Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tìm hiểu và nghiên cứu về quỹ đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.42 KB, 32 trang )

DANH SÁCH TỔ 3
1. Đinh Sỹ Duật
2. Nguyễn Thanh An
3. Tạ Thanh Tín
4. Hồ Lê Đoan Phương
5. Lê Thị Hà (10-5-1989)
6. Đinh Thị Kim Lân
7. Nguyễn Quốc Việt
8. Đặng Thị Kim Hoàng
9. Võ Ngọc Quỳnh Trân
10. Phan Thị Loan
11. Nguyễn Thị Ánh Nhung
12. Phạm Thị Ánh Thuỷ
13. Trần Thị Huyền Trang
14. Trần Đình Học
15. K’sor Nguyễn Thanh Cường
16. Nguyễn Thanh Bửu
17. Nguyễn Thị Chiến
18. Nông Thị Kiều
19. Đàm Thị Bích
20. Trịnh Quốc Bảo
21. Nguyễn Thị Xuân Dương
1
KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Lời mở đầu
Phần 1: Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm
1.2. Phân loại
1.3. Vai trò của quỹ đầu tư
1.3.1. Đối với nền kinh tế
1.3.2. Đối với thị trường chứng khoán


1.3.3. Đối với người đầu tư
1.3.4. Đối với người nhận đầu tư
Phần 2: Cơ sở thực tiễn
2.1. Sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán
2.1.2. Sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán trên thế giới
2.1.2. Sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở việt nam
2.2. Nguyên tắc hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán
2.2.1. Nguyên tắc huy động vốn
2.2.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ
2.2.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ
2.2.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư
2.2.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ
2.3. Thực trạng của quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
2.4. Những thuận lợi và khó khăn của quỹ đầu tư chứng khoán Việt
Nam
2.4.1. Những khó khăn của các quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam
2.4.2. Những thuận lợi của quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam
2.5. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các Quỹ đầu tư chứng khoán
2.5.1. Về phía Nhà nước
2.5.2. Về phía các Quỹ đầu tư
Kết luận
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư được hiểu là việc cá
nhân, tổ chức sử dụng tài sản để tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục
tiêu thụ được nhiều tài sản hơn trong tương lai. Lĩnh vực đầu tư rất phong
phú từ việc sản xuất kinh doanh hàng hoá đến việc góp vốn mua cổ phần hay
đơn giản là việc gửi tiết kiệm tại Ngân hàng hay tham gia vào một hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ.

Một trong những lĩnh vực đầu tư rất hấp dẫn không những về khả
năng sinh lời mà còn ở tính hấp dẫn của nó là đầu tư chứng khoán.
Đầu tư chứng khoán được hiểu là việc một chủ thể nắm giữ chứng
khoán để kỳ vọng vào lợi nhuận mà nó mang lại trong tương lai. Lợi nhuận
có thể thu được từ lãi chứng khoán đang nắm giữ hoặc chênh lệch từ hoạt
động mua bán chứng khoán.
Trên thị trường chứng khoán hiện nay có rất nhiều hình thức đầu tư
rất đa dạng, mỗi một hình thức đầu tư thì có những ưu nhược điểm khác
nhau. Đầu tư chứng khoán thông qua quỹ đầu tư là một hình thức đang được
nhiều cá nhân, tổ chức lựa chọn. Và nhất là trong những quốc gia có nền
kinh tế đang phát triển thì loại hình này ngày càng phổ biến và đóng vai trò
như là người “dẫn dắt thị trường”, giúp bình ổn thị trường chứng khoán của
quốc gia. Quỹ đầu tư là một trong các định chế trung gian tài chính phi ngân
hàng, nó giữ vai trò là một trong những cầu nối giữa người cần vốn và người
thiếu vốn, đặc biệt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, các nhà đầu
tư nhỏ không chuyên nghiệp đang có những ý muốn đầu tư có thể sử dụng
vốn của mình hiệu quả hơn, mang lại lợi nhuận cao hơn.
Chính vì những lý do trên, tổ 3 chúng em đã chọn đề tài “Quỹ Đầu
Tư” là đề tài tìm hiểu và nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn nữa về quỹ đầu tư và
tầm quan trọng của quỹ đầu tư đối với nền kinh tế đang tăng trưởng hiện
nay, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thực trạng của quỹ đầu tư chúng em
có thể đề suất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển quỹ đầu tư ở
Việt Nam.
3
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm
Quỹ đầu tư là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp do các nhà đầu tư
cùng góp vốn. Từ những khoản tiền tiết kiệm, nhàn rỗi phân tán trong dân
chúng được tập trung lại thành các nguồn lớn cho các nhà chuyên nghiệp sử
dụng trong lĩnh vực đầu tư kiếm lời và phân chia cổ tức cho các cổ đông

đóng góp vốn. Các khoản tiền tiết kiệm này thay vì được các nhà đầu tư đưa
cho môi giới chứng khoán để trực tiếp mua chứng khoán trên thị trường thì
lại được góp vào quỹ đầu tư để thực hiện việc đầu tư tập thể.
Theo định nghĩa của Cadogan Fianacials, quỹ đầu tư là một định chế
tài chính phi ngân hàng, trung gian giữa người có vốn (thu hút tiền nhàn rỗi
từ các nguồn thông tin khác nhau) và người cần vốn (sử dụng các khoản tiền
đó để đầu tư vào các tài sản khác nhau thông qua công cụ cổ phiếu, trái
phiếu và tiền tệ). Nói cách khác, quỹ đầu tư là một trong những cầu nối giúp
người có vốn gặp người có nhu cầu về vốn.
1.2. Phân loại
Có thể chia quỹ đầu tư làm 3 loại, Với các tiêu chí phân loại sau
• Căn cứ vào nguồn vốn huy động
- Huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng
Nhà đầu tư có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà
đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương
tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư
thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.
- Quỹ đầu tư cá nhân (Quỹ thành viên)
Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một
nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các cá nhân hay các
định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản
của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư
nhân thường với lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc
kiểm soát đầu tư của quỹ.
• Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn
- Qũy đầu tư dạng đóng
Đây là qũy đầu tư mà theo điều lệ quy định thường chỉ tạo ra vốn qua
một lần bán chứng khoán cho công chúng.quỹ đầu tư dạng đóng có thể phát
hành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Những người tham
4

gia góp vốn đầu tư không được phép rút vốn bằng cách bán lại chứng chỉ
quỹ đầu tư cho chính quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư dạng đóng dùng số vốn của
mình đầu tư vào các doanh nghiệp hay thị trường chứng khoán, sau đó lại
dùng số tiền và vốn lãi thu được để đầu tư trực tiếp. Như vậy quy mô vốn
của loại quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản lợi nhuận thu được mà thôi.
- Qũy đầu tư dạng mở
Quỹ đầu tư dạng mở còn được gọi là quỹ tương hỗ, người đầu tư có
thể rút vốn bất cứ lúc nào nếu họ thấy hoạt động của quỹ không hiệu quả.
Tất cả các cổ phiếu phát hành của quỹ này đều là cổ phiếu thường, so với
quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở có lợi thế rõ ràng về khả năng
huy động vốn, mở rộng quy mô vốn, do đó nó có tính linh hoạt hơn trong
việc lựa chọn các dự án đầu tư.
Sự khác nhau giữa quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở:
QUỸ ĐẦU TƯ DẠNG MỞ QUỸ ĐẦU TƯ DẠNG ĐÓNG
- Loại chứng khoán phát hành là cổ
phiếu thường.
- Có thể phát hành cổ phiếu thường,
cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu.
- Số lượng chứng khoán hiện hành
luôn thay đổi.
- Số lượng chứng khoán hiện hành cố
định.
- Chào bán ra công chúng liên tục. - Chào bán ra công chúng chỉ một
lần.
- Qũy sẵn sàng mua lại cổ phiếu phát
hành theo giá trị tài sản thuần.
- Không mua lại các chứng khoán đã
phát hành.
- Cổ phiếu được phép mua trực tiếp
từ quỹ đầu tư, người bảo lãnh phát

hành hay môi giới thương gia.
- Cổ phiếu được phép giao dịch trên
thị trường chứng khoán chính thức
hay phi chính thức (OTC)
- Gía mua là giá trị tài sản thuần
cộng với lệ phí bán (giá trị tài sản
thuần được xác định bằng giá trị
chứng khoán trong hồ sơ)
- Gía mua được xác định bởi lượng
cung cầu. Do đó giá mua có thể cao
hơn hoặc thấp hơn giá trị tài sản
thuần.
- Lệ phí bán được cộng thêm vào giá
trị tài sản thuần. Mọi phí tổn mua lại
phải công bố rõ ràng trong bản cáo
bạch.
• Căn cứ vào mô hình cấu trúc tổ chức – điều hành, quỹ đầu tư
được tổ chức dưới 2 hình thức
- Qũy đầu tư dạng công ty
Theo mô hình công ty, quỹ đầu tư được xem là một pháp nhân đầy đủ,
những người góp vốn vào quỹ trở thành các cổ đông và có quyền bầu ra Hội
đồng quản trị quỹ. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng công ty thường
5
được sử dụng ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, tiêu biểu là
thị trường Mỹ và Anh.
- Qũy đầu tư dạng tín thác
Theo mô hình tín thác, quỹ đầu tư không được xem là một pháp nhân
đầy đủ, mà chỉ là quỹ chung vốn giữ người đầu tư để thuê các chuyên gia
quản lý quỹ chuyên nghiệp đầu tư sinh lợi. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới
dạng tín thác thường được sử dụng ở các thi trường chứng khoán mới nổi

