Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TỈNH PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.59 KB, 66 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” chính vì vậy mà đầu tư phát triển giáo dục
luôn được ưu tiên phát triển hàng đầu trong chính sách đầu tư phát triển của mỗi quốc
gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển. Tầm quan trọng của việc đầu tư phát
triển giáo dục được thể hiện rất rõ ở những nước đang phát triển như Việt Nam . Đầu
tư phát triển giáo dục luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và
toàn thể nhân dân. Bởi đất nước muốn vươn lên sánh vai với các cường quốc năm
châu thì trước hết phải có những con người có tri thức, có hiểu biết và nắm bắt được
khoa học công nghệ, đặc biệt là trong điều kiện đất nước hội nhập toàn cầu như hiện
nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo nên Tỉnh uỷ Phú
Thọ, các cấp lãnh đạo tỉnh Phú Thọ và toàn thể nhân dân tỉnh Phú Thọ đã thực hiện
nhiều chủ chương, nghị quyết để đầu tư phát triển giáo dục như: chương trình kiên
cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên, chương trình phổ cập các bậc
học: mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông ,nghị quyết
33/2002/NQ-HĐND-KXV về tăng cường cơ sở vật chất trường học…Dưới sự lãnh
đạo đúng đắn, tài tình của các cấp lãnh đạo tỉnh nên các chủ chương, nghị quyết đưa
ra đều được thực hiện nghiêm túc và đem lại hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy sự
nghiệp giáo dục hoá của tỉnh Phú Thọ nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Bản thân em cũng nhận thức được vai trò to lớn của đầu tư phát triển giáo dục nên
với nhiệm vụ của một sinh viên Kinh tế đầu tư và một người con của quê hương đất
tổ Phú Thọ, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài chuyên đề thực tập của mình là: “Đầu
tư phát triển giáo dục của tỉnh Phú Thọ”.
Chuyên đề thực tập của em tuy đã hoàn thành nhưng có thể chưa hoàn thiện và còn
nhiều sai xót vì vậy em rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến của cô giáo
hướng dẫn, các thầy – cô trong khoa và các bạn sinh viên để chuyên đề thực tập của
em được hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn và đem lại những kiến thức thực tế, hữu ích
về chủ chương, kế hoạch và quá trình triển khai thực hiện đầu tư cho các bạn sinh
viên.
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN


GIÁO DỤC TỈNH PHÚ THỌ

1.1 Khái quát về quy mô giáo dục, hiện trạng cơ sở vật chất trường học đến
hết năm 2008 của Tỉnh Phú Thọ
1.1.1.Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo.
Ngành giáo dục – đào tạo muốn phát triển được và đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
mới, nhất thiết phải được đầu tư cả về sức người lẫn sức của. Có thể hiểu đầu tư
cho giáo dục – đào tạo là hành động bỏ tiền ra để tiến hành hoạt động nhằm tạo tài
sản mới cho nền kinh tế nói chung và cho ngành giáo dục – đào tạo nói riêng. Giáo
dục – đào tạo vừa gắn với yêu cầu phát triển chung của đất nước, vừa phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại.
Phát triển giáo dục chính là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đào tạo con người có văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ,
sáng tạo.Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục – đào tạo là nhằm xây dựng
những con người XHCN, ý chí kiên cường trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc; giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và có khả năng tiếp thu văn hóa nhân loại;
phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và
phát huy tinh thần ham học hỏi của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, tác phong công nghiệp, có
tổ chức kỷ luật cao; có sức khỏe, là người kế thừa xây dựng CNXH.Giữ vững mục
tiêu XHCN trong nội dung và phương pháp giáo dục – đào tạo, trong các chính sách
nhất là chính sách công bằng xã hội. Tiếp tục phát huy những ảnh hưởng tích cực,
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường đối với giáo dục đào
tạo.Thực sự coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu. Giáo dục – đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ là những nhân tố cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế- xã
hội. Thực hiện các chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển
giáo dục.
Giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và toàn dân. Mọi
người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Mọi thành viên trong xã hội đều có
trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, đóng góp trí

tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục – đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường,
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi
nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể.
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm cả về số lượng và chất lượng dân số, nhưng hiện
nay chất lượng giáo dục là trọng tâm của phát triển nguồn nhân lực nhất là đối với
các nước đang phát triển, đông dân số và chất lượng nguồn nhân lực thấp như Việt
Nam. Thực tế cho thấy, lợi ích thu được từ việc đào tạo nguồn nhân lực mà cụ thể là
thông qua giáo dục – đào tạo rất lớn. Trình độ nguồn nhân lực trung bình ở một
nước cao hơn cho phép tăng trưởng kinh tế tố hơn và điều chỉnh tốt hơn đối với các
vấn đề dân số, kế hoạch hoá gia đình, môi trường và nhiều vấn đề khác.
Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh miền núi nghèo, kinh tế manh mún chưa phát triển vì thế
rất cần có nguồn lực đủ cả về số lượng và chất lượng để góp sức phát triển kinh tế.
Do đó, đầu tư phát triển giáo dục là nhiệm vụ cần thiết và tiên phong trong chủ
chương phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
1.1.2. Về quy mô giáo dục.
- Về mạng lưới trường học: Toàn tỉnh hiện có 905 trường học, tăng 49 trường so với
năm 2002; trong đó mầm non 300 trường, tiểu học 296 trường, trung học cơ sở 250
trường, trung học phổ thông 59 trường. Hiện nay ở mỗi xã , phường, thị trấn đều có
ít nhất 1 trường mầm non, trường tiểu học,trường trung học cơ sở; mỗi huyện, thành
thị đều có từ 2 trường trung học phổ thông trở lên. Về cơ bản đã tạo thuận lợi cho
trẻ em đến trường, đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân các dân tộc trong
toàn tỉnh.
- Về quy mô: Quy mô lớp, học sinh bắt đầu tăng trở lại đối với tất cả các ngành học
và bậc học. Năm học 2007-2008 toàn tỉnh có 3.177 nhóm trẻ và lớp mẫu giáo, 8.229
lớp phổ thông. Tổng số học sinh mầm non và phổ thông là 290.985 học sinh, chiếm
22,4% dân số. Tỷ lệ huy động trẻ em ra nhà, nhóm trẻ đạt 14,8%; học sinh trong độ
tuổi ra lớp mẫu giáo đạt 85,1%( trong đó học sinh 5 tuổi đạt 98,1%); tỷ lệ trẻ em từ
độ tuổi 6-10 tuổi đi học tiểu học đạt 99,8%, trẻ em từ 11-14 tuổi đi học trung học cơ
sở chiếm 97,2%; tỷ lệ thanh thiếu niên từ15- 17 tuổi đi học phổ thông đạt 59,5% .
1.1.3. Về phòng học và chất lượng phòng học

