BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN SỸ
THỰC TRẠNG VÀ NHU CẦU CHĂM SÓC
SỨC KHỎE HỘ GIA ĐÌNH TẠI TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành:
Mã số:
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM HUY TUẤN KIỆT
HÀ NỘI - 2009
LỜI CẢM ƠN
Chăm sóc sức khỏe tại trạm y tế xã là công tác tuyến đầu tiếp xúc với người
bệnh cho thấy nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân ngày càng được tăng cao.
Người nghèo, vùng sâu, vùng xa, khó khăn, ít được tiếp xúc với dịch vụ y tế. Do đó
người dân cần được chăm sóc sức khỏe theo hướng tốt hơn là làm cho dịch vụ phải
được phổ biến, gần, sát người dân, tới tận ngõ xóm, gia đình, tận mỗi cá nhân. Y
học gia đình là một chuyên ngành hướng tới mục tiêu này.
Trong khuôn khổ Đề tài cấp bộ “Đánh giá thực trạng và nhu cầu chăm sóc
sức khỏe tại gia đình, đề xuất giải pháp phát triển mạng lưới Y học gia đình”, là học
viên chuyên khoa 1 – Chuyên ngành Y học gia đình, tôi sử dụng số liệu viết luận
văn tốt nghiệp.
Tôi xin cám ơn TS. Phạm Huy Tuấn Kiệt là thầy hướng dẫn của tôi, cảm ơn
PGS. TS. Phạm Nhật An là chủ nhiệm đề tài, các thầy cô tham gia Đề tài và các
thầy cô thuộc bộ môn Y học gia đình đã tận tình giúp đỡ cho tôi trong quá trình học
tập và hoàn thành luận văn này.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHYT : Bảo hiểm y tế
BS : Bác sĩ
BV : Bệnh viện
CK1 : Chuyên khoa 1
CSSK : Chăm sóc sức khỏe
CSSKBĐ : Chăm sóc sức khỏe ban đầu
HGĐ : Hộ gia đình
KCB : Khám chữa bệnh
KHHGĐ : Kế hoạch hóa gia đình
PKĐK : Phòng khám đa khoa
SDD : Suy dinh dưỡng
SPSS : Statistical Package for Social Sciences
Phần mềm thống kê
TLN: : Thảo luận nhóm
T/TP: : Tỉnh/Thành phố
TTYT : Trung tâm y tế
TT – GDSK : Giáo dục sức khỏe
TYT: : Trạm Y tế
TW: : Trung ương
YHGĐ: : Y học gia đình
UBND: : Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hình thành từ khi hòa bình lập lại, trải qua thời kỳ chiến tranh và đến thời
bao cấp, hệ thống Trạm y tế xã (TYT) Việt Nam luôn được Quốc tế đánh giá cao và
trong hội nghị Alma Ata năm 1978 còn được khuyến cáo là một mô hình chăm sóc
sức khỏe ban đầu thành công đi trước nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, từ năm 1986, khi
Việt Nam bắt đầu cải cách kinh tế, hệ thống trạm y tế xã chịu tác động mạnh mẽ bởi
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Do thiếu cơ chế khuyến khích về chuyên môn và tài chính, rất
nhiều trạm y tế xã/ phường xuống cấp. Người bệnh không tin tưởng vào chất lượng
dịch vụ y tế tuyến ban đầu, tìm đến các cơ sở y tế tuyến trên và gây quá tải ở đây.
Điều này không những là một vấn đề lớn của ngành y tế mà còn là một bức xúc
chung của toàn xã hội. Kiện toàn mạng lưới cơ sở, do vậy, được đưa vào Luật Bảo
vệ sức khỏe Nhân dân và luôn được đặc biệt quan tâm trong các văn kiện, chiến
lược, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Chức năng, nhiệm vụ của các trạm y tế xã được qui định trong Quyết định
58/TTg, Quyết định 131/TTg. Đây là cơ sở y tế công lập tuyến đầu có nhiệm vụ
cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, phát hiện sớm và phòng chống
dịch bệnh, đỡ đẻ thông thường, cung ứng thuốc thiết yếu, vận động nhân dân thực
hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình và tăng cường sức khỏe. Các dịch vụ kỹ
thuật liên quan đến KCB được phép thực hiện tại TYT theo quy định về phân tuyến
kỹ thuật do Bộ Y tế ban hành (Quyết định số 23/2005/QĐ-BYT ngày 30-8-2005).
Quán triệt nghị quyết 46/NQ-TW ngày 23-02-2005 của Bộ Chính trị về công
tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, Bộ Y tế định hướng
đẩy mạnh công tác khám chữa bệnh tại các trạm y tế xã để nâng cao tính công bằng,
hiệu quả và phát triển trong chăm sóc sức khỏe nhân dân trong lộ trình tiến tới
BHYT toàn dân. Định hướng phát triển các trạm y tế xã cần dựa trên các bằng
chứng được phân tích kỹ, có chú ý đến nguyên tắc cung cầu và điều tiết của thị
2
trường. KCB có hiệu quả tại các trạm y tế xã thông qua BHYT giúp giảm tải các
tuyến trên, tiết kiệm chi phí cho người bệnh nói riêng và toàn hệ thống nói chung.
Khi nhiều vấn đề còn cần tìm phương hướng đề giải quyết thì công tác chăm
sóc sức khỏe tại hộ gia đình trong mô hình y học gia đình cần được mô tả rõ hơn
như được sơ đồ hóa phần nào ở hình sau:
Hình 1.1: Sơ đồ lý thuyết nghiên cứu
Các câu hỏi được đặt ra là:
• Nhu cầu chăm sóc sức khỏe tại hộ gia đình ở 2 huyện Văn Chấn và Trấn Yên
của tỉnh Yên bái?
Cán bộ chính quyền, ban ngành, đoàn thể
tuyến xã, huyện
-Thực trạng CSSK Hộ gia
đình
- Nhu cầu CSSK Hộ Gia đình
- Giải pháp phát triển mạng
lưới YHGĐ
Người dân, hộ
gia đình
- Tài liệu thống
kê.
- Công trình
nghiên cứu
khoa học liên
quan
- Cán Bộ Đào tạo về YHGĐ tuyến tỉnh
và TW.
- Cán bộ họach định chính sách, quản lý
liên quan tới CSSK hộ gia đình/YHGĐ
tuyến tỉnh và TW.
Cán bộ y tế:
- Tuyến cơ sở
- Y tế tư nhân
3
• Đề xuất phát triển y học gia đình trong đó chú trọng phát triển chăm sóc tại hộ
gia đình ở 2 huyện Văn Chấn và Trấn Yên của tỉnh Yên Bái?
Dựa trên các câu hỏi nghiên cứu, nghiên cứu khảo sát đặt ra mục tiêu chung
mô tả hiện trạng CSSK tại HGĐ và qua đó đề xuất phát triển mô hình CSSK Y học
gia đình ở tỉnh Yên Bái.
Mục tiêu cụ thể là:
1- Mô tả thực trạng và nhu cầu chăm sóc sức khỏe (CSSK) tại hộ gia đình ở
2 huyện Văn Chấn và Trấn Yên của tỉnh Yên Bái năm 2008.
