Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nghiên cứu tính đa dạng thực vật thân gỗ, đề xuất các biện pháp bảo tồn và phát triển tại tiểu khu 14 vườn quốc gia Cúc Phương huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.19 MB, 87 trang )






ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM







NGUYỄN THỊ LÊ NGA




NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT THÂN GỖ,
ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
TẠI TIỂU KHU 14 VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG
HUYỆN NHO QUAN - TỈNH NINH BÌNH






LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC









THÁI NGUYÊN - 2014





ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ

PHẠM






NGUYỄN THỊ LÊ NGA



NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT THÂN GỖ,

ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
TẠI TIỂU KHU 14 VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG
HUYỆN NHO QUAN - TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Sinh thái
học

Mã số:
60.42.01.20




LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH THỊ PHƯỢNG





THÁI NGUYÊN - 2014




i
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Sinh thái học tại khoa Sinh - KTNN Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ của các thầy cô giáo, các đồng nghiệp,
bạn bè và gia đình.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Đinh Thị Phượng đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Đồng thời, tôi
cũng xin cảm ơn Ban quản lý vườn quốc gia Cúc Phương - tỉnh Ninh Bình đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi trong thời gian tôi thực hiện đề tài trên địa bàn xã.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, các thầy cô trong
Ban chủ nhiệm Khoa, các thầy cô thuộc Khoa Sinh - KTNN, Phòng quản lý và Đào
tạo sau đại học - Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. Qua đây, tôi cũng xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu trường CĐSP Hà Nam, gia đình và bạn bè
đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành tốt luận văn của mình.
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về thời gian cũng như
trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học, cùng
bạn bè, đồng nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!


Thái Nguyên, tháng 10 năm 2014
Tác giả



Nguyễn Thị Lê Nga





ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ này là hoàn
toàn trung thực, tuyệt đối không sao chép của bất kì ai ở bất kì tài liệu nào và không
trùng với bất kì tài liệu nào khác.

Ý kiến của cán bộ hướng dẫn Tác giả






Nguyễn Thị Lê Nga



















iii
MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn i

Lời cam đoan ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
Danh mục các hình, biểu đồ vi
M
Ở ĐẦU

1
Chương 1
:
T

ỔNG QUAN
CÁC
V
ẤN ĐỀ NGHI
ÊN C
ỨU

4
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu 4
1.1.1. Đa dạng sinh học 4
1.1.2. Đa dạng loài 4
1.1.3. Thảm thực vật 4

1.1.4. Hệ sinh thái 4
1.1.5. Quần xã sinh vật 4
1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới và Việt Nam 5
1.2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới 5
1.2.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam 5
1.3. Những nghiên cứu về hệ thực vật 8
1.3.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới 8
1.3.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam 9
1.4. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống 9
1.4.1. Những nghiên cứu về thành phần loài 9
1.4.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống 13
1.5. Nghiên cứu về các loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng 17

1.5.1. Tổng quan về sách đỏ thế giới và sách đỏ Việt Nam 17
1.5.2. Một số công trình nghiên cứu về các loài thực vật quý hiếm có
nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam
17
1.6. Những nghiên cứu về bảo tồn thực vật trên thế giới và Việt Nam 19

iv
1.6.1. Những nghiên cứu về bảo tồn thực vật trên thế giới 19
1.6.2. Những nghiên cứu về bảo tồn thực vật ở Việt Nam 20
Chương 2
:


Đ
ỐI T
Ư
ỢNG, NỘI DUNG V
À PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU
22
2.1. Đối tượng nghiên cứu 22
2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 22
2.3. Thời gian nghiên cứu 22
2.4. Nội dung nghiên cứu 22

2.5. Phương pháp nghiên cứu 22
2.5.1. Phương pháp kế thừa 22
2.5.2. Phương pháp điều tra 23
2.5.3. Phương pháp thu thập số liệu 24
2.5.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 24
2.5.5. Phương pháp điều tra trong nhân dân 24
Chương 3
: ĐI
ỀU KIỆN TỰ NHI
ÊN XÃ H
ỘI



KHU VỰC NGHIÊN CỨU
25
3.1. Điều kiện tự nhiên 25
3.1.1. Vị trí địa lý 25
3.1.2. Địa hình 25
3.1.3. Khí hậu thủy văn 28
3.1.3.1. Chế độ nhiệt 28
3.1.3.2. Chế độ mưa 29
3.1.3.3. Độ ẩm không khí 29
3.1.3.4. Chế độ gió 30
3.1.4. Địa chất, thổ nhưỡng 30

