Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

giải pháp làm giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất ở thành phố đông hà hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.86 KB, 73 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Mọi trẻ em đều
có quyền sống, học tập, phát triển, tham gia và bảo vệ, được sống trong môi trường
an toàn lành mạnh và thân thiện. Lợi ích của trẻ phải được đặt lên hàng đầu, bởi vì
trẻ em liên quan đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cộng đồng và của cả
gia đình. Nhưng trong thực tế, không ít trẻ em nghèo bỏ học mỗi năm, không biết
bao nhiêu em phải đi lao động kiếm sống, nguy hiểm nhất là rất nhiều trẻ em bị
buôn bán qua biên giới. Ngay cả khi sống trong căn nhà của cha mẹ, người thân của
mình, nhiều trẻ vẫn không được an toàn đó chính là thực trạng đáng báo động hiện
nay tại Việt Nam.
Bác Hồ đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn, biết ngủ, biết học
hành là ngoan” [13, tr203]. Ở lứa tuổi này, các em cần được chăm sóc chu đáo cả về
vật chất lẫn tinh thần vì đây là nền tảng để các em có những thói quen, hành vi ứng xử
cho cuộc sống tương lai của bản thân. Nhưng trong thời gian vừa qua, đã có rất nhiều
vụ việc xâm hại thể chất trẻ em được đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng và dư
luận rất phẫn nộ khi mỗi ngày, trên những mặt báo, màn ảnh lại xuất hiện hình ảnh các
em nhỏ bị cưỡng bức, lạm dụng tình dục, bóc lột theo các quy định luật pháp của Việt
Nam đều bị cấm và có hình thức xử phạt rất nghiêm. Nhưng trên thực tế việc thực hiện
nó lại rất khó. Một người cha xâm hại tình dục con gái mình lại xem là chuyện “đóng
cửa bảo nhau”, việc đánh đạp hành hạ con thì lại cho là “thương cho roi cho vọt”…
Những hành vi xâm hại thể chất đối với trẻ em đang diễn ra hằng ngày không chỉ riêng
ở thành phố Đông Hà mà nó xảy ra ở nhiều nơi. Sự ngược đãi về tinh thần cũng như
thể xác đó đã làm cho các em mất đi tuổi thơ của mình, từ những em bé lành lặn, chỉ vì
đòn roi vô tình, người lớn đã biến các em thành trẻ khuyết tật cả về thể xác lẫn tâm hồn;
để lại những cú sốc tâm lý đầu đời, làm cho các em mất lòng tin vào người lớn, vào
người thân và sẽ nảy sinh ra những hành vi lệch lạc như trộm cắp, tham gia vào các tệ
nạn xã hội… Chính những sự ngược đãi đó làm cả xã hội phải giật mình vì sự xuống
cấp nghiêm trọng về đạo đức của một bộ phận nhóm người đang tồn tại trong xã hội.
Cùng đồng cảm, đau xót trước nỗi đau mà các em phải gánh chịu cũng như sự bất bình,


căm phẫn trước những hành vi đi ngược lại với đạo đức và luật pháp, do đó tôi đã chọn
đề tài “Giải pháp làm giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất ở thành phố Đông
Hà hiện nay” như góp tiếng nói cùng với xã hội để thế hệ trẻ em Việt Nam sẽ được
sống và phát triển một cách hoàn thiện về thể chất lẫn tinh thần.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 1
Khóa luận tốt nghiệp
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần làm sáng tỏ những khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
như: nhận thức, quyền trẻ em.
Phân tích các nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bị xâm hại thể chất.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể góp thêm tiếng nói nhằm để mọi người dân quan tâm hơn về
vấn đề xâm hại thể chất trẻ em hiện nay. Từ đó, họ sẽ có những hành động tự giác
để góp phần hạn chế tình trạng này.
Thông qua việc nghiên cứu các giải pháp, nhằm hướng sự trợ giúp trẻ em
nhằm giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất.
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu với vấn để nghiên cứu, tôi đề xuất
những khuyến nghị đối với các cơ quan ban ngành chức năng, với gia đình cộng
đồng xã hội góp phần giảm thiểu tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất.
Đề tài còn là tài liệu cho các bạn và độc giả những ai quan tâm đến chuyên
ngành công tác xã hội.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trẻ em có vai trò đặc biệt quan trọng đối với gia đình và xã hội. Ngay từ khi
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan
tâm đặc biệt đối với trẻ em. Nhiều chủ trương, chính sách ra đời hướng tới mục tiêu
vì lợi ích tốt nhất cho sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức của
trẻ em.
Trên thế giới đã có rất nhiều văn bản pháp luật công nhận quyền của trẻ em
và bảo vệ lợi ích của trẻ em. Chúng ta có thể nói một số văn bản sau:

Quyền được sống và quyền được phát triển là hai trong bốn nhóm quyền cơ
bản được ghi nhận trong Công ước quyền trẻ em, được Đại hội đồng Liên Hiệp
quốc chính thức thông qua vào 1989, Công ước đã được hầu hết các nước trên thế
giới đồng tình và phê chuẩn. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai
trên thế giới đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 20/2/1990.
Còn ở Việt Nam, cho đến nay, mặc dù còn nhiều khó khăn, nước ta cũng đạt
được nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công ước vào chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội và luật pháp quốc gia. Luật phòng chống bạo hành
gia đình, Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Tố tụng hình sự… được ban hành và
sửa đổi đều quan tâm thích đáng đến quyền lợi của trẻ em. Bộ Lao động và Thương
SVTH: Nguyễn Thị Lành 2
Khóa luận tốt nghiệp
binh xã hội đã đưa ra tháng hành động quốc gia vì trẻ em là tháng 5 và tháng 6 của
năm 2008…
Sau khi phê chuẩn Công quyền trẻ em, nước ta đã xây dựng và thực hiện
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam 1991 – 2000 ở các cấp với sự
tham gia của các Bộ, ngành và các tổ chức xã hội như Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam… trong
tháng 12/2000 và đầu năm 2001, đã tô chức ba diễn đàn khu vực và một hội nghị trẻ
em toàn quốc với sự tham gia của hàng ngàn trẻ em ở thành phố, nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa và trẻ em có hoàn cảnh đặc bệt. Bằng các quy định của Hiến
pháp, pháp luật, bằng việc tham gia vào các Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, từ
lâu Việt Nam đã thừa nhận trẻ em được hưởng mọi quyền cơ bản của con người.
Bên cạnh đó, chúng ta có thể thấy được vấn đề bạo lực đối với trẻ em được
nhiều cá nhân, tập thể quan tâm nghiên cứu điều đó được thể hiện qua những dấu
mốc sau:
Năm 2003, UNICEF cùng với Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Quỹ Cứu
trợ Trẻ em Thụy Điển và Plan International đã tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá
mức độ bạo lực và lạm dụng trẻ em ở Việt Nam.
Nghiên cứu tiến hành trên 2.800 trẻ em tham gia ở ba tỉnh An Giang, Lào

