Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

oda với nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.25 KB, 46 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Việt
Nam đang dần bước gần tới mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 để trở thành một
nước công nghiệp. Nhìn lại chặng đường đã qua chúng ta đã đạt được những thành
tựu đáng tự hào: thu nhập bình đầu người đạt khoảng 1200 USD, bước vào hàng
ngũ các nước thu nhập trung bình, quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại với nhiều
nước được tăng cường và mở rộng, đặc biệt là với các đối tác quan trọng, lực
lượng doanh nghiệp phát triển nhanh, một số sản phẩm và doanh nghiệp khẳng
định được chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế. Để đạt được những
thành công đó bên cạnh sự khai thác hiệu quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ
trợ từ bên ngoài cũng đóng một vai trò quan trọng và trong đó viện trợ phát triển
chính thức ODA của các quốc gia và tổ chức quốc tế giữ vai trò chủ đạo. Thực tế
tiếp nhận, sử dụng vốn và thực hiện các dự án ODA thời gian qua cho thấy ODA
thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối với sự phát triển đất nước, ODA đã giúp
chúng ta tiếp nhận, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phát
triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng
kinh tế xã hội tương đối hiện đại. Tuy vậy, để đạt được mục tiêu trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa
các nguồn lực cho phát triển, trong đó không thể không nói đến ODA. Do đó, một
câu hỏi được đặt ra là liệu chúng ta có thể huy động được nhiều hơn và sử dụng
hiệu quả hơn nguồn vốn ODA không? Những giảp pháp cần được xúc tiến thực
hiện để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ODA?
Nhằm để giảp đáp được câu hỏi trên và có một cái nhìn sâu rộng, toàn diện hơn
về ODA, chúng tôi đã thực hiện đề tài “ ODA VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM”.
MỤC LỤC
I.Khái quát chung về nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA)
1.Khái niệm.
2.Lịch sử hình thành ODA
3.Đặc điểm
3.1.Ưu điểm
3.2.Nhược điểm.


4.Phân loại
5.Vai trò của nguồn vốn ODA đối với các nước chậm và đang phát
triển
II.Tổng quan về tình hình kinh tế Việt Nam
1.Tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam
2.Khái quát về số liệu ODA qua các năm
2.1 Tình hình cam kết ODA cho Việt Nam
2.2 Tình hình ký kết nguồn vốn ODA
2.3 Tình hình giải ngân
3.Cơ cấu phân bổ ODA
3.1. Cơ cấu ODA theo vùng
3.2. Cơ cấu ODA theo vùng
4.Thực tế về hiệu quả sử dụng ODA ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010
4.1 Các tiêu chí cơ bản và nguồn thông tin để đánh giá về hiệu quả sử
dụng ODA.
4.2. Kết quả đạt được
5.Những tồn tại và nguyên nhân.
5.1 Những mặt tồn tại
5.2 Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại này
6.Bàn thêm về vấn đề tham nhũng nguồn vốn ODA và thái độ
của chính phủ Việt Na
III.Nâng cao hiệu quả sử dụng ODA ở Việt Nam
1.Phương hướng sử dụng ODA
2.Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
2.1 Về cơ chế và chính sách
2.2 Về tổ chức xây dựng dự án
2.3 Về sử dụng ODA
2.4 Quy hoạch và phân bổ ODA
I. Khái quát chung về nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA)
1. Khái niệm.

ODA là tên gọi viết tắt của từ Tiếng Anh Official Development Assistance có
nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính thức.
ODA về thực chất là sự di chuyển thu nhập từ nước giàu ( nước phát triển) sang
cho các nước nghèo ( nước chậm và đang phát triển) với hình thức viện trợ không
hoàn vốn, viện trợ có hoàn vốn hoặc cho vay với lãi suất thấp trong thời gian dài.
2. Lịch sử hình thành ODA.
Nguồn vốn ODA bắt đầu xuất hiện sau cuộc chiến thế giới thứ II, lúc bấy giờ
các nước công nghiệp phát triển đã thỏa thuận về sự trợ giúp dưới dạng viện trợ
không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi cho các nước đang phát triển.
Tháng 12 năm 1960 tại Paris các nước đã ký thỏa thuận thành lập tổ chức hợp tác
kinh tế và phát triển (OECD). Ban đầu tổ chức này bao gồm 20 thành viên chủ chốt
trong việc cung cấp ODA song phương cũng như đa phương. Trong khuôn khổ
hợp tác phát triển, các nước OECD đã lập ra các ủy ban chuyên môn trong đó có
ủy ban hỗ trợ phát triển (DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh
tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. Tổ chức tài chính quốc tế WB ( ngân hàng thế giới)
đã được thành lập tại hội nghị về tài chính – tiền tệ tổ chức tháng 7 năm 1994 tại
Bretton Woods (Mỹ) với mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng trưởng phúc
lợi của các nước với tư cách như là một tổ chức trung gian về tài chính, một ngân
hàng thực sự với hoạt động chủ yếu là đi vay theo các điều kiện thương mại bằng
cách phát hành trái phiếu để rồi cho vay tài trợ đầu tư tại các nước.
Kể từ khi ra đời ODA đã trải qua các giai đoạn phát triển sau:
Trong những năm 1960 tổng khối lượng ODA tăng chậm, đến những năm 1970
và 1980 viện trợ từ các nước thuộc OEDC tăng liên tục. Đến giữa thập niên 80
khối lượng viện trợ đạt mức gấp đôi đầu thập niên 70. Cuối những năm 1980 đến
những năm 1990 vẫn tăng nhưng với tỷ lệ thấp. Năm 1991 viện trợ phát triển
chính thức đã đạt đến con số đỉnh điểm là 69 tỷ USD theo giá năm 1995. Năm
1996 các nước tài trợ OEDC đã dành 55,114 tỷ USD cho viện trợ bằng 0,25% tổng
GDP của các nước này, cũng trong năm này tỷ lệ ODA/GNP của các nước DAC
chỉ là 0,25% so với năm 1995 viện trợ của OECD giảm 3,768 tỷ USD. Trong
những năm cuối thế kỷ 20 và những năm đầu kỷ 21, ODA có xu hướng giảm nhẹ.