2- Đề xuất giải pháp phát triển mạng lưới y học gia đình (YHGĐ) phục vụ
cho CSSK tại hộ gia đình ở 2 huyện Văn Chấn và Trấn Yên của tỉnh Yên
Bái.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Kinh tế - xã hội và y tế ở Yên Bái
Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc tiếp giáp với Đông Bắc. Phía đông bắc giáp hai
tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía tây nam giáp
tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp hai tỉnh Lai Châu và Lào Cai.
Yên Bái có diện tích tự nhiên 6.882,9 km², chia làm 09 đơn vị hành chính
nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng. Yên Bái là tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay, toàn
tỉnh có 731.810 người, 30 dân tộc anh em cùng sinh sống.Các dân tộc ở Yên Bái
sống xen kẽ, quần tụ ở khắp các địa phương trên địa bàn của tỉnh với những bản sắc
văn hoá phong sắc. Thiếu nhân lực, thiếu bác sĩ ở tất cả các tuyến y tế là tình trạng
phổ biến ở Yên Bái trong nhiều năm nay.
Bệnh viện Đa khoa Nghĩa Lộ là bệnh viện hạng 2 ở tỉnh Yên Bái, với 200
giường bệnh và 180 cán bộ y tế, có nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân 3 huyện
phía Tây Yên Bái là Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn và thị xã Nghĩa Lộ với
hơn 30.000 dân. Nhiều năm qua, bệnh viện luôn ở trong tình trạng thiếu cán bộ, đặc
biệt là cán bộ, bác sĩ sau đại học và ở các chuyên khoa sâu, chuyên khoa lẻ. Vì thế,
bác sĩ nơi đây phải làm liên tục, không được nghỉ; thậm chí, làm ngoài giờ cũng đã
quá quy định rất nhiều.
Thời gian gần đây, những trở ngại đó đã phần nào được giải quyết nhờ Đề án
1816 - luân phiên cán bộ y tế từ tuyến trên xuống tuyến dưới. Bốn bác sĩ của Bệnh
viện Bạch Mai được tăng cường về Bệnh viện đa khoa Nghĩa Lộ theo 2 đợt, mỗi đợt
1,5 tháng. Hai bác sĩ trong đợt tăng cường đầu tiên đã hoàn thành nhiệm vụ trở về
Hà Nội, hai bác sĩ của đợt 2 hiện đang làm việc.
Theo một số ý kiến của các bác sĩ được tăng cường cho rằng ngay tại Bệnh
viện Đa khoa tỉnh là TTYT lớn nhất tỉnh còn thiếu bác sĩ và trang thiết bị, thì tại
tuyến huyện và xã sẽ thiếu cán bộ cả về số lượng và chất lượng , thiếu cơ sở vật
chất là khó tránh khỏi. Điều này cản trở việc CSSK tại HGĐ càng khó khăn hơn.
5
1.2. Khái niệm và nguyên tắc Y học gia đình
Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) là chăm sóc thiết yếu cho mỗi cá
nhân, mỗi thành viên trong xã hội. Thực hiện tốt CSSKBĐ ngay tại gia đình và
cộng đồng có ý nghĩa to lớn về nhân văn, kinh tế, văn hóa và xã hội [27]. CSSKBĐ
còn là nội dung cơ bản của Y học gia đình.
Y học gia đình (YHGĐ) được coi là một dịch vụ cung cấp kỹ thuật chăm sóc
sức khỏe đầy đủ, toàn diện, liên tục và bền vững cho cá nhân và gia đình, không
phân biệt tuổi, giới, hay bệnh tật, trong sự lồng ghép giữa sinh học, y học lâm sàng
và các khoa học hành vi [21] Y học gia đình làm giảm tối đa tỉ lệ mắc, chết các
bệnh, tai nạn, thương tích, tăng cường sức khỏe cho cá nhân và gia đình.
YHGĐ không đơn thuần là bệnh viện hay phòng khám ngồi chờ người dân
tới để phục vụ. YHGĐ chủ động mang dịch vụ CSSK tới tận gia đình, từng cá nhân
với chất lượng cao và giá thành hợp lý. Thầy thuốc YHGĐ là thầy thuốc của mọi
nhà, có thể được coi như một đối tác rất tin cậy và đồng cảm sâu sắc, cung cấp cả
dịch vụ y tế và dịch vụ phi y tế [20]).
Với cách hiểu và cách tiếp cận như trên, YHGĐ đòi hỏi Sáu nguyên tắc quan
trọng là:
Chăm sóc toàn diện: Con người là một thực thể của xã hội, sinh trưởng và
phát triển trong một môi trường đa dạng, có nhiều mối quan hệ. Chính vì vậy con
người cần sự chăm sóc toàn diện không những về y tế (như khám chữa bệnh, phòng
bệnh) mà còn đòi hỏi về chăm sóc ngoài y tế nữa (tâm lý, mối quan hệ). Như vậy
người thầy thuốc gia đình xem xét tổng thể các các cá nhân trong khuôn khổ các
nhu cầu tổng thể của họ (của người bệnh). Người thầy thuốc gia đình xem xét tất cả
các yếu tố này khi lập kế hoạch chẩn đoán hoặc điều trị [28] Y học gia đình không
xuất phát đơn thuần từ việc chẩn đoán bệnh và chữa bệnh mà xuất phát từ việc chẩn
đoán trường hợp bệnh và xử trí trường hợp bệnh. Người bác sĩ gia đình tập trung
hơn vào con người bệnh, không chỉ đơn thuần phát hiện ra bệnh chính và chữa bệnh
chính của bệnh nhân, khi bệnh nhân khỏi là hết trách nhiệm mà còn tìm hiểu vấn đề
của bệnh nhân và cùng với bệnh nhân xử trí vấn đề của họ. Người bệnh được xem
6
xét không chỉ dưới góc độ sinh học mà còn cả về mặt tâm lý và xã hội. Nhu cầu
tổng thể của cá nhân được đặt vào kế hoạch chẩn đoán và điều trị.
Chăm sóc liên tục: Bình thường thì mỗi đợt ốm là một bệnh và khi chăm sóc
chỉ tập trung vào bệnh đó, phương pháp chăm sóc truyền thống là như vậy - song đó
không phải là hoạt động của YHGĐ vì không chăm sóc liên tục và lâu dài. Chăm
sóc liên tục là nguyên tắc quan trọng nhất của YHGĐ. Các thầy thuốc YHGĐ được
giao nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân toàn diện cùng gia đình họ một cách liên tục,
lâu dài. Thời gian chăm sóc dài là công cụ hữu hiệu của YHGĐ. Đó là điểm khác cơ
bản giữa YHGĐ và chăm sóc truyền thống, vốn thấy của hệ thống y tế hiện nay
[26]. Liên tục ở đây là liên tục về thời gian và về qui trình từ phát hiện bệnh, chẩn
đoán, điều trị đến phục hồi chức năng. Người bác sĩ gia đình có thể biết người mình
chăm sóc sức khỏe từ lúc sinh đến lúc chết. Người bác sĩ gia đình phát hiện bệnh,
chuyển người bệnh lên tuyến trên cho chẩn đoán và điều trị một phần ở bệnh viện
và sau khi ra viện lại trở lại điều trị với anh ta một cách liên tục.