Cai và Hà Nội cho thấy trừng phạt thân thể (đánh đập) là hình thức bạo lực phổ biến
ở gia đình và trường học, các hình thức bạo lực khác như lạm dụng từ ngữ, bắt nạt
và chứng kiến bạo lực gia đình cũng khá phổ biến. Một kết quả khảo sát của Ủy ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em Thành phố Hồ Chí Minh tại năm tỉnh, thành phố ngẫu
nhiên, cho biết có 58,3% trẻ em khi được phỏng vấn trả lời đã bị người lớn dùng
các biện pháp quát mắng, chửi, sỉ nhục, tát, đánh vào mông, phạt úp mặt vào
tường… khi các em mắc lỗi.
Tại Diễn đàn Trẻ em nói về “Bạo lực với Trẻ em” tổ chức ngày 03 tháng 06
năm 2005 tại Hà Nội do Ủy ban Dân số Gia đình Trẻ em Việt Nam UNICEF tổ
chức cùng với Quỹ Cứu trợ Trẻ em Thụy Điển và tổ chức Plan International. Trẻ em
tham gia diễn đàn bao gồn trẻ em đường phố, trẻ em vi phạm pháp luật cùng với các
em học sinh phổ thông, gồm 46 em (26 trẻ em trai và 20 trẻ em gái) từ 11 đến 18
tuổi đến từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, Huế, Ninh Bình. Các đại
biểu tham dự diễn đàn đã lắng nghe những kinh nghiệm của trẻ. Các em đã sắp xếp
các hình thức lạm dụng theo thứ tự phổ biến nhất, đứng đầu là lạm dụng thân thể
(đánh đập), tiếp đến là lạm dụng tình cảm, bắt nạt, lạm dụng tình dục và làm việc
SVTH: Nguyễn Thị Lành 3
Khóa luận tốt nghiệp
trong điều kiện nguy hiểm. Theo các em địa điểm bạo lực thường xảy ra nhất là ở
nhà và ở nơi làm việc. Đồng thời các em còn cho biết, khi bị đánh đập thì đau đớn,
nhưng khi bị trách mắng, nhiếc móc còn đau đớn hơn nhiều.
Bên cạnh đó còn có các đề tài, luận văn Trước hết ta phải kể đến luận văn
về đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử án hình sự về các tội
xâm hại trẻ em”
Trong đề tài tác giả đã giúp chúng ta nhận thức rõ hơn quan điểm, chính sách
hình sụ của Đảng và Nhà nước ta nhằm bảo vệ quyền trẻ em, cũng như hiểu và vận
dụng đúng đắn các chế định pháp luật, cùng với việc tuyên truyền giáo dục ý thức
pháp luật trong bảo vệ quyền trẻ em và phòng ngừa tội phạm xâm hại trẻ em, nâng
cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự xâm hại trẻ em.
Báo cáo chuyên đề: “Phòng chống lạm dụng và bóc lột tình dục trẻ em trên

thế giới” Vũ Ngọc Bích – Chuyên viên văn phòng UNICEF Việt Nam.
Báo cáo “Hoạt động, tư vấn – xây dựng chương trình truyền thông – vận
động quyền trẻ em giai đoạn 2001 - 2005” - Hà Nội, 2001 – Trịnh Hòa Bình và
cộng sự thực hiện.
Đề tài: “Công tác xã hội với trẻ em bị xâm hại” do Doãn Nguyệt Quỳnh thực
hiện năm 2008.
Ngoài ra còn có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề trẻ em bị xâm
hại thể chất như ở một số tỉnh: Sơn La, Quảng Nam, Kiên Giang. Tuy nhiên, Ở
thành phố Đông Hà nơi tôi đang nghiên cứu chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể về
vấn đề trẻ em bị xâm hại thể chất. Vì thế tôi chọn đề tài này để nghiên cứu trên cơ
sở những nghiên cứu của các tác giả trước đây.
4. Mục tiêu nghiên cứu
4.1. Mục tiêu chung
Làm giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất ở thành phố Đông Hà, tỉnh
Quảng Trị.
4.2. Mục tiêu cụ thể
Đánh giá thực trạng trẻ em bị xâm hại thể chất trong thời gian qua ở Việt
Nam nói chung và ở thành phố Đông Hà nói riêng.
Tìm hiểu các nguyên nhân, yếu tố chính tác động đến thực trạng xâm hại thể
chất đối với trẻ em.
Tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu của các chương trình chăm sóc, giáo
dục và bảo vệ trẻ em.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 4
Khóa luận tốt nghiệp
Trên cơ sở những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước tìm ra các
giải pháp giải quyết nhằm làm giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất ở thành
phố Đông Hà nói riêng và toàn xã hội nói chung.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp làm giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại thế chất ở thành phố Đông

Hà, tỉnh Quảng Trị.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Trẻ em ở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
Cộng đồng, gia đình, người thân của trẻ em bị xâm hại thể chất tại địa nghiên cứu.
Cán bộ, công nhân viên chức làm công tác liên quan đến vấn đề trẻ em bị
xâm hại thể chất tại địa bàn nghiên cứu.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi không gian
Nghiên cứu được tiến hành tại địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
6.2. Thời gian vấn đề nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở khảo sát trong
giai đoạn hiện nay ở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
6.3. Phạm vi đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu giải pháp làm giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất ở
thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
7.1. phương pháp luận
7.1.1. Phương pháp duy vật lịch sử
Nghiên cứu vị trí, vai trò trẻ em qua từng thời kì phát triển của điều kinh tế
xã hội do sự tác động của các yếu khách quan.
7.1.2. Phương pháp duy vật biện chứng
Nghiên cứu vị trí, ảnh hưởng của trẻ em trong mối quan hệ tương tác với gia
đình, xã hội.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp thu thập thông tin
7.2.1.1. Phương pháp nghiên cứu các nguồn tài liệu, sách báo
Dùng để tìm hiểu, thu thập thông tin về thực trạng, nguyên nhân, giải pháp…
tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất trên các văn bản, giấy tờ, tài liệu, sách báo, báo
cáo, thông tin thu thập ở mạng .

SVTH: Nguyễn Thị Lành 5
Khóa luận tốt nghiệp
7.2.1.2. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Đây là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu. Sử dụng phương pháp này
giúp cho người viết hiểu rõ hơn về vấn đề nghiên cứu, để đảm bảo thu thập được
những thông tin mang tính chiều sâu của vấn đề cần nghiên cứu, tôi đã tiến hành
phỏng vấn sâu 15 trẻ bị xâm hại thể chất, gia đình của trẻ, chính quyền địa phương.
Nhờ sử dụng phương pháp tôi đã tìm hiểu các thông tin về những vụ xâm hại
thể chất trẻ em từ chính nạn nhân hay những cá nhân, tổ chức có liên quan thông
qua hỏi đáp trực tiếp. Đồng thời sử dụng phỏng vấn để khẳng định lại các thông tin
đã tìm được trên giấy tờ.
7.2.1.3. Phương pháp sử dụng bảng hỏi
Bảng hỏi được sử dụng trong quá trình đi thực tế nhằm để biết được quan
đểm, suy nghĩ của các cá nhân, những bậc làm cha làm mẹ cũng như thái độ của trẻ
khi bị xâm hại thể chất.
7.2.1.4. Phương pháp quan sát
Được sử dụng trong quá trình đi cơ sở, trực tiếp xem xét, nhìn nhận các
trường hợp có hành vi xâm hại thể chất đối với trẻ em.
Đây là phương pháp rất có hiệu quả trong quá trình thu thập thông tin cho đề
tài nghiên cứu. Trong suốt thời gian thực địa tại địa bàn nghiên cứu tôi đã sử dụng
phương pháp quan sát để thu thập thông tin cần thiết. Tôi đã sử dụng các phương
pháp sau:
Quan sát bí mật: Đây là phương pháp nhạy cảm vì nó liên quan đến quyền
riêng tư của trẻ. Tuy nhiên, nếu sử dụng hợp lý thì phương pháp này sẽ mang lạị
hiệu quả cao, tôi đã sử dụng phương pháp quan sát bí mật về những hành vi, thái độ
của trẻ. Mối quan hệ của trẻ với gia đình và môi trường xung quanh.
Quan sát nhiều lần: Trong suốt thời gian thực tế tại địa bàn tôi đã thực hiện
phương pháp quan sát nhiều lần về hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, môi
trường học tập, vui chơi, mối quan hệ của trẻ với mọi người xung quanh. Quan sát
nhiều lần sẽ giúp cho tôi đánh giá hiệu quả trợ giúp cho trẻ em.