Riêng đối với Việt Nam kể từ khi nối lại quan hệ với các nước và tổ chức cung cấp
viện trợ vào 1993 thì các nước viện trợ vẫn ưu tiên cho Việt Nam ngay cả khi khối
lượng viện trợ trên thế giới giảm xuống.
3. Đặc điểm.
3.1. Ưu điểm
Vốn ODA có đặc tính là sự ưu đãi của các nước phát triển và các tổ chức kinh
tế đối với các nước đang và chậm phát triển, nhằm mục đích vừa giúp đỡ các nước
này phát triển vừa có lợi cho các nước viện trợ .
Ưu điểm dễ nhận thấy đầu tiên đó là việc nhận được viện trợ ODA không hoàn
vốn, khoản vay này thường lớn giúp các nước nghèo có được cơ hội để đầu tư, xây
dựng, phát triển đất nước, cải thiện và nâng cao đời sống con người, đưa các nước
chậm và kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu, các nước đang
phát triển thì thúc đẩy nhanh và thành công trên con đường công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Các khoản vay thường có lãi suất thấp, có khi là không có lãi
suất. Vốn ODA có thời gian trả nợ dài và thời gian ân hạn cũng dài. Nhìn chung thì
nguồn vốn ODA mang lại rất nhiều lợi ích cho các nước tiếp nhận.
3.2. Nhược điểm.
Các nước giàu khi viện trợ ODA thường gắn với những mục đích mang lại lợi
ích cho nước mình như là mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm
bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Chính vì
vậy, khi viện trợ hoặc cho vay họ thường đưa ra các điều kiện ràng buộc nhất định,
các ràng buộc này có thể là ràng buộc một phần hoặc toàn bộ nền kinh tế, xã hội
thậm chí là chính trị (những mục tiêu đưa ra ràng buộc này thay đổi cùng với tình
hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).
Nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các
ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ,
đồng thời từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới
của nước tài trợ; có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như
cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
Các điều kiện ràng buộc cũng thường gắn với việc mua sắm các sản phẩm và

thiết bị từ các nước tài trợ mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần
thiết đối với các nước nhận tài trợ. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo,
lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm
đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia,
cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy
trên thị trường lao động thế giới).
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông
thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước
viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp
dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Tỷ giá hối đoái cũng là một yếu tố có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn
lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu
hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu
kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến
cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp
có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
4. Phân loại
Dựa vào đặc điểm của nguồn vốn ODA chúng ta có các cách phân loại như sau:
♦Theo hình thức cung cấp nguồn vốn ODA
o Viện trợ không hoàn vốn: đây là hình thức cung cấp vốn ODA mà các nước
tiếp nhận không phải hoàn trả lại vốn cho các Nhà tài trợ.
o Cho vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): đây là khoản vay luôn có 2
phần, phần 1 là phần vốn mà nước tiếp nhận được cho không chiếm ít nhất 35%
tống vốn vay; phần còn lại là phần không có lãi suất hoặc có lãi suất nhưng rất
thấp dưới 3% (trung bình 1-2%/năm) thời gian trả nợ dài 25-40 năm, thời gian ân
hạn 8-10 năm.
o Cho vay hỗn hợp: đây là hình thức mà các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc
các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương
mại, trong đó “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có

ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
♦Theo mục đích cung cấp vốn ODA.
o Mục đích hỗ trợ cơ bản: Là dùng những nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.
o Mục đích hỗ trợ kỹ thuật: Là dùng những nguồn lực vào việc chuyển giao tri
thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu
tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực… Hình thức hỗ trợ này chủ yếu
là viện trợ không hoàn lại.
♦Theo điều kiện ràng buộc
o ODA không ràng buộc: Là việc các nước tiếp nhận sử dụng nguồn tài trợ mà
không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
o ODA có ràng buộc : Có nghĩa là nước nhận viện trợ khi sử dụng nguồn tài trợ
sẽ bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng như phải mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hay
dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở
hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương) hoặc các công ty của các
nước thành viên (đối với viện trợ đa phương) hoặc bởi mục đích sử dụng như chỉ
được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
♦Theo nguồn viện trợ
o ODA song phương: là nguồn vốn ODA của Chính phủ một nước cung cấp cho
Chính phủ nước tiếp nhận. Thông thường vốn ODA song phương được tiến hành
khi một số điều kiện ràng buộc của nước cung cấp vốn ODA được thoả mãn.
o ODA đa phương: là nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp cho
Chính phủ nước tiếp nhận. So với vốn ODA song phương thì vốn ODA đa
phương ít chịu ảnh hưởng bởi các áp lực thương mại, nhưng đôi khi lại chịu
những áp lực mạnh hơn về chính trị.
♦Theo phương thức cung cấp ODA
o ODA hỗ trợ cho dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án
cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc
cho vay ưu đãi.
o ODA phi dự án trong đó bao gồm các loại hình sau:

+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao
tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hóa được
chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ ngân sách.
+ Hỗ trợ trả nợ (hỗ trợ ngân sách).
o ODA hỗ trợ chương trình: là khoản vốn ODA dành cho một mục đích tổng
quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ
được sử dụng như thế nào.
5. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với các nước chậm và đang
phát triển.
Dựa vào đặc điểm và lợi ích mà nguồn vốn ODA mang lại cho các nước chậm
và đang phát triển ta có thể thấy được bốn vai trò chủ yếu của ODA như sau:
♦ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Các nước tiếp nhận ODA thường là các nước có thu nhập thấp, dưới mức trung
bình theo chuẩn của Liên hiệp quốc hay còn gọi là các nước chậm và đang phát
triển. Năm 2005 theo tài liệu của UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc),
hiện nay có 20% dân số thế giới sống mỗi ngày chỉ có 1USD. Do vậy, nguồn vốn
ODA trở nên rất cần thiết cho các nước nhận viện trợ trong việc phát triển kinh tế,
xã hội nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Những lĩnh vực
được đầu tư nhiều nhất bằng ODA là đó là phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật và xã hội, y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, ô nhiễm
môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần con người.
♦ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và
phát triển nguồn nhân lực.
Đối với các nước đang phát triển đi theo con đường công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước thì yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành tựu
khoa học tiên tiến đó của đội ngũ lao động là rất quan trọng. Thông qua các dự án
ODA của các nhà tài trợ sẽ giúp cho các nước nhận viện trợ nâng cao trình độ khoa
học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: các nước tài trợ sẽ cung cấp các
tài liệu kĩ thuật, tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia
nước ngoài, cử các cán bộ nước tiếp nhận viện trợ đi học ở nước ngoài, tổ chức các

chương trình tham quan học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, được làm
việc trực tiếp với các chuyên gia nước ngoài, được cung cấp trực tiếp những thiết
bị kĩ thuật, dây chuyền công nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án. Thông qua
những hoạt động trên các nước tiếp nhận có thể nâng cao trình độ khoa học, công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực, đây là lợi ích căn bản và lâu dài của các nước
chậm và đang phát triển.
♦ODA giúp điểu chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng cân đối và phát triển.
Với việc đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế kĩ thuật, phát triển nguồn nhân lực
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau,
một số dự án còn giúp cải cách hành chính nâng cao hiệu quả việc quản lí của các
cơ quan nhà nước. Tất cả các điều đó góp phần vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế
của nước tiếp nhận viện trợ.
♦ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư
phát triển.
Khi nhà đầu tư nước ngoài quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước nào đó,
trước hết họ sẽ nghĩ đến khả năng sinh lời tại nước đầu tư. Chính vì vậy, những
yếu tố như giao thông, phương tiện thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp năng
lượng, hệ thống ngân hàng là những vẫn đề mà nhà đầu tư rất quan tâm. Điều này
làm cho chính phủ các nước phải cải thiện, nâng cấp, xây mới những yếu tố trên
nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn hơn và nguồn vốn ODA sẽ là nguồn bổ
sung quan trọng cho ngân sách nhà nước để thực hiện các hoạt động trên. Khi môi
trường đầu tư trở nên cải thiện hơn sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI, mặt khác,
còn tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình
sản xuất kinh doanh và có khả năng mang lại lợi nhuận.
Tóm lại ODA thực sự là một nguồn vốn bổ sung quan trọng đối với các nước
chậm và đang phát triển để họ xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao đời sống
con người.
II. Tổng quan về tình hình kinh tế Việt Nam
1. Tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam
Sau hơn 20 năm đổi mới từ 1986, Việt Nam không chỉ thoát khỏi tình trạng

khủng hoảng kinh tế trầm trọng mà còn có những bước tiến vượt bậc trong tình
hình chính trị đối ngoại cũng như trong việc xử lý các khoản nợ nước ngoài. Nền
kinh tế trong nước liên tục tăng trưởng, đời sống của nhân dân ngày càng được cải
thiện. Không những đạt được các thành tựu về mặt kinh tế mà các mặt của đời
sống văn hoá- xã hội, giáo dục, y tế cũng được nâng cao rõ rệt, tình hình chính trị
ổn định, an ninh- quốc phòng được giữ vững, các mối quan hệ hợp tác quốc tế
ngày càng được mở rộng, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu bằng
việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc, Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC, và nhiều Diễn đàn, tổ
chức quốc tế khác, Để đạt được những thành công đó, bên cạnh sự khai thác hiệu
quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng một vai trò
không thể thiếu trong quá trình phát triển của Việt Nam và trong đó viện trợ phát
triển chính thức (ODA) của các quốc gia và tổ chức quốc tế giữ vai trò chủ đạo.
Song song với những gì đạt được thì vẫn còn một số trở ngại lớn như: thể chế
kinh tế nước ta đang còn quá phức tạp, rườm rà khiến các nhà đầu tư e ngại khi đầu
tư vào Việt Nam. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân chưa đủ
mạnh để quản lý nền kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do
qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn
nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế
dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở
rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt,
những cái xấu cũng du nhập vào gây ảnh hưởng không tốt đến truyền thống văn
hóa Việt Nam.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang trở nên khó khăn. Vấn
đề nợ nần ngày càng cao mà chủ yếu 80% là nợ nước ngoài. Vấn đề lạm phát tăng
cao (khoảng 12-15%) khiến cho đại đa số nhân dân Việt Nam có thu nhập thấp
phải gánh chịu áp lực của giá cả thực phẩm gia tăng (số liệu 2006 ).
2. Khái quát về số liệu ODA qua các năm
2.1 Tình hình cam kết ODA cho Việt Nam