Nhờ các chủ chương chính sách đầu tư cho giáo dục như: chương trình kiên cố hoá
trường học và nhà công vụ cho giáo viên, chủ chương phổ cập ở các bậc học…..nên
số lượng phòng học và chất lượng phòng học của tỉnh ngày càng tăng cao.
- Số lượng phòng học: Tổng toàn tỉnh đến hết năm 2008 có 9.737 phòng học. Trong
đó mầm non có 2.311 phòng học; phổ thông có 7.138 phòng học. Hiện nay số
phòng học còn thiếu là 629 phòng.
- Chất lượng phòng học: Ngoài việc tăng cường phòng học thì chất lượng phòng
học cũng rất được chú trọng và nâng cao. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà số
lượng và chất lượng phòng học vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Theo kết quả kiểm
tra, rà soát đến hết năm 2008 toàn tỉnh hiện nay có 512 phòng học tạm, thiếu 629
phòng học, 2.963 phòng học bán kiên cố xuống cấp nghiêm trọng cần tu sửa. Cụ thể
như sau:
+ Mầm xuống cấp cần phải thay thế, 220 phòng học tạm cần phải xoá (thiếu 424
phòng học đang học nhờ).non: Tổng số 2.164 phòng học; trong đó có 817 phòng
kiên cố, có 623 phòng học bán kiên cố
+ Tiểu học: Tổng số 3.688 phòng học, trong đó có 1.916 phòng kiên cố, có 1.445
phòng học bán kiên cố đã xuống cấp, 173 phòng học tạm (thiếu 106 phòng học đang
học nhờ).
+ Trung học cơ sở: Tổng số 2.568 phòng học; trong đó có 1.726 phòng học bán kiên
cố đã xuống cấp, 91 phòng học tạm (thiếu 71 phòng học đang học nhờ).
+ Trung học phổ thông: Tổng số 872 phòng học; trong đó 643 phòng kiên cố, có
201 phòng học bán kiên cố đã xuống cấp, 28 phòng học tạm.
1.1.4. Về nhà điều hành, phòng học bộ môn và thư viện.
- Về nhà điều hành: Toàn tỉnh hiện có 282 nhà điều hành kiên cố. Trong đó trường
mầm non 52 nhà, trường tiểu học 65 nhà, trường trung học cơ sở 120 nhà , trường
trung học phổ thông 45 nhà.
- Về phòng học bộ môn : Hiện nay, toàn tỉnh có 569 phòng học bộ môn, trong đó có
122 phòng học mỹ thuật, 111 phòng thí nghiệm, 75 phòng máy tính, 261 phòng thực
hành.
- Thư viện: Toàn tỉnh 493 trường có thư viện đạt chuẩn theo quy định của Bộ giáo dục và

đào tạo, đạt 82,6%. Còn 112 trường phổ thông chưa có thư viện đạt chuẩn.
1.1.5. Về nhà công vụ giáo viên.
Nhà ở tập thể cho giáo viên là mục tiêu quan trọng được Thủ tướng chính phủ đưa
vào nội dung kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn
2008-2012( quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 1/2/2008). Hiện nay, nhà công vụ
giáo viêncó 903 phòng với 12.960 m
2
, trong đó có 20 phòng bán kiên cố đã xuống
cấp, 41 phòng tranh tre.
Trong những năm qua, để giải quyết tình trạng thiếu giáo viên, tỉnh đã tuyển dụng
và điều động giáo viên tăng cường cho các trường học vùng miền núi khó khăn,
vùng sâu, vùng xa. Nhưng do nguồn lực hạn chế, việc đầu tư xây dựng nhà ở tập thể
cho giáo viên chủ yếu do các địa phương tự huy động (vận động mỗi giáo viên ủng
hộ 2 ngày lương) và vốn chương trình 135 đầu tư một số trường trên địa bàn các xã
đặc biệt khó khăn, nên số lượng nhà công vụ giáo viên còn thiếu, chưa đáp ứng
được nhu cầu, hầu hất cán bộ giáo viên vẫn phaỉ đi ở nhờ nhà dân. Nhu cầu đầu tư
nhà công vụ giáo viên tối thiểu là 1.905 phòng.
1.1.6. Về sách giáo khoa và thiết bị dạy học.
Bên cạnh việc đầu tư cơ sở vật chất trường học thì việc đầu tư sách giáo khoa và thiết
bị dạy học cho giáo viên, học sinh cũng cần được chú trọng để nâng cao chất lượng
giáo dục. Về cơ bản tỉnh đã đầu tư cho việc mua sắm đảm bảo sách giáo khoa và và
thiết bị dạy học cho các trường phổ thông theo quy định chương trình đổi mới sách và
thiết bị trường học của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, cần bổ sung thêm hàng
năm để đầu tư cho các trường mới thành lập, các trường tăng thêm số lớp và thay thế
một phần sách giáo khoa và thiết bị hư hỏng trong quá trình sử dụng.
1.1.7. Về thành tích và kết quả đạt được
Trong suốt những năm qua, sự cố gắng của toàn tỉnh Phú Thọ cho sự nghiệp giáo
dục đã được đền đáp bằng những thành tích to lớn, góp phần thúc đẩy sự nghiệp
giáo dục Phú Thọ sang một trang mới.
Ngoài những chuyển biến tích cực về quy mô, mạng lưới trường học ngành giáo

dục tỉnh đã chỉ đạo và triển khai thực hiện đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp giáo dục ở tất cả các cấp, trọng tâm là tổ chức phân ban lớp 10, 11 và khắc
phục việc ngồi nhầm lớp; đổi mới phương pháp dạy và học, đổi mới kiểm tra đánh
giá; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Nhờ đó mà tính đến năm học 2008, tỷ
lệ học sinh tiểu học thực hiện đầy đủ nhiệm vụ học sinh đạt 99,84%, học sinh dược
xếp loại khá giỏi đạt trên 80%; cấp trung học cơ sở tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh
kiểm tốt, khá đạt trên 91%; học lực giỏi, khá đạt trên 46,5%; cấp trung học phổ
thông loại hạnh kiểm tốt, khá đạt trên 81%, học lực giỏi, khá đạt trên 32%. Kết quả
này đã phản ánh sự ổn định về chất lượng và có bước tiến tích cực nhất quán trong
dạy thật, học thật, thi thật tại các trường trên địa bàn. Tỷ lệ thi tốt nghiệp trung học
phổ thông đạt 84,5%; hệ bổ túc trung học phổ thông đạt 62,8%. Chất lượng học sinh
giỏi ở các cấp được duy trì và nâng cao. Riêng năm học 2007-2008 toàn ngành có
60 em dự thi học sinh giỏi cấp quốc gia, trong đó có 30 học sinh đạt giải. Tại kỳ thi
máy tính CASIO toàn tỉnh miền Bắc tỉnh Phú Thọ đã tham gia đầy đủ các đội tuyển
theo quy định của Bộ GD-ĐT và đã đạt 2 giải nhất, 2 giải nhì, 5 giải ba và 10 giải
khuyến khích, xếp giải 3 toàn đoàn Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học đạt
20-25%.
Ngành quan tâm đầu tư, xây dựng bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo.
Tỷ lệ giáo viên mầm non đạt chuẩn là 95,33%, trên chuẩn là 25,49%; tương tự, tiểu
học là 99,44% và 47,33%;trung học cơ sở là 98,61% và 33,35%; trung học phổ
thông là 96,11% và 3,89%. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các trường đều được
tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, chương trình quản lý nhà nước, lý luận trung
cấp, cao cấp nhằm nâng cao nhận thức và năng lực quản lý, lãnh đạo. Bên cạnh đó
ngành còn tăng cường đầu tư củng cố và tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị giáo
dục, phòng học bộ môn, nhà công vụ cho giáo viên nhằm góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục. Phối hợp với Công ty cổ phần sách và thiết bị giáo dục của tỉnh
cung ứng đầy đủ và kịp thời sách giáo khoa, sách giáo viên, ấn phẩm và thiết bị dạy
học phục vụ cho các đơn vị giáo dục. Thực hiện chương trình đưa tin học vào nhà
trường, cấp 623 bộ máy tính cho các trường THPT phục vụ dạy tin học theo chương
trình phân ban và cấp 29 bộ cho các trường mầm non học chương trình Kismat. Các