Mỗi phương pháp đều có mặt ưu và nhược điểm của nó vì vậy để phát huy
tối đa hiệu quả của các phương pháp tôi đã kết hợp sử dụng các phương pháp quan
sát. Tiến hành quan sát, quan sát hoàn cảnh, môi trường sống của các thân chủ như
thế nào? Quan sát cư chỉ, thái độ, hành vi của thân chủ, mối quan hệ của trẻ… Để
thu thập được những thông tin chính xác, đầy đủ với vấn đề của trẻ em bị xâm hại
thể chất.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 6
Khóa luận tốt nghiệp
7.2.1.5. Phương pháp sử dụng trực quan: hình vẽ, hình ảnh
Sử dụng trực quan như hình vẽ, hình ảnh nhằm có được những minh chứng
rõ ràng về các hình thức, trường hơp xâm hại thể chất đối với trẻ em.
7.2.1.6. Phương pháp vãng gia
Vãng gia giúp tôi có thể quan sát môi trường tự nhiên và xã hội của gia đình
có trẻ bị xâm hại thể chất cũng như thấy được mối quan hệ và sự quan tâm lẫn nhau
của các thành viên trong gia đình trẻ.
7.2.2. Phương pháp phân tích, xử lý tài liệu
Trong phương pháp này, tôi chủ yếu thực hiện phương pháp thu thập, phân
tích, xử lí tài liệu, các tài liệu đã thu thập được từ những phiếu điều tra, bảng hỏi, từ
những thông tin đi phỏng vấn người dân, từ tài liệu, từ sách báo, từ báo cáo…
Trên cơ sở những thông tin đó, tôi tiến hành tổng hợp, phân tích, so sánh,
chọn lọc nhằm mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài để đảm bảo vừa mang
tính lý luận vừa đảm bảo tính khoa học.
8. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về địa bàn và các khái niệm liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
Chương 2. Thực trạng trẻ em bị xâm hại thể chất ở thành phố Đông Hà, tỉnh
Quảng Trị hiện nay.
Chương 3. Một số giải pháp làm giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại thể chất ở
thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

SVTH: Nguyễn Thị Lành 7
Khóa luận tốt nghiệp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN VÀ CÁC KHÁI NIỆM
LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Đông Hà là thành phố trung tâm của tỉnh Quảng Trị. Toàn thành phố có 9
phường, dân số đến năm 2009 là 82.331 người. Tổng diện tích đất tự nhiên:
7.255,44 ha. Phía Bắc giáp huyện Cam Lộ và Gio Linh, cách thành phố Đồng Hới
về phía Bắc 93 km. Phía Nam và phía Đông giáp huyện Triệu Phong, cách thành
phố Huế 70 km về phía Nam. Phía Tây giáp huyện Cam Lộ, cách cửa khẩu quốc tế
Lao Bảo 83 km về phía Tây [9,16].
Đông Hà có vị trí nằm ở trung độ giao thông của cả nước, trên giao lộ 1A nối
Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh và quốc lộ 9 trong hệ thống đường xuyên Á; là điểm
khởi đầu ở phía Đông của trục hành lang kinh tế Đông - Tây, nối với đất nước Lào
và Thái Lan, Myanma qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và các nước trong khu vực
biển Đông qua cảng Cửa Việt. Từ thuận lợi về giao lưu đối ngoại, Đông Hà có khả
năng thu hút, hội tụ để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và trở thành trung tâm
phát luồng các mối quan hệ kinh tế trong khu vực và quốc tế.
1.1.1.2. Địa hình
Nét đặc trưng của Đông Hà có hình thể như một mặt cầu mở rộng ra hai phía
Nam, Bắc của quốc lộ 9, địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây sang Đông; vùng đất
đồi bị chia cắt bởi nhiều đồi bát úp. Người ta chia hai dạng địa hình cơ bản:
1.1.1.3. Đất đai
Đất đai của Đông Hà bao gồm các loại đất chủ yếu sau: Đất Feralit trên sa
phiến, đất phù sa bồi, phù sa không được bồi, đất phù sa glây, đất cát… nhưng
chiếm tỷ lệ lớn nhất và có ý nghĩa kinh tế bao gồm các loại đất sau:
Đất phù sa được bồi hàng năm (Pb): Phân bố chủ yếu ở các vùng khu vực

triều sông Hiếu, sông Vĩnh Phước, diện tích khoảng 500 ha. Đây là loại đất thích
hợp cho việc trồng cây lương thực, cây ăn quả và cây công nghiệp.
Đất Feralít vàng phát triển trên phiến sét (Fs): Phân bố tập trung ở vùng đồi
phía tây và phía tây nam thị xã. Diện tích đất này chiếm khoảng 3.500 ha, chủ yếu
thích hợp trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, phát triển đồng cỏ chăn nuôi.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 8
Khóa luận tốt nghiệp
Đất phù sa Glây (Pg): Phân bố rãi rác ở các khu vực trồng lúa (thuộc các
phường Đông Thanh, Đông Giang, Đông Lễ, Đông Lương) có diện tích 1.000ha,
chuyên trồng lúa và hoa màu. Đặc điểm chung của các loại đất trên là bị chua phèn,
độ PH dao động từ 4,5 đến 6,5 nên độ phì kém
1.1.1.4. Khí hậu
Thành phố Đông Hà nằm ở khu vực hẹp nhất của miền trung, mang đặc điểm
của khí hậu gió mùa và có những biểu hiện đặc thù so với các vùng khí hậu khu vực
phía đông Trường Sơn. Đó là do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của gió phơn Tây Nam
nên tạo thành một vùng khí hậu khô, nóng. Chế độ khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt là
mùa mưa và mùa khô nóng.
Về mùa đông, do chịu ảnh hưởng của không khí lạnh cực đới tràn về tới đèo
Hải Vân, nên khu vực Đông Hà có mùa đông tương đối lạnh so với các vùng phía
nam. Chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa tháng nóng nhất và lạnh nhất từ 9 – 10
0
C.
Đây cũng là khu vực có lượng mưa tương đối lớn nhưng tập trung chủ yếu trong bốn
tháng mùa mưa (khoảng 80%). Tuy nhiên số ngày mưa phân bố không đều, trong các
tháng cao điểm trung bình mỗi tháng có từ 17 – 20 ngày mưa làm ảnh hưởng đến bố
trí thời vụ của một số cây trồng và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
Khu vực Đông Hà còn chịu ảnh hưởng của bão. Mùa bão ở đây tập trung từ
tháng 9 – 11. Các cơn bão đổ bộ vào đất liền thường tập trung vào các cơn bão số
7,8,9,10. Bão thường kèm theo mưa to kết hợp với nước biển dâng cao và lượng
mưa lớn từ trên nguồn đổ về gây lũ lụt và ngập úng trên diện rộng làm thiệt hại đến

cơ sở hạ tầng và phá hại mùa màng.
Đông Hà chịu ảnh hưởng sâu sắc của 2 loại gió mùa: gió mùa đông bắc hoạt
động từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau và gió mùa tây nam hoạt động từ tháng 4 đến
tháng 9.
1.1.1.5. Sông ngòi
Đông Hà có hệ thống sông ngòi ít nhưng có hàng chục khe suối. Có tổng trữ
lượng nguồn nước mặt lớn, phân bố khá đều trên thành phố ngoài ra còn có nguồn
nước từ các sông, các hồ chứa.
1.1.2. Điều kiện kinh tế
1.1.2.1. Về khoáng sản
Nguồn khoáng sản ở Đông Hà rất nghèo, chỉ có đất sét làm gạch ngói, trữ
lượng lại không lớn, phân bố rãi rác ở các phường Đông Giang, Đông Thanh, Đông
Lương và phường 2. Do đó việc khai thác không cho phép thực hiện trên diện rộng
SVTH: Nguyễn Thị Lành 9
Khóa luận tốt nghiệp
và có quy mô lớn. Các đợt thăm dò địa chất trước đây cho biết, trên đất Đông Hà có
quặng sắt ở đồi Quai Vạc (km 6 và km 7), sắt ở đường 9.
1.1.2.2. Về lâm nghiệp
Trước đây diện tích rừng tự nhiên của Đông Hà khá lớn với nhiều chủng loại
gỗ quý và động vật cũng tương đối phong phú. Nhưng do hậu quả chiến tranh, chất
độc hóa học đã tàn phá và nạn khai thác rừng bừa bãi đã cạn kiệt tài nguyên rừng;
rừng chủ yếu hiện nay là rừng trồng và rừng tái sinh. Rừng của thành phố ngoài ý
nghĩa về kinh tế còn là góp phần tích cực vào việc điều hòa khí hậu, giữ gìn nguồn
nước chống xói mòn và tạo cảnh quan du lịch sinh thái.
1.1.2.3. Về nuôi trồng thủy sản
Đông Hà không tiếp giáp với bờ biển, các con sông có lưu vực nhỏ nên tiềm
năng đánh bắt tự nhiên không đáng kể. Hiện tại, thành phố đang phát triển chuyển
đổi cơ cấu đất đai một số vùng để phát triển nuôi trồng thủy sản, đây cũng là một
trong những định hướng có khẳ năng phát triển kinh tế trên địa bàn. Diện tích mặt
nước nuôi trồng thủy sản là 151,7 ha với bình quân tổng sản lượng thủy sản khai