Chăm sóc phối hợp: “Người thầy thuốc gia đình giống như một nhạc trưởng
trong việc chăm sóc cho từng bệnh nhân. Người thầy thuốc gia đình còn xác định
những người cung ứng và các nguồn chăm súc sức khỏe khác cần thiết để hỗ trợ
cho việc chăm sóc chung cho bệnh nhân. Những nguồn này bao gồm các chuyên
gia bên ngoài cũng như những cán bộ chuyên môn y tế khác bên trong phụng khoản
của thầy thuốc gia đình. Hướng dẫn bệnh nhân tiếp cận với hệ thống chăm sóc sức
khỏe là trách nhiệm của thầy thuốc gia đình” [26]. Cũng theo tác giả này, người
thầy thuốc gia đình phải am hiểu sâu sắc gia đình người bệnh về mọi khía cạnh. Tổ
chức cho gia đình người bệnh phối hợp tốt trong chăm sóc và điều trị người bệnh.
Người thầy thuốc gia đình còn phải vẽ được sơ đồ gia đình và bản đồ gien của
người bệnh. Vì vậy, các nghiên cứu về YHGĐ giống như các nghiên cứu chăm sóc
sức khỏe thông thường song cần nghiên cứu thêm về các yếu tố gia đình như kinh
tế, văn hóa, mối quan hệ huyết thống, lịch sử bệnh tật.
Quan tâm tới phòng bệnh: Phòng bệnh chủ động và tích cực như vệ sinh môi
trường, vệ sinh cá nhân, vệ sinh thực phẩm, xử lý chất thải, tiêm chủng, phòng
7
chống các tác nhân, nguy cơ gây bệnh và các tai nạn, thương tích nâng cao sức
khỏe.Bác sĩ gia đình không những chỉ chữa bệnh mà còn phải giúp bệnh nhân của
mình phòng chống các nguy cơ bệnh tật. Phòng bệnh bao gồm yếu tố nguy cơ mắc
bệnh, làm chậm lại các hậu quả của bệnh tật, khuyến khích lối sống lành mạnh, dự
đoán các vấn đề sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe nội tâm của bệnh nhân và gia đình.
Phòng bệnh không chỉ giới hạn vào việc bảo mọi người không hút thuốc lá, phải tập
thể dục và ăn uống đúng cách mà còn là việc nhận ra các yếu tố nguy cơ đối với
việc mắc bệnh và sử dụng các phương tiện sàng lọc để phát hiện bệnh ngay từ các
giai đoạn đầu.
Hướng cộng đồng: “Nghệ nghiệp, văn hóa và môi trường là những khía
cạnh của cộng đồng tác động đến việc chăm sóc bệnh nhân. Sự hiểu biết về những
bệnh nào hoặc những vấn đề sức khỏe nào có tỷ lệ mắc cao nhất trong cộng đồng
sẽ ảnh hưởng đến những chẩn đoán của các bác sĩ gia đình và giúp họ đưa ra
những quyết định về việc giáo dục cộng đồng và cung ứng dịch vụ. Ngoài vai trò là
cụng cụ chẩn đoán, cộng đồng còn là tác nhân trị liệu. Trong cộng đồng có nhiều
nguồn mà bác sĩ gia đình có thể sử dụng để cung ứng chăm sóc tối ưu cho bệnh
nhân” [26]. Nghề nghiệp, văn hóa và môi trường là những khía cạnh của cộng đồng
tác động đến sức khỏe và chăm sóc sức khỏe bệnh nhân. Những hiểu biết về nguyên
nhân gây bệnh và cơ chế ảnh hưởng đến cộng đồng sẽ giúp thầy thuốc gia đình
trong công tác giáo dục cộng đồng và cung cấp dịch vụ y tế.
Hướng gia đình: “Các bác sĩ gia đình coi bệnh nhân như những thành viên
chưa có hệ thống gia đình và thừa nhận ảnh hưởng của bệnh tật đến gia đình cũng
như ảnh hưởng của gia đình đến bệnh tật. Chúng ta được đào tạo để làm việc với
các gia đình và họ cần thích ứng với những giai đoạn chuyển tiếp có thể dự đoán
trước của cuộc sống và với các bệnh tật bất ngờ. Các bác sĩ gia đình hiểu sự khác
nhau giữa gia đình hoạt động bình thường và không bình thường và sử dụng sự
hiểu biết này trong cả hai việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân. Chúng ta đang nói
về một hệ thống hỗ trợ bệnh nhân khi định nghĩa các gia đình. Bệnh nhân không
cần là một bộ phận của một gia đình truyền thống mà thường là còn có sự hỗ trợ
8
nào đó, dù hôn nhân có tồn tại hay không. Một gia đình được định nghĩa rộng rãi
như là những cá nhân mà bệnh nhân trông mong ở họ sự hỗ trợ với nhận thức rằng
sự hỗ trợ này có cả quá khứ và tương lai” [26], Các nguyên tắc chăm sóc bệnh
nhân trong chăm sóc sức khỏe gia đình. Người bác sĩ gia đình coi bệnh nhân là một
thành viên của gia đình họ, thừa nhận ảnh hưởng của bệnh tật đến gia đình và
ngược lại. Họ nắm bắt được những yếu tố của gia đình để phục vụ cho phát hiện
bệnh, chẩn đoán, điều trị và phục hồi chức năng. Một gia đình được định nghĩa rộng
rãi là nơi mà người bệnh có thể trông mong hỗ trợ ở quá khứ, hiện tại và tương lai.
1.3. Ý nghĩa và tầm quan trọng của Y học gia đình
YHGĐ mang dịch vụ CSSK tới từng cá nhân và từng gia đình cho nên mang
ý nghĩa rất lớn về y học cũng như xã hội.
Về y học, YHGĐ cung cấp dịch vụ CSSK gần dân nhất nên rất sát với nhu
cầu về CSSK của từng người dân và gia đình. Trước hết YHGĐ cung cấp các dịch
vụ về truyền thông - giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) như cung cấp các kiến thức về
chính sách y tế của nhà nước/ địa phương, kiến thức về vệ sinh cá nhân và cộng đồng,
kiến thức về dự phòng các bệnh hay gặp tại cộng đồng, kiến thức về phòng chống các
bệnh, dịch, tai nạn thương tích YHGĐ còn cung cấp cho người dân kiến thức về
phát hịện sớm các bệnh, tật, xử lý sớm về ban đầu các bệnh, tật hay các cấp cứu tại
nhà và cộng đồng. Chính vì vậy mọi người dân và gia đình luôn đạt được tình trạng
sức khỏe tốt nhất có thể có, giảm được nhiều số lượng cũng như tỉ lệ mắc, chết của
bệnh, tật hay tai nạn, thương tích ngay tại gia đình và cộng đồng. YHGĐ giúp người
dân tự bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình [19]
Người cung cấp dịch vụ YHGĐ (như bác sĩ, hộ sinh, điều dưỡng ) phát hiện
sớm các nguy cơ có hại cho sức khỏe của người dân tại gia đình và cộng đồng (như
nước chưa hợp vệ sinh, thực phẩm có hại cho sức khỏe, thói quen, hành vi không tốt
cho sức khỏe ) rồi bàn bạc với từng gia đình và cộng đồng giải quyết, loại trừ các yếu
tố nguy cơ. Người cung cấp dịch vụ YHGĐ còn trực tiếp thực hiện khám phát hiện
sớm bệnh, tật cũng như trực tiếp điều trị sớm các bệnh, tật, các cấp cứu tại gia đình và
9
cộng đồng (trong khả năng cho phép). Do vậy giảm được nhiều số lượng cũng như tỉ lệ
các bệnh tật và cấp cứu không phải nhập viện hay chuyển tuyến trên [18].