Từ năm 2005 đến năm 2010, cộng đồng tài trợ quốc tế đã cam kết cung cấp
nguồn ODA cho nước ta với tổng trị giá lên đến 31.09 tỷ USD (bao gồm các khoản
viện trợ không hoàn lại và các khoản vay ưu đãi).
Bảng 1: Số liệu cam kết ODA cho Việt Nam giai đoạn 2005-2010
Đơn vị: tỷ USD
Tổn
g số
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
201
0
31.
09
3.4
4
3.7
5
4.5 5.4
26
5.9
14
8.0

6
Với nguồn vốn ODA đã cam kết, Việt Nam tiến hành đàm phán với các nhà tài
trợ về các chương trình, dự án đã được hai bên thoả thuận. Tiến hành kiểm điểm lại
tình hình thực hiện các chương trình, dự án đã được tài trợ vốn trước đó, đánh giá
khả năng hấp thụ cũng như hiệu quả của quá trình thực hiện, nêu ra những khó
khăn và đề ra các giải pháp tháo gỡ vướng mắc. Sau đó thảo luận các chương trình,
dự án mới đăng ký sử dụng vốn.
Trên cơ sở danh mục chương trình, dự án đã được Chính phủ Việt Nam và nhà
tài trợ thống nhất, các cơ quan chủ quản các chương trình, dự án, chủ dự án và đối
tác nước ngoài tiến hành xây dựng tài liệu dự án đầu tư để trình các cơ quan thẩm
quyền phê duyệt. Theo sự phân công hiện nay, Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì
trong việc đàm phán các Hiệp định vay của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chủ
trì đàm phán các Hiệp định vay của các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, WB,
ADB).
2.2 Tình hình ký kết nguồn vốn ODA
Từ năm 2005 đến năm 2010, Việt Nam đã đàm phán và ký kết các hiệp định
vay nợ và viện trợ quốc tế lên đến ? triệu USD, đạt gần ? % so với tổng giá trị cam
kết.
Bảng 2: Bảng ký kết ODA giai đoạn 2005-2010
Chỉ tiêu Giá trị (triệu USD) Tỷ lệ với số cam kết(%)
2005 1853 53.9
2006 1800 48
2007 2000 44.44
2008 2200 40.55
2009 5850 98.9
2010
Tổng số
Nguồn:
Nhận xét:
Các nhà tài trợ chính:

2.3 Tình hình giải ngân
Theo số liệu thống kê, tổng số vốn ODA đã thực hiện trong thời kỳ 2006-2010
là14.2 tỷ USD chiếm trên ? % tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết trong thời kỳ
này và chiếm trên 40% so với tổng số vốn cam kết. Tình hình thực hiện qua các
năm cụ thể như sau:
Bảng 3: Giải ngân ODA giai đoạn 2005-2010
Đơn vị: tỷ USD
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng
1.7 1.8 2.0 2.2 3.0 3.5 14.2
Nguồn
Nhận xét:
3. Cơ cấu phân bổ ODA
3.1. Cơ cấu ODA theo vùng
Trong giai đoạn 2005-2010, tổng số dự án đã được triển khai thực hiện và hoàn
tất lên đến ? dự án
Năng lượng điện:
Năng lượng điện là một trong những lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế quan trọng
ở nước ta. Trong thời gian qua, một phần lớn nguồn ODA (khoảng 26% trên tổng
số vốn vay đã ký) được sử dụng cho các dự án trong ngành điện, bao gồm việc đầu
tư cho xây dựng và cải tạo các nhà máy phát điện để phát triển nguồn điện, hệ
thống đường dây tải điện, các trạm biến thế. Trong đó có nhiều nhà máy điện lớn
đã được xây dựng như: Phú Mỹ, Hàm Thuận- Đami, Sông Hinh, Đa Nhim, Phả
Lại, Ô Môn với tổng công suất lắp đặt chiếm hơn 40% tổng công suất điện nước ta.
Giao thông vận tải
Nhiều công trình giao thông huyết mạch của đất nước đã và đang được thực
hiện bằng nguồn vốn ODA như đầu tư cải tạo và nâng cấp hệ thống đường như Đại
lộ Đông Tây, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, Quốc lộ 10. Bên cạnh đó, vốn
ODA cũng đã được bố trí sử dụng cho việc cải tạo, khôi phục và xây dựng các cầu,
đường sắt, cảng biển, giao thông đường thuỷ, giao thông nông thôn và giao thông
đô thị Nhìn chung, việc sử dụng vốn để đầu tư xây dựng và cải tạo các công trình