thác hàng năm là 471 tấn
1.1.2.4. Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ
Thành phố Đông Hà thường xuyên khuyến khích các doanh nghiệp,tổ chức,
tư nhân… phát triển các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến dịch vụ
ngày càng nhiều và đa dạng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Tiểu
thủ công nghiệp và làng nghề: Chủ yếu là các nghề sản xuất bún bánh, chế biến
thủy sản, rau quả; rèn, đan lát, chế biến gỗ, lâm sản; nghề trồng bông sợi, dệt vải
truyền thống. Tạo điều kiện nguyên liệu, thị trường để khôi phục và phát triển các
nghề thủ công mới như rang xay, chế biến cà phê, nghề mộc mỹ nghệ, trạm khảm
v.v. Hiện nay có hơn 560 cơ sở tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ với hơn 2.000 lao
động, cơ sở thương mại ngày càng nhiều và đa dạng góp phần tạo việc làm cho lao
động trong thành phố. Giá trị thu nhập từ sản xuất tiểu thủ công nghiệp hơn 1.000 tỷ
đồng/ năm 2008, các thành phần kinh tế được mở rộng, hoạt động thương mại, dịch
vụ ngày càng phát triển chuyển biến theo hướng tích cực, đa dạng tạo sự chuyển
biến phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
1.1.3. Điều kiện văn hóa xã hội
1.1.3.1. Về văn hóa thông tin – thể dục – thể thao
SVTH: Nguyễn Thị Lành 10
Khóa luận tốt nghiệp
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được duy trì và phát
triển,tạo bầu không khí thi đua lành mạnh sôi nổi trong toàn tỉnh. Các điểm thể duc,
thể thao vui chơi đã được xây dựng phục vụ nhu cầu cho người dân.
Các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao,
xây dựng gia đình văn hóa, khu phố văn hóa, làng văn hóa có chuyển biến tích cực,
mạnh mẽ, ngày càng được quan tâm, chú trọng hơn.
Thành phố thường xuyên tổ chức các cuộc thi, chương trình, hoạt động văn
hóa, thể dục thể thao cho người dân, và đã được người dân tích cực hưởng ưởng
tham gia.
Thực hiện cuộc vận động “xây dựng gia đình văn hóa” đã mang lại những
hiệu quả. Tỷ lệ gia đình văn hóa đạt trên 85% hàng năm. Thông qua thực hiện cuộc

vận động đã từng bước đẩy lùi và hạn chế các tiêu cực, tạo nên môi trường lành
mạnh, góp phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Đông Hà.
1.1.3.2. Về giáo dục – đào tạo
Thành phố đã từng bước xây dựng cơ sở vật chất, các phương tiện hiện đại,
các dụng cụ phục vụ cho giảng dạy và học tập đã được quan tâm đầu tư và đổi mới,
đội ngũ giáo viên, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên cả về số lượng và
chất lượng đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao hiện nay. Tỷ lệ học sinh thi đỗ đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cao hơn qua các năm. Thành phố đạt chuẩn
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập THCS.
1.2. Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm trẻ em
Thuật ngữ “trẻ em” được quy định ở mỗi quốc gia không giống nhau tùy
thuộc vào những đặc điểm riêng về sự phát triển sinh học, cũng như quan điểm về
chăm sóc, bảo vệ và giáo dục đối với trẻ em của mỗi nước. Như vậy, để xác định
một người là trẻ em hay không còn tùy thuộc vào luật áp dụng của từng quốc gia
quy định về độ tuổi trẻ em.
Tiếp cận theo góc độ phát triển thì trẻ em là một giai đoạn phát triển trong
cuộc đời của một người (từ lúc sinh ra đến khi chết). Trẻ em và người lớn là những
giai đoạn phát triển khác nhau của cuộc đời. Trẻ em không phải là người lớn thu
nhỏ lại. Trẻ em vận động và phát triển theo quy luật riêng của mình. Tâm lý học lứa
tuổi lại xác định những giai đoạn khác nhau của lứa tuổi trẻ em như: tuổi sơ sinh,
tuổi hài nhi, tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên,
tuổi thanh niên mới lớn.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 11
Khóa luận tốt nghiệp
Tiếp cận theo cơ cấu xã hội – văn hóa có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, bởi vì văn hóa vừa là môi trường vừa là nội
dung của quá trình xã hội hóa trẻ em. Mỗi đứa trẻ là con đẻ của một nền văn hóa
nhất định, một vùng văn hóa xác định trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Trẻ em lớn lên, xã hội hóa trong những môi trường xã hội văn hóa cụ thể: văn hóa

gia đình, văn hóa nhà trường, văn hóa địa bàn dân cư…
Trẻ em có những đặc điểm tâm sinh lý khá đặc thù do chưa phát triển đầy đủ
về thể chất và trí tuệ, dễ tổn thương, dễ thay đổi, dễ thích nghi, dễ uốn nắn, dễ tự ái,
tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn. Xu hướng muốn tự khẳng định, được đánh giá,
được tôn trọng, nhiều hoài bão và nhìn chung thiếu thực tế, thiếu kinh nghiệm.
Theo Công ước về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc thì : “Trẻ được xác định
là người dưới 18 tuổi, trừ khi Luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm
hơn”[2].
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và tổ chức khoa học, giáo dục và văn hóa
(UNESCO) thì xếp “trẻ em là những người dưới 15 tuổi”.
Trong một số văn bản ph áp luật Việt Nam cũng quy định: “Những người
dưới 18 tuổi là người chưa thành niên” (Luật dân sự Việt Nam – 1995).
Theo Điều 1 Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 của Việt Nam đã
quy định: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Nói chung, trẻ em là người chưa phát triển về thể chất, tinh thần, hoặc là
người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ. Họ là những người đang
trong quá trình trưởng thành nên chưa nhận thức đầy đủ về những khái niệm thông
thường trong cuộc sống hàng ngày, cũng như họ chưa có đầy đủ khả năng thực hiện
và khả năng tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trên cơ sở giới hạn về độ
tuổi, các văn bản pháp luật của Nhà nước ta cũng giới hạn về quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của trẻ em khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em; Luật hôn nhân và gia đình; Bộ luật lao động; Bộ luật dân sự; Bộ
luật tố tụng dân sự; Bộ luật hình sự và hệ thống các văn bản dưới luật như: Pháp
lệnh, Nghị định, Thông tư…
1.2.2. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004 thì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hiểu là: Trẻ em có hoàn cảnh
không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện
quyền cơ bản và hòa nhập với gia dình cộng đồng. Từ định nghĩa này, Điều 40 đã
SVTH: Nguyễn Thị Lành 12

Khóa luận tốt nghiệp
quy định: “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương
tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá
học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc
với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm
hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật”.
1.2.3. Xâm hại thế chất trẻ em
1.2.3.1. Khái niệm xâm hại
Là tất cả thái độ, hành vi tổn thương đến sự tự trọng của trẻ, làm hại đến thân
thể, sức khỏe và tâm lý của trẻ qua hành động mắng chửi, xỉ nhục, thậm chí dùng vũ
lực (đánh đập) để trừng phạt, răn đe, dạy dỗ con trẻ… Sự xâm hại đó không chỉ diễn
ra trong gia đình, mà còn diễn ra trong trường học, thậm chí ngay trên đường phố .
1.2.3.2. Xâm hại thể chất
Gồm xâm hại thân thể, đối xử tồi tệ về thể chất, bạo lực hoặc lạm dụng tình
dục, gây hư hại tài sản gia đình.
Xâm hại thân thể
Là hành vi có khả năng hoặc gây tổn thương đến thân thể của trẻ do một
hoạt động tương tác hoặc do thiếu hoạt động tương tác; điều này ở một mức độ nào
đó nằm trong tầm kiểm soát của bố mẹ hay người có trách nhiệm, quyền lực hay
được tin tưởng. Những sự việc này có chỉ diễn ra một lần hay lặp đi lặp lại. Ví dụ
những hành vi bạo lực trẻ em bao gồm: “tát, đánh đập bằng tay hay đồ vật, đấm, đá,
đẩy và cấu”
Xâm hại tình dục
Là sự dính lứu vào các hoạt động tình dục của một trẻ em mà bản thân trẻ
không nhận thức thấu đáo, hoặc đồng ý mà không am hiểu hết, hoặc chưa phát triển
đến mức độ phù hợp để đưa ra sự đồng thuận, hoặc là những hành vi vi phạm những
chuẩn mực xã hội trên phương diện luật pháp hay xã hội. Định nghĩa này còn bao
gồm cả việc dụ dỗ hay cưỡng ép trẻ em tham gia và các hoạt động tình dục bất hợp
pháp; bóc lột lao động tình dục hay những hành vi tình dục bất hợp pháp khác và sử
dụng trẻ em vào việc xây dựng các ấn phẩm văn hóa đồi trụy.

