Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Hoàn thiện và đổi mới chính sách tiền lương trong giai đoạn 2002 - 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.35 KB, 22 trang )

Lời nói đầu
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế ở nớc ta đã đạt đợc những
thành tựu to lớn, đồng thời Đảng và Nhà nớc ta còn rất quan tâm đến các vấn đề xã
hội. T tởng chỉ đạo các chủ trơng, chính sách xã hội là chăm sóc, bồi dỡng và phát
huy nhân tố con ngời với t cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng,
trong đó việc làm, công bằng xã hội, nâng cao dân trí, lành mạnh hoá xã hội, chăm
sóc và bồi dỡng sức khoẻ của nhân dân là những vấn đề quan trọng và bức bách
hiện nay.
Song tình hình thực tế cho thấy rằng, sự đổi mới một số lĩnh vực xã hội còn
cha theo kịp với công cuộc đổi mới chung của đất nớc. Các vấn đề tiền lơng, việc
làm và quản lý lao động còn có những điểm bất hợp lý, cha tạo đợc động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách tiền lơng của ta đã quá lạc hậu, tiền lơng
không đảm bảo để tái sản xuất sức lao động, không phản ánh đúng thực trạng thu
nhập của những ngời làm công ăn lơng, làm mất động lực kích thích của tiền lơng,
làm cho hệ thống phân phối của nớc ta bị rối loạn. Nhà nớc không điều tiết đợc thu
nhập, làm tăng tình trạng phân hóa bất bình đẳng trong xã hội.
Từ việc nhận thức rõ tầm quan trọng của chính sách tiền lơng đối với phát triển
kinh tế và công bằng xã hội, tôi đã chọn đề tài Hoàn thiện và đổi mới chính sách tiền
lơng trong giai đoạn 2002 - 2007 làm Tiểu luận Kinh tế chính trị.
Tiểu luận sẽ tập chung vào một số vấn đề chính sau:
Thứ nhất: Cơ sở lý luận về tiền lơng.
Thứ hai: Phân tích thực trạng tiền lơng và chính sách tiền lơng trong những năm
qua.
Thứ ba: Phơng hớng đổi mới và các giải pháp đổi mới tiền lơng trong quá trình
phát triển kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Do đó,
tôi rất mong nhận đợc sự quan tâm và đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn đọc để
hoàn thiện đề tài này.
Phần 1: Cơ sở lý luận về tiền lơng.
1
1.1.Lý luận tiền lơng của trờng phái cổ điển


William Petty (1623-1687)
Lý thuyết tiền lơng của William Petty đợc xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá
trị - lao động. Ông coi lao động là hàng hoá, tiền lơng là giá cả tự nhiên của lao
động. Ông đặt nhiệm vụ xác định mức tiền lơng. Theo ông giới hạn cao nhất của
tiền lơng là mức t liệu sinh hoạt tối thiểu để nuôi sống ngời công nhân. Ông cho
rằng, tiền lơng cao thì công nhân thích uống rợu, hay bỏ việc. Còn lơng thấp thì
công nhân phải tích cực lao động, gắn với nhà t bản hơn. Nh vậy, chính William
Petty là ngời đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết "quy luật sắt về tiền
lơng".
Lý thuyết mức lơng tối thiểu phản ánh trình độ phát triển ban đầu của CNTB.
Lúc này, sản xuất cha phát triển, để buộc công nhân làm việc, giai cấp t sản phải
dựa vào Nhà nớc để duy trì mức lơng thấp. Tuy nhiên từ lý luận này ta thấy đợc là,
công nhân chỉ nhận đợc từ sản phẩm lao động của mình những t liệu sinh hoạt tối
thiểu do họ tạo ra. Phần còn lại đã bị nhà t bản chiếm đoạt. Đó là mầm mống phân
tích sự bóc lột.
Adam-Smith (1723-1790)
Việc phân tích tiền lơng của A.Smith có nhiều điều quý giá. Theo ông, khi
làm việc bằng t liệu sản xuất và ruộng đất của mình, ngời sản xuất nhận đợc sản
phẩm toàn vẹn của lao động của họ. Song khi sở hữu TBCN xuất hiện, ngời công
nhân trở thành lao động làm thuê, thì tiền lơng của họ không phải là toàn bộ giá trị
sản phẩm lao động của họ sản xuất ra nữa, mà chỉ là một bộ phận của giá trị đó. Cơ
sở tiền lơng là giá trị t liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống ngời công nhân và con
cái anh ta để đợc tiếp đa ra thay thế trên thị trờng lao động. Ông nghiên cứu mức
bình thờng của tiền lơng và chỉ ra giới hạn tối thiểu của nó. Theo ông, nếu tiền l-
ơng thấp hơn mức tối thiểu này, là sự thảm hoạ cho sự tồn tại của dân tộc.
Một đặc điểm khác trong lý thuyết tiền lơng của A.Smith là ông nghiên cứu
tiền lơng trong cơ chế thị trờng lao động tự do. Theo ông có một cơ chế chi phối
tiền lơng vận động nh sau: Tăng lơng dẫn đến tăng tỷ số sinh, tăng cung lao động,
tăng cạnh tranh giữa công nhân để bán lao động. Giảm tiền lơng dẫn đến giảm tỷ
2