Bác sĩ chuyên khoa YHGĐ tham gia hay trực tiếp quản lý sức khỏe cho mọi
cá nhân, hộ gia đình và toàn cộng đồng, do vậy cần có kiến thức và kĩ năng lồng
ghép, xã hội hóa hoạt động YHGĐ. Trước hết biết cùng người dân xác định vấn đề
sức khỏe ưu tiên của cộng đồng, tìm giải pháp và nguồn lực hợp lý giải quyết các
vấn đề ưu tiên đó và thực hiện quản lý được sức khỏe của mọi người dân trong
phạm vi phụ trách [17].
Về mặt xã hội, Y học gia đình giúp tiết kiệm được nhiều công sức và tiền của
của cá nhân và gia đình và xã hội vì được dự phòng tại ngay hộ gia đình nên nhiều
bệnh tật không phát sinh. Việc phát hiện sớm và điều trị sớm là giảm gánh nặng chi
phí so với bệnh ở giai đoạn muộn. Ngoài ra, hình thức chăm sóc giúp mang lại hạnh
phúc và nguồn vui lớn cho cá nhân, gia đình và cộng đồng vì có sức khỏe tốt hơn và
giảm chi phí lớn. Bên cạnh đó, chuyên ngành mang ý nghĩa nhân văn lớn, đảm bảo
cho phát triển kinh tế và xã hội bền vững [11].
1.4. Phát triển của Y học gia đình ở quốc tế
Y học gia đình phát triển từ rất sớm. Chuyên ngành có bề dày về lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn quý giá, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Tổ chức hiệp hội nghề
nghiệp có Hội Y học gia đình thế giới, Hội khu vực và Hội của từng quốc gia.
Có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về nhu cầu YHGĐ của người dân.
Tại Hoa kỳ, cứ 1000 người thì có 800 người được báo cáo là có triệu chứng của
bệnh, tuy nhiên chỉ có 217 người là đi thăm khám ở các cơ sở y tế (chiếm 27,1%),
21 người đi khám ở phòng khám ngoại trú thuộc các bệnh viện (2,6%). Dịch vụ y
học gia đình chỉ phục vụ có 14 người (1,75%) [25]. Số liệu này cho thấy tại Hoa kỳ,
một đất nước công nghiệp phát triển mạnh nhưng nhu cầu khám chữa bệnh (KCB)
của người dân rất lớn. YHGĐ đã phát triển từ lâu nhưng mới đáp ứng được phần
nhỏ nhu cầu này. Tỉ lệ 72,9% có biểu hiện triệu chứng lâm sàng chưa đi khám ở bất
kì nơi nào là một nhu cầu rất lớn mà YHGĐ chưa tiếp cận được. Theo một tác giả
khác - Ken White nghiên cứu tại Anh và Hoa Kỳ, cho thấy trong tổng số 250 người
10
bệnh đến thầy thuốc thì có 94% số này được chăm sóc ngay tại nơi làm việc của họ
bởi thầy thuốc chăm sóc sức khỏe ban đầu tức thầy thuốc gia đình. Số ít còn lại mới
phải vào bệnh viện hay các phòng khám của trung tâm y tế. Rõ ràng nhu cầu về
chăm sóc sức khỏe của người dân là rất lớn, vấn đề là cần xác định được nhu cầu đó
và tổ chức các dịch vụ YHGĐ đáp ứng với nhu cầu này.
Cũng tại Hoa kỳ, trong một khám sàng lọc đã phát hiện ra 14,1% người lớn
đã có ít nhất một giai đoạn uống rượu (một giai đoạn được xác định là uống trên 5
lần liên tục) trong 30 ngày gần đây, 7,5% được chẩn đoán bị các biến chứng của
uống rượu trong thời gian qua và đã được điều trị. Một can thiệp bằng biện pháp
của CSSKBĐ chỉ phục vụ được 40% số có biểu hiện rối loạn về rượu (nhóm chứng
chỉ có 20%) [19]. Cho thấy còn một tỉ lệ lớn (60% ở nhóm can thiệp và 80% ở
nhóm chứng) là chưa được chăm sóc y tế. Đây là nhu cầu rất lớn, phải chăng có sự
thiếu hụt về dịch vụ YHGĐ. Một nghiên cứu khác cũng tại Hoa kỳ cho thấy có tới
6- 9 triệu trẻ em và vị thành niên có các biểu hiện của rối loạn tâm thần, đó là một
nhu cầu không nhỏ, tuy nhiên đa số các trẻ em này không nhận được chăm sóc y tế
[24]. Trong một nghiên cứu khác cho thấy có tới 20% trẻ em và vị thành niên tại
Mỹ có biểu hiện rối loạn hành vi và rối loạn tâm lý. 2/3 số trẻ này không nhận được
chăm sóc y tế. YHGĐ có nhiệm vụ mang dịch vụ cho những trẻ em này [23].
1.5. Phát triển của Y học gia đình ở Việt Nam
Danh từ Y học gia đình mới du nhập vào nước ta khoảng 10 năm trở lại
đây. Danh từ thì còn mới nhưng về thực hành thì không mới. Trên thực tế, từ
ngàn năm nay nhân dân ta vẫn có một mạng lưới y tế phục vụ CSSK một cách tự
phát và hoàn toàn do nhu cầu CSSK của người dân quyết định sự tồn tại và phát
triển của nó. Các ông lang, bà mế, bà đỡ, các phòng chẩn trị y học cổ truyền,
thầy thuốc tư đã tạo ra mạng lưới chăm sóc sức khỏe sát với người dân và cộng
đồng nhất và hoàn toàn tự phát.
Hiện nay nhu cầu của người dân về CSSK đã thay đổi nhiều do tác động của
nhiều yếu tố:
11
Công nghiệp và du lịch phát triển, nhiều ngành nghề mới ra đời nên mô hình
bệnh tật thay đổi.
Sự giao lưu trong nước và quốc tế lớn, nhiều bệnh được du nhập vào nước ta
(SARS, cúm H5N1, H1N1 )
Nhiều loại hóa chất ra đời gây nhiều bệnh mới và thúc đẩy tăng mạnh các
bệnh không nhiễm trùng như ung thư, suy tủy, rối loạn miễn dịch
Vì vậy việc nghiên cứu nhu cầu CSSK cho người dân là việc làm có tính chất
cấp thiết, đặc biệt nhu cầu CSSK mức cá nhân và gia đình (tức mức tối thiểu, ban
đầu) thì còn thiếu nhiều các công trình nghiên cứu ở nước ta. Việc nghiên cứu lại
nhu cầu CSSK của người dân nước ta là rất cần thiết, nhất là nhu cầu mức cá nhân,
gia đình và cộng đồng theo quan niệm của YHGĐ.