giao thông là thiết thực và mang lại hiệu quả lâu dài trên tất cả các mặt kinh tế-xã
hội.
Nông nghiệp và phát triển nông thôn:
Nguồn vốn ODA chủ yếu dành cho phát triển nông nghiệp Việt Nam là các
khoản vay từ WB, ADB, AFD sử dụng cho các dự án, chương trình như tín dụng
nông thôn, khôi phục các công trình thuỷ lợi, hạ tầng nông thôn Do vậy đã góp
phần thay đổi cơ cấu sản xuất, tăng sản lượng lương thực, đẩy mạnh trồng rừng và
bảo vệ rừng, xoá đói giảm nghèo. Tính đến nay, tổng giá trị vốn đã ký theo các
Hiệp định vay cho lĩnh vực này khoảng 1,697 triệu USD. Ngoài ra, một phần quan
trọng của các khoản vay bằng tiền, ví dụ khoản vay điều chỉnh cơ cấu của WB
(SAC), chương trình nông nghiệp (ADB) đã được tập trung sử dụng cho lĩnh vực
nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Cải thiện việc cấp nước sinh hoạt, thoát nước và vệ sinh môi trường:
Tính đến nay, tổng trị giá vốn đã ký vay cho các dự án thuộc lĩnh vực này đạt
835 triệu USD, chiếm khoảng 7% vốn ODA đã ký. Nguồn vốn này đã được tập
trung cho cải tạo, nâng cấp và phát triển hệ thống cấp thoát nước ở tất cả các thành
phố, thị xã lớn trong cả nước; xây dựng nhiều nguồn nước sạch ở nông thôn; đầu
tư vào các dự án xử lý chất thải, thoát nước và vệ sinh môi trường tại một số thành
phố lớn, đông dân cư.
Lĩnh vực xã hội (y tế, dân số, giáo dục đào tạo ):
Song song với việc tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế, trong lĩnh vực xã
hội cũng đã chú trọng dành một phần ODA để thực hiện các chương trình, dự án
đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng xã hội trong các ngành y tế, giáo dục, dân số và
kế hoạch hoá gia đình Tổng trị giá vốn đã ký đạt 811 triệu USD, chiếm khoảng
6,8% vốn ODA đã ký, phân bổ cho các ngành như sau:
Hỗ trợ ngân sách, phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cải cách
doanh nghiệp nhà nước:
Ngân sách của Việt Nam trong thời gian qua đã được hỗ trợ khoảng hơn 1 tỷ
USD.
Ngoài ra, không thể không kể tới một loại hình quan trọng của hỗ trợ phát triển

chính thức đó là hỗ trợ kỹ thuật (TA), chiếm tỷ trọng đáng dể trong cơ cấu ODA
trong thời gian qua. Các dự án TA tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực cải cách kinh
tế vĩ mô và luật pháp, tăng cường năng lực, phát triển thể chế và cải cách hành
chính cho các cơ quan của Chính phủ, phát triển nguồn lực, thực hiện các nghiên
cứu cơ bản và chuẩn bị đầu tư. Các dự án TA đã có những đóng góp tích cực trong
việc tăng cường năng lực cho nhiều cơ quan hữu quan, mở rộng tầm nhìn và bổ
sung kiến thức trên nhiều lĩnh vực công nghệ, quản lý, kinh doanh cho đông đảo
quan chức của Chính phủ, các nhà quản lý kinh doanh trong tất cả các thành phần
kinh tế.
3.2. Cơ cấu ODA theo vùng
♦Vùng núi Bắc Bộ:
Nguồn vốn ODA đầu tư vào vùng núi Bắc Bộ đã tăng lên nhiều trong thời gian
qua, tuy nhiên vẫn còn thấp so với các vùng khác trong cả nước. Trong giai đoạn
2006-2010, tổng số vốn ODA đầu tư vào vùng này đạt trên 610,5 triệu USD.
Nguồn ODA này được tập trung đầu tư mới toàn bộ hệ thống cấp nước sạch cho
các tỉnh lỵ, nâng cấp cải tạo các bệnh viện tuyến tỉnh và chương trình y tế, năng
lượng nông thôn, thoát nước và vệ sinh môi trường, giáo dục, phục hồi hệ thống
giao thông nông thôn. Ngoài ra, phát triển nông nghiệp và nông thôn ở các tỉnh
miền núi Bắc Bộ cũng chiếm một khối lượng đáng kể nguồn vốn ODA vào vùng,
viện trợ cũng đã được cấp cho các dự án bảo vệ rừng và phát triển cộng đồng ở
vùng dân tộc ít người.
♦Vùng Tây Nguyên:
Mặc dù đã giảm tỷ lệ nghèo đói hơn trước nhưng Tây Nguyên vẫn là một trong
3 khu vực nghèo nhất của cả nước (Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Bắc Trung
Bộ). Có thể nói, Tây Nguyên là một trong những khu vực tiếp nhận ít nhất nguồn
vốn ODA. Tổng số đầu tư từ nguồn ODA chỉ vào khoảng 350 triệu USD, đặc biệt
gia tăng trong lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường, nông nghiệp phát triển
nông thôn. Hầu hết các dự án ODA đều là các khoản viện trợ không hoàn lại, dự án
có mức vốn lớn nhất là 31,5 triệu USD, nhỏ nhất là 0,19 triệu USD. Có thể thấy
các dự án ODA đã tạo ra một môi trường, sự hỗ trợ lớn cho phát triển kinh tế-xã

hội của các địa phương trong vùng còn ở mức độ khiêm tốn, công tác quản lý nhìn
chung tính chủ động chưa cao, hầu hết các dự án viện trợ có nội dung đều do các
nhà tài trợ nghiên cứu và thiết kế, tỷ lệ đầu tư ODA cho y tế, giáo dục, cải cách thể
chế còn ít.
♦Vùng đồng bằng Sông Cửu Long:
Nơi đây được coi là vùng sản xuất gần 47,5% sản lượng lúa của cả nước và là
vùng đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược an toàn lương thực quốc gia.
Vốn đầu tư từ nguồn ODA đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế-xã hội
trong toàn vùng. Nhìn chung, vốn ODA được phân bổ tương đối đồng đều giữa các
tỉnh trong vùng. Tuy nhiên, các chương trình, dự án trực tiếp do các tỉnh quản lý
mới chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu thông qua các Bộ, ngành Trung ương.
Việc quản lý đối với các dự án mặc dù có tiến bộ trong một vài năm lại đây, song
vẫn gặp nhiều khó khăn do sự phối hợp giữa các Bộ, ngành với địa phương chưa
đồng bộ, nhịp nhàng. Các dự án tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như năng lượng
(điện Ô Môn, Phú Mỹ, Hàm Thuận- Đami), giao thông vận tải Tuy nhiên, việc
phát triển mạng lưới giao thông, nhất là hệ thống giao thông thuỷ rất quan trọng
cho việc vận chuyển nông sản ở khu vực này vẫn đang rất cần được cải thiện và
đầu tư nhiều hơn nữa. Bên cạnh đó, cần tập trung đầu tư hơn nữa đối với hệ thống
thuỷ lợi, tưới tiêu, chế biến nông sản để gia tăng khối lượng sản phẩm và khả
năng cạnh tranh của hàng nông sản.
♦Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ:
Là địa bàn thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI và ODA) lớn nhất. Trong giai
đoạn 2006-2010, nguồn vốn ODA tập trung vào khu vực này trên 2,5 tỷ USD,
chiếm gần 30% tổng số vốn ODA đã được ký kết. Trong đó, các chương trình, dự
án trong vùng trực tiếp được thụ hưởng là 1,4 tỷ USD. Nguồn vốn ODA được phân
bổ cho các tỉnh trong vùng chưa được đồng đều, chủ yếu tập trung vào tam giác
kinh tế gồm 3 tỉnh Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Các tỉnh khác cho đến nay
chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số vốn ODA vào toàn vùng. Vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ là trung tâm kinh tế và chính trị của cả nước, là đầu mối giao lưu,
trao đổi hàng hoá trong khu vực, trong cả nước và quốc tế nên viện trợ của các nhà