đặc biệt là các thị trường chứng khoán đang phát triển ở Châu Á.
1.3. Vai trò của quỹ đầu tư
1.3.1. Đối với nền kinh tế
Quỹ đầu tư huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế ngay cả đối với
nguồn vốn nhỏ lẻ và trực tiếp tiến hành đầu tư chứ không phải cho vay. Quỹ
còn hấp dẫn đối với nguồn vốn từ nước ngoài chảy vào nhờ vào việc phát
hành các chứng chỉ quỹ có tính hấp dẫn cao với nhà đầu tư nước ngoài
1.3.2. Đối với thị trường chứng khoán
Quỹ đầu tư góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp và ổn
định thị trường thứ cấp. Các quỹ tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu
chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư làm
tăng lượng cung chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tạo sự đa dạng
về hàng hoá cho thị trường
Nó góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, giúp cho
sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên
nghiệp với các phương pháp đầu tư khoa học
Quỹ đầu tư góp phần làm xã hội hoá hoạt động đầu tư chứng khoán.
Các quỹ tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu
biết về chứng khoán yêu thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng
đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ
1.3.3. Đối với người đầu tư
Đa dạng hoá danh mục đầu tư và phân tán rủi ro. Bằng việc sử dụng
tiền thu được từ những nhà đầu tư để đầu tư phân tán vào danh mục các
chứng khoán, các Quỹ đầu tư làm giảm rủi ro cho các khoản đầu tư và làm
tăng cơ hội thu nhập cho các khoản đầu tư đó.
Tiết kiệm chi phí đầu tư. Vì là những danh mục đầu tư lớn được quản
lý chuyên nghiệp, Quỹ đầu tư chịu chi phí giao dịch thấp hay được hưởng
những ưu đãi về phí giao dịch hơn các cá nhân đầu tư, kể cả những người
mua bán thông qua những công ty môi giới có mức phí hoa hồng thấp nhất.
Tăng cường tính chuyên nghiệp của việc đầu tư. Thay cho việc người

đầu tư phải đi thuê tư vấn để quản lý tài sản của mình thì họ chỉ cần đầu tư
6
vào một quỹ với chi phí giảm đi rất nhiều. Tiền tập hợp trong các Quỹ đầu
tư chứng khoán được đặt dưới sự quản lý của các nhà đầu tư chuyên nghiệp
là các công ty quản lý quỹ
An toàn trước các hành vi không công bằng. Người đầu tư có thể bị
thiệt hại nếu danh mục đầu tư của quỹ bị giảm giá trị do sự biến động giá
chứng khoán trên thị trường, nhưng xác suất bị tổn thất do gian lận, bê bối
hoặc phá sản liên quan đến công ty quản lý quỹ là rất nhỏ. Khuôn khổ pháp
lý và việc quản lý chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền đối với Quỹ đầu tư
đem lại những đảm bảo cơ bản.
Tính thanh khoản của chứng khoán đầu tư. Các nhà đầu tư vào Quỹ
đầu tư chứng khoán có thể bán chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu quỹ mình đang
nắm giữ vào bất cứ lúc nào cho chính Quỹ đầu tư (trong trường hợp Quỹ
mở) hoặc trên thị trường thứ cấp (đối với Quỹ đóng) để thu hồi vốn.
1.3.4. Đối với người nhận đầu tư
Chi phí cho nguồn vốn phát triển thấp hơn khi vay ngân hàng. Trước
đây, hệ thống ngân hàng chiếm vai trò thống trị nền tài chính. Để vay được
vốn, doanh nghiệp phải thoả mãn một số điều kiện nhất định và lãi suất vay
cao. Quỹ đầu tư ra đời sẽ hạn chế được những nhược điểm của cơ chế cho
vay của ngân hàng
Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn. Lợi ích này có được từ việc quỹ
phát hành và giao dịch các loại chứng khoán này trên thị trường đã thu hút
sự chú ý của các nhà đầu tư, đặc biệt là các chủ thể có khả năng tài chính lớn
như ngân hàng, các tổng công ty, các công ty bảo hiểm… đầu tư vào quỹ
Tận dụng được những kiến thức quản lý đầu tư, marketing và tài
chính từ các Quỹ đầu tư.
Ngoài cung cấp vốn cho doanh nghiệp, các công ty quản lý quỹ đầu
tư còn có dịch vụ cung cấp các thông tin tài chính, tư vấn về kế hoạch tài
chính, marketing và các mối quan hệ với các tổ chức tài chính và doanh

nghiệp khác.
7
PHẦN 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư
chứng khoán
2.1.2. Sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư
chứng khoán trên thế giới
Quỹ đầu tư, một bộ phận không thể thiếu trên thị trường tài chính nói
chung, TTCK nói riêng tại các quốc gia có nền tài chính phát triển là một
phát minh của người Châu Âu thế kỷ 19. Các quỹ đầu tư ban đầu được thành
lập theo kiểu tín thác đầu tư (Investment Trust). Quỹ tín thác đầu tiên do vua
William I của Hà Lan thành lập tại Brusels - Bỉ. Quỹ này được lập ra để tạo
điều kiện cho Hà Lan có thể đưa tiền đầu tư ra nước ngoài dưới dạng các
khoản vay của chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư tín dụng chỉ thực sự
phát triển ở Anh. Cuộc cách mạng công nghiệp đã đưa nước này thành một
quốc gia thịnh vượng, có các nguồn vốn lớn dành cho đầu tư trong khi các
nước láng giềng châu Âu và châu Mỹ lại đang rất cần vốn. Vì vậy, các nước
thiếu vốn đã phát hành rất nhiều công cụ nợ với lãi suất hấp dẫn nhằm thu
hút vốn cho quá trình đầu tư ra nước ngoài, nhưng việc đầu tư này rất khó
khăn do việc thiếu các thông tin và kiến thức về môi trường đầu tư bên
ngoài. Trước tình hình này, một số nhà đầu tư đã lập ra quỹ đầu tư và thuê
các chuyên gia hiểu biết về môi trường nước ngoài đứng ra quản lý. Đây
chính là hình thái ban đầu của các quỹ đầu tư phổ biến hiện nay.
Những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 19, các quỹ tín thác kiểu Hà
Lan được lập ra ở Anh và Scotland. Hiệp hội tài chính Luân đôn (London
Financial Association) và Tập đoàn tài chính quốc tê (International Financial
Society) thành lập năm 1963 được coi là những quỹ tín thác đầu tiên của
Anh. Tiếp sau đó là Quỹ tín thác đầu tư Thuộc địa và Ngoại quốc (The
Foreign and Colonial Investment Trust) thành lập năm 1868 ở Luân đôn,
Quỹ đầu tư Canada và Anh (Britist and Canadian Fund) thành lập năm 1880.