Một diều quan trọng là cần phải phân biệt những đặc điểm chính cấu tạo nên
sự xâm hại tình dục, đó chính là sự chênh lệch vào quyền lực, sức lực giữa thủ
phạm và nạn nhân. Khi một người trưởng thành xâm hại tình dục đối với một trẻ
em, điều này luôn được coi là một ví dụ của sự chênh lệch về quyền lực, sức mạnh
giữa người trưởng thành và một trẻ em.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 13
Khóa luận tốt nghiệp
1.2.4. Nhóm quyền cơ bản của trẻ em
Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một
cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là
người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn, mà các em là những thành
viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển. Bao gồm quyền được sống còn,
quyền được bảo vệ, quyền được phát triển, quyền được tham gia.
Quyền được sống còn: Là quyền cơ bản của mỗi cá nhân, tiền đề cho việc
bảo vệ tất cả các quyền khai thác của con người. Bảo vệ quyền này của trẻ cần dựa
trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Cần phải được thực hiện ngay không
chậm trễ vì trẻ rất dễ bị tổn thương.
Khi những nguy cơ đe dọa quyền sống còn của trẻ như: gây ra những tai nạn
thương tích, những tổn thương do người lớn đem lại, thiếu sự chăm sóc yêu thương
và hỗ trợ của gia đình, bị phân biệt đối xử. Những nguy cơ đe dọa tới sự sống còn
của trẻ em là rất nhiều và có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào, cộng đồng và quốc gia nào,
kể cả ngay tại gia đình. Tất cả chúng ta phải có trách nhiệm đảm bảo quyền được
sống ở mức cao nhất có thể được.
Quyền được bảo vệ: Là bảo vệ trẻ em khỏi bị phân biệt đối xử, thoát khỏi sự
bóc lột về kinh tế, sự lạm dụng, xâm hại về thể xác và tinh thần, bị lơ là và bỏ rơi, bị
đối xử tàn tệ, các em phải được bảo vệ trong tình trạng khẩn cấp, khủng hoảng.
Nghiêm cấm lạm dụng, bóc lột sức lao động của trẻ em, bất kỳ một hành vi, hoặc
yếu tố tình huống có chủ ý của cá nhân, tổ chức hay của cộng đồng như xâm phạm
đến thể chất, tình cảm, nhân cách, lạm dụng tình dục, ngược đãi, xao nhãng, bỏ rơi,
sử dụng quá mức sức lao động, hoặc khai thác thương mại, tước đoạt quyền và sự tự

do của trẻ, gây nguy hại đến sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội của trẻ. Khi trẻ
bị lâm vào tình trạng khủng hoảng khẩn cấp như trình trạng rối loạn, thiếu hụt, mất
thăng băng nghiêm trọng do những yếu tố bên ngoài tác động có ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội của trẻ em.
Quyền được phát triển: Bao gồm mọi hình thức giáo dục (chính quy và
không chính quy) và quyền được có mức sống đầy đủ cho sự phát triển về thể lực,
trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ. Quyền được chăm sóc sức khoẻ, được
học tập và phát triển năng khiếu. Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ
thuật, thể dục thể thao, du lịch.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 14
Khóa luận tốt nghiệp
Quyền được tham gia hoạt động xã hội: Bao gồm quyền được bày tỏ ý kiến
trong mọi vấn đề có liên quan tới bản thân, quyền được lắng nghe và được kết giao
hội họp. Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
1.2.5. An sinh xã hội
Có nhiều khái niệm an sinh xã hội như:
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO)
“An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của
mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những
khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng
nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động
hoặc tử vong. An sinh xã hội cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình
nạn nhân có trẻ em” (ILO – 1984)[12].
Theo hiệp hội anh sinh thế giới (ISSA)
“An sinh xã hội giống như là sự chi phối kết hợp các thành tố (hợp phần)
của chính sách công, có thể điều chỉnh đáp ứng nhu cầu của người công nhân, cac
công dân trong bối cảnh toàn cầu với sự thay đổi về kinh tế, xã hội, nhân khẩu học
chưa từng xảy ra”[19].
Ngoài ra, còn có các đặc điểm về an sinh xã hội của Cơ quan phát triển Liên
Hợp Quốc (UNDP), Ngân hàng Thế giới (WB), các tài liệu của Nhật Bản, các tài

liệu của Hoa Kỳ, các chuyên gia Việt Nam. Trên cơ sở những khái niệm của các tổ
chức quốc tế, các chuyên gia Việt Nam trong các hội thảo, đã đúc kết để đưa ra một
khái niệm hoàn chỉnh hơn, phù hợp với về an sinh xã hội, nó bao gồm cái phổ biến
và cái đặc thù của Việt Nam như sau:
“An sinh xã hội là một hệ thống các cơ chế, chính sách giải pháp của nhà
nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi
ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập do
bị ốm đau thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không dòn sức lao động hoặc
vì các nguyên nhân khác rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa và cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách về
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội và trợ giúp đặc biệt ”[3].
Ngày nay, hệ thống an sinh xã hội không chỉ là phương tiện bảo trợ, tái phân
bổ thu nhập và trợ cấp để đảm bảo nhu cầu cơ bản cho người dân mà còn hướng vào
việc phòng chống và bảo vệ từng cá nhân trước những rủi ro và sự yếu thế.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 15
Khóa luận tốt nghiệp
Phương pháp tiếp cận mang tính đổi mới này được gọi là “Hệ thống an sinh
xã hội nằn động”, tập trug đầu tư vào yếu tố “Vốn con người”.
Mục tiêu chính của hệ thống an sinh xã hội năng động là phát triển dịch vụ
xã hội bền vững và dễ tiếp cận hơn, không chỉ chú trọng đến dịch vụ bảo trợ mà còn
tăng cường các biện pháp phòng tránh và hỗ trợ việc làm, mang lại hiệu quả cao
hơn về kinh tế, xã hội và hòa nhập cộng đồng tốt hơn.
1.2.6. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 - 6 - 2004 và công
lệnh số 14/2004/L-CN của Chủ tịch nước. Bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Những quy định chung về Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Điều 1. Trẻ em
Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
Điều 2. Phạm vi điểu chỉnh và đối tượng áp dụng

Điều 3. Giải thích từ ngữ
Điều 4. Không phân biệt đối xử đối với trẻ em
Điều 5. Trách nhiệm bảo vệ trẻ em, chăm sóc và giáo dục
Điều 6. Thực hiện các quyền của trẻ em
Điều 7. Các hành vi bị nghiêm cấm
Điều 8. Trách nhiệm quản lý Nàh nước về bảo vệ trẻ em, chăm sóc và giáo dục
Điều 9. Nguồn tài chính cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Điều 10. Hợp tác quốc tế về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em.
Điều 11. Quyền được khai sinh và có quốc tịch
Điều 12. Quyền được chăm sóc và nuôi dưỡng
Điều 13. Quyền sống chung với cha mẹ
Điều 14. Quyền được tôn trọng và bảo vệ cuộc sống của họ, cơ thể, nhân
phẩm và danh dự
Điều 15. Quyền được chăm sóc sức khỏe
Điều 16. Quyền đượchọc tập
Điều 17. Quyền có tài sản
Điều 18. Quyền phát triển năng khiếu
Điều 19. Quyền có tài sản
Điều 20. Quyền tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến tham gia các hoạt động xã hội
Điều 21. Nghĩa vụ của trẻ em
Điều 22. Những điều không phải được thực hiện bởi trẻ em
Trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Điều 23. Trách nhiệm đăng ký khai sinh
Điều 24. Trách nhiệm chăm sóc và nuôi dưỡng
Điều 25. Trách nhiệm đảm bảo rằng trẻ em sống với cha mẹ
SVTH: Nguyễn Thị Lành 16
Khóa luận tốt nghiệp
Điều 26. Trách nhiệm bảo vệ đời sống của trẻ em, cơ thể, nhân phẩm và
danh dự