Một số công trình nghiên cứu khoa học khác cho thấy từ khi Nhà nước có
chủ trương phát triển y tế tư nhân, chăm sóc sức khỏe tại nhà đã góp phần to lớn
giải quyết nhiều vấn đề sức khỏe cho nhân dân. Người dân có điều kiện tiếp cận
dịch vụ y tế nhiều hơn kể cả phòng bệnh - giáo dục sức khỏe và phát hiện bệnh sớm
cũng như điều trị sớm, có hiệu quả đồng thời giảm chi phí cho người dân. Số liệu
minh chứng cụ thể là một người dân trung bình có 1,8 lần/năm sử dụng dịch vụ y tế
tư nhân, với y tế tuyến xã là 1,2 và y tế công tại bệnh viện chỉ có 0,8. Tuy nhiên,
màng lưới và nhân lực y tế hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe
của người dân, nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng có nhiều người nghèo hay đồng
bào dân tộc thiểu số. Rất nhiều lý do khiến người dân chưa tiếp cận được với dịch
vụ y tế cơ bản như:
Quá nghèo, không có tiền chi phí cho ăn, ở, đi lại và người nhà đi theo phục
vụ (hay xảy ra trên vùng núi, dân nghèo).
Đường đi tới cơ sở y tế quá xa xôi, khó đi, thiếu phương tiện giao thông
(hay xảy ra ở vùng núi cao).
Tập quán lạc hậu, chỉ cúng bái khi bị ốm đau (hay xảy ra ở vùng nông thôn
hẻo lánh, vùng núi, dân tộc ít người).
12
Nguyên nhân về phía y tế: Mạng lưới y tế nhà nước tại cơ sở chưa rộng khắp,
chưa phát triển mạng lưới y tế tư nhân ở nông thôn và miền núi, y tế thôn bản quá
mỏng và quá yếu kém. Theo số liệu của Vụ Tổ chức cán bộ - Bộ Y tế, tới đầu năm
2006, cả nước ta đã có khoảng hơn 70% số trạm y tế xã có bác sĩ về công tác. Đây
là một dấu hiệu tốt lành cho dịch vụ YHGĐ phát triển. Tuy nhiên nhiều cuộc khảo
sát cho thấy tại tuyến xã, người có chuyên môn cao nhất về KCB là BS. Nhưng
người BS này thường làm trưởng trạm (theo chủ trương của hầu hết các địa
phương), do vậy rất nặng công tác quản lý và sự vụ hành chính (70% - 80% thời
gian dành cho đi họp, tập huấn, làm sổ sách, tiếp khách) và thời gian làm chuyên
môn thực sự còn khoảng 20- 30%. Đó cũng là lý do quan trọng làm cho y tế xã
không đáp ứng được với nhu cầu KCB của nhân dân. Những lỗ hổng lớn về việc
đáp ứng của y tế cơ sở cho thấy cần thiết phải phát triển YHGĐ. Vì chỉ nhờ các dịch
vụ YHGĐ, người dân mới có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với dịch vụ CSSK với
giá thành chấp nhận được. Đặc biệt khi YHGĐ thực hiện tốt 6 nguyên tắc của nó,
người dân mới được CSSK đầy đủ, liên tục, toàn diện và đảm bảo chất lượng.
Y học gia đình mới thực hiện ở Việt Nam trong khoảng 5-6 năm mang tính
chất thực hành là chính, thiếu nhiều cơ sở lý luận và thiếu cả các cơ sở khoa học
dựa trên nhu cầu thực tế của người dân.
- Chưa có các công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về YHGĐ tại Việt Nam:
Về nhu cầu, nội dung, phương pháp
- Công tác đào tạo chưa dựa trên nhu cầu thực tiễn do chưa có công trình nghiên
cứu hỗ trợ.
1.6. Chăm sóc Y học gia đình tại nhà
Chăm sóc tại nhà ngày nay đã trở thành đồng nghĩa với các dịch vụ của các
cơ quan chăm sóc sức khỏe tại nhà và không phải là các dịch vụ thầy thuốc chăm
sóc người bệnh ở tại nhà. Chăm sóc sức khỏe tại nhà là phần tăng trưởng nhanh
nhất của lĩnh vực sức khỏe trong những năm gần đây. Các dịch vụ tại nhà chuyên
nghiệp này bao gồm chăm sóc điều dưỡng, trị liệu vật lý, chữa bệnh nghề nghiệp, trị
liệu ngôn ngữ và hoạt động xã hội. Những dịch vụ khác là trợ giúp sức khỏe tại nhà,
13
thợ giúp việc vặt, những bữa ăn trên xe lăn, vận tải, và các loại nhân viên tình
nguyện cộng đồng (thí dụ những người làm việc sửa chữa tại nhà). Sự lớn mạnh ghê
gớm mới đây của chăm sóc tại nhà đã chiếm chỗ phổ biến mà không có sự tham gia
của thầy thuốc, ngoài yêu cầu gửi khám ban đầu. Khi bệnh nhân cần gặp thầy thuốc,
thông thường họ được chuyển bằng xe cứu thương tới một trung tâm y học để được
gặp một bác sĩ chuyên khoa. Thầy thuốc này ít khi có thời giờ, trình độ hoặc quan
tâm điều trị thỏa đáng một cách toàn diện cho bệnh nhân.
Thực tế, những cuộc thăm tại nhà của thầy thuốc đã bị giảm sút, trong khi đó
các khía cạnh khác của chăm sóc tại nhà thì lại tăng lên rất nhiều. Chẳng có gì phải
ngạc nhiên. Các thầy thuốc gia đình và những nhân viên thực hành đa khoa thường
có tần suất thăm tại nhà cao nhất, ngay cả trong trường hợp chỉ là những cuộc viếng
thăm không thường xuyên như qui định. Các bác sĩ mới tốt nghiệp thường ít đến
thăm tại nhà hơn là các bác sĩ lớn tuổi . Mở phòng mạch chi phí cao, đi thăm bệnh
nhân tại nhà thì hiệu xuất thấp, được trả giá thấp và những ý nghĩ là chất lượng bị
tổn hại thường được kể là những trở ngại cho các thầy thuốc thăm tại nhà.
Tuy vậy, những người bệnh biết giá trị của chăm sóc tại nhà bao gồm cả
thăm khám bệnh tại nhà của các thầy thuốc. Những người già cả muốn được chăm
sóc tại nhà riêng của họ hơn là phải đến các cơ sở, chưa tính đến những khó khăn vô
vàn để đi đến được nơi đó. Hơn nữa, những người bệnh trẻ hơn thường coi mỗi
cuộc thăm viếng tại nhà như là một sự kiện tạo sự ràng buộc của họ với một thầy
thuốc, những thầy thuốc đã đến thăm khám chữa bệnh tại nhà thường hiểu biết
người bệnh sâu hơn. Trong tương lai, khi số người già tăng lên, việc chăm sóc tại
nhà của thầy thuốc có thể sẽ lại phát triển. Gần đây Medicare trả thù lao chăm sóc y
tế cho các dịch vụ thầy thuốc tại nhà tăng lên có lẽ sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển
theo chiều hướng này.