trường cũng chủ động khai thác các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để mua
sắm thêm trang thiết bị dạy học, xây dựng thư viện đạt chuẩn quốc gia đáp ứng yêu
cầu đổi mới phương pháp giảng dạy. Toàn ngành đã có 500/620 trường có thư viện
đạt chuẩn 01 theo quy định của Bộ GD& ĐT. Ngoài ra còn phối hợp với các ban,
ngành chức năng thực hiện chương trình kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ
cho giáo viên giai đoạn 2008-2012. Theo đó, toàn ngành đã xây dựng được 338
công trình với 1.789 phòng với tổng vốn đầu tư là 117,9 tỷ đồng. Những kết quả to
lớn mà toàn tỉnh đã đạt được trong sự nghiệp giáo dục là động lực để tỉnh Phú Thọ
tiếp tục đổi mới ngành một cách toàn diện, phát triển giáo dục cả về quy mô, chất
lượng, hiệu quả và công bằng xã hội, đáp ứng tốt nhu cầu học tập của nhân dân
cũng như yêu cầu về sự phát triển giáo dục của tỉnh.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt 4 nội dung của cuộc vân động “nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “nói không với vi phạm
đạo dức nhà giáo và học sinh ngồi nhầm lớp”. Tổ chức triển khai có hiệu quả đề án
phổ cập giáo dục bậc trung học; thực hiện phân luồng, hướng nghiệp cho học sinh.
Thực hiện tốt việc sắp xếp, tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đáp ứng
yêu cầu dạy và học trong giai đoạn mới; thực hiện tốt chương trình xây dựng trường
chuẩn quốc gia, chương trình kiên cố hoá trường, lớp học giai đoạn 2. Triển khai
thực hiện đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đầu tư trang thiết bị dạy nghề,
phát triển các cơ sở đào tạo, dạy nghề. Thực hiện đào tạo theo địa chỉ và nhu cầu xã
hội đối với các trường trung học, cao đẳng, dạy nghề; khuyến khích các doanh
nghiệp, nhà đầu tư tổ chức đào tạo và cung cấp nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất
kinh doanh; đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền tạo điều kiện để xuất khẩu lao
động đạt kết quả cao.
1.2. Thực trạng đầu tư phát triển giáo dục Tỉnh Phú Thọ.
1.2.1.Tình hình đầu tư phát triển giáo dục của Tỉnh Phú Thọ
1.2.1.1. Công tác tổ chức triển khai thực hiện.
Sau khi Hội đồng nhân dân Tỉnh ban hành nghị quyết, Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh đã
chỉ đạo xây dựng và thực hiện đề án tăng cường cơ sở vật chất trường học giai đoạn
2002-2010, xây dựng kế hoạch thực hiện chươngg trình kiên cố hoá trường, lớp học

theo Quyết định số 159/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2002 của Thủ tướng Chính phủ.
Nhờ đó mà lĩnh vực giáo dục của Tỉnh ngày càng được chú trọng phát triển hơn.
Đồng thời thành lập ban chỉ đạo ở tỉnh, xây dựng quy chế làm việc và phân công
nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên để tổ chức triển khai thực hiện; chỉ đạo thành
lập ban điều hành ở huyện, Ban quản lý dự án và Ban giám sát công trình ở xã.
Chỉ đạo các sở, ban ngành, các huện thành thị khẩn trương xây dựng kế hoạch các
chương trình, dự án cụ thể, ban hành thiết kế mẫu nhà lớp học, phân cấp cho Uỷ
Ban Nhân Dân cấp huyện quyết định đầu tư các công trình, dự án; quy định mức hỗ
trợ từ ngân sánh Nhà nước, mức đóng góp của các cấp ngân sách phù hợp với khả
năng và điều kiện từng địa bàn; vận động các tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị, xã
hội và nhân dân ủng hộ, đóng góp để thực hiện các chương trình đầu tư cho giáo
dục của Tỉnh.
Chỉ đạo các sở , ban ngành, Uỷ Ban Nhân Dân các huyện, thành thị cụ thể hoá các
mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết vào nội dung kế hoạch phtá triển kinh tế xã hội hàng
năm và kế hoạch 5 năm và coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường
xuyên của các cấp, các ngành trong quá trình chỉ đạo, điều hành kế hoạch hàng
năm.
UBND các huyện, thành thị: Là đơn vị chủ đầu tư đối với các công trình nhà lớp
học, nhà công vụ cho giáo viên của các trường: Mầm non, tiểu học, THCS được đầu
tư trên địa bàn huyện, thành thị.
Các trường THPT, dân tộc nội trú (đơn vị trực thuộc Sở GD&ĐT): Là đợn vị chủ
đầu tư đối với các công trình được đầu tư cho đợn vị.
1.2.1.2 Phân công trách nhiệm để thực hiện đầu tư cho giáo dục.
- Ban chỉ đạo các chương trình mục tiêu tỉnh có trách nhiệm xây dựng kế hoạch
triển khai thực hiện. Hàng năm tổng hợp, đánh giá kết quả thực hiện báo cáo, đề
xuất với Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh.
- Sở Giáo dục và Đào tạo: Là cơ quan thường trực Ban điều hành chương trình mục
tiêu Giáo dục và đào tạo có nhiệm vụ tổng hợp, xây dựng kế hoạch, quản lý, đánh
giá toàn diện các chương trình, dự án đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết
bị trường học, báo cáo ban chỉ đạo, Uỷ ban nhân dân tỉnh theo quy định. Chủ trì,

phối hợp với Uỷ ban nhân dân các huyện, thị thành chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng
cường công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh, học sinh sau tốt nghiệp trung
hcọ cơ sở để thực hiện các mục tiêu phổ cập bậc trung học phổ thông. Chủ trì phối
hợp với các ngành liên quan tham mưu, đề xuất Ban chỉ đạo công tác phổ cập bậc
trung học phổ thông của tỉnh sơ kết, tổng kết; định kỳ tổng hợp kết quả công tác
phổ cập bậc trung học phổ thông của tỉnh báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư: Là đầu mối khâu nối, hướng dẫn lồng ghép các chương
trình dự án. Chủ trì, phối hợp với Sở tài chính, sở Giáo dục và đào tạo tổng hợp, xây
dựng kế hoạch, cơ chế quản lý điều hành; dự kiến phân bổ vốn các chương trình, dự
án,báo cáo ban chỉ đạo, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định. Phối hợp
với các Ban điều hành tổ chức hướng dẫn, kiểm tra thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
các chương trình dự án. Tổng hợp, báo cáo đánh giá định kỳ với Uỷ ban nhân dân
tỉnh và các Bộ, ngành Trung ương. Hàng năm, phối hợp với các Sở: Giáo dục và
đào tạo, Lao động thương binh và xã hội, Uỷ ban nhân dân các huyện, thành, thị
tổng hợp, cân đối các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, thiết bị
dạy học, kinh phí thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và dạy
nghề để thực hiện nhiệm vụ phổ cập bậc trung học trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê
duyệt.
- Sở Tài chính: Chủ trì phối hợp với sở Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, xây dựng kế
hoạch huy động các nguồn lực, cơ chế quản lý tài chính; cân đối bố trí vốn từ ngân
sách tỉnh cho các chương trình, dự án; thực hiện chuyển vốn và thanh toán, quyết
toán theo quy định.Thẩm định dự toán kinh phí hàng năm để thực hiện các nhiệm
vụ phổ cập bậc trung học trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt; hướng dẫn các cấp,
các ngành thực hiện kế hoạch ngân sách hàng năm phục vụ công tác phổ cập bậc
trung học phổ thông theo quy định hiện hành.
- Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh: Thực hiện nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh
đôn đốc các Sở, ngành chức năng và Uỷ ban nhân dân các huyện, thành thị thựchiện
các ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh, Trưởng ban chỉ đạo và thẩm
định các báo cáo, trình hội đồng nhân dân tỉnh và các Bộ ngành Trung ương.
- Kho bạc nhà nước tỉnh: Chịu trách nhiệm chính về thủ tục giải ngân, thanh toán