Các thương gia của Anh và Scotland ngày đó muốn tìm kiếm nhiều lợi
nhuận hơn nên đã đem các khoản tiền đầu tư của mình ra nước ngoài, đặc
biệt là đầu tư vào các chứng khoán của Mỹ với tỷ suất lợi nhuận cao hơn
nhiều. Từ năm 1900 đến 1914, một lượng tiền khổng lồ của Anh đã đổ vào
Mỹ, chủ yếu là vào lĩnh vực đường sắt và năng lượng.
8
Các quỹ tín thác của Anh chính là hình mẫu cho các quỹ tín thác được
thành lập tại Mỹ sau này. Quỹ tín thác bất động sản cá nhân Boston (The
Boston Personal Property Trust), một quỹ đóng đầu tiên được thành lập ở
Mỹ vào năm 1893. Quỹ đầu tư chứng khoán ngành đường sắt và năng lượng
(The Railway and Light Securities Fund) là quỹ đóng đầu tiên của Mỹ áp
dụng các quỹ cho vay làm đòn bẩy để thâu tóm chứng khoán đã ra đời năm
1904. Đến những năm 1920, mô hình quỹ tín thác đầu tư bùng nổ và đến
năm 1929, ở Mỹ đã có hơn 700 quỹ đầu tư khác nhau. Cho đến nay, người ta
vẫn có thể tìm thấy một số quỹ đầu tư lâu đời nhất còn đang hoạt động như
General American Investors hình thành từ hai công ty đầu tư là Lehman
Brother và Lazard Frères thành lập ngày 25 tháng 1 năm 1927.
Sự bùng phát các quỹ đầu tư đã bị ngăn lại bởi cuộc Đại suy thoái
1929 – 1933. Mãi cho đến sau đại chiến thế giới II, các quỹ mới được khôi
phục và bắt đầu phát triển thành một ngành kinh doanh giàu mạnh như hiện
nay.Sau thế chiến II, giá cổ phiếu tăng mạnh đồng thời người Mỹ không
ngừng đầu tư vào thị trường cổ phiếu. Hơn nữa, chính phủ Mỹ cũng dần
hoàn thiện hệ thống luật khung pháp lý về quỹ làm cho các quỹ đầu tư chứng
khoán hoạt động lành mạnh hơn. Hai dự luật làm cơ sở căn bản nhất cho
hoạt động chứng khoán là Luật chứng khoán ban hành năm 1933 và Luật về
Sở giao dịch chứng khoán năm 1934. Cũng ngay sau đó, Uỷ ban chứng
khoán Mỹ (Securities Exchange Committee - SEC) đã bắt đầu nghiên cứu và
rút ra những bài học kinh nghiệm từ cuộc Đại suy thoái, soạn thảo và cho ra
đời Luật công ty đầu tư (Investment Company Act) năm 1940. Từ đó trở đi,
các quỹ bắt đầu ra đời hoặc được tái lập nhằm đáp ứng các quy định của luật

này. Đến năm 1995, luật này lại được sửa đổi và hoàn thiện nhằm đảm bảo
an toàn hơn nữa cho các nhà đầu tư, đồng thời cho phép các quỹ được áp
dụng các nghiệp vụ đầu tư mới nhất. Theo Viện công ty đầu tư (Investment
Company Institute – ICI), tổng giá trị tài sản ròng của các quỹ đã tăng từ 448
triệu USD năm 1940 lên 1065 tỷ USD vào năm 1990. Chỉ tính trong thập kỷ
1980, tài sản của các quỹ đã tăng lên 10 lần. Điều này có được là do các
chuyên gia quản lý quy đầu tư đã không ngừng cải tiến và nâng cao dịch vụ
cũng như tạo ra các dịch vụ mới đáp ứng được nhu cầu của đông đảo các
nhà đầu tư.
Ở châu Á, ngay từ năm 1937 ở Nhật Bản đã xuất hiện một số quỹ
tương tự như quỹ đầu tư. Đó là một tổ chức do một số nhà đầu tư thành lập
nên để lợi dụng các dịch vụ đầu tư do công ty chứng khoán cung cấp. Đây
chính là mầm mống đầu tiên cho sự xuất hiện các quỹ đầu tư ở Nhật Bản sau
này. Năm 1941, một mô hình mới được xây dựng ở Nhật Bản đáp ứng tiêu
chuẩn cho quỹ đầu tư chứng khoán. Trong năm tiếp đó, 6 công ty chứng
khoán đã thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán riêng và mỗi công ty chứng
9
khoán này đều có một công ty thực hiện việc bảo quản và giám sát tài sản
của mình. Hoạt động của các quỹ này đặt dưới sự điều chỉnh của các luật là
Luật Tín thác (Trust Law), và Luật kinh doanh tín thác (Trust Business
Law). Tính đến tháng 4 năm 1996, Nhật Bản đã có 16 công ty quản lý trực
thuộc công ty chứng khoán trong nước, 9 công ty quản lý trực thuộc công ty
tư vấn đầu tư trong nước , 11 công ty quản lý trực thuộc công ty nước ngoài
được phép hoạt động theo Luật tín thác đầu tư chứng khoán với số vốn của
các công ty thường từ 100 triệu yên đến 15 tỷ yên.
Không chỉ có ở các nước có nền tài chính phát triển lâu đời như Anh,
Mỹ, Nhật Bản…quỹ đầu tư chứng khoán còn giữ một vị trí quan trọng trên
các TTCK mới nổi.Việc phát triển quỹ đầu tư chứng khoán ở các TTCK mới
nổi bắt nguồn từ nhu cầu của những nền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt, đòi
hỏi phải cải thiện khả năng thanh toán và trợ giúp phát triển cơ sở hạ tầng.

Điều này hơi khác biệt so với nguồn gốc hình thành quỹ đầu tư ở các TTCK
phát triển, nơi mà quỹ đầu tư hình thành trên một TTCK phát triển cao, quỹ
đầu tư là một phương thức đầu tư hiện đại, làm tăng hiệu quả hoạt động của
TTCK. Tuy vậy, các quỹ đầu tư này cũng đã đạt được một số thành công
nhất định. Theo Công ty tài chính quốc tế ( International Financial
Corporation – IFC) tính đến tháng 12 năm 1998 có hơn 1800 quỹ đầu tư
đang hoạt động tại các TTCK mới nổi, với lượng vốn khoảng 300 tỷ USD,
trong đó, riêng ở Đông Nam Á, lượng vốn đã tăng từ 100 triệu USD vào
năm 1985 lên khoảng 5 tỷ USD vào cuối năm 1998.
Tóm lại, hoạt động của các quỹ đầu tư phát triển không ngừng, mở
rộng trên tất cả các TTCK thế giới. Nắm trong tay một lượng vốn khổng lồ,
các quỹ đầu tư ngày càng chứng tỏ vai trò của mình - một định chế tài chính
trung gian quan trọng đáp ứng nhu cầu của người đầu tư và người nhận đầu
tư cũng như của cả nền kinh tế. Thực tế đã chứng tỏ vai trò tích cực của quỹ
đầu tư trong TTCK. Tổng giá trị tài sản của các quỹ đầu tư ngày càng tăng
lên. Đến năm 1999, tổng tài sản của các quỹ mở đạt 6846,3 tỷ USD trong đó
có những quỹ khổng lồ nắm trong tay hàng chục tỷ USD như Magelan của
Fidelity (64 tỷ USD), Investment Company of American (40 tỷ USD), Janus
Growth Fund (20 tỷ USD)…
2.1.2. Sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt
Nam
Việt Nam ngay từ TTCK ra đời đến nay, Nghị định 48 ngày
11/7/1998 về Chứng khoán và TTCK và Nghị định 144 ngày 28/11/2003
thay thế Nghị định 48/1998/NĐ – CP cũng coi mô hình quỹ đầu tư chứng
khoán là một bộ phận không thể thiếu. Quyết định số 05/1998/QĐ – UBCK
ngày 13 tháng 10 năm 1998 về Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu
10
tư và Công ty quản lý quỹ cũng nêu rõ những quy định về tổ chức và hoạt
động của quỹ đầu tư chứng khoán nhằm phát triển quỹ đầu tư cho TTCK
Việt Nam.

Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường mới được hình
thành và phát triển cách đây không lâu nên môi trường đầu tư đang trong
giai đoạn hoàn thiện đặc biệt là vần đề hành lang pháp lý cho nhà đầu tư. Do
vậy, quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hầu hết là các quỹ đóng. Hiện có
20 quỹ đang tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán VN, trong đó có
các quỹ lớn thuộc các công ty quản lý VinaCapital và Dragon Capital như
Vietnam Opportunity Fund (VOF), Vietnam Infrastructure Ltd (VNI),
Vietnam Growth Fund (VGF), Vietnam Enterprise Investment Ltd (VEIL)
và Vietnam Dragon Fund (VDF).
2.2. Nguyên tắc hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán
2.2.1. Nguyên tắc huy động vốn
Việc huy động vốn của Quỹ đầu tư thông qua phát hành chứng khoán.
Tuy nhiên các quỹ chỉ được phát hành một số loại chứng khoán nhất định để
tạo thuận lợi cho việc quản lý của quỹ cũng như hoạt động đầu tư của những
người đầu tư. Tài sản của Quỹ đầu tư chủ yếu để đầu tư vào chứng khoán
chứ không phải trực tiếp đem vào đầu tư mở rộng sản xuất. Quỹ không thể
phát hành trái phiếu tức đi vay để đầu tư vào chứng khoán vì như thế sẽ tạo
nên môi trường chứng khoán ảo. Do vậy, nguyên tắc chung là quỹ chỉ phát
hành cổ phiếu (mô hình công ty) và chứng chỉ hưởng lợi (quỹ dạng tín thác).
Ngoài ra, quỹ không được phép phát hành trái phiếu hay đi vay vốn để đầu
tư. Quỹ chỉ được phép vay vốn ngắn hạn để trang trải các chi phí tạm thời
khi quỹ chưa có khả năng thu hồi vốn.
2.2.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ
Tài sản của quỹ phải được kiểm soát bởi một tổ chức bảo quản tài sản.
Tổ chức này chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi đối với tài sản của các nhà
đầu tư. Chức năng giám sát tuỳ từng mô hình quỹ mà pháp luật các nước
11
giao cho một tổ chức tín thác hay hội đồng quản trị. Theo quy định của Mỹ
thì tài sản của quỹ có thể được bảo quản bởi một ngân hàng, một nhà kinh
doanh môi giới chứng khoán được đăng ký hay do chính quỹ đó quản lý.

Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay thì các tổ chức bảo quản tài sản thông
thường là ngân hàng. Nguyên tắc chung của hầu hết các nước là tổ chức bảo
quản tài sản trong quá trình giám sát không có quyền quyết định hoàn toàn
mà phải cùng bàn bạc, biểu quyết với các chủ thể khác như công ty quản lý
quỹ… Riêng đối với hội đồng quản trị thì các tổ chức này có quyền tự quyết
định nếu như nó không liên quan tới chuyên môn của hội đồng quản trị. Để
đảm bảo an toàn cho tài sản của quỹ cũng như sự ổn định của thị trường
chứng khoán, một số nước nghiêm cấm Quỹ đầu tư bán khống chứng khoán.
2.2.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ
Khi các nhà đầu tư đầu tư hoặc rút vốn của họ từ một quỹ, việc xác
định giá phải dựa trên nguyên tắc công bằng giữa các nhà đầu tư hiện tại với
các nhà đầu tư mua hoặc bán chứng chỉ. Điều này được thể hiện trong cách
thức xác định giá trị tài sản của quỹ khi mua bán chứng chỉ. Đối với Quỹ mở
do chủ yếu đầu tư vào chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng
khoán nên giá trị tài sản được xác định theo giá trị của chứng khoán đó tại
thời điểm đó trên thị trường. Sau khi xác định xong giá trị tài sản của quỹ sẽ
được chia cho số cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ đang lưu hành để xác định giá
trị cho mỗi chứng chỉ. Giá bán và giá mua lại sẽ bằng giá trị của mỗi chứng
chỉ cộng thêm một số chi phí cho việc mua bán đó.
Giá thị trường = NAV + chi phí giao dịch
Trong đó NAV : Giá trị tài sản ròng (Net Asset Value).
Tổng giá trị tài sản ròng của quỹ bằng tổng giá trị các tài sản có và các
khoản đầu tư của quỹ trừ đi các nghĩa vụ nợ tại thời điểm tính toán.
Giá trị tài sàn ròng trên một cổ phần của quỹ được tính bằng
Đối với Quỹ đóng thì giá cổ phần của quỹ sẽ phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu trên thị trường chứng khoán, nó lấy NAV làm cơ sở nhưng không
gắn liền với giá trị NAV.
NAV
Tổng tài sản có của quỹ - Tổng nợ phải trả
Số cổ phần hiện có

=
12
Khi một Quỹ đóng bán cổ phiếu với giá thấp hơn NAV thì được gọi là
bán chiết khấu (Discount) và ngược lại nếu giá bán cổ phiếu lớn hơn NAV
thì được gọi là bán có thu phí (Premium).
Thông thường tại thị trường chứng khoán các nước phát triển rất ít
Quỹ đầu tư được giao dịch có mức Premium, mà phần lớn ở mức Discount
từ 15% đến 20%. Chỉ số này không ổn định mà biến động theo các điều kiện
của thị trường. Thường những quỹ được giao dịch có chỉ số ở mức Discount
đều có thể đạt được mức Premium cao trong tương lai và ngược lại.
2.2.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư
Việc cung cấp thông tin vừa có ý nghĩa là tạo cơ hội cho quỹ thu hút
vốn đầu tư vừa để góp phần bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Do được cung
cấp thông tin mà người đầu tư đánh giá đúng về thực trạng của các khoản
đầu tư, khả năng chuyên môn của những người quản lý quỹ để có thể quyết
định đầu tư đúng đắn. Việc cung cấp thông tin phải tuân thủ các quy định
của cơ quan quản lý nhà nước nhằm tạo sự thống nhất dễ hiểu cho các nhà
đầu tư. Các nước thường quy định Quỹ đầu tư khi gọi vốn từ công chúng
phải làm Bản cáo bạch (Prospectus) để công bố toàn bộ thông tin về công ty
quản lý, tổ chức bảo quản giám sát về chính sách, mục tiêu đầu tư của quỹ…
2.2.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của
quỹ
Hầu hết các nước đều ngăn cấm các giao dịch giữa các chủ thể có liên
quan với quỹ. Giao dịch giữa các chủ thể có liên quan là các giao dịch liên
quan tới tài sản của quỹ giữa một bên là Quỹ đầu tư và một bên là chủ thể
khác như công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản giám sát, người bảo lãnh
phát hành, nhà tư vấn… mà việc giao dịch này có khả năng ảnh hưởng đến
lợi ích của người đầu tư hiện tại của quỹ. Các trường hợp được coi là giao
dịch có liên quan như:
- Việc mua bán tài sản của quỹ với người có liên quan (nhân viên,

người quản lý, đối tác, người làm thuê, cổ đông…)
- Các khoản vay nợ của quỹ với chủ thể liên quan.
- Một người có liên quan hành động như một đại lý đối với tài sản của
quỹ trong việc mua bán chứng chỉ quỹ đầu tư.
- Người có liên quan cam kết với người thứ ba tham gia giao dịch với
quỹ.
Nói chung mỗi nước lại có quy định cụ thể riêng để ngăn chặn hiện
tượng này để đảm bảo hoạt động của quỹ được lành mạnh, công bằng bảo vệ
lợi ích của tất cả những người đầu tư.
2.3. Thực trạng của quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
13
Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường mới được
hình thành và phát triển cách đây không lâu nên môi trường đầu tư đang
trong giai đoạn hoàn thiện đặc biệt là vấn đề hành lang pháp lý cho nhà đầu
tư. Theo báo cáo của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tình hình thị trường
chứng khoán trong năm 2009 tính đến cuối tháng 10/2009, thị trường đã có
46 công ty quản lý quỹ được cấp phép hoạt động với tổng số vốn điều lệ là
gần 1.835 tỷ đồng; có 20 quỹ đầu tư chứng khoán (4 quỹ công chúng và 16
quỹ thành viên) với tổng số vốn huy động là 12.757 tỷ đồng; và 29 văn
phòng đại diện đang hoạt động.
Nếu như trước đây chỉ có quỹ đầu tư VF1 là quỹ công chúng dành
cho nhà đầu tư cá nhân,thì hiện nay, cùng với sự phát triển của quỹ đầu tư
trong nước và quốc tế, nhiều quỹ ra đời đáp ứng nhu cầu cho các nhà đầu tư
cá nhân như Quỹ đầu tư chứng khoán Sài Gòn A1 (SFA1), Quỹ Đầu Tư
Cân Bằng Prudential (PRUBF1)…
Với khoảng 20 quỹ đang tham gia đầu tư vào thị trường chứng
khoán VN như hiên nay,giá trị NAV trung bình của 20 quỹ này tính đến
ngày 21/1/2010 là 147 triệu USD, trong đó lớn nhất là VOF với giá trị lên
đến 771 triệu USD, 3 quỹ do Dragon Capital quản lý có tổng NAV là 889
triệu USD.