Có ba loại thăm khám bệnh của thầy thuốc cho bệnh nhân ở tại nhà: thăm
khám để đánh giá, thăm khám để tiếp tục chăm sóc và thăm khám bệnh cấp tính.
Các cuộc thăm khám để đánh giá nói chung diễn ra một lần và có thể thường bao
gồm một số nhân viên của đội chăm sóc sức khỏe. Các bệnh nhân già đặc biệt thích
14
hợp với những cuộc thăm khám đánh giá ở tại nhà. Thăm khám để tiếp tục chăm
sóc có nghĩa là một thầy thuốc đến nhà đều đặn để chăm sóc bệnh nhân. Nói chung,
loại hợp đồng chăm sóc tại nhà này được thực hiện cho những người bệnh phải nằm
tại giường, thường là ở giai đoạn cuối của một bệnh mãn tính. Thăm khám bệnh cấp
tính thường xảy ra nhiều hơn vì loại thăm khám này thuận tiện hơn đối với người
thầy thuốc đến thăm ở gia đình. Một ví dụ điển hình là 1 bệnh nhân bị sốt ở gần
thầy thuốc và người đó lại không có phương tiện giao thông.
Những người bị tàn tật vĩnh viễn, đặc biệt là những người phải nằm tại
giường: Hầu hết các thầy thuốc gia đình chăm sóc cho những người họ đến thăm
ở nhà là do rất khó đưa những người này vào bệnh viện. Các bệnh nhân bị đột
quỵ nặng, sơ cứng rải rác tiến triển, các bệnh thoái hóa như loạn dưỡng cơ đều
cần phải chăm sóc lâu dài tại giường. Những người săn sóc trong gia đình
thường không tiếc gì để giữ người thân của họ ở nhà sẽ rất cảm kích khi một
thầy thuốc đến thăm nhà mình.
Những bệnh nhân mới cao tuổi bị mắc nhiều bệnh tật: Các cuộc thăm
khám ở tại nhà cho người già góp thêm một tầm cỡ quyết định đối với việc đánh giá
bệnh. Nhìn vào tủ thuốc và bàn để cạnh giường thường là cách tốt nhất để biết được
người bệnh đang uống thuốc gì. Nói chuyện với những người săn sóc bệnh nhân và
các thân nhân trong gia đình có thể phát hiện những vấn đề và những điều hữu ích
bất ngờ. Cuối cùng, một cuộc thăm hỏi tại nhà là cách duy nhất tìm ra những nguy
cơ có thể làm cho dễ ngã.
Những bệnh nhân bị sa sút trí tuệ: Nhiều bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer
và bệnh nhân sa sút trí tuệ từ chối đến bác sĩ khám bệnh hoặc trở nên kích động ở
môi trường bệnh viện không quen thuộc. Những cuộc thăm khám tại nhà ít ồn ào
hơn cho phép bạn quan sát người bệnh ở môi trường sống của họ, cho bạn một cơ
may tuyệt vời để gặp gỡ với gia đình.
Nghi ngờ có lạm dụng: Lạm dụng trẻ em và người già đều không phải là
hiếm. Hiện nay ở hầu hết các bang đều có luật khuyến khích hoặc bắt buộc phải báo
cáo những trường hợp nghi ngờ lạm dụng hoặc bị bỏ rơi. Thầy thuốc cần am hiểu
15
khả năng có lạm dụng hoặc bỏ rơi và biết những thủ tục yêu cầu cơ quan chức năng
tham gia điều tra. Thường có một nhân viên công tác xã hội cùng đến thăm để cùng
đánh giá sự lạm dụng.
Trên đây là một số tình huống mà việc đến thăm khám tại nhà thường có
kết quả nhất. Để cho việc chăm sóc tại nhà là một phần hành nghề của mình,
bạn cần phải phát triển những kỹ năng để thực hiện những cuộc thăm khám tại
nhà có hiệu quả.
1.7. Kỹ năng cần thiết cho chăm sóc Y học gia đình tại nhà
1.7.1. Khắc phục rào cản thăm khám tại nhà
Các sinh viên y khoa thường được phân công phụ trách một bệnh nhân ở gia
đình để thăm khám tại nhà trong năm học đầu tiên. Các cuộc thăm khám này có
khuynh hướng xã hội và dễ thực hiện. Tuy nhiên, do việc đào tạo sinh viên ngày
càng tiến triển nên sinh viên và thầy thuốc thường trú thường ngại các cú điện thoại
mời đến nhà. Điều này có thể hiểu được. Việc có sẵn nhân viên điều dưỡng, khoa
điện quang, phòng xét nghiệm và các khoa phòng hỗ trợ làm cho môi trường bệnh
viện trở thành an toàn hơn đối với những người được đào tạo thành thầy thuốc. ở tại
bệnh viện việc kiểm soát được dễ dàng hơn, khác với khi đến thăm khám tại nhà,
bệnh nhân được ở ngay trên mảnh đất riêng của họ.
Các sinh viên và người bác sĩ thường trú băn khoăn về việc cần đem thiết bị
gì đến nhà bệnh nhân khi có điện thoại gọi. Có bảng danh sách những thứ cần có
của túi đi khám bệnh tại nhà đã được xuất bản nhưng số lượng trang bị thực sự cần
thiết đem theo lại tuỳ thuộc vào loại thăm khám tại nhà. Đến thăm để đánh giá nói
chung chẳng cần gì nhiều hơn là đôi mắt, đôi tai của thầy thuốc và có lẽ 1 cái ống
nghe bệnh. Đến thăm để điều trị đòi hỏi phải có thuốc men, đơn thuốc để kê đơn,
hoặc một trang thiết bị gì đó (ví dụ, một bộ ống thông cho bệnh nhân có ống thông
Foley cần thay thế).
Cách tốt nhất để khắc phục nỗi e ngại đi thăm khám bệnh nhân tại nhà là cứ
làm rồi quen. Bạn bắt đầu cảm thấy dễ chịu sau khi bạn thực hiện được 24 lần tới
thăm khám tại nhà cho những bệnh nhân khác nhau. Như vậy, tự bạn được cổ vũ
tìm kiếm và tranh thủ các mặt ưu việt của những cơ hội đến thăm khám tại nhà.
16
Những cơ hội đó ngày càng tăng lên vì bạn được gặp gỡ bệnh nhân. Đồng thời,
những khía cạnh tế nhị của thăm khám tại nhà cần nhiều năm mới hoàn thiện được,
do đó bạn được khuyến khích tìm kiếm cơ hội để có những cuộc thăm khám kết hợp
với một thầy thuốc cộng đồng giàu kinh nghiệm, một người cùng khoa hoặc một
người cung ứng chăm sóc sức khỏe tại nhà.
1.7.2. Khởi đầu việc thăm khám tại nhà
Bệnh nhân rất ít khi từ chối một thầy thuốc đến thăm khám mình ngay ở nhà.
Khi biết trước khi nào người thầy thuốc có kế hoạch đến thăm, họ thường rất cảm kích.
Nếu bạn đến chậm bạn phải gọi điện thoại và cho bệnh nhân biết giờ nào bạn sẽ đến.