3.1.4.1. Địa chât 30
3.1.4.2. Thổ nhưỡng 30
3.1.5. Tài nguyên động thực vật 31
3.1.5.1. Hệ thực vật 31
3.1.5.2. Hệ động vật 33
3.2. Điều kiện xã hội 33

v

3.3. Nhận xét và đánh giá chung 34
3.3.1. Thuận lợi 34
3.3.2. Khó khăn 34

Chương 4
: K
ẾT QUẢ NGHI
ÊN C
ỨU

35
4.1. Đặc điểm chung của thảm thực vật và sự đa dạng các kiểu thảm thực
vật thân gỗ ở KVNC
35
4.2. Những đặc trưng cơ bản của thực vật trong khu vực



38
4.2.1. Đa dạng hệ thực vật ở bậc ngành 52
4.2.1.1. Mức độ đa dạng ngành 52
4.2.1.2. Các chỉ số đa dạng 52
4.2.2. Đa dạng ở bậc dưới ngành 53
4.2.2.1. Đa dạng bậc họ 53
4.2.2.2. Đa dạng bậc chi 54
4.2.3. Đa dạng về dạng sống 55
4.2.4. Đa dạng về giá trị tài nguyên 57
4.3. Thực vật thân gỗ quý hiếm ở KVNC 60
4.4. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn đa dạng thực vật ở vườn quốc gia Cúc

Phương
61
4.4.1. Nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về bảo vệ ĐDSH

62
4.4.2. Phát triển kinh tế, nâng cao thu thập cho cộng đồng 63

4.4.3. Tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng 63
4.4.4. Tăng cường chương trình nghiên cứu khoa học phục vụ bảo tồn

64
4.4.5. Giải pháp về ổn định dân số 65

K
ẾT

LU
ẬN V
À KI
ẾN NGHỊ

66
1. Kết luận 66
2. Kiến nghị 67
TÀI LI

ỆU THAM KHẢO

68
PH
Ụ LỤC ẢNH

73


iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT


Chữ viết tắt Chữ đầy đủ
KBTTN Khu bảo tồn thiên nhiên
IUCN
The International Union for Conservation of nature and
Natural Resources - Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và
Tài
nguyên thiên nhiên Quốc tế

WWF

Quỹ bảo vệ thiên nhiên Quốc tế
ĐDSH Đa dạng sinh học

HST Hệ sinh thái
UNESCO
United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization - Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của
Liên Hợp Quốc
KVNC Khu vực nghiên cứu
VQG Vườn Quốc gia
VU

Sẽ nguy cấp

LR Ít nguy cấp

CR Rất nguy cấp
EN Nguy cấp
TĐT Tuyến điều tra
OTC Ô tiêu chuẩn
ODB Ô dạng bản
UBND Uỷ ban nhân dân
NXB Nhà xuất bản
KBT Khu bảo tồn
RNS Rừng nguyên sinh
RTS Rừng thứ sinh
ĐHSP Đại học sư phạm
CĐSP Cao đẳng sư phạm

BQL Ban quản lý

v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Bảng đánh giá số loài thực vật được mô tả trên thế giới
Bảng 3.1. Các chỉ tiêu khí hậu cơ bản khu vực VQG Cúc Phương năm 2013
Bảng 3.2. Số lượng taxon trong các ngành thực vật bậc cao ở VQG Cúc Phương
Bảng 3.3. Mười họ có số loài lớn nhất VQG Cúc Phương
Bảng 4.1. Danh lục các loài thực vật thân gỗ ở KVNC
Bảng 4.2. Các taxon của thực vật thân gỗ tại tiểu khu 14 VQG Cúc Phương
Bảng 4.3. Các chỉ số đa dạng của thực vật thân gỗ tiểu khu 14 VQG Cúc Phương

Bảng 4.4. Các họ giàu loài tại tiểu khu 14 VQG Cúc Phương
Bảng 4.5. Các chi đa dạng nhất hệ thực vật thân gỗ tiểu khu 14 VQG Cúc Phương
Bảng 4.6. Thành phần dạng sống của HTV thân gỗ tiểu khu 14 VQG Cúc Phương
Bảng 4.7. Phân loại giá trị sử dụng của thực vật ở tiểu khu 14 VQG Cúc Phương
Bảng 4.8. Các loài thực vật thân gỗ quý hiếm ở KVNC



vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Sơ đồ bố trí ODB trong OTC
Hình 3.1. Bản đồ vị trí vườn Quốc gia Cúc Phương

Hình 3.2. Địa hình vườn Quốc gia Cúc Phương
Hình 3.3. Biểu đồ khí hậu Goussen - Walter khu vực Cúc Phương
Hình 4.1. Biểu đồ phân bố các bậc taxon trong các ngành ở KVNC
Hình 4.2. Biểu đồ dạng sống của thực vật thân gỗ ở KVNC
Hình 4.3. Biểu đồ phân loại thực vật theo giá trị sử dụng
1