Các quỹ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết, các công ty cổ phần
Quỹ Công ty quản lý Tăng trưởng
năm 2009 (%)
Vietnam Equity Holding (VEH) Saigon Asset Management (SAM) 10,1
Bao Tin Equity Fund
Bao Tin Capital

Bao Viet Investment Fund
Bao Viet Fund Management (BVFMC)

Blackhorse Enhanced Vietnam Inc Blackhorse Asset Management 39,3
BIDV-Vietnam Partners' Vietnam Investment
Fund
BVIM Investment Management

DWS Vietnam Fund
Deutsche Bank

DWS Vietnam Fund

Vietnam Enterprise Investments Ltd. (VEIL)
Dragon Capital
31,9
Vietnam Growth Fund Limited (VGF) 27,2
Vietnam Dragon Fund (VDF) 25,8
Vietnam Equity Fund
Finansa Fund Management

Golden Bridge Financial Group's Vina Blue
Ocean Fund

Golden Bridge Financial Fund

Hanoi Fund
Hanoi Fund Management

Indochina Capital Vietnam Holdings Indochina Capital 45,6
JF Vietnam Opportunities Fund
JF Vietnam Opportunities
4,3
JF Vietnam Opportunities Fund
Kamm Investment Holdings
Kamm Investment

Vietnam Growth Fund
Korea Investment Trust Management

Worldwide Vietnam Fund

14
China and Vietnam Fund

KITMC RSP Balanced Fund

KITMC Vietnam Growth Fund I and II

KITMC Worldwide Vietnam Fund I and II

Vietnam Oilfield Fund

Lion Capital Vietnam Fund

Lion Capital

Manulife Progressive Fund (MAPF1) Manulife Funds 48,6
Vietnam Azalea Fund
Mekong Capital

MekongEnterprise Fund

Mirae Asset’s Mirae Asset Securities JSC Mirae Asset Maps Investment
Management

Maxford Investment management Ltd’s Vietnam
Focus Fund SP
Maxford Investment Management

Orient Management Company’s Orient Fund 1
(OF1)
Cty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
Phương Đông

Prudential Balanced Fund
Prudential Fund Management
6,7
Prudential Vietnam Securities Investment Fund

Vietnam Lotus Fund
PXP Vietnam Asset Management
39,3
PXP Vietnam Fund Ltd 56,2
Vietnam Emerging Equity Fund


Saigon Securities Investment Fund A1 (SFA1)
Thanh Viet Fund Management

Saigon Securities Investment Fund A2 (SFA2)

Viet Capital Fund Management’s Viet Capital
Fund (VCF)
Cty quản lý quỹ Bản Việt

Viet Fund 1 (VF1)
Viet Fund Management
50,9
Viet Fund 2 (VF2)

Viet Fund 4 (VF4) 48,2
Vietcombank Partners Fund 1 (VPF1)
Vietcombank Fund Management

Vietnam Emerging Market Fund (VEMF) Vietnam Asset Management 71,3
20 quỹ đầu tư chứng khoán này được quản lý bởi 46 công ty quản lý quỹ,
hoạt động ngành quản lý quỹ tại Việt Nam dần khẳng định vị trí của mình
trên thị trường chứng khoán. Tính đến cuối năm 2009, các công ty quản lý
quỹ đã huy động vốn để đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và hoạt
động quản lý ủy thác đầu tư lên đến gần 72 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 4 tỷ USD),
chiếm gần 10% giá trị vốn hóa thị trường, trong đó chủ yếu nhận ủy thác
thông qua các hoạt động quản lý danh mục đầu tư chiếm tới 87% tổng số
vốn huy động thông qua các công ty quản lý quỹ.
Phần lớn tiền của các quỹ đầu tư được đầu tư vào cổ phiếu niêm
yết với giá trị 7.500 tỷ đồng, chiếm 54% giá trị tài sản ròng của các quỹ,

2.700 tỷ đồng tương đuơng 20% vào chứng khoán chưa niêm yết, phần còn
lại vào các tài sản khác. Nguyên nhân có sự tăng mạnh giá trị chứng khoán
niêm yết là do TTCK quý 4/2009 sôi động, giá chứng khoán tăng nâng giá
15
trị tài sản đầu tư các quỹ vào chứng khoán niêm yết và các quỹ có xu hướng
gia tăng đầu tư vào chứng khoán niêm yết.
Về huy động vốn, tính đến đầu năm 2008, tổng quy mô các quỹ ở
mức 12.600 tỷ đồng và duy trì đến quý 3/2009, nhưng đến cuối năm 2009
chỉ còn 12.350 tỷ đồng do có 1 quỹ giải thể (Indochina Capital Vietnam
Holdings Limited (ICV) giải thể tháng 9/2009).
Về tăng trưởng giá trị tài sản ròng (NAV) của các quỹ cũng từng
bước được cải thiện. Cuối năm 2008, giá trị tài sản ròng của các quỹ là gần
10.500 tỷ đồng, thì đến cuối năm 2009 tăng lên gần 13.500 tỷ đồng, gần
23% so với năm 2008. Hầu hết các quỹ đều đạt tỷ lệ tăng trưởng dương. Với
chiến lược đầu tư dài hạn và đầu tư vào sản phẩm chất lượng cao, các công
ty quản lý quỹ đã tạo ra được giá trị gia tăng đáng kể cho các nhà đầu tư là
tổ chức và cá nhân.
Tuy nhiên n ăm 2009 các quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam cũng
gặp phải những khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế vào
cuối năm 2007. Theo khảo sát của tập đoàn đầu tư và tư vấn tài chính LCF
Rothschild trong năm 2009, các quỹ đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt
Nam có mức tăng trưởng NAV xấp xỉ 40%, thấp hơn mức tăng 48,4% của
VN-Index.
Theo ông Dominic Scriven - Tổng giám đốc Dragon Capital - cho
biết: “Tăng trưởng của các quỹ năm 2009 không theo kịp đà tăng của chỉ số
VN-Index do các nhà quản lý quỹ đã quá thận trọng, ít đầu tư vào cổ phiếu
rủi ro cao, thay vào đó là mua trái phiếu hoặc giữ tiền mặt”. Ngoài ra, theo
ông, các quỹ có quy mô lớn cũng tăng trưởng chậm hơn quỹ nhỏ, vì thiếu
linh động hơn trong điều hành và thích ứng với thị trường, đơn cử là 3 quỹ
do PXP Vietnam Asset Management (PXP) quản lý gồm VLF - Vietnam

Lotus Fund, VEEF - Vietnam Emerging Equity Fund và PXP Vietnam Fund
có mức tăng trưởng NAV đứng đầu bảng xếp hạng các quỹ đầu tư có hoạt
động tốt nhất tại Việt Nam do LCF Rothschild khảo sát. Trong đó, cao nhất
là quỹ VEEF, tính đến ngày 9/11/2009 có mức tăng NAV là 98,3%. Trong
khi đó từ tháng 2-10/2009 VN-Index phục hồi ấn tượng 116%, có nhiều mã
tăng tới 500 -600% nhưng NAV của m ột số quỹ đại chúng lớn chỉ tăng
chưa tới 8% do phần lớn danh mục vẫn "bảo thủ" với trái phiếu và tiền mặt.
Việc giá trị tài sản ròng(NAV) tăng lên cũng làm cho giá chứng
chỉ quỹ của một số quỹ thấp hơn NAV. Điều này dễ dẫn đến sức ép thoái
vốn của quỹ giống như Indochina Capital Vietnam Holdings Limited (ICV)
đã tuyên bố thoái vốn hồi tháng 9/2009 khi giá chứng chỉ quỹ ICV thấp hơn
giá trị tài sản ròng (NAV) trên mỗi chứng chỉ quỹ khoảng 15%. Hiện tại
Vietnam Enterprise Investments Limited (VEIL) đang gặp sức ép thoái vốn
từ một nhóm cổ đông của quỹ .Tuy nhiên, việc giá chứng chỉ quỹ VEIL thấp
16
hơn khoảng 20% so với NAV/chứng chỉ quỹ, vẫn được coi là mức chênh
lệch thấp so với nhiều quỹ đầu tư khác tại Việt Nam.
Theo số liệu từ tập đoàn đầu tư và tư vấn tài chính LCF
Rothschild, tính đến ngày 11/6, giá chứng chỉ quỹ của 9 quỹ đầu tư đều thấp
hơn trung bình 39% so với NAV trên mỗi chứng chỉ quỹ. Các quỹ này có
quy mô vốn từ 59 - 788 triệu USD.
Cụ thể, giá chứng chỉ quỹ Vietnam Equity Holding đang thấp hơn 58,5%
NAV trên mỗi chứng chỉ quỹ, tiếp theo là DWS Vietnam Limited (51,2%),
Vietnam Holding Limited (46,6%), Vietnam Infrastructure Limited (46,5%),
VinaCapital Vietnam Opportunity Fund Ltd (41,4%)… Đến thời điểm tháng
6 năm 2010 thì trên thị trường hiện có 13 quỹ đầu tư tại Việt Nam đang
niêm yết chứng chỉ quỹ trên thị trường chứng khoán đều có giá chứng chỉ
quỹ thấp hơn NAV.
Tỷ lệ chênh lệch giữa giá chứng chỉ quỹ so với NAV/chứng chỉ quỹ của 13
quỹ đầu tư (đơn vị: %) - Nguồn: LCF Rothschild