số sinh, giảm sung lao động, tăng cạnh tranh giữa các nhà t bản để mua lao động
nên làm cho lơng tăng lên.
A.Smith là ngời ủng hộ tiền lơng cao. Theo ông , tiền lơng cao sẽ tăng khả
năng tăng trởng kinh tế và mức lơng cao tơng đối là nhân tố kích thích công nhân
tăng năng xuất lao động. Điều đó tạo ra điều kiện tăng tích luỹ t bản và tăng nhu
cầu về lao động. Ông phê phán quan điểm cho rằng trả lơng cao làm cho công
nhân lời biếng và không khuyến khích lao động. Ông vạch rõ rằng, nhà t bản
không sợ gì việc trả lơng cho công nhân cao, vì cơ chế thị trờng lao động sẽ điều
chỉnh mức tiền lơng thích ứng.
Tuy nhiên trong lý thuyết tiền lơng A.Smith cũng nh các nhà kinh tế học t sản
trớc và sau đều cho rằng, tiền lơng là giá cả của lao động.
David Ricardo.
Về tiền lơng, ông coi lao động là hàng hoá. Tiền lơng, hay giá cả thị trờng
của lao động, đợc xác định trên cở sở giá cả tự nhiên và xoay quanh nó. Giá cả tự
nhiên của hàng hoá lao động là giá trị những t liệu sinh hoạt nuôi sống ngời công
nhân và gia đình anh ta. ông đã chỉ ra cấu thành t liệu sinh hoạt cho ngời công
nhân phụ thuộc vào yếu tố lịch sử, truyền thống dân tộc, song ông lại chủ trơng t
liệu sinh hoạt đó chỉ ở mức tối thiểu. Hay nói một cách khác, ông ủng hộ "lý
thuyết quy luật sắt về tiền lơng".
Ông giải thích rằng, tiền lơng phải ở mức tối thiểu, đó là quy luật chung tự
nhiên cho mọi xã hội. Chỉ trong điều kiện đặc biệt thuận lợi, khả năng tăng lực l-
ợng sản xuất mới vợt khả năng tăng dân số, còn trong điều kiện bình thờng, với đất
đai hạn chế và sự giảm sút hiệu quả của đầu t bổ sung, sẽ làm của cải tăng chậm
hơn dân số. Khi đó, cơ chế điều tiết tự phát sẽ hoạt động. Điều đó sẽ kìm hãm tốc
độ tăng dân số, Ông ủng hộ việc Nhà nớc không can thiệp vào hoạt động của thị tr-
ờng lao động, phê phán sự giúp đỡ đối với ngời nghèo, vì theo ông, làm nh vậy sẽ
ngăn cản sự hoạt động của quy luật tự nhiên.
1.2. Lý luận về tiền lơng của C.Mác.
Trong xã hội t bản, ngời công nhân bán sức lao động cho nhà t bản và sau
quá trình làm việc ngời công nhân nhận đợc 1 khoản thu nhập dới hình thức tiền