Điều 27. Trách nhiệm bảo vệ sức khỏe trẻ em
Điều 28. Trách nhiệm bảo đảm quyền của trẻ em để nghiên cứu
Điều 29. Trách nhiệm đảm bảo điều kiện vui chơi giải trí trẻ em, giải trí, văn
hóa, nghệ thuật, đào tạo vật lý, thể thao và các hoạt động du lịch
Điều 30. trách nhiệm đảm bảo quyền phát triển năng khiếu
Điều 31. trách nhiệm đảm bảo các quyền dân sự
Điều 32. trách nhiệm đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến
và tham gia hoạt động xã hội
Điều 33. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em
Điều 34. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
Điều 35. Trách nhiệm của cơ quan thông tin tuyên truyền
Điều 36. Trách nhiệm của cơ quan thông tin tuyên truyền
Điều 37. Trách nhiệm của Nhà nước
Điều 38. Bảo trợ các hoạt động vì sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Điều 39. Quỹ bảo trợ trẻ em
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Điều 40. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Điều 41. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Điều 42 Chính sách của Nhà Nước đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Điều 43. Các hình thức hỗ trợ cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Điều 44. Điều kiện thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em
Điều 45. Hồ sơ của ứng dụng để thiết lập cơ sở trợ giúp trẻ em
Điều 46. Thời gian cấp giấp phép thành lập cơ sở trợ giúp trẻ em
Điều 47. Thẩm quyền thành lập, đình chỉ hoạt động và thu hồi giấp phép
hoạt động của cơ sở trợ giúp trẻ em
Điều 48. Nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ sở hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn
Điều 49. Kinh phí hoạt động của các cơ sở hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Điều 50. Hoạt động dịch vụ của cơ sở trợ giúp trẻ em

Điều 51. Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa và trẻ em bị bỏ rơi
Điều 52. Trẻ em khuyết tậ, trẻ em khuyết tật và trẻ em là nạn nhân của hóa
chất độc hại
Điều 53. Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS
Điều 54. Trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc những công việc
tiếp xúc với các chất độc hại, trẻ em làm việc xa gia đình
Điều 55.Trẻ em lang thang
Điều 56. Trẻ em bị xâm hại tình dục
Điều 57. Trẻ em nghiện ma túy
SVTH: Nguyễn Thị Lành 17
Khóa luận tốt nghiệp
Điều 58. Trẻ em vi phạm
Điều khoản thi hành
Điều 59. Hiệu lưc thi hành
Điều 60. Hướng dẫn thi hành
1.2.7. Công ước về quyền trẻ em
Công ước Quốc tế của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em được Thông qua
ngày 20-11-1989 tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc. Công ước có hiệu lực từ ngày
2-9-1990 và là một văn bản “mở” cho các nước tham gia (không bắt buộc). Việt
Nam là một trong những nước đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Công ước này vào
ngày 20-2-1990.
Công ước về quyền trẻ em được dựa trên Hiến chương của Liên Hợp Quốc,
công nhận con người có quyền bình đẳng. Trong Tuyên ngôn Thế giới về Quyền
con người và các công ước quốc tế về quyền con người, Liên Hợp Quốc đã công bố
và thoả thuận rằng mọi người đều có quyền và tự do nêu ra trong các văn kiện đó
mà không bị bất cứ một sự phân biệt đối xử nào như chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội,
tài sản, dòng dõi hoặc mối tương quan khác.
Liên hợp quốc cho rằng trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt,
để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trên

môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông.
Trên tinh thần đó, Công ước về quyền Trẻ em hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn
cho các em, những chủ nhân tương lai của Trái đất.
Gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát
triển và hạnh phúc của mọi thành viên, nhất là trẻ em, cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần
thiết để có thể đảm đương được đầy đủ trách nhiệm của mình trong cộng đồng.
Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng
thành trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và
thông cảm.
Trẻ en cần được chuẩn bị đầy đủ để sống cuộc sống cá nhân trong xã hội và
cần được nuôi nấng, giáo dục theo tinh thần các lý tưởng được nêu ra trong Hiến
Chương Liên hợp quốc, nhất là theo tinh thần hòa bình, phẩm giá khoan dung, tự
do. Bình đẳng và đoàn kết.
Các điều khoản của Tuyên ngôn về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên
quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt đối với việc thu xếp nuôi con nuôi
ở trong và ngoài nước; những quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về quản lý tư
SVTH: Nguyễn Thị Lành 18
Khóa luận tốt nghiệp
pháp người chưa thành niên và Tuyên ngôn về bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong trường
hợp khẩn cấp hoặc xung đột vũ trang.
Ở tất cả các nước trên thế giới, vẫn còn những trẻ em sống trong những điều
kiện khó khăn khác thường nà những trẻ em cần được quan tâm đặc biệt.
Đánh giá đúng tầm quan trọng của các truyền thống và giá trị văn hóa của
mỗi dân tộc nhằm bảo vệ và phát triển hài hòa trẻ em.
Tầm quan trọng của sự hợp tác quốc tế đối với việc cải thiện đời sống của trẻ
em ở mọi nước, đặc biệt ở các nước đang phát triển.
1.2.8. Các quan điểm, chủ trương của Đảng liên quan đến vấn đề xâm hại thể
chất trẻ em
Trong những năm qua, công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em của Việt Nam đã
đạt được những kết quả nhất định và được quốc tế ghi nhận, nhất là ở cấp độ luật

pháp. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn
Công ước quốc tế về quyền trẻ em và cam kết quốc tế này được thể hiện qua việc
ban hành Luật bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Đảng và Nhà nước ta đưa công tác “Đấu tranh phòng tránh tội phạm xâm
hại thể chất trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật” thành một trong
những nội dung trọng tâm của chương trình quốc gia phòng chống tội phạm. Đồng
thời hệ thống pháp luật cũng đã quy định rõ những điều khoản để xử lý nghiêm
khắc đối với các hành vi xâm hại thể chất trẻ em như: Xử lý các hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của trẻ em; các hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em, mại
dâm trẻ em, bỏ rơi, mua bán trẻ em…
Với tinh thần “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”, Đảng và Nhà nước luôn
mong muốn những điều tốt đẹp cho trẻ em. Điều này được minh chứng bằng những
chính sách ưu tiên đối với trẻ em qua một số chương trình, Quyết định, Chỉ thị, liên
quan đến trẻ em như:
Thực hiện quyết định 19 về ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang
thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều
kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 – 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt ngày 12/2/2004. Tuy thời gian qua, các cơ quan, bộ ngành liên quan đã có
nhiều biện pháp tuyên truyền, phòng ngừa nhưng tình trạng trẻ em bị xâm hại thể
chất vẫn đang có chiều hướng gia tăng. Những nguyên nhân chủ yếu là do khoảng
cách khá lớn giữa nhận thức của người dân về pháp luật, thêm vào đó việc hướng
SVTH: Nguyễn Thị Lành 19
Khóa luận tốt nghiệp
dẫn các em những kỹ năng bảo vệ, phòng ngừa xâm hại thể chất vẫn còn hạn chế,
dẫn tới tình hình trẻ em bị xâm hại thể chất diễn biến nhanh và phức tạp.
Góp một phần quan trọng vào việc truyên truyền phòng chống xâm hại thể
chất trẻ em, các cơ quan thông tin đại chúng đã được nhắc đến như một công cụ hữu
hiệu để chống lại tình trạng này. Hội thảo đã thống kê được 52 chuyên mục, 170
chuyên trang, 14 phóng sự, 198.000 phụ trương và 565 tin bài trên các báo và 287
chuyên mục, 43 cuộc nói chuyện, 2.697 tin, bài, 202 chương trình phát thanh măng