tài trợ chủ yếu hướng vào nâng cấp và cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông, năng
lượng, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường, nâng cấp hệ thống y tế, giáo dục kỹ
thuật và dạy nghề
♦Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ:
Là vùng nằm trong khu vực thường xuyên bị thiên tai bão lụt. Tuy nhiên, với
sự giúp đỡ của Trung ương và nhân dân cả nước, đồng bào các tỉnh trong vùng đã
khắc phục khó khăn, từng bước khôi phục phát triển kinh tế và ổn định đời sống.
So với các vùng kinh tế trọng điểm khác, vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ không
có lợi thế về nhiều mặt, trong đó có nguồn vốn ODA. Trong giai đoạn 2006-2010
tổng số vốn ODA vào vùng chỉ được khoảng 600 triệu USD. Nguồn vốn này chủ
yếu được tập trung xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của các địa
phương. Các công trình cơ sở hạ tầng như giao thông, năng lượng, cấp nước đã
góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo. Các trường
học cho vùng bão lụt do Chính phủ Nhật Bản, Hàn Quốc, Na Uy tài trợ đã có tác
dụng rất lớn trong đợt lũ vừa qua. Các công trình này không chỉ là nơi vững chắc
cho học sinh học tập mà còn là nơi lánh nạn cho nhân dân vùng lũ. Là một trong 3
vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, hơn nữa lại là vùng nằm trong khu vực chịu
nhiều thiên tai nên trong thời gian qua các địa phương trong vùng đã cố gắng tranh
thủ thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, nhất là nguồn vốn ODA để thúc đẩy phát triển
kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA vào vùng này vẫn còn hạn chế mà
nguyên nhân chủ yếu là do thông tin về ODA chưa được phổ biến và kịp thời.
♦Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ:
Thời kỳ qua, nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân của cả nước đạt khoảng 7%
thì vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đạt trên 10%. Một trong những nguyên nhân
làm cho tốc độ tăng trưởng của vùng đạt nhanh thời gian qua là do đã tạo ra được
môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ đã thu hút một khối lượng
vốn ODA trị giá khoảng 1,1 tỷ USD. Các chương trình, dự án các tỉnh trong vùng
được thụ hưởng trực tiếp chiếm trên 33% tổng số vốn ODA cho toàn vùng, phần
còn lại thông qua các Bộ, ngành quản lý. Nguồn vốn này được tập trung chủ yếu

vào cơ sở hạ tầng như giao thông, năng lượng, cấp thoát nước và vệ sinh môi
trường nên đã đem lại hiệu quả nhất định, góp phần quan trọng vào việc phát
triển ổn định về kinh tế-xã hội của các tỉnh trong vùng.
Như vậy, có thể đánh giá chung là nguồn vốn ODA đã góp phần vào việc
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội trên các khu vực, thực hiện xoá đói giảm
nghèo, hỗ trợ sản xuất, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, tỷ lệ đầu tư vào các khu vực
không đồng đều, nhiều khu vực có điều kiện kinh tế-xã hội rất khó khăn thì tỷ lệ hỗ
trợ vốn ODA lại hạn chế (khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên ) nên đã làm
ảnh hưởng không nhỏ tới chính sách xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta
trong thời gian qua.
4. Thực tế về hiệu quả sử dụng ODA ở Việt Nam giai đoạn 2006 -
2010
4.1 Các tiêu chí cơ bản và nguồn thông tin để đánh giá về hiệu quả sử
dụng ODA.
Muốn giám sát tốt và đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả,
chúng ta cần có những tiêu chí đánh giá cụ thể và phù hợp với từng lĩnh vực, từng
ngành nghề. Tuy nhiên hiện nay các chuyên gia quốc tế cũng như Chính phủ Việt
Nam vẫn chưa thể đưa ra một hệ thống tiêu chí xác đáng mà đang trong quá trình
nghiên cứu xây dựng.
Trong kinh tế học, người ta thường dùng khái niệm hệ số ICOR (cần bao nhiêu
đơn vị vốn đầu tư để tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên 1 đơn vị) để đánh giá hiệu
quả đầu tư (cho tổng vốn đầu tư của toàn XH, chứ không chỉ riêng vốn ODA) của
1 quốc gia. Báo chí thì thường dùng tốc độ giải ngân, là tỉ lệ % vốn được giải ngân
trên tổng vốn ODA được Chính Phủ các nước và các Ngân hàng tài trợ cam kết…
Sau đây là một số cách phân chia tiêu chí đánh giá đang được đề xuất. Trước
hết ta sẽ phân loại các hình thức đánh giá để có được cách nhìn toàn diện hơn,
chuẩn xác hơn:
Đánh giá vĩ mô
Đánh giá vĩ mô là đánh giá hiệu quả của vốn ODA với sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế, với sự thay đổi các chỉ tiêu xã hội tổng thể.