3
công hay tiền lơng. Với hình thức trả lơng hay trả công nh vậy làm cho ngời ta dễ
lầm tởng tiền công là giá cả của lao động và lao động là hàng hoá. Nếu nhà t bản
trả đúng giá trị lao động thì nhà t bản không bóc lột công nhân. Nhng Các mác đã
phân tích và chỉ rõ tiền công hay tiền lơng không thể là giá cả của lao động bởi lao
động là một phạm trù trìu tợng do đó nó không thể là hàng hoá vì vậy tiền công
phải là giá cả của sức lao động bởi sức lao động là cái hiện diện trong cơ thể của
mỗi con ngời nói lên năng lực lao động của mỗi con ngời.
Hơn nữa, nếu lao động là hàng hoá mà nhà t bản trả đúng gía trị thì phủ định
quy luật giá trị thặng d có nghĩa là nhà t bản ứng vốn chấp nhận rủi ro nhng không
thu đợc giá trị thặng d điều đó là vô lý.
Nếu lao động là hàng hoá thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhng thớc đo
nội tại của giá trị là lao động. Nh vậy, giá trị của lao động lại đợc đo bằng lao động
là một điều luẩn quẩn vô nghĩa.
Từ đó, Mác đi đến kết luận, lao động không phải là hàng, mà chính sức lao
động mới là hàng hoá. Tiền lơng là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động,
là giá cả của sức lao động mà biểu hiện ra bên ngoài nh là giá cả sức lao động.
Phần 2: Thực trạng tiền lơng và chính sách tiền lơng
qua từng giai đoạn.
2.1.Thực trạng tiền lơng và chính sách tiền lơng qua từng giai đoạn.
2.1.1. Giai đoạn trớc năm 1993:
4
Trớc năm 1993, chính sách tiền lơng của chúng ta đợc thực hiện theo Nghị
định số 235/HĐBT và diễn biến tiền lơng qua 21 lần điều chỉnh,bổ sung từ tháng
9-1985 đến đầu năm 1993. Qua 21 lần điều chỉnh, từ khi ban hành Nghị định
235/HĐBT ngày 18-9-1985 đến hết quý i năm 1993 thì mức lơng của cán bộ, công
nhân viên hởng lơng từ ngân sách, và thông số tiền lơng trong các doanh nghiệp
nh sau:
Đối với doanh nghiệp: tỷ lệ trợt giá trên dựa vào thông số tiền lơng là 370%
tiền lơng và phụ cấp theo quyết định 102/HĐBT, tính ra mức lơng bình

quân là: 105.750đ/tháng.
Đối với khu vực hởng lơng từ ngân sách: tổng trợ cấp trợt giá là 125% tiền
lơng chính theo Quyết định 203/HĐBT và các khoản bù nh sau: Mức lơng
tối thiểu là 77.520đ/tháng; mức lơng bình quân là 119.875đ/tháng; mức l-
ơng tối đa (Bộ trởng).
Ngoài tiền lơng, trợ cấp và các khoản bù giá (bù điện, bảo hiểm y tế, tiền
học, tiền nhà ở), đến đầu năm 1993, tiền lơng cán bộ, công nhân viên vẫn
còn đợc Nhà nớc bao cấp và chi về đi lại (đi làm việc hàng ngày và đi phép),
về bảo hiểm xã hội.
Có thể đánh giá tổng quát thực trạng tiền lơng của công nhân viên chức Nhà
nớc nh sau:
* Những điều đã thực hiện:
Từ năm 1985 đến 1993 đã thực hiện đợc một bớc tiền tệ hoá tiền lơng, xoá
bỏ các mặt hàng phân phối theo định lợng cơ chế giá thấp, thoát ly khỏi giá trị
hàng hóa. Đồng thời, cùng với việc bù tiền bảo hiểm y tế, tiền học, tiền nhà ở đã bỏ
dần đợc bao cấp trong tiền lơng. Trong kết cấu tiền lơng đã có sự thay đổi cơ bản
nh sau: phần phân phối trực tiếp bằng tiền ngày càng tăng; phần phân phối gián
tiếp, bao cấp qua ngân sách Nhà nớc ngày càng giảm: đến đầu năm 1993 chỉ còn 2
khoản phân phối gián tiếp bằng 20% phần phân phối bằng tiền là bảo hiểm xã hội
và chi đi lại.
Việc thay đổi kết cấu tiền lơng là đặc biệt quan trọng, vừa phù hợp với cơ
chế thị trờng, vừa làm thay đổi cơ bản mô hình phân chia sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân.
5
Về tổ chức tiền lơng theo Nghị định 235/HĐBT so với chế độ tiền lơng năm
1960 đơn giản và dễ hiểu hơn. Số thang, bảng lơng và các chế độ phị cấp ít hơn,
phù hợp với sự thay đổi trong kết cấu lao động xã hội từ năm 1960 đến 1985.
Từ năm 1985 đến 1993 đã có sự thay đổi cơ bản trong cơ chế tiền lơng đối
với khu vực sản xuất, kinh doanh. Đối với khu vực này, tiền lơng theo các thang l-
ơng, bảng lơng, phụ cấp mà Nhà nớc quy định thờng chỉ là thông số đầu vào.