Tính đến năm 2009, hoạt động của hầu hết các quỹ đầu tư có kết quả
khả quan, tỷ lệ tăng trưởng NAV lớn, đạt trên 20%. Đây thực sự là nỗ lực
của ngành quản lý quỹ nói chung và các công ty quản lý quỹ nói riêng.
Trong những ngày đầu tháng 7 năm 2010, giá trị tài sản ròng của
các quỹ có sự thay đổi không ngừng. Với 4 quỹ đại chúng đang niêm yết
17
trên sàn HOSE, thông tin từ Sở giao dịch cho biết, trong tuần từ 1/7 đến 8/7
năm 2010, giá trị tài sản ròng (NAV) của các quỹ tiếp tục giảm với mức khá
mạnh. Cụ thể, NAV của Quỹ VF1 giảm hơn 20,38 tỷ đồng, trong khi tuần
trước đó mức giảm là 9,24 tỷ đồng. NAV của VF1 hiện còn 2.410,2 tỷ đồng,
NAV trên mỗi chứng chỉ quỹ ở mức 24.102 đồng. NAV của Quỹ VF4 giảm
19,22 tỷ đồng, NAV trên mỗi chứng chỉ quỹ là 10.954 đồng. Với Quỹ
MAFPF1, NAV giảm 2,05 tỷ đồng, NAV trên mỗi chứng chỉ quỹ là 6.847
đồng. NAV của Quỹ PRUBF1 giảm 5,46 tỷ đồng, xuống 437,9 tỷ đồng,
tương ứng với mỗi chứng chỉ quỹ là 8.758 đồng. Đến cuối phiên giao dịch
ngày 15/7, thị giá chứng chỉ quỹ VF1 là 12.400 đồng, VF4 là 7.100 đồng,
BF1 là 5.000 đồng và MAFPF1 là 5.100 đồng.
Xét về chỉ tiêu lợi nhuận (tổng thu nhập/NAV) cuối năm 2008, tỷ
lệ lợi nhuận âm 40%, thì đến năm 2009 khoảng 29%, tỷ lệ này là khá khả
quan các quỹ đã có dấu hiệu thoát khỏi khủng hoảng.
Xét chỉ tiêu chi phí, tỷ lệ chi phí/quy mô vốn bình quân năm 2009
đạt khoảng 3.5%, tỷ lệ này được đánh giá là thấp so với chi phí quản lý quỹ
của ngành quản lý quỹ các nước.
Xét chỉ tiêu về thu nhập, tỷ lệ thu nhập ròng /NAV bình quân là
5.1%, tỷ lệ này đạt dương được đánh giá là khả quan trong tình hình TTCK
có nhiều biến động, giá chứng khoán giảm sâu như cuối năm 2008 đầu năm
2009.
Nhìn 1 cách tổng quan, kể từ sau khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa,
đặc biệt là kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào tháng 2 năm
1998, hàng loạt công ty đầu tư nước ngoài đã bắt đầu xuất hiện tại Việt

Nam, cùng với đó là sự xuất hiện của 1 số quỹ đầu tư đầu tiên như: Vietnam
Fund(Tháng10năm1991),VietnamKeppelFund(Tháng06năm1992),BetaViet
namFund(Tháng 08 năm 1993), VietnamFrontierFund(Tháng 07 năm 1994)
… cho đến nay nước ta có khoảng 20 quỹ đang tham gia đầu tư vào thị
trường chứng khoán, đóng góp gần 72 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 4 tỷ USD),
chiếm gần 10% giá trị vốn hóa thị trường tính đến cuối năm 2009, nâng quy
mô thị trường chứng khoán Việt Nam tăng 30-40 lần, từ mức 0,5% GDP
năm đầu tiên lên gần 50% GDP hiện nay. Huy động vốn qua thị trường
chứng khoán trong những năm gần đây đạt bình quân hơn 120.000 tỷ đồng
mỗi năm, tương đương một phần ba tổng mức đầu tư toàn xã hội được công
nhận là một kênh huy động vốn hiệu quả cho đầu tư phát triển đất nước.
Điều này càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn của các
quỹ đầu tư chứng khoán đối với nền kinh tế nước ta, trong bối cảnh nền kinh
18
tế chỉ có 1 kênh huy động vốn duy nhất là ngân hàng, nền kinh tế còn đang
phát triển và đang ở bên bản lề của cuộc khoảng hoảng từ cuối năm 2007.
Năm 2009, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định trong
phát triển kinh tế như: ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng
hợp lý trong bối cảnh các nước trong khu vực đều gặp khó khăn, kinh tế vĩ
mô tương đối ổn định. Nhưng bên cạnh những điểm đạt được, kinh tế Việt
Nam vẫn còn nhiều điểm chưa đạt được như: hoạt động xuất khẩu gặp nhiều
khó khăn do thị trường co lại, tỷ giá hối đoái điều chỉnh chưa kịp thời, hoạt
động của các tập đoàn Nhà nước chưa thực sự hiệu quả đã ảnh hưởng đến
hoạt động chung của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, để đạt được thành công
trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu và là một
trong số ít các nước trên thế giới có tốc độ tăng trưởng dương ở mức cao
trong năm 2009, cần phải ghi nhận Chính phủ Việt Nam đã rất cố gắng và
bản lĩnh trong hoạt động điều hành chính sách vĩ mô của mình. Và trên đà
những thành tựu đã đạt được đó thì chúng ta phải cố gắng hơn nữa để đạt
được mức độ tăng trưởng cao hơn trong năm 2010. Phát huy tốt vai trò huy

động vốn của quỹ đầu tư, và giúp cho việc đầu tư qua quỹ đầu tư thật sự đạt
được những hiệu quả của nó. Làm cho quỹ đầu tư thật sự phát huy vai trò
của người “dẫn dắt thị trường”, giúp thị trường chứng khoán Việt Nam ngày
càng phát triển.
2.4. Những thuận lợi và khó khăn của quỹ đầu tư chứng khoán Việt
Nam
Quỹ đầu tư ra đời nhằm giúp cho các chủ thể đầu tư có thể giảm thiểu
rủi ro, đa dạng hoá theo danh mục đầu tư, tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt
được các yêu cầu về lợi nhuận; các khoản đầu tư được quản lý chuyên
nghiệp; được giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan thẩm quyền; đạt được tính
năng động của quỹ đầu tư. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động nhằm đạt
được các mục tiêu trên, các quỹ đầu tư chứng khoán ở việt nam cũng đã gặp
không ít những khó khăn.
2.4.1. Những khó khăn của các quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam
Quỹ đầu tư là hình thức đầu tư hiện đại, hiệu quả cho một kênh huy
động vốn và rất phổ biến ở các nước. Riêng đối với việt nam thì đây còn là
một hình thức khá mới mẻ, cho nên trong quá trình hoạt động các quỹ còn
gặp phải những khó khăn.
Hiện tại, trên thị trường chứng khoán việt nam mới chỉ vận hành theo
loại hình quỹ đóng dạng thành viên của quỹ đại chúng. Do đó các quỹ sẽ
không được phép phát hành hoặc mua lại cổ phiếu/ chứng chỉ quỹ theo một
chu kỳ nhất định (hàng ngày hoặc theo quy định ghi trong điều lệ quỹ) theo
19
yêu cầu của nhà đầu tư. Đặc tính này làm cho tính thanh khoản của cổ phiếu/
chứng chỉ quỹ ít, sản phẩm đơn giản, khó có thể tiếp cận với danh mục đầu
tư đa dạng hơn.
Ngoài ra những khó khăn quỹ đầu tư ở thị trường Việt Nam đang gặp
phải còn do giá chứng chỉ quỹ trên thị trường thấp hơn nhiều so với giá trị
ròng (NAV) của chứng chỉ quỹ. Theo báo cáo của Tập đoàn đầu tư và Tư
vấn tài chính LCF Rothschild, các quỹ ở Việt Nam có mức chiết khấu lớn so