Các chỉ tiêu đánh giá vĩ mô dựa trên ảnh hưởng của vốn ODA đối với:
- Tăng trưởng GDP
- Tăng mức GDP trên đầu người
- Tăng vốn đầu tư cho quốc gia
- Cải thiện điều kiện môi trường
- Các chỉ số xã hội: tỷ lệ giảm nghèo, tỷ lệ biết đọc biết viết, tỷ lệ tăng dân số,
tuổi thọ v.v
- Khả năng hấp thụ vốn ODA theo ngành
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế
- Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội
Đánh giá vi mô
Mục đích của đánh giá vi mô là nhằm xác định tính phù hợp, việc hoàn thành
các mục tiêu, hiệu quả phát triển, độ hiệu dụng, tác động và tính bền vững của dự
án. Việc đánh giá dự án nhằm cung cấp những thông tin hữu ích và đáng tin cậy,
giúp cho nhà tài trợ và nước tiếp nhận vốn có thể rút ra được những bài học trong
quá trình ra quyết định cho các chương trình, dự án đang thực hiện hoặc sẽ được
thực hiện trong tương lai.
Căn cứ vào chu trình dự án ta có thể phân loại đánh giá thành các loại như sau:
o Đánh giá khâu chuẩn bị dự án: từ khâu lập, trình duyệt Nghiên cứu khả thi,
chuẩn bị vốn, giải phóng mặt bằng,thành lập Ban quản lý dự án (BQLDA) v.v
o Đánh giá thực hiện dự án: đánh giá tiến độ thực hiện dự án, yếu tố, nguyên
nhân làm chậm tiến độ dự án, các chi phí tăng thêm (nếu có) làm giảm hiệu quả
của dự án so với tính toán ban đầu, những thay đổi của dự án trong quá trình thực
hiện so với Nghiên cứu khả thi ban đầu.
o Đánh giá cuối dự án: đánh giá kết quả của dự án và đánh giá tác động của dự
án.
Tóm lại đối với mỗi dự án chúng ta phải xác định các chỉ tiêu đánh giá
riêng. Các cơ quan có trách nhiệm thường xuyên phải đánh giá hiệu quả dự án,
chương trình, có thể ban hành một số chỉ số cơ bản để đánh giá từng loại dự án
trong từng lĩnh vực làm cơ sở cho cán bộ thực hiện đánh giá.

Tháng 3 năm 2000, ”Văn phòng đánh giá các hoạt động hỗ trợ phát triển”
thuộc Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản đã ban hành ”Tài liệu tham khảo về
chỉ số hoạt động và chỉ số ảnh hưởng”. Mục đích của tài liệu này là cung cấp công
cụ cho việc lựa chọn các chỉ số đánh giá hoạt động và đánh giá ảnh hưởng của các
dự án do JBIC tài trợ. Tài liệu này đã phân loại các dự án ODA do JBIC tài trợ
thành 19 loại điển hình như: Nhà máy nhiệt điện, nhà máy thuỷ điện, cảng, thông
tin, thuỷ lợi, phòng chống lũ lụt, nông nghiệp, lâm nghiệp, cung cấp nước, xử lý
chất thải, giáo dục, dịch vụ y tế và sức khoẻ, du lịch. Đối với mỗi loại dự án, Tài
liệu cung cấp các chỉ số đánh giá cụ thể gồm hai loại chỉ số là chỉ số hoạt động và
chỉ số ảnh hưởng. Đồng thời tài liệu cũng xếp loại các chỉ số theo mức độ quan
trọng trong công tác đánh giá dự án thành 3 loại A, B, C. Chỉ số loại A là quan
trọng nhất tiếp đó đến loại B, rồi đến loại C. Ví dụ, các chỉ số đánh giá dự án Nhà
máy nhiệt điện bao gồm:
Sản lượng điện ròng (kwh)
Nhu cầu điện giờ cao điểm (kw)
Tỷ lệ điện được sử dụng/số sản xuất ra (%)
Tỷ lệ số giờ hoạt động/tổng số giờ trong năm (%)
Lượng điện bán ra
Thu nhập
Các chỉ số khác
Đối với dự án đường bộ các chỉ số đánh giá bao gồm:
Lưu lượng giao thông (số ô tô chạy qua một điểm nhất định trong một thời gian
nhất định)
Tiết kiệm chi phí lái xe qua việc xây dựng và nâng cấp đường (bằng tiền): chi
phí sửa chữa thay thế, khấu hao, nhiên liệu.
Tiết kiệm thời gian vận chuyển (bằng tiền/giờ)
Giảm tai nạn giao thông (bằng tiền)
Các chỉ số khác
Ngoài ra, cũng cần chú y
́