* Những tồn tại:
Ngay từ khi mới ban hành, bản thân chính sách tiền lơng theo Nghị định số
235/HĐBT đã có rất nhiều hạn chế, không phù hợp với khả năng kinh tế lúc đó:
tiền lơng thực tế tháng 9-1985 tăng 64%, đời sống ngời hởng lơng đợc cải thiện
khá, song chỉ đợc một thời gian rất ngắn, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát
ngày càng trầm trọng đã làm cho tiền lơng thực tế giảm sút liên tục. Mặc dù Nhà
nớc đã ban hành bổ sung các quyết định 202/HĐBT và 203/HĐBT, tính lại tiền l-
ơng, nhng chính sách tiền lơng vẫn mất dần ý nghĩa trong sản xuất và trong đời
sống xã hội.
Sự bất hợp lý, lạc hậu của tiền lơng trong giai đoạn này phản ánh những
điểm sau đây:
Tiền lơng theo chế độ không đảm bảo tái sản xuất sức lao động.
Tiền lơng đợc tiền tệ hoá ở mức độ thấp, do đó không đợc hạch toán đầy đủ
vào giá thành và che giấu sự phân phối không công bằng trong các quan hệ
xã hội.
Toàn bộ chính sách tiền lơng đợc xây dựng và ban hành áp dụng riêng cho
công nhân, viên chức khu vực Nhà nớc. Mức lơng tối thiểu và hệ thống
thang, bảng lơng hoàn toàn tách rời và cách biệt với hệ thống tiền lơng và
thu nhập trong phạm vi toàn xã hội.
Xét về kết cấu hệ thống thang lơng, bảng lơng và các chế độ phụ cấp lơng ta
thấy:
Hệ thống thang lơng, bảng lơng không phản ánh đợc sự khác biệt về tiền l-
ơng giữa các loại lao động, do bội số tiền lơng chung quá chật hẹp. Hệ
thống thang lơng, bảng lơng không phân biệt sự khác nhau giữa sản xuất-
kinh doanh, quản lý Nhà nớc và các chức vụ dân cử.
6
Kết cấu bảng lơng còn trùng lắp và quá chi tiết, đã gây khó khăn cho quá
trình sử dụng và quản lý tiền lơng, đồng thời không có tác dụng khuyến
khích lao động. Đối với các bảng lơng chức vụ của cán bộ quản lý cha có
tiêu chuẩn nghiệp vụ, cho nên việc đánh giá, phân biệt tiền lơng cha có cơ