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới có hệ sinh thái rừng vô cùng

phong phú và đa dạng. Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn
giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng: tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu,
đảm bảo chu chuyển ôxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn
định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm
giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của thiên tai, bảo tồn nguồn nước mặt, nước ngầm và
làm giảm mức ô nhiễm không khí và nước. Tuy nhiên, cũng như nhiều nước trên thế
giới, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng suy giảm trầm trọng các hệ sinh thái
giàu đa dạng sinh học, đặc biệt là các khu rừng nhiệt đới - nơi tập trung nhiều loài
động - thực vật quý hiếm và đặc hữu. Theo thống kê, hiện nước ta có khoảng 13
triệu hecta rừng, trong đó 2/3 diện tích rừng tự nhiên được coi là rừng nghèo và tái
sinh, diện tích các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng liên tục bị thu hẹp, số lượng cá
thể của các loài hoang dã đang bị suy giảm mạnh, nguồn gen hoang dã và nhiều loài

đang có nguy cơ tuyệt chủng. Mất rừng là nguyên nhân gây ra thiên tai, hạn hán, lũ
lụt, dịch bệnh và đói nghèo.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của thảm thực vật rừng đối với sự phát triển nền
kinh tế, an toàn cho hệ thống sinh thái môi trường toàn cầu, Đảng và Nhà nước đã có
nhiều chương trình, dự án khôi phục và phát triển lại rừng, như chương trình 327, dự
án 661 với 5 triệu ha rừng Chính nhờ vậy độ che phủ rừng của nước ta đã tăng lên
rõ rệt, tính đến năm 2009 tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 39%, nhưng chủ yếu vẫn là
rừng non, rừng nghèo kiệt, rừng phục hồi, vì vậy chất lượng rừng còn rất thấp.
Đứng trước những hiểm họa do việc mất rừng gây ra, những năm gần đây,
Đảng và Nhà nước ta đã thay đổi, bổ sung nhiều chính sách nhằm bảo vệ nguồn tài
nguyên vô cùng quý giá này. Việc bảo vệ đa dạng sinh học, duy trì tính toàn vẹn của
hệ sinh thái chính là giúp con người giảm nhẹ được những tác động của thiên tai và

tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
2

Năm 1960, rừng Cúc Phương được công nhận là khu bảo tồn rừng và theo
Quyết định 72/TTg ngày 7 tháng 7 năm 1962 Cúc Phương được quyết định thành lập
như là một khu rừng cấm với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu
tiên của Việt Nam. Quyết định số 18/QĐ-LN ngày 8 tháng 01 năm 1966 chuyển
hạng lâm trường Cúc Phương thành Vườn quốc gia Cúc Phương và thành lập Ban
quản lý vườn quốc gia. Quyết định số 333/QĐ-LN ngày 23 tháng 5 năm 1966 quy
định chức năng và trách nhiệm của Ban quản lý.
Vườn Quốc gia Cúc Phương (tỉnh Ninh Bình) được thành lập với mục đích
gìn giữ, bảo tồn, phát triển nguồn tài nguyên thực vật và bảo vệ môi trường sinh thái.

Vườn Quốc gia Cúc Phương hiện nay được coi là lá phổi xanh của tỉnh, nhưng
nguồn tài nguyên thực vật cũng đang đứng trước nguy cơ bị suy giảm nghiêm trọng
nếu không có những biện pháp bảo tồn kịp thời. Vì vậy, việc nghiên cứu tính đa
dạng của hệ thực vật và thảm thực vật là rất cần thiết. Chính vì những lý do trên
chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “ Nghiên cứu tính đa dạng thực vật thân gỗ
và đề xuất các biện pháp bảo tồn, phát triển tại tiểu khu 14 vườn Quốc gia Cúc
Phương huyện Nho Quan - tỉnh Ninh Bình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

- Xác định tính đa dạng của hệ thực vật và thảm thực vật thân gỗ ở khu vực
nghiên cứu.
- Đề xuất các biện pháp cụ thể để bảo tồn đa dạng thực vật thân gỗ ở khu vực

nghiên cứu.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học

Góp phần bổ sung thêm một số giải pháp trong bảo tồn, nâng cao tính đa dạng
thực vật thân gỗ tại khu vực nghiên cứu.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Xác định được tính đa dạng thực vật và các kiểu thảm thực vật thân gỗ tại khu
vực nghiên cứu, làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp bảo tồn và nâng
cao đa dạng thực vật tại khu vực nghiên cứu.