rằng hiệu quả của một dự án ODA không chỉ thể hiện
ở nhà cửa, cầu đường, công trình mà còn là ở quá trình chuyển giao công nghệ, đào
tạo đội ngũ chuyên gia… Từ một dự án ODA, nếu muốn nguồn vốn đầu tư có được
giá trị lâu dài thì đội ngũ chuyên gia VN phải tích cực học hỏi, nắm được công
nghệ để sau này có thể làm lại được những công trình tương tự dựa trên chính khả
năng của bản thân mình.
Lấy ví dụ là dự án hầm đèo Hải Vân. Sau khi dự án kết thúc, điều quan trọng là
chúng ta phải học được công nghệ đào đường hầm trong nền đất yếu, bởi hàng loạt
những công trình khác sau này như đào hầm cho xe lửa tốc độ cao, xây dựng hầm
đèo Ngang chẳng hạn, đều có thể ứng dụng công nghệ tương tự. Hay như từ dự
án cầu Mỹ Thuận, cây cầu dây văng đầu tiên của Việt Nam, hoàn thành năm 2010
với sự giúp sức về kỹ thuật cũng như nguồn vốn chủ yếu của Australia, các kỹ sư
trong nước đã học được công nghệ làm cầu và áp dụng vào cho những công trình
cầu dây văng sau này, đặc biệt là cầu Rạch Miễu ( hoàn toàn do Việt Nam thiết kế
và thi công).
4.2. Kết quả đạt được
Hơn 20 năm kể từ Hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam họp tại Paris
diễn ra vào tháng 11.1993, đánh dấu mốc Việt Nam bắt đầu nhận viện trợ ODA,
nguồn vốn này đã trở thành một phần không thể thiếu được trong sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Sau khi nối lại quan hệ với các định chế tài chính quốc tế, đến nay đã có gần 50
nhà tài trợ đa phương và song phương cùng 350 tổ chức chính phủ với 1.500
chương trình, dự án dành cho Việt Nam. Đứng đầu trong các quốc gia và tổ chức
trên là Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á với số vốn
cam kết chiếm 70 - 80% tổng nguồn vốn ODA hằng năm. Kể từ đó đến nay, tổng
số vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết dành cho VN đạt tới hơn 64 tỉ USD.
Riêng vốn cam kết của các nhà tài trợ tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho
VN (CG) năm 2010 vào đầu tháng 12.2010 là 7,88 tỉ USD. Tổng số vốn đã được
giải ngân đạt trên 28 tỉ USD (năm 2010 giải ngân đạt 3,5 tỉ USD). Theo số liệu
thống kê, với tổng số vốn giải ngân đạt hơn 12,5 tỉ USD thì tỉ lệ giải ngân ODA

trong 4 năm (2006- 2010) đã chiếm trên 40% tổng vốn ODA cam kết. Những điều
trên đã giúp cho Việt Nam luôn được coi là một trong những quốc gia sử dụng hiệu
quả vốn ODA nhất trên thế giới. Nhiều đoàn kiểm tra của Ngân hàng Thế giới,
Ngân hàng Phát triển châu Á, đoàn Chính phủ và Quốc hội Nhật Bản đã sang
xem xét, kiểm tra nguồn vốn ODA được sử dụng như thế nào và tất cả đều có một
nhận định chung: Việt Nam là nước sử dụng ODA có hiệu quả nhất.
Giai đoạn từ năm 2005 đến nay, trong khi điều kiện nguồn vốn của các nước
phát triển dành cho các nước đang phát triển ngày càng giảm sút thì nguồn vốn
cam kết ODA dành cho Việt Nam năm sau luôn cao hơn năm trước. Bên cạnh đó,
các nhà tài trợ đều nhận định chúng ta đã xác định được hướng đi đúng đối với một
nước đang phát triển, đã đề ra được những giải pháp cũng như đã có những bước đi
phù hợp, linh hoạt bảo đảm đất nước phát triển theo hướng bền vững. Trong lĩnh
vực xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, đặc biệt là môi trường kinh doanh
và cải cách hành chính, sự hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế đã mang lại những kết
quả rất đáng khích lệ. Một ví dụ điển hình là việc UNDP và AusAID của Australia
giúp đỡ Việt Nam soạn thảo Luật Doanh nghiệp. Với một mức chi phí khoảng 2.3
triệu USD, chủ yếu dùng để thuê các chuyên gia quốc tế cùng phối hợp với các
chuyên gia Việt Nam trong quá trình soạn thảo Luật, tạo “cú hích” phát triển khu
vực tư nhân thành công nhất ở Việt Nam. Một ví dụ nữa là ODA dành cho cải cách
thương mại và hỗ trợ Việt Nam gia nhập WTO đã góp phần rất lớn vào quá trình
thay đổi chính sách thương mại của Việt Nam phù hợp hơn với kinh tế thị trường
và thông lệ quốc tế.
Ngoài ra còn có những thành quả khác không thể không kể đến:
Thực hiện chính sách đối ngoại: Quan hệ giữa Việt Nam và các nhà tài trợ đã
được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp
nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục
ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối
tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ nghiên cứu áp dụng các
mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành, ), hài hoà quá trình
chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm,

tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA. Nước ta được lựa chọn là nước
điển hình về tiến hành hài hoà quy trình thủ tục ODA, tuân thủ hệ thống quản lý
quốc gia về nâng cao hiệu quả viện trợ, giúp Chính phủ và nhân dân các nước tài
trợ, các tổ chức quốc tế hiểu và ủng hộ chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam.
Bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển: Nguồn vốn ODA
chiếm khoảng từ 22% đến 25% tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, giúp cải
thiện và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng
lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Thông qua các dự án ODA, hệ thống đường bộ được phát triển đáng kể từ quốc
lộ 1A, 10, 18, 9, đường xuyên Á (đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài), Đa
̣
i

̣
Đông Tây, các cầu lớn (Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì, Bính ); nâng cấp và
mở rộng các cảng biển như Cái Lân (Hải Phòng), Sài Gòn, Tiên Sa (Đà Nẵng),
xây dựng cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, phát triển giao thông nông
thôn ở hầu hết các tỉnh

×