cho các công trình, dự án; chỉ đạo hệ thống kho bạc cấp huyện kịp thời tổ chức
thẩm tra kết quả thực hiện và thanh toán, phù hợp với tiến độ thực hiện đầu tư theo
quy định.
- Sở Xây dựng: Chủ trì phối hợp với sở Kế hoạch và Đầu tư, sở Giáo dục và Đào
tạo kiểm tra, rà soát điều chỉnh, bổ sung các mẫu thiết kế: Nhà lớp học, nhà điều
hành, nhà công vụ giáo viên, nhà học bộ môn trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành
và hướng dẫn áp dụng các mẫu thiết kế đó phù hợp với từng cấp học, bậc học và
các vùng miền trên địa bàn tỉnh.
- Các đơn vị chủ đầu tư: Các đợn vị chủ đầu tư lập báo cáo kinh tế kỹ thuật đầu tư
xây dựng cho từng hạng mục công trình theo kế hoạch phân bổ vốn thực hiện từng
đợt. Chịu trách nhiệm sử dụng vốn hiệu quả, đúng mục tiêu và cân đối, bố trí đủ
phần vốn địa phương, đơn vị phải cân đối theo định mức đã quy định để thực hiện
hoàn thành mục tiêu đã định. Được phép áp dụng hình thức chỉ định thầu (tư vấn,
xây dựng) đối với các gói thầu nằm trong phạm vi được chỉ định thầu theo quy
định. Các gói thầu nằm trong phạm vi phải đấu thầu được thực hiện đấu thầu theo
quy định hiện hành. Ngoài ra các đợn vị chủ đầu tư cần nghiên cứu tình hình cụ thể
tại địa phương, đề xuất hình thức thực hiện theo phương châm “ xã có công trình,
dân có việc làm, con em nhân dân có nơi học tập tốt”. Các đơn vị chủ đầu tư là
UBNR các huyện, thành thị thì được uỷ quyền phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật và
thủ tục đầu tư. Nếu các đơn vị chủ đầu tư là các đơn vị trực thuộc Sở GD&ĐT thì
được uỷ quyền phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật ( trên cơ sở kết quả thẩm định
của Sở Kế hoạch và Đầu tư); đối với các công trình phải thực hiện đấu thầu, đơn vị
lập thủ tục đấu thầu trình Sở Kế hoạch và Đầu tư thẩm định, UBND tỉnh phê duyệt
để thực hiện theo quy định hiện hành.
- Sở Tài nguyên và môi trường: Có nhiệm vụ tổ chức kiểm tra, rà soát và hướng dẫn
các địa phương lập quy hoạch, kế hoạch; giải quyết các thủ tục cấp đất, quyền quản
lý sử dụng đất cho các trưòng học theo luật đất đai, đáp ứng yêu cầu về địa điểm,
tiêu chuẩn diện tích để từng bước thực hiện kế hoạch xây dựng trường chuẩn quốc
gia phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của tỉnh và các địa phương.
- Đài phát thanh-Truyền hình tỉnh, Báo Phú Thọ: Tăng thời lượng phát thanh, truyền

hình; tăng nội dung đăng tải thông tin trên báo về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
bị trường học, nhằm động viên toàn xã hội tích cực tham gia các hoạt động xã hội
hoá giáo dục.
- Sở Lao động thương binh và Xã hội: Chủ trì phối hợp với Sở Giáo dục và đào tạo,
Uỷ ban nhân dân các huyện,thị, thành thực hiện các nhiệm vụ công tác phổ cập bậc
học trung hoạ phổ thông. Tham mưu đề xuất với Uỷ ban nhân dân tỉnh các kế
hoạch, chế độ, chính sách, chỉ tiêu đào tạo nghề để thực hiện mục tiêu phổ cập;
quản lý, chỉ đạo các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh thực hiện các nhiệm vụ dạy
nghề để đáp ứng các mục tiêu giáo dục đã đề ra và liên kết với các cơ sở giáo dục.
Cung cấp thông tin về hệ thống cơ sở dạy nghề, ngành, nghề đào tạo, chỉ tiêu tuyển
sinh, năng lực các cơ sở dạy nghề trên địa bàn làm cơ sở cho công tác hướng
nghiệp, liên kết đào tạo nghề.
- Sở Nội vụ: Chủ trì phối hợp với Sở GD&ĐT, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài
chính và các ngành liên quan xây dựng, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt kế
hoạch tuyển dụng bổ sung giáo viên các môn văn hóa cho các trường trung học phổ
thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp- hướng
nghiệp để dạy bổ túc văn hoá; bố trí đủ đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên thực hiện
các nhiệm vụ phổ cập các bậc trung học theo kế hoạch.
- Uỷ ban nhân dân các huyện, thành thị: Có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, biện
pháp triển khai thực hiện. Tổ chức lồng ghép các nguồn vốn đầu tư, xây dựng các
giải pháp huy động các nguồn lực ở điạ phương, cơ sở. Chỉ đạo Uỷ ban nhân dân
các xã, phường, thị trấn và các đơn vị cơ sở xây dựng kế hoạch, chương trình dự án
cụ thể và tổ chức thực hiện. Căn cứ đề án phổ cập bậc trung học tỉnh Phú thọ giai
đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015 và kế hoạch triển khai đề án của uy
ban nhân dân tỉnh, xây dựng kế hoạch và các giải pháp cụ thể để triển khai thực
hiện công tác phổ cập ở từng địa phương. Chỉ đạo phòng giáo dục và đào tạo, phòng
Lao động và thương binh xã hội và các cơ sở giáo dục, dạy nghề trực thuộc; các xã,
phường, thị trấn trên các địa bàn triển khai các nhiệm vụ phổ cập đảm bảo các yêu
cầu theo tiêu chí phổ thông. Huy động mọi nguồn lực trên địa bàn đầu tư cho sự
nghiệp giáo dục và thực hiện công tác phổ cập trung học đảm bảo hiệu quả chất

lượng.
- Các sở, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể ở tỉnh tổ chức thực hiện theo chức năng
nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình; đồng thời phối hợp với các sở ngành đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến mục tiêu, nhiệm vụ các chương trình, dự án; vận
động cán bộ, đoàn viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện. Trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ được giao, có trách nhiệm thực hiện các đề án phổ cập bậc học phổ
thông tỉnh giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2015 và phối hợp với các cơ
quan liên quan, các huyện, thị, thành để triển khai thực hiện công tác phổ cập đạt
hiệu quả cao.
- Đề nghị Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Phú Thọ: Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn
Mặt trận tổ quốc các cấp, phối hợp với các tổ chức đoàn thể, các sở, ban ngành vận
động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của
Nghị quyết và các chương trình giáo dục mà tỉnh đã đề ra. Tăng cường vận động
đoàn viên, hội viên tích cực hưởng ứng và tham gia các hoạt động phổ cập bậc
trung học; xây dựng kế hoạch cụ thể với những hoạt động thiết thực để động viên,
khuyến khích các đợn vị, cá nhân thực hiện tốt nhiệm vụ phổ cập các bậc học; phối
hợp với các cơ sở giáo dục, dạy nghề quản lý, giáo dục, giúp đỡ các đối tượng phổ
cập; vận động các tổ chức, cá nhân đóng góp công sức, tiền của cho các cơ sở giáo
dục, dạy nghề đêểthực hiện nhiệm vụ phổ cập bậc trung học, kiểm tra giám sát các
cơ quan nhà nước, nhà trường và gia đình, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện
chủ trương phổ cập.
1.2.1.3. Định hướng đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo của tỉnh.
Xu hướng đầu tư phát triển giáo dục- đào tạo của tỉnh đang đi dần vào quỹ
đạo chung của cả nước, bên cạnh đó dựa vào những điều kiện thực tiễn của tỉnh để
có bước phát triển thích hợp.
Xu hướng đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo của tỉnh đang được triển khai
với các mục tiêu cụ thể sau:
+ Giáo dục mầm non: đến năm 2010 hầu hết trẻ em trong tỉnh đều được
chăm sóc, giáo dục bằng những hình thức thích hợp. Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến
nhà trẻ từ 42% năm 2000 lên 55% năm 2005 và 88% năm 2010. Đối với trẻ 3-5 tuổi

tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 60% năm 2000 lên 78% vào năm 2005 và
97% vào năm 2010; riêng trẻ em 5 tuổi tăng tỷ lệ huy động đến mẫu giáo để chuẩn
bị vào lớp 1 từ 81% năm 2000 lên 85% vào năm 2005 và 95% vào năm 2010. Giảm
tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non xuống dưới 20%
vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010.
+ Giáo dục phổ thông: thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí , thể, mỹ.
Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp. Tăng tỷ lệ
huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm
2005
và 100% năm 2010.
+ Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những
hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung
học cơ sở , tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao
động. Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các huyện vào năm 2005, trong cả tỉnh
2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 100%
vào năm 2005.
+ Trung học phổ thông: Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học
phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 100% vào năm 2010.
+ Giáo dục nghề nghiệp: Nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý
thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử
dụng, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.
+ Trung học chuyên nghiệp: Thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung
học chuyên nghiệp đạt 40% năm 2005, 65% năm 2010. Dạy nghề : thu hút học sinh
sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề từ 36% năm 2000 lên 50% năm
2005, 75% năm 2010. Dạy nghề bậc cao: thu hút học sinh sau trung học phổ thông,
trung học chuyên nghiệp vào học các chương trình này đạt 35% năm 2005, 50%
năm 2010.
1.2.1.4. Nguồn vốn cho đầu tư giáo dục.
- Giáo dục luôn là mối quan tâm hàng đầu của Tỉnh chính vì vậy mà đầu tư cho
giáo dục rất được chú trọng. Nguồn vốn cho giáo dục của tỉnh được huy động từ

nhiều nguồn khác nhau rất đa dạng như vốn từ: Ngân sách nhà nước, vốn chương
trình mục tiêu, chương trình 135, chương trình kiên cố hoá trường học, nhà ở công
vụ cho giáo viên, vốn ODA, FDI …Trong đó nguồn vốn trong nước như vốn từ
ngân sách Nhà nước, vốn chương trình kiên cố hoá, vốn chương trình mục tiêu quốc
gia giữ vai trò quyết định còn các nguồn vốn khác giữ vai trò quan trọng.
- Nguồn vốn được phân bổ đầu tư cho các địa bàn, địa phương khác nhau phụ thuộc
vào nhu cầu và điều kiện của từng vùng miền. Những địa bàn thuôc các huyện, xã
miền núi và đặc biệt khó khăn thì nguồn vốn đầu tư chủ yếu cho giáo dục là tư ngân
sách cuả tỉnh và cuả các chương trình mục tiêu, chương trình 135. Còn các huyện
vùng đồng bằng có điêù kiện phát triển thì nguồn vốn từ ngân sách tỉnh chỉ chiếm
khoảng 20-30%, còn 70% do các địa phương tự huy động.
- Để có được vốn đầu tư cho giáo dục Tỉnh đã đề ra nhiều biện pháp thu hút vốn,
vận động các doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể trong xã hội tham gia đóng
góp.Và cũng có những biện pháp quản lý vốn phù hợp để tránh tình trạng thất thoát
và lãng phí trong quá trình đầu tư.
Tổng số vốn đầu tư cho trường học giai đoạn 2002- 2008 đạt 556 tỷ đồng, bình
quân vốn đầu tư hàng năm đạt 79,43 tỷ đồng/năm
* Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn:
- Ngân sách Trung ương hỗ trợ (qua Bộ Giáo dục và Đào tạo) là: 205,76 tỷ đồng,
bình quân là 29,39 tỷ đồng/năm, chiếm 37% trong tổng vốn đầu tư ; trong đó:
chương trình kiên cố hoá trường học giai đoạn 1 là 195,72 tỷ đồng; dự án trung học
cơ sở II là 10,04 tỷ đồng
- Vốn từ các chương trình mục tiêu, dư án phát triển và ngân sách tỉnh là 235,3 tỷ
đồng, bình quân là 33,61 tỷ đồng/năm, chiếm 42% trong tổng vốn đầu tư; trong đó:
vốn chương trình mục tiêu là 198,96 tỷ đồng, vốn ngân sách đầu tư tập trung là
17,44 tỷ đồng, lồng ghép các chương trình dự án là 18,9 tỷ đồng.
- Tiết kiệm chi ngân sách sự nghiệp giáo dục- đào tạo của tỉnh là 22,44 tỷ đồng,
bình quân là 3,21 tỷ đồng/năm, chiếm 4% trong tổng vốn đầu tư.
- Vốn tài trợ viện trợ của các tổ chức nước ngoài (WB,ODA…) 10,34 tỷ đồng, bình
quân là 1,48 tỷ đồng/năm, chiếm 2% tổng vốn đầu tư.

- Vốn đầu tư từ ngân sách huyện, xã và huy động các nguồn lực trong nhân dân là
81,62 tỷ đồng, bình quân là 11,66 tỷ đồng/năm, chiếm 15% tổng vốn đầu tư.
Biểu đồ 1.1: Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn của tỉnh Phú Thọ( 2002-2008)

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Qua biểu đồ trên ta thấy vốn đầu tư cho giáo dục của tỉnh Phú Thọ chủ yếu là từ
nguồn vốn của ngân sách trung ương(37%) và từ các chương trình mục tiêu quốc
gia(42%) bởi Phú Thọ là tỉnh còn khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Mặt khác
đầu tư xây dựng các trường học chủ yếu lại tập trung ở các huyện miền núi, đặc biệt
khó khăn nên vốn huy động từ ngân sách huyện, xã chiếm tỷ lệ thấp.
* Cơ cấu đầu tư theo các loại công trình, dự án:
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất là 515,45 tỷ đồng, bình quân là 73,64 tỷ
đồng/năm, chiếm 92,7% tổng vốn đầu tư, trong đó nhà lớp học là 427,3 tỷ đồng,
nhà điều hành 53,65 tỷ đồng, nhà thư viện 5,8 tỷ đồng,nhà học bộ môn 28,7 tỷ đồng
- Mua sắm sách và thiết bị dạy học 40,55 tỷ đồng, bình quân là 5,79 tỷ đồng/năm,
chiếm 7,3% tổng vốn đầu tư.
Biểu đồ 1.2: Cơ cấu vốn đầu tư theo loại công trình, dự án của tỉnh Phú
Thọ(2002-2008)
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Biểu đồ cơ cấu trên thể hiện sự phù hợp giữa nhu cầu thực tế với chính sách đầu tư
phát triển giáo dục của tỉnh. Vì cơ sở vật chất trường học trong toàn tỉnh còn yếu
kém đặc biệt là ở vùng núi,vúng sâu vùng xa mạng lưới trường học còn thưa thớt,
trường học được xây dựng chủ yếu bằng tranh tre, nhà ở công vụ cho giáo viên vừa
thiếu lại vừa kém. Cũng xuất phát từ nhu cầu thực tế đó mà tỷ lệ vốn đầu tư để xây
dựng cơ sở vật chất trường học chiếm tỷ lệ lớn (92,7%) là tương đối phù hợp. Qua
đó cũng thể hiện chủ chương đường lối đầu tư phát triển giáo dục của tỉnh Phú Thọ
là đúng đắn và hiệu quả.
Trong đó vốn mà tỉnh huy động để xây dựng phòng học và nhà công vụ cho giáo
viên bao gồm các nguồn từ: Vốn trái phiếu Chính Phủ, Vốn ngân sách địa phương
( gồm: Ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, xã), Vốn khác:ODA, chương trình kiên cố