non với tổng cộng 2.180 lần phát sóng với chu kỳ 1 – 2 lần / tháng, thời lượng từ 15
– 30 phút trên Đài Phát thanh và Truyền hình các địa phương.
Gần 1.500 tờ rơi, hàng trăm ngàn tài liệu và ấn phẩm truyền thông bao gồm
sách luật, tập san, báo chí, bản tin; hàng chục ngàn đĩa VCD, DVD, băng cát-sét…
được phát tới các đối tượng là trẻ em, cha mẹ trẻ em, cộng tác viên, tình nguyện
viên… Bên cạnh đó, các cuộc thi với nhiều nội dung khác nhau về Quyết định 19,
về Quyền trẻ em, Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em và Diễn đàn “Tiếng nói trẻ thơ
”[1, 5]… thu hút đông đảo trẻ em và các gia đình tham dự… Nhờ đó, người dân đã
quan tâm nhiều hơn về vấn đề xâm hại thể chất đối với trẻ em.
Thực hiện Đề án “Ngăn chặn và giải quyết tình trạng trẻ em bị xâm hại tình
dục giai đoạn 2004 – 2010”, BLĐTB và XH đã chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí cho 22 địa
phương xây dựng kế hoạch triển khai. Bộ này cùng các ban, ngành hữu quan và chính
quyền địa phương thời gian qua phối hợp với các tổ chức quốc tế, tranh thủ hỗ trợ kỹ
thuật, tài chính. Qua đó, giúp tăng cường công tác phòng, chống xâm phạm tình dục
trẻ em lồng ghép với công tác phòng, chống buôn bán trẻ em và phụ nữ.
Một số hoạt động đã được triển khai có hiệu quả như phối hợp với Quỹ Nhi
đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) tại Việt Nam tổ chức hội thảo và tập huấn cho cán
bộ địa phương làm công tác phòng, chống xâm phạm tình dục trẻ em, khảo sát và
nghiên cứu với tổ chức Di cư quốc tế (IOM) về thực trạng công tác tiếp nhận trẻ
em, phụ nữ bị buôn bán từ nước ngoài trở về cũng như dịch vụ hỗ trợ nạn nhân tại
cộng đồng tại các tỉnh Lào Cai, Quảng Ninh, An Giang và TP Hồ Chí Minh đã được
triển khai.
Mô hình thí điểm tại cộng đồng phòng, chống xâm phạm tình dục trẻ em bước
đầu triển khai tại 129 xã, phường ở 22 tỉnh, thành phố. Tiêu biểu như ở An Giang đã
triển khai tại 22 xã, phường; ở Lào Cai tại tám xã thuộc huyện Bảo Thắng… Thông
qua mô hình nói trên, có nhiều hoạt động hỗ trợ trực tiếp đối tượng nạn nhân trẻ em
như tư vấn, hỗ trợ sách vỡ, khám chữa bệnh, dạy nghề, tạo việc làm.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 20
Khóa luận tốt nghiệp
Trong hai năm qua, đã có hơn 800 trẻ em nạn nhân và 1.200 trẻ em có nguy

cơ bị xâm hại tình dục được hỗ trợ dưới nhiều hình thức; các vụ phạm tội được xét
xử kịp thời, đối tượng phạm tội bị pháp luật xử lý nghiêm minh.
Việt Nam đã tham gia nhiều văn kiện quốc tế liên quan bảo vệ trẻ em, phòng,
chống buôn bán người và di cư bất hợp pháp như Công ước của Liên Hợp quốc về
quyền trẻ em và Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho công ước này về chống
buôn bán và mại dâm trẻ em. Trong Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng có nhiều điều
luật liên quan phòng, chống buôn bán người, tội phạm xâm hại trẻ em; quy định chi
tiết với nhiều mức hình phạt nghiêm khắc khác nhau như tội hiếp dâm trẻ em (hình
phạt cao nhất tử hình), tội cưỡng dâm trẻ em; tội mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ
em (hình phạt cao nhất là chung thân)… Các chương trình, kế hoạch hành động
quốc gia liên quan hoạt động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em; lạm
dụng tình dục trẻ em, với những mục tiêu, giải pháp cụ thể cũng được Nhà nước
quan tâm, huy động sự tham gia của các ngành, đoàn thể và toàn xã hội theo chức
năng và nhiệm vụ được giao; trong đó công tác phòng ngừa, tuyên truyền giáo dục,
kết hợp chặt chẽ với đấu tranh xử lý, tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Điển hình, Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ
trẻ em giai đoạn 2004 – 2010; Chương trình Quốc gia phòng, chống tội phạm xâm
hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên. Chương trình hành động
quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 – 2020 với mục tiêu là “Xây dựng môi trường
sống an toàn, thân thiện và lành mạnh để thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền
của trẻ em. Từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về điều kiện sống giữa các
nhóm trẻ em và trẻ em giữa các vùng, miền. Nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo
cơ hội phát triển bình đẳngcho mọi trẻ em ”.
Các mục tiêu cụ thể của chương trình là:
Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 26%
vào năm 2015 và xuống còn 23% vào năm 2020; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ
cân ở trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 15% vào năm 2015 và xuống 10% vào năm
2020. Duy trì trên 95% trạm y tế xã có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi đến năm 2020.
Hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm
2015; đến năm 2020, có ít nhất 30% trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ và 80% trẻ em

trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non.
Đến năm 2020, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học là 99% và ở bậc trung học
SVTH: Nguyễn Thị Lành 21
Khóa luận tốt nghiệp
cơ sở là 95%, trong đó đặc biệt quan tâm đến trẻ em dân tộc ít người, trẻ em
khuyết tật.
Giảm tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt xuống dưới 5,5% tổng số trẻ em vào
năm 2015 và xuống 5% vào năm 2020; tăng tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được
trợ giúp, chăm sóc để phục hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển lên 80% vào
năm 2015 và lên 85% vào năm 2020; số trẻ em bị bạo lực giảm 20% vào năm 2015
và giảm 40% vào năm 2020; giảm tỷ suất trẻ em bị tai nạn, thương tích xuống
550/100.000 trẻ em vào năm 2015 và xuống 450/100.000 trẻ em vào năm 2020.
Tăng số xã, phường có điểm vui chơi dành cho trẻ em đạt tiêu chuẩn lên 50%
vào năm 2015 và lên 55% vào năm 2020.
Tăng tỷ lệ trẻ em tham gia diễn đàn trẻ em các cấp lên 20/100.000 trẻ em vào
năm 2015 và lên 25/100.000 trẻ em vào năm 2020.
Tăng tỷ lệ xã, phường đạt tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em lên 70%
vào năm 2015 và lên 80% vào năm 2020.
Chương trình có các hoạt động như tổ chức các chiến dịch, sự kiện truyền
thông, vận động xã hội tham gia thực hiện quyền trẻ em, như Tháng hành động vì
trẻ em, Ngày toàn dân đưa trẻ em đến trường, Ngày vi chất dinh dưỡng trẻ em, Diễn
đàn trẻ em quốc gia; các dự kiện văn hóa, thể thao. Hỗ trợ trẻ em tổ chức các sự
kiện, hoạt động truyền thông cho trẻ em và thực hiện quyền, bổn phận của trẻ em.
Bên cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách phúc lợi
cho trẻ em theo hướng mở rộng đối tượng trẻ em được hưởng lợi trong các lĩnh vực
y tế, giáo dục, trợ giúp xã hội, vui chơi, giải trí, thể thao, du lịch, thông tin, truyền
thông và thực hiện quyền tham gia của trẻ em.Khuyến khích các tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, gia đình, cộng
đồng, người dân và trẻ em tham gia bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; cung cấp
dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục, vui chơi, giải trí, thể thao, du lịch, thông tin và

truyền thông cho trẻ em.
Gia đình, cộng đồng, nhà trường có trách nhiệm tham gia thực hiện các
quyền của trẻ em, tạo mọi điều kiện cho trẻ em được học tập, chăm sóc sức khỏe,
vui chơi, giải trí. Củng cố Quỹ bảo trợ trẻ em để tăng cường vận động nguồn lực
thực hiện Chương trình, ưu tiên trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em (CTHĐQGVTE) giai đoạn 2012-
2020 là chương trình chu kỳ 10 năm lần thứ 3. Qua kết quả thực hiện của hai chu kỳ
trước, các đại biểu đã thảo luận, đúc rút những bài học kinh nghiệm. Đó là:
SVTH: Nguyễn Thị Lành 22
Khóa luận tốt nghiệp
Thứ nhất, CTHĐQGVTE là kế hoạch mang tính chiến lược và định hướng,
không có nguồn ngân sách đầu tư trực tiếp để thực hiện các mục tiêu, nên kết quả
thực hiện chương trình phụ thuộc vào sự lồng ghép nội dung hoạt động và chỉ tiêu
trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm.
Thứ hai, Chương trình là sự điều phối liên ngành của Chính phủ nhưng đôi
khi vẫn được nhận thức là chương trình của cơ quan được Thủ tướng giao chức
năng chủ trì, phối hợp thực hiện nên thiếu sự đôn đốc, kiểm tra trực tiếp của Thủ
tướng, thiếu một tổ chức có chức năng và quyền hạn phối hợp liên ngành mạnh, nên
chỉ những mục tiêu thuộc chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của một Bộ mới có nhiều
khả năng đạt được. Những mục tiêu cần sự phối hợp liên ngành như mục tiêu bảo
vệ trẻ em khó đạt hơn.
Thứ ba, vì lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và thực hiện quyền
trẻ em xuyên suốt chức năng của nhiều ngành, lĩnh vực nên các vấn đề về nội dung,
mục tiêu của chương trình vừa phải mang tính tổng thể, vừa mang tính trọng tâm,
đột phá. Bên cạnh các chiến lược ngành, các chương trình mục tiêu quốc gia và
chương trình quốc gia có liên quan đến trẻ em, cần có những chương tình, đề án để
giải quyết những vấn đề cấp bách, mới xuất hiện hoặc những khoảng trống về chính
sách, đầu tư, ảnh hưởng đến cuộc sống của trẻ em.
Thứ tư, trước những đòi hỏi cao của việc đáp ứng quyền trẻ em, của chất
lượng con người và nguồn nhân lực mang tính cạnh tranh ngày càng cao, ngân sách