với NAV và so với mức chiết khấu trung bình ở các thị trường khác: chiết
khấu là 29% đối với 21 chứng chỉ quỹ nước ngoài, 39,8% đối với 4 chứng
chỉ quỹ trong nước, 40% đối với 4 chứng chỉ quỹ đầu tư tư nhân và 47,9%
đối với 5 quỹ bất động sản. Quy mô thị trường nhỏ, sản phẩm quỹ đơn giản
và ít thanh khoản, loại hình chủ yếu là quỹ đóng làm mức chiết khấu cao,
khiến cho các quỹ là mục tiêu “tấn công” hấp dẫn cho các quỹ đầu cơ.
Do đặc điểm của tình hình kinh tế và tính hấp dẫn từ các quỹ đầu tư
chưa cao nên chưa thu hút được nhiều nguốn vốn nhàn rỗi trong dân cư do
đó các quỹ khó có thể tiếp cận với các cơ hội đầu tư lớn.
Hơn nữa quỹ nội có 3 điểm yếu trong cạnh tranh:
Thứ nhất, do còn non trẻ và bản thân thị trường có tính minh bạch
kém nên phần lớn các quỹ trong nước chưa tạo dựng được uy tín trong việc
huy động vốn dài hạn từ nước ngoài.
Thứ hai, kinh nghiệm đầu tư và sự chuyên nghiệp còn yếu.
Thứ ba, phần lớn các quỹ nội không thể đóng góp tăng chất lượng
kinh doanh và quản lý để trực tiếp nâng cao giá trị doanh nghiệp mà có lẽ
chỉ giúp cổ phiếu doanh nghiệp giao dịch tốt hơn và sát với giá trị hợp lý
hơn.
2.4.2. Những thuận lợi của quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam
Bên cạnh những khó khăn mà các quỹ đầu tư Việt nam gặp
phải,chúng ta cũng có được một số điểm thuận lợi cho quá trình hình thành
và phát triển của quỹ đầu tư.Được sự quản lý chuyên nghiệp cũng như sự
giám sát của các cơ quan có thẩm quyền nên hoạt động của quỹ đầu tư diễn
ra được an toàn, đảm bảo và đạt hiệu quả cao.
Thị trường chứng khoán Việt Nam với hơn 9 năm hoạt động, số lượng
tài khoản lớn (khoảng 700 nghìn tài khoản) và nhiều công ty tổ chức tham
gia(hơn 100 công ty chứng khoán ra đời hoạt động, khoảng 50 công ty quản
lý quỹ trong nước, hàng trăm tổ chức nhà đầu tư nước ngoài tham gia
TTCK, đồng thời hầu hết tổ chức tài chính trong nước như các ngân hàng
thương mại, công ty tài chính, bảo hiểm) nhưng mức độ ảnh hưởng của thị

trường chứng khoán đến nền kinh tế nước ta chưa cao, nhờ vậy mà tránh
được những cuộc khủng hoảng lớn có thể tác động xấu đến tình hình đất
nước như so với các nước khác, những điều kiện kinh tế vĩ mô vẫn được ổn
20
định hoặc nền kinh tế không gặp khó khăn lớn, nhờ số lượng tổ chức đầu tư
quá nhỏ bé so với lực lượng nhà đầu tư cá nhân nên TTCK không đóng vai
trò là nhân tố ổn định cũng như dẫn dắt thị trường.Vd: thời điểm "tiền đại
khủng hoảng" năm 2008, TTCK có hơn 300 nghìn tài khoản hoạt động song
chỉ có chưa đến 300 nhà đầu tư tổ chức.
Phát triển lực lượng nhà đầu tư tổ chức là yêu cầu và xu thế tất yếu
nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của TTCK. Điều này vô cùng quan
trọng bởi TTCK không chỉ là "hàn thử biểu" mà trước hết là kênh huy động
vốn cực kỳ hiệu quả của nền kinh tế.
Số lượng các quỹ đầu tư chứng khoán hiện tại được uỷ ban chứng
khoán nhà nước cho phép thành lập là không nhiều, do đó các quỹ sẽ có
nhiều thuận lợi trong việc huy động vốn.
Việc các công ty quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài chưa được phép
thành lập ở việt nam cũng là một điều kiện thuận lợi giúp cho các công ty
quản lý quỹ việt nam có thể khai thác được tối đa nguồn vốn huy động được
từ các quỹ đầu tư.
2.5. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các Quỹ đầu tư chứng khoán
2.5.1. Về phía Nhà nước
a. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô
Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mô có mối
quan hệ mật thiết tới thị trường chứng khoán nói chung và sự phát triển của
các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng. Chỉ trong một nền kinh tế ổn định,
các chỉ số vĩ mô như lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng, tỷ giá hối đoái, mức lãi suất
ổn định thì mới tạo lập được niềm tin và kích thích người đầu tư xoá bỏ tâm
lý e ngại, dè chừng khi tham gia vào một hình thức đầu tư mới. Từ đó

khuyến khích các tổ chức kinh tế tích cực hơn trong quyết định thành lập
Quỹ đầu tư chứng khoán cũng như tạo ra môi trường tốt cho hoạt động của
các Quỹ đầu tư phát triển.
Trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô có nhiều dấu hiệu bất ổn, thiếu sự
kiểm soát thì các nhà đầu tư không thể mạo hiểm tham gia vào thị trường
chứng khoán vì họ không tin tưởng vào khả năng sinh lợi trên thị trường
này. Điều này dẫn đến sự đình trệ trong hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng
khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung.
Một nền kinh tế ổn định còn giúp cho hệ thống doanh nghiệp có thể
duy trì sự phát triển ổn định của mình, thu hút được các nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước. Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quan tâm tới
việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ có nhu cầu về vốn rất cao
và tìm cách huy động dưới nhiều hình thức trong đó có việc tham gia vào thị
trường chứng khoán. Đây là xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp trong
21
một nền kinh tế phát triển. Như vậy, nguồn cung hàng hoá cho thị trường
chứng khoán sẽ phong phú. Đồng thời, khi đó các chứng khoán được phát
hành ra sẽ hấp dẫn hơn đối với người đầu tư, do đó sẽ làm tăng tính thanh
khoản của các chứng khoán, làm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán sôi
động.
Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, kiểm soát
lạm phát trong điều kiện chịu sự ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế
giới trong xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam phải
thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
- Thực hành tiết kiệm để tạo và nuôi dưỡng nguồn vốn cho đầu tư
phát triển. Chính sách tiết kiệm phải đi đôi với chính sách khuyến khích đầu
tư và chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm.
- Đầu tư phát triển phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các quyết
sách kinh tế quốc gia. Đầu tư phải có trọng điểm, có ưu tiên theo hướng

chuyển dịch cơ cấu theo hướng kết hợp phát triển theo chiều rộng với việc
hoàn thiện, cải tiến thiết bị công nghệ theo chiều sâu.
b. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý
Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý là để tạo hành lang cho các tổ chức
tài chính và doanh nghiệp hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Hiện
nay, chúng ta đã có luật các tổ chức tín dụng nhưng chưa đề cập rõ về Quỹ
đầu tư. Việc điều chỉnh các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán chỉ dựa
vào quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ
kèm theo Quyết định số 05/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998. Nhưng để
các văn bản này đi vào thực tiễn và phát huy hiệu lực thì cần sớm đưa các
nội dung này vào trong khuôn khổ pháp lý cao hơn dưới hình thức các luật
như Luật về Chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật các định chế tài
chính trung gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam dần đi vào hoạt động
ổn định.
Ngoài ra, do Quỹ đầu tư chứng khoán có một số đặc điểm riêng so với
các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường nên nó chịu sự chi phối của
nhiều bộ luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật dân sự… Các
bộ luật này và các văn bản dưới luật đi kèm có một số điểm bất đồng, chồng
chéo nhau và chưa có sự bổ sung điều chỉnh đối với một hình thức đầu tư
mới - đầu tư qua quỹ. Do vậy, một yêu cầu đang được đặt ra là cần phải tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện các bộ luật này để tạo nên một hệ thống pháp luật
đồng bộ, tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như
nhằm giải quyết một cách nhanh chóng khi có tranh chấp xảy ra. Ví dụ như
đối với Luật đầu tư nước ngoài, cần nhanh chóng chỉnh sửa nhằm khuyến
22
khích và tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư nước ngoài được nắm giữ một tỷ
lệ cổ phiếu của một công ty lớn hơn tỷ lệ hiện nay là 30%.
c. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình
thành và phát triển của Quỹ đầu tư.
Khi thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động thì việc hình thành