sở.
Hệ thống phụ cấp lơng rất phức tạp và đa dạng, song cha khái quát đợc các
chức năng và nội dung về điều kiện lao động, nhằm bảo đảm tính chất
khuyến khích, u đãi và đền bù hao phí lao động.
Cơ chế quản lý Nhà nớc về tiền lơng bộc lộ nhiều sơ hở và không thích ứng
với điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế-xã hội hiện nay.
Thực hiện chính sách tiền lơng không đồng bộ với các chính sách kinh tế-xã
hội nên đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn ngay bản thân chính sách tiền lơng, gây
hỗn loạn trong phân phối thu nhập và vi phạm nghiêm trọng công bằng xã hội.
2.1.2. Giai đoạn từ 1993 đến 2000.
a. Một số quan điểm cơ bản.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng, chính sách tiền lơng theo Nghị định
235/HĐBT vừa lạc hậu, vừa chứa đựng nhiều mâu thuẫn, có ảnh hởng xấu đến sản
xuất, đời sống và công bằng xã hội. Từ thực tế đó, việc xây dựng chính sách tiền l-
ơng mới nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của công cuộc đổi mới vừa là công việc
cần thiết bức bách, vừa là yêu cầu cơ bản và lâu dài.
Cải cách chính sách tiền lơng lần này dựa trên sự thay đổi cơ bản nhận thức,
quan điểm, nguyên tắc về tiền lơng phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thị tr-
ờng có sự quản lý của Nhà nớc. Những quan điểm đó là:
Tiền lơng là giá cả sức lao động, đợc hình thành qua thoả thuận giữa ngời sử
dụng lao động và ngời lao động phù hợp với quan hệ cung-cầu sức lao động
trong nền kinh tế thị trờng.
Thay đổi kết cấu tiền lơng từ việc phân phối gián tiếp sang phân phối trực
tiếp trong tiền lơng (nhà ở, bảo hiểm y tế, tiền học, ), đồng thời phân biệt
rõ hệ thống tiền lơng của các chức vụ bầu cử, hành chính sự nghiệp, sản
xuất-kinh doanh và lực lợng vũ trang. Tách dần các chế độ đãi ngộ ra khỏi
tiền lơng.
7
Thực hiện chính sách tiền lơng trên cơ sở sắp xếp, tinh giản bộ máy và biên
chế trong khu vực hành chính sự nghiệp, gắn tiền lơng với chất lợng, hiệu

quả công tác, thúc đẩy nền hành chính quốc gia. Ngời đủ tiêu chuẩn thì đợc
hởng lơng mới, ngời cha đáp ứng đợc yêu cầu công việc thì phải có kế
hoạch đào tạo bồi dỡng, ngời không đủ tiêu chuẩn và không đáp ứng đợc
yêu cầu công việc thì đợc sắp xếp lại.
Cải cách chính sách tiền lơng phải đồng bộ với cải cách chính sách kinh tế -
xã hội liên quan, và việc đổi mới chính sách phải có thời gian, phối hợp chặt
chẽ làm tiền đề và thúc đẩy cải cách tiền lơng.
Thực hiện cải cách tiền lơng là một quá trình với những bớc đi thích hợp,
vừa xây dựng cơ chế, chính sách, vừa kiểm soát va điều tiết những bất hợp
lý trong xã hội.
b. Những nội dung cơ bản của chính sách tiền lơng theo Nghị định 25/CP,
26/CP.
Theo các Nghị định 25/CP và 26/CP, mức lơng 120đ/tháng là mức lơng đợc
xác định dựa vào các căn cứ sau:
Theo mức lơng tối thiểu đã đợc nghiên cứu trong đề án cải cách tiền lơng
tính từ tháng 10-1990 cộng thêm phần trợt giá từ đó đến nay.
Theo kết quả điều tra, tiền công và thu nhập tối thiểu ở một số vùng và một
số địa phơng (thành phố, đồng bằng, miền núi, Trung, Nam, Bắc) và phúc tra 2000
phiếu trên 7000 phiếu đã điều tra về lơng tối thiểu năm 1990.
Theo mức lơng tối thiểu kể cả các khoản tiền tệ hoá khu vực hành chính sự
nghiệp
Với các căn cứ trên, mức tiền lơng tối thiểu nằm trong khoảng từ 108.000 -
135.000đ. Nh vậy, mức lơng tối thiểu 120.000đ là mức lơng bình quân của các tính
toán trên.
Mức lơng tối thiểu này đã giải quyết đợc một số vấn đề cơ bản sau đây:
Cải thiện một phần đáng kể đời sống của cán bộ, công nhân viên. Mức lơng
tối thiểu trớc cải cách kể cả các khoản tiền tệ hoá là 88.500đ. Mức lơng tối
thiểu mới là 120.000đ, tăng 36,3%.
8

×