris và cs, 1976)[65].
O –Specific
(vùng ưa
nước)

Core

(vùng lõi)

Vùng
lipit A


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
KN - O của Salmonella rất phức tạp, theo Nguyễn Như Thanh
(1990)[41] người ta đã tìm thấy 65 yếu tố khác nhau, ký hiệu bằng số La
mã hay Ả rập.
1.2.5.2. Kháng nguyên H
KN - H của Salmonella bản chất là một protein nằm trong phần lông
của vi khuẩn. KN - H không chịu nhiệt, rất kém bền vững so với KN - O; bị
phá huỷ ở 60
0
C trong 1 giờ, dễ bị phá hủy bởi cồn và axit yếu.
KN - H không có ý nghĩa trong việc tạo ra miễn dịch phòng bệnh,
nhưng có ý nghĩa trong việc phân loại, định danh vi khuẩn.
KN - H không quyết định yếu tố độc lực, không có vai trò bám dính,
nhưng có tác dụng bảo vệ vi khuẩn đường ruột tránh sự tiêu diệt của đại thực
bào, giúp vi khuẩn sống và nhân lên trong tế bào gan, thận và ngay cả trong
đại thực bào (Weinstein và cs, 1984)[79].
KN - H chia làm 2 pha:
Pha 1 có tính chất đặc hiệu, gồm có 28 kháng nguyên lông, được biểu
thị bằng chữ la tinh thường: a, b, c, d, f, g nếu hết cả 28 chữ thì người ta sử
dụng chữ f và số đứng bên phải chữ f. Ví dụ f5, f27
Pha 2 không có tính chất đặc hiệu, gồm có 6 loại, được biểu thị bằng
chữ số Ả rập: 1, 2, 3, 4, 5, 6.

Pha 1 và pha 2 được biểu thị bởi H
1
và H
2
được kiểm tra bởi một phát
động H
2
(Promoter H
2
), nhờ sự phát động này mà có thể chuyển ngược lại
một mặt thúc đẩy H
2
và ức chế H
1
hoặc H
2
bị ức chế còn H
1
lại hoạt động
(Kneckner, 1997)[63].
1.2.5.3. Kháng nguyên vỏ (KN - K)
Kháng nguyên vỏ chỉ có ở một số loài như S. typhi, S. paratyphi,
S.dublin có thể chứa Vi - Antigen giống như K - Antigen của E.coli.
Theo Kauffmann F. M. D. (1972)[62] có 3 loại kháng nguyên K là:
kháng nguyên 5 (KN - 5), kháng nguyên Vi (KN - Vi), kháng nguyên M

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
(KN - M). Đây là các kháng nguyên vỏ (capsular) được phân thành nhiều

nhóm trong họ vi khuẩn đường ruột, được biểu thị bằng các chữ cái A, B,
L nhờ các đặc điểm sinh hoá khác nhau (Chữ K bắt nguồn từ chữ Kapsel
trong tiếng Đức).
KN - 5 dễ bị axit HCl phá hủy và tính chất ngưng kết của KN - 5 hoàn
toàn bị phá hủy ở nhiệt độ 120
o
C, nhưng không bị phá hủy bởi cồn.
KN - Vi có sức đề kháng cao với cồn và axit HCl. KN - Vi không liên
quan gì đến độc lực của vi khuẩn, nhưng đóng vai trò chính trong việc tạo
miễn dịch chủ động và thụ động ở động vật và người.
KN - M kháng nguyên của dòng vi khuẩn có khuẩn lạc dạng nhầy.
Kháng nguyên Vi là một loại kháng nguyên có khả năng ngưng kết
kháng thể O khi nó phát triển nhiều.
1.2.5.4. Kháng nguyên màng ngoài vỏ bọc (Outer Membrame Protein - OMP)
(KN - OMP)
Lớp màng ngoài của Salmonella chứa protein có đặc tính đã được
hydrô hóa, thành phần này chiếm tới 5% toàn bộ KN - OMP. OMP của
S. typhymurium có 4 loại protein phân chia theo trọng lượng phân tử, trong đó
có 3 loại tạo kênh vận chuyển của màng tế bào. Chức năng của KN - OMP
chưa được xác định rõ, nhưng khi OMP thay đổi cấu trúc thì ảnh hưởng đến
khả năng hoạt động của vi khuẩn.
1.2.5.5. Kháng nguyên pili (KN - Pili) - Fimbriae antigen
KN pili của vi khuẩn Salmonella nằm trong cấu trúc Fimbriae nên còn
gọi là KN - F. Nó có chức năng giúp vi khuẩn bám dính vào tế bào nhung
mao ruột. Theo Lê Văn Tạo (1993)[39] kháng nguyên Fimbriae của
Salmonella thuộc type I (CFA/I) có khả năng ngưng kết hồng cầu gà, chuột
lang. Nó được phân biệt với kháng nguyên bám dính không phải type I bằng
phản ứng mẫn cảm với Manoza (MSHA) và phản ứng chống Manoza
(MRHA) của kháng nguyên Fimbriae không phải type I.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
KN - pili bản chất là protein, thành phần và trật tự các amino axit của
mỗi kháng nguyên đều có những điểm khác biệt. Đến nay, một số nhóm
kháng nguyên pili của Salmonella đã phát hiện gây bệnh tiêu chảy ở người và
động vật là Colonization Factor Antigen (CFA) I và II (Trần Quang Diên,
2002)[12].
1.2.6. Các yếu tố gây bệnh của Salmonella
Để thực hiện quá trình gây bệnh đối với vật chủ, Salmonella sử dụng
các yếu tố không phải là độc tố như một số kháng nguyên (O, K, H), khả năng
bám dính, xâm nhập, tổng hợp sắt, kháng kháng sinh. Các yếu tố là độc tố
như độc tố đường ruột (Enterotoxin), nội độc tố (Endotoxin).
1.2.6.1. Các yếu tố không phải là độc tố
+ Kháng nguyên O, K, H:
Kháng nguyên O là yếu tố giúp vi khuẩn chống lại khả năng phòng vệ
của vật chủ, phát triển trong tế bào tổ chức, chống lại sự thực bào của đại thực
bào (Morris và cs, 1976)[65].
Khi thay đổi số lượng và chất lượng các hợp chất của kháng nguyên O
sẽ dẫn đến sự thay đổi tính chất gây bệnh của vi khuẩn. Thành phần 9, 12 ở
kháng nguyên O của vi khuẩn S. enteritidis được thay bằng thành phần 1, 4,
12 sẽ làm cho vi khuẩn không còn độc nữa, nhưng nếu trả lại thành phần cũ vi
khuẩn lại có độc lực. Thí nghiệm tương tự cũng được làm với S. cholerae suis
và S. typhimurium.
Kháng nguyên H: không có ý nghĩa trong việc tạo ra miễn dịch phòng
bệnh, không quyết định yếu tố độc lực, nhưng kháng nguyên H có ý nghĩa bảo
vệ vi khuẩn không bị tiêu diệt trong quá trình thực bào. Chúng giúp vi khuẩn
nhân lên trong tế bào gan, thận và cả tế bào đại thực bào (Weinstein và cs,
1984)[79].

×