Nhà nước thường khó đáp ứng được đầy đủ. Do vậy, cần vận động sự tham gia rộng
rãi của các tổ chức xã hội, của cộng đồng, hướng các hoạt động xã hộ và từ thiện vì
trẻ em vào thực hiện các mục tiêu của chương trình.
Thứ năm, việc đánh giá, giám sát thực hiện Chương trình phải gắn chặt với
đánh giá, giám sát thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội ngành và địa phương. Việc
xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu về quyền trẻ em và thực hiện chương trình có
sự chia sẻ, cập nhật, phối hợp thông tin đa cấp, đa ngành sẽ làm cho việc giám sát,
đôn đốc thực hiện và đánh giá hiệu quả Chương trình tốt hơn.
Trên thế giới, các cơ quan tổ chức chuyên trách về bảo vệ trẻ em nhiều nước
đã được thành lập và hoạt động có hiệu quả. Vì vậy, việc thành lập Đội Cảnh sát
chuyên phòng, chống tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em, trực thuộc Cục Cảnh sát
điều tra tội phạm về TTXH (Tổng cục cảnh sát, Bộ Công an) là rất cần thiết, từ đó
sẽ có lực lượng đủ mạnh để tham mưu, đấu tranh, ngăn chặn loại tội phạm này.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 23
Khóa luận tốt nghiệp
Không chỉ dừng ở đó mà Đảng và Nhà nước ta đã phê duyệt và triển khai
Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015 để đẩy mạnh hơn nữa
việc phòng ngừa giải quyết tình trạng xâm hại thể chất trẻ em, bóc lột trẻ em; tình
trạng trẻ em vi phạm pháp luật, tình trạng tảo hôn, sử dụng văn hóa phẩm khiêu
dâm trẻ em, mua bán bắt cóc trẻ em, hạn chế trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và
giảm tỷ lệ trẻ em HCĐB so với tổng số trẻ em. Trợ giúp trẻ em HCĐB tái hòa nhập
cộng đồng, tạo cơ hội phát triển cho các em và đảm bảo ngày càng nhiều trẻ em
HCĐB được chăm sóc vào năm 2015. Với những hoạt động cơ bản sau đây:
• Truyền thông, giáo dục, vận động xã hội nhằm nâng cao nhận thức và thay
đổi hành vi của gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội, các cơ quan nhà nước và
chính trẻ em về quyền được bảo vệ và sự an toàn của trẻ em thông qua việc xây
dựng môi trường an toàn, thân thiện, phòng ngừa trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt
và bị tổn thương.
• Tập trung vào tổ chức các chiến dịch truyền thông, nghiên cứu, xây dựng
và phát triển các chương trình, sản xuất các sản phẩm truyền thông về bảo vệ trẻ em

cho các kênh truyền thông đại chúng và các hoạt động tư vấn, truyền thông trực tiếp
tại cộng đồng, trường học bảo vệ trẻ em có sự tham gia của cộng đồng, các thành
viên gia đình, giáo viên và trẻ em.
• Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em các cấp, cộng tác viên thôn, bản và tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp xã.
Dự án này tập trung vào các hoạt động như khảo sát nhu cầu đào tạo, nghiên
cứu chương trình đào tạo, giám sát kết quả đào tạo; tổ chức tập huấn cho cán bộ cấp
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và cộng tác viên thôn, bản làm công tác bảo
vệ chăm sóc trẻ em về kỹ năng lập kế hoạch và triển khai chương trình
• Xây dựng và phát triển hệ thống cung cấp dịch vị bảo vệ trẻ em nhằm
hướng tới mục tiêu 50% tỉnh, thành phố xây dựng được hệ thống cung cấp dịch vụ
bảo vệ trẻ em ít nhất ở 3 huyện, trong đó có Ban chỉ đạo và nhóm công tác liên
ngành cấp tỉnh, trung tâm công tác xã hội với trẻ em cấp tỉnh, ban chỉ đạo, văn
phòng tư vấn, nhóm công tác liên ngành cấp huyện; Ban bảo vệ trẻ em, nhóm công
tác liên ngành cấp xã; điểm tham vấn ở cộng đồng, trường học, mạng lưới cộng tác
viên thôn, bản về bảo vệ trẻ em và nhóm trẻ nòng cốt. Vận hành cung cấp dịch vụ,
chuyển tuyến và kết nối dịch vụ bảo vệ trẻ em có hiệu quả.
• Xây dựng và nhân rộng các mô hình trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
dựa vào cộng đồng nhằm thực hiện mục tiêu 80% trẻ em khuyết tật được tiếp cận
SVTH: Nguyễn Thị Lành 24
Khóa luận tốt nghiệp
với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình và phục hồi chức năng, giáo dục và
các dịch vụ công cộng; 100% số trẻ em bị bỏ rơi, bị mồ côi do cha mẹ chết vì AIDS
được chăm sóc bởi gia đình thay thế hoặc cộng đồng; Giảm 10% trẻ em lang thang
so với đầu kỳ; Giảm 30% trẻ em lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm; Hàng năm giảm 10% trẻ em bị bạo lực, xâm hại tình dục; Giảm tỷ lệ trẻ em vi
phạm pháp luật xuống dưới 7/10.000.
• Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em nhằm
hướng đến mục tiêu:

Một số quy định, điều luật trong các văn bản quy phạm pháp luật được sửa
đổi theo hướng thân thiện với trẻ em và tăng cường tính phòng ngừa và bảo vệ trẻ
em; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi lần 2 theo hướng cụ thể hơn;
Chuẩn hóa hệ thống chỉ tiêu bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, làm cơ sở để giám
sát đánh giá kết quả thực hiện hàng năm và 5 năm, đồng thời xây dựng được cơ sở
dữ liệu bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phục vụ công tác quản lý các cấp.
Để thực hiện mục tiêu nêu trên đòi hỏi chương trình phải tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Triển khai đồng bộ các hoạt động từ việc truyền thông nâng cao nhận thức,
thay đổi hành vi về bảo vệ trẻ em, nâng cao năng lực cán bộ, phát triển hệ thống cung
cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, xây dựng các mô hình trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và tăng cường theo dõi, giám sát đánh giá.
Chủ động tham gia và đăng cai tổ chức sự kiện quốc tế và khu vực về bảo vệ
chăm sóc trẻ em. Trong đó, điều kiện tiền đề để thực hiện chương trình là Trung ương
và địa phương phải bố trí kinh phí, kiện toàn đội ngũ cán bộ, CTV thôn bản và thiết
lập cơ chế thực hiện chương trình phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của nước ta.
1.2.9. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến trẻ em ở thành phố Đông
Hà, tỉnh Quảng Trị
Đông hà có các phường với địa bàn đông dân cư khá phức tạp, bên cạnh đó
cha mẹ mải lo cho công việc làm ăn chưa quan tâm đúng mức tới con cái tạo, để
mặc các em cho người thân chăm lo chính điều này đã tạo điều kiện cho kẻ xấu xâm
hại thể chất trẻ em.
Một số phường chưa thực sự quan tâm các hoạt động dành cho trẻ em dẫn
đến hiệu quả thực hiện không cao.
Kinh phí để thực hiện triển khai các chương trình của Đảng và Nhà Nước
chưa được phát huy tối đa do các phường trong thành phố chưa thực hiện đầu tư
đúng chỗ dẫn đến không đạt kết quả như mong muốn.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 25

×