hoá trường, lớp học, vốn chậm lũ, vốn chương trình 135… Tổng vốn đầu tư để xây
dựng phòng học và nhà ở công vụ cho giáo viên giai đoạn 2002-2008 là 515.450
triệu đồng, trong đó: vốn từ trái phiếu chính phủ là 420.488 triệu đồng, vốn từ ngân
sách địa phương là 78.922 triệu đồng( ngân sách tỉnh: 58.302 triệu đồng, ngân sách
huyện, xã: 20.620 triệu đồng), vốn khác là: 16.040 triệu đồng
Biểu 1.3: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng phòng học và nhà công vụ giáo viên của tỉnh
Phú Thọ( 2002-2008)
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Qua biểu đồ cơ cấu vốn trên ta thấy nguồn vốn chủ yếu để xâu dựng phòng học và
nhà công vụ cho giáo viên là từ vốn trái phiếu Chính Phủ chiếm 81,6% tổng vốn
đầu tư. Đây là tỷ trọng rất lớn, nó vừa thể hiện tầm quan trọng cuả sự nghiệp phát
triển giáo dục của tỉnh vừa thể hiện sự quan tâm của Chính Phủ đối với tỉnh Phú
Thọ. Vốn ngân sách địa phương chiếm 15,3% tổng vốn đầu tư trong đó: ngân sách
tỉnh chiếm 11,31%, ngân sách huyện, xã chiếm 3,99%), các nguồn vốn khác chiếm
tỷ trọng rất nhỏ 3,1%. Cơ cấu vốn đầu tư này là tương đố hợp lý bởi Phú Thọ là
tỉnh miền núi, kinh tế còn manh mún chưa phát triển đặc biệt là cơ sở hạ tầng còn
yếu kém. Tuy nhiên trong thời gian tới cơ cấu vốn đầu tư cần phải thay đổi theo
hướng giảm tỷ trọng vốn từ trái phiêú chính phủ, tăng tỷ trọng vốn từ ngân sách địa
phương và các nguồn vốn khác, đặc biệt là nguồn vốn từ ngân sách tỉnh, huyện, xã.
1.2.2. Đầu tư theo cấp học.
Đầu tư cho giáo dục ở tỉnh phân theo cấp học gồm 4 cấp đó là: Mầm non, Tiểu học,
Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Ở mỗi cấp học tỉnh có chủ chương và
chính sách đầu tư khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện, nhu cầu và số lượng học sinh
ở từng cấp trong tỉnh.
Bảng1.1 Thể hiện vốn đầu tư theo cấp học của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2002-2008
STT Cấp học Vốn đầu tư (tỷ đồng) chiếm tỷ trọng (%)
1 Mầm non 134,72 24,23
2 Tiểu học 258,88 46,56
3 THCS 125,76 22,62
4 THPT 36,64 6,59

5 Tổng 556 100
Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Trong 4 cấp học thì vốn đầu tư dành cho bậc tiểu học là lớn nhất chiếm tỷ trọng
46,56%, sau đó đến bậc mầm non (24,23) và THCS (22,62%). Việc phân bổ vốn
đầu tư cho các cấp học là hợp lý với thực trạng của tỉnh, bởi tỷ lệ trẻ em trong độ
tuổi mầm non và tiểu học trong tỉnh chiếm phần lớn so với độ tuổi đi học THCS,
THPT và việc các gia đình cho con em đi học hết THPT là rất ít. Nhưng trong giai
đoạn tiếp theo tỷ trọng vốn đầu tư cho bậc THPT sẽ tăng lên vì chủ chương của tỉnh
sẽ phổ cập bậc học này vào năm 2010
1.2.2.1 Mầm non.
Bậc học mầm non không được chú trọng so với các bậc học khác bởi các bậc cha
mẹ thường quan niệm rằng trẻ còn nhỏ nên việc học tập chưa cần thiết. Vì vậy mà
có thể sẽ không cho trẻ đến trường và không chú ý đến việc học tập của trẻ. Nhưng
cùng với sự phát triển của xã hội và nhận thức được việc cho trẻ đến trường là cần
thiết do đó nhu cầu cho trẻ đến trường của các bậc cha mẹ đã tăng lên. Xuất phát từ
nhu cầu này tỉnh Phú Thọ đã đề ra nhiều chủ chương, kế hoạch đầu tư phát triển
giáo dục từ bậc học mầm non.
Về Xây dựng Phòng học:Trong giai đoạn 2002-2008, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã
đầu tư xây dựng được 842 phòng học cho bậc học mầm non, với tổng số vốn đầu tư
là 134.720 triệu đồng, bình quân đạt 160 triệu đồng/phòng học và 19.250 triệu
đồng/năm.
Bảng 1.2: Phân bổ vốn cho bậc học mầm non giai đoạn 2002-2008
Năm Vốn đầu tư (triệu đồng) Tốc độ tăng (%)
2002 9.280 _
2003 10.200 9,91
2004 16.320 60
2005 20.200 23,77
2006 23.520 16,44
2007 25.000 6,29
2008 30.200 20,8


Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Qua bảng trên ta thấy: Tốc độ tăng vốn đầu tư qua các năm là không đồng đều,
năm 2004 tốc độ tăng là lớn nhất với 60% và năm thấp nhất là năm 2007 với 6,29%.
Tuy tốc độ tăng là không đồng đều giữa các năm nhưng lại tương đối phù hợp với
tình hình thực tế và chủ chương chính sách đầu tư cho giáo dục của tỉnh, bởi vì giai
đoạn đầu mới thực thi chương trình đầu tư kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công
vụ cho giáo viên nên chưa huy động được nhiều vốn.
Về Nhà ở công vụ cho giáo viên: Việc đầu tư xây dựng nhà ở cộng vụ cho giáo
viên mầm non được tiến hành song song với việc xây dựng phòng học. Trong giai
đoạn 2002-2008, toàn tỉnh đã xây dựng được 246 phòng với tổng vốn đầu tư là
7.040 triệu đồng, bình quân đạt 28,62 triệu đồng/phòng và 1.006 triệu đồng/năm.
Xây dựng nhà ở cộng vụ cho giáo viên là cực kỳ cần thiết nhất là đối với vùng sâu,
vùng xa và các xã đặc biệt khó khăn.
1.2.2.2. Tiểu học.
Từ việc tăng cường đầu tư cho bậc mầm non nên số lượng học sinh tiểu học cũng
dần được tăng lên. Vì thế nhu cầu đầu tư cho bậc học này cũng tăng lên đáng kể
trong thời gian qua.
Về Xây dựng phòng học. Chương trình kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công
vụ cho giáo viên bắt đầu được thực hiện năm 2002 thì đến năm 2003 tỉnh đã phổ
cập bậc tiểu học. Giai đoạn 2002-2008 toàn tỉnh đã xây dựng được 1.618 phòng, với
tổng vốn đầu tư là 258.880 triệu đồng, bình quân đạt 160 triệu đồng/phòng và
36.980 triệu đồng/năm.
Bảng 1.3: Phân bổ vốn cho bậc tiểu học giai đoạn 2002-2008
Năm Vốn đầu tư (triệu đồng) Tốc độ tăng (%)
2002 20.000 _
2003 91.040 355,2
2004 88.160 -3,16
2005 17.760 -79,85
2006 16.100 -9,35