Lịch thăm khám tại nhà chính xác sẽ cho phép các thành viên trong gia đình sắp xếp
công việc riêng để có mặt khi bạn ở nhà họ.
Bất kỳ một cuộc thăm khám nào cũng đều bắt đầu bằng những lời chào hỏi
và thường thường là những câu chuyện về xã hội. ở gia đình việc này có thể phải
mất vài phút. Gia chủ có thể mời bạn thăm ngôi nhà của họ hoặc mời bạn ăn uống
cái gì đó. Những hoạt động xã hội này giúp bệnh nhân và gia đình cảm thấy thoải
mái hơn trong việc tiếp xúc với thầy thuốc. Phần lâm sàng của cuộc thăm hỏi nhiều
khi lại kết hợp với các động tác xã giao. Ví dụ, khi bạn đến thăm khám sức khỏe
cho một cháu bé 2 tuần tuổi, bạn có thể ngắm nghía và chơi với bé trong khi bạn bắt
đầu công việc khám xét chuyên môn của bạn. Cũng như vậy, một lần dạo thăm ngôi
nhà có thể tạo cơ hội để bạn sơ bộ biết được những thứ có trong tủ thuốc đặt ở
buồng tắm.
Thực hiện một cuộc thăm khám tại nhà hơi mất thời giờ hơn thăm khám ở
bệnh viện. Tuy nhiên, nhờ sự gần gũi với người bệnh và với gia đình làm những
cuộc thăm khám của bạn có hiệu quả hơn. Đồng thời, nếu bạn định hình trước được
ý tưởng rõ ràng cho mục tiêu cuộc thăm khám của bạn, bạn có thể làm cho cuộc đi
thăm khám tại nhà của mình có chủ định và bạn sẽ biết khi nào thì bạn kết thúc.
1.7.3. Những kỹ năng cụ thể để thăm khám tại nhà
Để bổ xung công dụng của một cuộc thăm khám tại nhà, người thầy thuốc
cần phải có kiến thức và những kỹ năng cụ thể thích hợp với việc chăm sóc cho một
người tại nhà. Những kiến thức và kỹ năng này bao gồm:
17
Đánh giá các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày (ADLs - Activities of
daily living) và các hoạt động có dụng cụ trong sống hàng ngày (IADLs -
Instrumental activities of daily living).
- Đánh giá môi trường tự nhiên.
- Đánh giá về mặt xã hội.
- Hiểu biết về các dịch vụ chăm sóc tại nhà đã có sẵn ở cộng đồng.
- Năng lực xây dựng một kế hoạch điều trị toàn diện.
- Một số hiểu biết về lợi ích của Medicare và những dịch vụ gì được Medicare
cung ứng tại nhà.
2.7.4. Quan tâm đến người chăm sóc
Đối với những bệnh nhân phải nằm ở nhà do bệnh mạn tính người chăm sóc
thường là lý do chính để bệnh nhân không phải đến nhà điều dưỡng. Bất kỳ một kế
hoạch chăm sóc người bệnh nào được vạch ra để giữ bệnh nhân ở nhà cũng phải
chú ý đến những nhu cầu của người phục vụ chăm sóc. Lắng nghe một cách thông
cảm là quan trọng nhưng đôi khi cũng cần giúp đỡ nhiều hơn. Các dịch vụ khiến
cho cuộc sống dễ chịu đựng hơn đối với những người chăm sóc vất vả gồm có dịch
vụ chăm sóc ban ngày, dịch vụ chăm sóc giải trí khuây khoả, dịch vụ giúp đỡ y tế
tại nhà, các trung tâm người cao tuổi, các chương trình "bữa ăn trên xe lăn", những
người tư vấn, những nhóm hỗ trợ. Các dịch vụ này thường được ghi trong danh bạ
điện thoại hoặc có thể hỏi địa chỉ nhờ tiếp xúc với cơ sở người cao tuổi tại địa
phương hoặc cơ sở dịch vụ xã hội.
18
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu, địa điểm và thời gian nghiên cứu
* Đối tượng:
Cán bộ y tế các cấp và người dân ở cộng đồng của tỉnh Yên Bái
- Người dân: Nghiên cứu thực trạng và nhu cầu về YHGĐ: Kiến thức phòng
bệnh, phát hiện và điều trị ban đầu, nâng cao sức khỏe của cá nhân và gia đình;
Nhu cầu về thực hành phòng bệnh, phát hiện và điều trị ban đầu, nâng cao sức
khỏe của cá nhân và gia đình; Mô hình bệnh tật ; Tình hình kinh tế - xã hội; Một
số giải pháp phát triển YHGĐ.
- Cán bộ y tế, bác sĩ CKI YHGĐ: Mô tả thực trạng về YHGĐ, khả năng đáp
ứng của y tế cơ sở với nhu cầu CSSK của dân tại HGĐ cũng như các giải pháp
nhằm phát triển mạng lưới YHGĐ.
Địa điểm: 2 huyện là Trấn Yên và Văn Chấn, 4 xã là Nga Quan, Việt Thành,
Đông Khê và Phù Nham.
Thời gian nghiên cứu: Tháng 10/2008
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Sử dụng công cụ định lượng và định tính.
2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu và phương pháp thu thập số liệu
a) Người dân/HGĐ: Đối tượng thứ nhất là người dân và HGĐ của người dân
đó. Mỗi HGĐ chỉ phỏng vấn 01 người để thu thập các thông tin về bản thân người
đó và về HGĐ của họ, đồng thời dùng bảng kiểm quan sát một số thực trạng về
HGĐ. Tiêu chuẩn chọn: Phỏng vấn người chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho
toàn HGĐ (thường là mẹ/bố, có thể là ông/bà tuy gia đình), không bị các bệnh gây
thiểu năng trí tuệ, có đủ tư cách dân sự và đủ sức khỏe phục vụ cho nghiên cứu; có
mặt tại thời điểm điều tra.
- Cỡ mẫu dùng cho nghiên cứu ngang để ước lượng tỉ lệ trong quần thể:
19
[ ]
[ ]
2
)2/1(
)(
1
2
ε
α
p
pp
Z
n
−
=
−
(1)
Trong đó:
α là ngưỡng ý nghĩa, chọn α bằng 0,05 ⇒ Z (1 - α / 2) = 1,96.
P là tỉ lệ người dân mô tả đúng thực trạng và nhu cầu về CSSK HGĐ. Vì
chưa có nghiên cứu nào về tỉ lệ này nên chọn p = 50% (tức 0,5).
ε
là hệ số điều chỉnh cho khoảng sai lệch mong muốn giữa p trong mẫu và tỉ lệ
này thật trong quần thể của người dân trong toàn quốc ( lấy giá trị 0,4).
Điền các giá trị vào công thức chọn mẫu, tính được n = 240 người dân.
Để loại bỏ các phiếu không hợp lệ hay bị sai, lấy thêm 10% (tức 25) đối tượng này
cho điều tra. Vậy tổng số dân được điều tra là 240 + 25 = 265 (lấy tròn 270).
Dự kiến thông tin cần thu thập khi phỏng vấn người dân:
- Thông tin cá nhân: Họ, tên, tuổi, giới, nghề nghịêp, học vấn.
- Thông tin về sức khỏe, bệnh tật cá nhân.