các Quỹ đầu tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể
tham gia vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư chứng khoán
còn là vấn đề rất mới và trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ
ra đời và hoạt động, do vậy rất cần có sự trợ giúp của nhà nước. Kinh
nghiệm của Hàn Quốc cho thấy trong giai đoạn đầu phát triển thị trường
chứng khoán, chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy
trợ giúp sự hình thành và phát triển Công ty tín thác đầu tư. Tại Malaixia có
Quỹ đầu tư chứng khoán do chính phủ thành lập tên là PNB. Nó có những
quỹ chi nhánh theo chuyên ngành để hỗ trợ, giúp đỡ người dân mua các cổ
phiếu của các công trình, công ty làm ăn có lãi. Giống với Malaixia, ở
Singapore chính phủ cũng thành lập một Quỹ đầu tư chứng khoán của nhà
nước với mục đích tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài. Số vốn của các quỹ đó ngày càng tăng khiến cho quỹ có thể mở rộng
đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, sự trợ giúp của nhà nước thể hiện ở việc nhà
nước cần đi tiên phong trong việc thành lập công ty quản lý quỹ và thiết lập
các Quỹ đầu tư để mở đầu tạo niềm tin cho công chúng trong đầu tư. Việc
mở đầu thành công có ý nghĩa rất quan trọng để khuyến khích, thu hút các
thành phần kinh tế và các tổ chức khác.
d. Thu hút đầu tư gián tiếp
Chúng ta nên có chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng
được ưu đãi như đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một hình
thức đầu tư phổ biến trên thế giới và quan trọng không kém so với hình thức
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã rất thành công trong thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng xem ra việc thu hút đầu tư nước ngoài
gián tiếp vẫn còn bị bỏ ngỏ. Các nhà quản lý hình như chưa có chính sách
thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, một phần vì sợ các
nhà đầu tư nước ngoài có quyền rút vốn ồ ạt gây khủng hoảng cho nền tài
chính quốc gia tương tự như cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra vào năm
1997. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường Việt Nam
hiện nay chiếm chưa đến 1% vốn đầu tư trực tiếp trong khi ở Thái Lan khi

xảy ra khủng hoảng tỷ lệ này là 80%. Chính vì vậy, Việt Nam phải quan tâm
hơn nữa tới kênh thu hút vốn này.
e. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
23
Thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt
chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển
vững chắc trên cơ sở một hệ thống ngân hàng lành mạnh và được kiểm soát
tốt. Đối với các Quỹ đầu tư, ngân hàng đóng vai trò là chủ thể giám sát, bảo
quản tài sản của quỹ. Muốn trở thành ngân hàng giám sát, ngân hàng đó phải
đáp ứng các điều kiện do Uỷ ban chứng khoán nhà nước đề ra. Điều này đòi
hỏi ngân hàng phải nỗ lực liên tục cơ cấu lại tổ chức, hoàn thiện các nghiệp
vụ phục vụ khách hàng và từng bước chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ.
Ngân hàng nhà nước nên có chế độ giám sát đảm bảo độ an toàn của các
ngân hàng thương mại, xây dựng các môi trường pháp lý chặt chẽ, xây dựng
các tiêu chuẩn hạch toán, báo cáo tài chính kế toán, kiểm toán rõ ràng và
trung thực để các ngân hàng thương mại có thể đáp ứng một nghiệp vụ mới
này.
Các ngân hàng thương mại là những tổ chức đóng vai trò tích cực
trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bởi vậy, hệ thống ngân hàng
thương mại hoạt động lành mạnh và được ngân hàng trung ương kiểm soát
và giám sát chặt chẽ sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính lành mạnh của thị trường
chứng khoán.Qua đó đã gián tiếp tạo điều kiện cho sự ra đời của các Quỹ
đầu tư. Nhà nước tích cực khuyến khích các ngân hàng tham gia tạo lực
lượng nòng cốt cho thị trường chứng khoán. Ngân hàng nhà nước có thể
dành một khoản chi nhất định cho việc thành lập các công ty chứng khoán
hoặc tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh để tạo cơ
sở cho các ngân hàng thành lập công ty chứng khoán hoặc thực hiện việc
liên doanh với công ty chứng khoán nước ngoài. Bên cạnh đó, ngân hàng
không ngừng nâng cao nghiệp vụ, áp dụng các phương thức thanh toán…
tạo điều kiện cho mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán nói chung cũng

như hoạt động của các Quỹ đầu tư nói riêng và nhất là có thể đáp ứng được
các điều kiện để trở thành tổ chức bảo quản và giám sát tài sản cho các Quỹ
đầu tư. Một tin vui mới đến cho các ngân hàng là vừa qua Uỷ ban chứng
khoán nhà nước đã ký giấy phép công nhận Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng lưu ký
chứng khoán. Đây là bước chuẩn bị nhằm tiến tới việc thành lập các ngân
hàng giám sát khi các Quỹ đầu tư ra đời.
f. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư
chứng khoán của Quỹ đầu tư.
Quỹ đầu tư chứng khoán là một loại hình tổ chức đầu tư còn rất mới
mẻ, chắc chắn khi thành lập và những năm đầu mới đi vào hoạt động sẽ gặp
nhiều khó khăn. Do vậy, việc thực hiện ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu
tư chứng khoán của quỹ là việc hỗ trợ hết sức quan trọng và cần thiết của
nhà nước đối với sự hoạt động và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán.
24
Hiện tại, chưa có bất cứ một quy định nào về thuế đối với Quỹ đầu
tư.
Theo quy định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị
trường chứng khoán: Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu
tư được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài
sản của quỹ vào chứng khoán. Với quy định như vậy thì Quỹ đầu tư không
có tư cách pháp nhân, không thuộc sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, vì
vậy không phải là đối tượng đánh thuế của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ở nhiều nước như Pháp, Nhật… họ áp dụng nguyên tắc không đánh thuế các
Quỹ đầu tư, coi Quỹ đầu tư là phương tiện, công cụ đầu tư cho các nhà đầu
tư cá nhân và tổ chức, chứ không phải là một pháp nhân kinh doanh. Ngay
cả trong trường hợp quỹ là pháp nhân, một số nước cũng áp dụng chế độ
miễn trừ nhất định để quỹ này được hưởng ưu đãi thuế hoàn toàn. Các quy
định về thuế đối với Quỹ đầu tư đảm bảo rằng, việc nhà đầu tư thực hiện đầu
tư qua Quỹ đầu tư và việc nhà đầu tư đầu tư trực tiếp không qua quỹ là

tương đương nhau trên góc độ thuế.
Nhà đầu tư chỉ phải trả thuế thu nhập khi nhận lợi tức được chia từ các
quỹ hoặc chia từ việc đầu tư trực tiếp không qua quỹ. Rõ ràng nếu thu nhập
đầu vào và lợi nhuận của quỹ bị đánh thuế thì sẽ không khuyến khích nhà
đầu tư đầu tư qua quỹ. Mô hình về thuế với Quỹ đầu tư như trên nhằm
khuyến khích sự phát triển của loại hình đầu tư ưu việt này. Kết quả là nhà
đầu tư thấy rằng việc họ đầu tư trực tiếp hay thông qua quỹ đều đem lại một
mức thuế như nhau. Điều này sẽ tận dụng được hết mọi nguồn vốn nhàn rỗi
trong công chúng.
g. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng
các biện pháp tăng cung kích cầu
Quỹ đầu tư là một loại hình hoạt động gắn liền với thị trường chứng
khoán. Để Quỹ đầu tư hình thành và phát triển lành mạnh, tích cực, việc đẩy
mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là một nhân tố
quan trọng. Trên thực tế, số lượng và giá trị của các cổ phiếu và trái phiếu
được niêm yết trên thị trường tập trung là rất nhỏ, trong khi chưa có thị
trường giao dịch ngoài quầy, mức cầu cũng không khả quan. Để khuyến
khích việc ra đời của các Quỹ đầu tư chứng khoán, nhà nước phải đảm bảo
hoạt động của các quỹ này thông qua các biện pháp tăng cung kích cầu trên
thị trường chứng khoán.
Các biện pháp tăng cung trên thị trường chứng khoán : Để xây dựng
một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả thì việc cung cấp hàng
hoá chứng khoán cho thị trường là một vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn các
thị trường chứng khoán thế giới đã chứng minh rằng một thị trường chứng
khoán sẽ không thể hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả nếu lượng
25

×