2007 13.660 -15,16
2008 12.160 -10,98

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Năm 2003 là năm tỉnh đạt được mục tiêu phổ cập bậc tiểu học vì thế mà tốc độ
tăng vốn đầu tư năm học 2002, 2003 cao. Các năm còn lại tốc độ tăng vốn đầu tư là
âm bởi sau khi đã đạt được mục tiêu phổ cập thì vốn đầu tư dành cho bậc học này
giảm đi để dành đầu tư cho các bậc học chưa phổ cập.
Về Nhà công vụ giáo viên. Giai đoạn 2002-2008 toàn tỉnh đã đầu tư xây dựng
được 701 phòng nhà ở công vụ cho giáo viên tiểu học, với tổng vốn đầu tư là
28.040 triệu đồng, bình quân đạt 40 triệu đồng/phòng và 4.006 triệu đồng/năm. Để
giải quyết tình trạng thiếu giáo viên, nhiều giáo viên đã được tăng cường cho các
trường vùng miền núi khó khăn, vùng sâu, vùng xa, tuy nhiên do nguồn lực hạn chế
nên việc đầu tư xây dựng nhà tập thể cho giáo viên tiểu học chủ yếu do các địa
phương tự huy động cùng với việc ủng hộ cuả cán bộ công chức ngành giáo dục
nhưng số lượng nhà công vụ còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu, hầu hết đội ngũ cán
bộ giáo viên vẫn phải đi ở nhờ nhà dân. Đến năm 2012 tình trạng này sẽ được giải
quyết khi chương trình kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên
giai đoạn II kết thúc.
1.2.2.3. Trung học cơ sở.
Về Xây dựng phòng học.Bậc trung học cơ sở của tỉnh đã được phổ cập năm 2005.
Giai đoạn 2002-2008, toàn tỉnh đã xây dựng được 786 phòng học, với tổng vốn đầu
tư là 125.760 triệu đồng, bình quân đạt 160 triệu đồng/phòng và 17.970 triệu
đồng/năm.
Bảng 1.4: Phân bổ vốn cho bậc trung học cơ sở giai đoạn 2002-2008
Năm Vốn đầu tư (triệu đồng) Tốc độ tăng (%)
2002 16.320 _
2003 20.180 23
2004 29.100 44,2
2005 34.040 16,98

2006 8.160 -76,03
2007 8.960 9,8
2008 9.000 0,45

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Năm 2004 tốc độ tăng vốn đầu tư cao nhất bởi toàn tỉnh đang cố gắng nỗ lực để
hoàn thành mục tiêu phổ cập bậc trung học cơ sở vào năm 2005. Sau khi đạt được
mục tiêu thì vốn phân bổ để đầu tư cho bậc trung học cơ sở giảm đi. Việc giảm tỷ
trọng vốn đầu tư này là tương đối hợp lý so với cơ cấu vốn đầu tư cho giáo dục của
toàn tỉnh.
Về Nhà ở công vụ cho giáo viên. Giai đoạn 2002-2008, toàn tỉnh đã xây dựng
được 847 phòng ở cho giáo viên, với tổng vốn đầu tư là 33.880 triệu đồng, bình
quân đạt 40 triệu đồng/phòng và 4.480 triệu đồng/năm. Việc xây dựng nhà ở học
giáo viên là cực kỳ cần thiết nhất là đối với các trường nằm ở các xã đặc biệt khó
khăn, phương tiện đi lại không thuận tiện hoặc đối với các giáo viên công tác xa
nhà. Vì vậy song song với việc xây dựng trường học thì việc xây dựng nhà ở công
vụ cho giáo viên cũng được tiến hành.
1.2.2.4. Trung học phổ thông
Bậc học này luôn chiếm được sự quan tâm của đông đảo quần chúng nhân dân
trong tỉnh nhưng đến nay tỉnh vẫn chưa đạt được mục tiêu phổ cập. Mục tiêu tỉnh đề
ra là đến hết năm 2010 tỉnh Phú Thọ sẽ phổ cập bậc trung học phổ thông.
Về Xây dựng phòng học. Giai đoạn 2002-2008 toàn tỉnh đã xây dựng được 229
phòng học, với tổng vốn đầu tư là 36.640 triệu đồng, bình quân đạt 160 triệu
đồng/phòng và 5.230 triệu đồng/năm.
Bảng 1.5: Phân bổ vốn cho bậc trung học phổ thông giai đoạn 2002-2008

Năm Vốn đầu tư (triệu đồng) Tốc độ tăng (%)
2002 1.600 -
2003 1.280 -20
2004 1.220 -4,69

2005 1.320 8,2
2006 3.500 165,15
2007 11.380 225,14
2008 16.340 43,59

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Việc phân bổ vốn đầu tư trong giai đoạn 2002-2008 là không đồng đều giữa các
năm nhưng lại tương đối hợp lý với chủ chương đầu tư của tỉnh. Năm 2002-2003
tỉnh tập trung để phổ cập bậc tiểu học, năm 2004-2005 phổ cập bậc trung học cơ sở
nên tốc độ tăng vốn đầu tư trong những năm này thấp. Trong 3 năm còn lại tỉnh tập
trung đầu tư cho bậc trung học phổ thông do đó mà tốc độ tăng vốn đầu tư của 3
năm này rất lớn so với các năm trước đó.
Về Nhà ở công vụ cho giáo viên. Giai đoạn 2002-2008, toàn tỉnh đã xây dựng
được 181 phòng ở cho giáo viên với tổng vốn đầu tư là 7.240 triệu đồng, bình quân
đạt 40 triệu đồng/phòng và 1.034 triệu đồng/năm. So với các bậc học khác thì số
lượng nhà ở công vụ cho giáo viên bậc trung học phổ thông là ít nhất, bởi nó phù
hợp với quy mô đầu tư xây dựng trường học. Trung bình ở mỗi huyện chỉ có 3-4
trường trung học phổ thông vì thế mà số lượng nhà ở công vụ cho giáo viên cũng ít.
1.2.3. Đầu tư theo địa phương.
Tỉnh Phú Thọ có 13 huyện thành thị do đó việc đâù tư phát triển giáo dục theo địa
phương là việc phải đầu tư phát triển mạng lưới trường lớp học ở tất cả các bậc học
cho mỗi địa phương.
Việc xây dựng mạng lưới trường, lớp học cho các huyện phải căn cứ vào nhu cầu
thực tế của mỗi huyện và chủ chương đầu tư của tỉnh. Bên cạnh đó điều kiện để đầu
tư phát triển giáo dục của mỗi huyện cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng đáp ứng
nhu cầu đầu tư bởi hầu hết các huyện trong tỉnh đều là các huyện miền núi, đời sống
còn gặp nhiều khó khăn nên khả năng cung ứng vốn cho đầu tư phát triển giáo dục
rất hạn chế do đó phần lớn vốn cho đầu tư phát triển giáo dục là từ ngân sách nhà
nước và huy động từ các chương trình hỗ trợ khác.













Bảng 1.6. Phân bổ vốn đầu tư cho các địa phương giai đoạn 2002-2008 ( tỷ đồng)

Tên huyện
Năm
Tổng VĐT
2002

2003 2004 2005 2006 2007 2008
Hạ Hoà
8,189 9,136 11,08 10 7,235 5,92 5,76 57,32
TX Phú Thọ
2,583 3,66 3,19 3,207 3,2 1,6 0,64 18,08
Lâm Thao
2,011 3,029 4 2,16 1,44 1,28 0,16 14,08
Phù Ninh
4,349 4,08 5 6,011 7 3,52 0,48 30,44
Thanh Ba
4,16 7,646 8,809 10,465 15 4,4 3,04 53,52
TPViệt Trì

3,017 3,28 3,343 3,6 4,52 3,04 0,32 21,12
Đoan Hùng
6,6 6,9 15,34 16,6 8,68 7,2 2,56 46,2
Cẩm Khê
7,461 8,8 12,96 7,8 6,619 5 3,52 52,16
Yên Lập
5,2 6,84 7,66 7 4,1 3,2 2,4 36,4
Thanh Sơn
8,051 10,32 10,309 10,68 5 7,36 4,64 56,36
Tân Sơn
2,79 5,581 10,5 9,5 5,789 3,48 2,88 40,52
Tam Nông
4,2 3,914 7,47 10,53 5,206 3,36 1,76 36,44
Thanh Thuỷ
5,56 6 7,5 7,523 5,417 3,68 2,24 37,92
Tổng 500,56