- Kiến thức, thực hành về phòng bệnh, phát hiện, xử lý một số bệnh thông thường
- Kiến thức về chính sách y tế phổ cập.
- Nhu cầu về CSSK ban đầu tại HGĐ
- Thực trạng về dịch vụ CSSK tại HGĐ theo quan điểm của YHGĐ
- Giải pháp phát triển CSSK tại HGĐ (nếu có thể).
Thông tin cần thu thập khi dùng bảng kiểm để đánh giá thực hành về CSSK
của người dân tại HGĐ:
- Vệ sinh HGĐ, môi trường
- Vệ sinh cơ thể/ cá nhân
- Sức khỏe, bệnh (thông qua y bạ và các giấy tờ liên quan).
20
b) Y tế thôn, bản, đường phố: Tất cả nhân viên Y tế thôn, bản, đường phố
(trừ người đi vắng tại thời điểm điều tra) của các xã, phường, thị trấn được chọn tại
mẫu cấp III. Uớc tính mỗi xã/phường/thị trấn có khoảng 8 nhân viên y tế thôn bản,
nên tổng số khoảng 16 nhân viên y tế thôn bản được điều tra. Phương pháp điều tra:
Thảo luận nhóm (TLN) thông qua hướng dẫn TLN hoặc phỏng vấn sâu. Dự kiến thông
tin cần thu thập: Thực trạng về dịch vụ CSSK tại HGĐ theo quan điểm của YHGĐ;
Nhu cầu CSSK tại HGĐ: Phòng bệnh, khám phát hiện, điều trị, sơ cứu, tư vấn - truyền
thong - giáo dục sức khỏe; Một số yếu tố tác động tới CSSK- HGĐ; Các giải pháp phát
triển CSSK- HGĐ
c) Trưởng thôn, trưởng bản, tổ trưởng tổ dân phố: Người có trách nhiệm liên
quan như chỉ đạo, tham gia vào các hoạt động y học gia đình, CSSK tại HGĐ, thôn,
xóm. Số lượng: Mỗi xã ước tính: 8 người tạo thành nhóm. Tổng số: 8 x 2 xã = 16.
Phương pháp điều tra: Thảo luận nhóm. Dự kiến thông tin cần thu thập: Thực trạng về
dịch vụ CSSK tại HGĐ theo quan điểm của YHGĐ; Nhu cầu CSSK tại HGĐ: Phòng
bệnh, khám phát hiện, điều trị, sơ cứu, tư vấn - truyền thong - giáo dục sức khỏe; Một
số yếu tố tác động tới CSSK- HGĐ; Các giải pháp phát triển CSSK- HGĐ
d) Cán bộ TYTX: Thảo luận nhóm tất cả nhân viên của trạm theo mẫu/nội
dung hướng dẫn, ghi biên bản hay ghi âm. Tổng số 2 TYTX, phường, thị trấn được
nghiên cứu với khoảng 10 cán bộ y tế tại TYT xã tham gia thảo luận nhóm. Dự kiến
thông tin cần thu thập: Thực trạng về dịch vụ CSSK tại HGĐ theo quan điểm của
YHGĐ; Sự đáp ứng về CSSK- HGĐ hiện nay của hệ thống y tế xã/phường; Nhu
cầu CSSK tại HGĐ: Phòng bệnh, khám phát hiện, điều trị, sơ cứu, tư vấn- truyền
thông- giáo dục sức khỏe; Một số yếu tố tác động tới CSSK- HGĐ; Các giải pháp
phát triển CSSK- HGĐ
đ) Cán bộ UBND xã, các đoàn thể: Người có trách nhiệm liên quan như chỉ
đạo, tham gia vào các hoạt động y học gia đình, CSSK tại HGĐ, thôn,xóm. Số
lượng: Mỗi xã ước tính: 5 người tạo thành nhóm. Tổng số: 5 x 2 xã = 10. Phương
pháp điều tra: Thảo luận nhóm. Dự kiến thông tin cần thu thập: Thực trạng về dịch
21
vụ CSSK tại HGĐ theo quan điểm của YHGĐ; Sự đáp ứng về CSSK- HGĐ hiện
nay của hệ thống y tế xã/phường; Nhu cầu CSSK tại HGĐ: Phòng bệnh, khám phát
hiện, điều trị, sơ cứu, tư vấn - truyền thong - giáo dục sức khỏe; Một số yếu tố tác
động tới CSSK- HGĐ; Các giải pháp phát triển CSSK- HGĐ
e) Cán bộ quản lý, hoạch định chính sách y tế, các nhà nghiên cứu và theo
dõi về CSSK HGĐ của địa phương (huyện, tỉnh). Tiêu chuẩn chọn: Cán bộ lãnh
đạo/ quản lý hay nhân viên y tế tuyến huyện, nơi được chọn điều tra ở mẫu bậc II.
(Phòng y tế/ Trung tâm y tế dự phòng/ Bệnh viện) ; Mỗi huyện chọn chủ đích 10
cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý về hoạt động y học gia đình, CSSK tại HGĐ, thôn,
xóm để thảo luận nhóm. Tổng số: 10 x 2 = 20.
f) Cán bộ UBND huyện, các đoàn thể: Tiêu chuẩn chuẩn chọn: Người có trách
nhiệm liên quan như chỉ đạo, tham gia vào các hoạt động y học gia đình, CSSK tại
HGĐ, thôn, xóm. Số lượng: Mỗi huyện ước tính: 3 người tạo thành nhóm. Tổng số: 3
x 2 huyện = 6. Phương pháp điều tra: Thảo luận nhóm.
g) Cán bộ lãnh đạo/ quản lý hay nhân viên y tế tuyến tỉnh, các nhà nghiên
cứu về YHGĐ/ CSSKBĐ nơi được chọn điều tra ở mẫu bậc I. Mỗi tỉnh chọn 10
người. Tổng số: 10 x 1 = 10. Thảo luận nhóm.
h) Cán bộ làm công tác đào tạo bác sĩ tuyến xã, điều dưỡng và nữ hộ sinh
cộng đồng tại các trường trung học y/ trung tâm đào tạo T/TP: 5 người/nhóm. Điều
tra thông qua thảo luận nhóm. Tổng số 5 x 1 = 5. Thảo luận nhóm. Dự kiến thông tin
cần thu thập từ các đối tượng trên: Thực trạng về dịch vụ CSSK tại HGĐ theo quan
điểm của YHGĐ; Nhu cầu CSSK tại HGĐ: Phòng bệnh, khám phát hiện, điều trị, sơ
cứu, tư vấn - truyền thong - giáo dục sức khỏe; Một số yếu tố tác động tới CSSK-
HGĐ; Sự đáp ứng về CSSK- HGĐ hiện nay của hệ thống y tế xã/phường,
quận/huyện; Phương hướng phát triển YHGĐ; Các giải pháp phát triển CSSK- HGĐ
i) Cán bộ tuyến Trung ương: Cán bộ lãnh đạo, quản lý hay nhân viên chịu
trách nhiệm quản lý, đào tạo về YHGD và CSSKBĐ, các nhà khoa học nghiên cứu
về CSSKBĐ và YHGĐ. Chọn chủ đích tại Bộ Y tế, cơ quan trực thuộc Bộ, các