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Bảng phân bổ vốn đầu tư của các địa phương cho ta biết được huyện có vốn đầu tư
lớn gồm các huyện: Hạ Hoà, Thanh Ba, Cẩm Khê, Yên Lập, Tân Sơn, Đoan Hùng;
tỷ lệ vốn đầu tư/tổng vốn đầu tư chiếm từ 7-12%, đây là những huyện có điều kiện
khó khăn và đặc biệt khó khăn của tỉnh vì thế mà cần tập trung vốn đầu tư để xây
dựng trường học mới và nhà ở công vụ cho giáo viên. Còn các huyện có điều kiện
kinh tế phát triển hơn như: Thị xã Phú Thọ và thành phố Việt Trì thì vốn đầu tư
phân bổ ít hơn bởi vốn để xây dựng trường học là do địa phương tự huy động là chủ
yếu. Cách phân bổ vốn đầu tư cho các huyện trong tỉnh là không đồng đều nhưng
lại phù hợp với tình hình đièu kiện của từng huyện và theo đúng chủ chương đầu tư
của tỉnh.
Trong giai đoạn 2002-2008, tỉnh đã đầu tư xây dựng mạng lưới trường học và nhà ở
công vụ cho giáo viên ở tất cả các huyện và được các huyện triển khai rất nhanh

chóng. Tuy nhiên ở giai đoạn đầu của việc triển khai đề án nên các huyện còn gặp
nhiều khó khăn và vướng mắc nên chưa có đơn vị nào triển khai đề án đạt hiệu quả
100%.
Bảng 1.7 : Tiến độ xây dựng của các đơn vị trong quá trình thực hiện đề án giai
đoạn 2002-2008

STT

Tên huyện

Tiến độ thực hiện nhà lớp
học và nhà công vụ(tỷ lệ
% hoàn thành)
Trong đó
Nhà lớp
học(%)
Nhà công
vụ(%)
1 Hạ Hoà 86,4 84,1 93,1
2 Thị xã Phú Thọ 97,2 97,2
3 Phù Ninh 72,6 70,2 98
4 Thanh Ba 63,9 56,9 82,2
5 Thành phố Việt Trì 72,1 72,1
6 Lâm Thao 59,9 59,9
7 Đoan Hùng 85,6 85,6
8 Yên Lập 80,1 74,5 87,9
9 Cẩm Khê 85,0 84,2 91,6
10 Thanh Sơn 83,8 69,7 93,7
11 Tân Sơn 85,7 62,9 100
12 Tam Nông 80,0 70 90

13 Thanh Thuỷ 55,9 46,5 74,6
14 Khối các trường THPT 51,6 37,2 61,5
Toàn tỉnh 76,7 70,8 88,9

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ

Qua bảng trên ta thấy phần lớn các huyện đều tích cực triển khai đề án, tỷ lệ % bình
quân của cả tỉnh đạt 76,7%- đây là tỷ lệ tương đối cao so với các tỉnh lân cận. Đơn
vị có tiến độ triển khai đề án cao nhất là Thị xã Phú Thọ đạt 97,2% và huyện Thanh
Thuỷ là đơn vị có tiến độ triển khai thấp nhất toàn tỉnh chỉ đạt 55,9%. Việc triển
khai thực hiện đề án chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhất là khả năng cung ứng
vốn của mỗi đơn vị. Các huyện miền núi hoặc các huyện đặc biệt khó khăn thì phần
lớn vốn để xây dựng nhà học và nhà công vụ là vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương
và ngân sách tỉnh vì ngân sách huyện, xã không thể huy động được. Các huyện, thị
xã thuộc vùng đồng bằng, có điều kiện kinh tế phát triển hơn thì ngoài vốn hỗ trợ từ
ngân sách trung ương còn có vốn từ ngân sách cấp huyện, xã và vốn mà các đơn vị
tự huy động được.
Bảng 1.8 : Thể hiện cơ cấu vốn ở các huyện
Tên huyện Vốn NSTƯ(%)
Vốn NS
tỉnh(%)
Vốn NS huyện, xã
và tự huy động(%)
Thành phố Việt Trì, thị xã
Phú Thọ
80 0 20
Lâm Thao, Phù Ninh, Hạ
Hoà, Cẩm Khê, Đoan
Hùng,Thanh Ba, Tam
Nông, Thanh Thuỷ



80


10


10
Yên Lập, Thanh Sơn, Tân
Sơn
80 20 0

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Cơ cấu phân bổ vốn ở các huyện như bảng trên là tương đối hợp lý với chủ chương
đầu tư của tỉnh và tình hình điều kiện thực tế của từng huyện. Những huyện miền
núi có nhiều xã đặc biệt khó khăn như: Yên Lập, Thanh Sơn, Tân Sơn thì vốn đầu
tư phần lớn là từ ngân sách trung ương vì ngân sách của huyện, xã không có khả
năng cung ứng. Các huyện còn lại thì một phần vốn do ngân sách tỉnh, ngân sách
địa phương tự cung ứng hoặc huy động được từ các tổ chức, doanh nghiệp trong
huyện.
1.2.4. Đầu tư cho các đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo.
Các đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo gồm: các trường Trung học phổ
thông, các trường Dân tộc nội trú, các trường Mầm non. Cách thức đầu tư cho các
đợn vị trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo cũng giống như đầu tư cho các đơn vị
khác đó là xây dựng phòng học và nhà công vụ cho giáo viên. Nguồn vốn đầu tư
cho các đơn vị này gồm: vốn trái phiếu chính phủ, vốn ngân sách địa phương(gồm
vốn ngân sách tỉnh và ngân sách huyện, xã),vốn khác. Việc phân bổ vốn cho các
đơn vị trực thuộc Sở là do tỉnh trực tiếp phân bổ chứ không giống như các đơn vị
khác việc phân bổ vốn đầu tư theo hai nấc: tỉnh phân bổ vốn về các huyện sau đó

mỗi huyện lại tự phân bổ vốn theo quy định mà tỉnh cho phép và nhu cầu thực tế
của huyện mình. Cách thức phân bổ vốn trực tiếp này sẽ hạn chế được việc thất
thoát vốn đầu tư trong khi phân bổ vì vốn đầu tư không phải qua tay nhiều người
trung gian mà trực tiếp đến tay người sử dụng vốn.
Cơ cấu vốn đầu tư cho các đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo cũng giống
như cơ cấu vốn của các đợn vị khác: tỷ trọng vốn trái phiếu Chính Phủ vẫn chiếm
phần lớn so với các nguồn vốn khác.
Biểu đồ 1.4: Cơ cấu vốn đầu tư phân bổ cho các đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục và
Đào tạo giai đoạn 2002-2008
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Trong tổng vốn đầu tư 47.000 triệu đồng của giai đoạn 2002-2008 thì vốn trái phiếu
Chính phủ là 38.112 triệu đồng, chiếm 80% tổng vốn đầu tư; vốn ngân sách địa
phương là 7.230 triệu đồng, chiếm 15,2%; vốn khác là 2.298 triệu đồng, chiếm 4,8%.
Cơ cấu vốn này trong những năm tới cần phải thay đổi tỷ trọng theo hướng giảm tỷ
trọng vốn trái phiếu chính phủ và tăng hai nguồn vốn còn lại đặc biệt là vốn ngân
sách địa phương để các địa phương chủ động trong quá trình đầu tư và tránh tình
trạng trông chờ, ỷ lại vào ngân sách cấp trên đưa xuống của các địa phương.
1.3. Đánh giá những kết quả đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại.
1.3.1 Những kết quả đã đạt được.
Trong suốt thời gian qua đặc biệt là những năm gần đây (giai đoạn 2002-2008) nhờ
các chủ chương, chính sách đầu tư đúng đắn, hiệu quả nên giáo dục của tỉnh đã có
sự phát triển vượt bậc so với các giai đoạn trước, làm thay đổi diện mạo của nền
giáo dục Phú Thọ cả về chất và lượng: giáo viên, học sinh và cơ sở vật chất trường
học.
Kết quả đầu tư giáo dục của tỉnh được thể hiện cụ thể như sau:
1.3.1.1. Về đất đai.
-Đến hết tháng 12/2008 có 857/9905 trường(chiếm 94,7% số trường) được quy
hoạch bố trí đất;còn 48 trường(chiếm 5,3%) chưa được bố trí địa điểm ổn định, tập

×