3

4. Đóng góp mới của luận văn
- Bước đầu đã xác định được thành phần loài, dạng sống và cấu trúc thực vật
thân gỗ tại tiểu khu 14 vườn Quốc gia Cúc Phương huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình.
- Xác định được một số loài thực vật thân gỗ có nguy cơ bị tuyệt chủng theo
Sách đỏ Việt Nam (2007).
- Đề xuất một số biện pháp để bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên thực vật
tại địa phương.
4


Chương 1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu:
Trong đề tài chúng tôi có sử dụng một số khái niệm có liên quan đến nội dung
nghiên cứu:
1.1.1. Đa dạng sinh học: Theo công ước đa dạng sinh học thì “ Đa dạng sinh học ”
(Biodiversity, biological diversity) có nghĩa là sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở
tất cả mọi nơi, bao gồm: Các hệ sinh thái trên cạn, trong đại dương và các hệ sinh
thái thuỷ vực khác, cũng như các phức hệ sinh thái các sinh vật là một phần…, thuật
ngữ này bao hàm sự khác nhau trong một loài, giữa các loài và giữa các hệ sinh thái
[7]

1.1.2. Đa dạng loài: Là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy tại một
khu vực nhất định tại một vùng nào đó. Đa dạng loài là tất cả sự khác biệt trong một
hay nhiều quần thể của một loài cũng như đối với các quần thể khác nhau.

Theo Lê
Trọng Cúc, đa dạng sinh học được sử dụng đồng nghĩa với đa dạng loài, vì nghiên
cứu đa dạng sinh học chủ yếu đề cập đến số lượng các loài [19]
1.1.3. Thảm thực vật: Trần Đình Lý (1998) [40] cho rằng thảm thực vật là toàn bộ
thảm thực vật ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp phủ thực vật trên bề mặt trái đất.
Theo khái niệm này thảm thực vật mới chỉ là một khái niệm chung chưa chỉ rõ đặc
trưng hay phạm vi không gian của một đối tượng cụ thể. Nó chỉ có nội hàm cụ thể
khi có tính ngữ theo như “ Thảm thực vật Cúc Phương ”.

1.1.4. Hệ sinh thái: Đa dạng hệ sinh thái thể hiện bằng sự khác nhau của các kiểu
quần xã sinh vật tạo nên. Các cơ thể sinh vật và các điều kiện sống (đất, nước, khí
hậu, địa hình…) nằm trong mối quan hệ tương hỗ tác động lẫn nhau tạo thành các hệ
sinh thái và các nơi ở [47]
1.1.5. Quần xã sinh vật: Là môt tập hợp các quần thể sinh vật thuộc các loài khác
nhau được hình thành trong một quá trình lịch sử, vùng sống trong một khoảng
không gian xác định gọi là sinh cảnh. Nhờ các mối liên hệ sinh thái tương hỗ mà gắn
bó với nhau như một thể thống nhất [28]

5

1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới
Dop P. và Gaussen H. (1931), với công trình nghiên cứu về thảm thực vật
Đông Dương với lượng mưa hàng năm (dẫn theo Thái Văn Trừng [55]). H.G.
Champion (1936), khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến Điện đã chia 4 kiểu
thảm thực vật lớn theo nhiệt độ là: nhiệt đới, á nhiệt, ôn đới và núi cao [59]. J. Beard
(1938), đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ và loạt quần hệ).
Ông cho rằng, rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần hệ rừng xanh từng mùa,
loạt quần hệ khô thường xanh, loạt quần hệ miền núi, loạt quần hệ ngập từng mùa và
loạt quần hệ ngập quanh năm (dẫn theo Hoàng Thị Thanh Thủy [50]). Maurand
(1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia thảm thực vật Đông
Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và Trung Đông Dương.
Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó [63].

1.2.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam
Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa với khu hệ thực vật
khá đa dạng, đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thảm thực vật ở nước
ta.
Chevalier (1918) là người đầu tiên đưa ra một bảng phân loại thảm thực vật
rừng Bắc Bộ Việt Nam (đây được xem là bảng phân loại thảm thực vật rừng nhiệt
đới Châu Á đầu tiên trên thế giới). Theo kiểu phân loại này rừng ở miền Bắc Việt
Nam được chia thành 10 kiểu [59].
Năm 1953 ở miền Nam Việt Nam xuất hiện bảng phân loại thảm thực vật rừng
miền Nam của Maurand khi ông tổng kết các công trình nghiên cứu các quần thể
rừng thưa của Rollet, Lý Văn Hội, Neang Sam Oil.
Bảng phân loại đầu tiên của ngành Lâm nghiệp Việt Nam về thảm thực vật rừng ở

Việt Nam là bảng phân loại của Cục điều tra và quy hoạch rừng (1960) [8]. Theo bảng
phân loại này rừng trên toàn lãnh thổ Việt Nam được chia làm 4 loại hình lớn:
- Loại I: đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này cần phải
trồng rừng.
- Loại II: gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây hoặc tỉa thưa.
6

- Loại III: gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh trở nên nghèo kiệt
tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ mỏ, củi, nhưng cần phải xúc tiến tái sinh, tu bổ,
cải tạo.
- Loại IV: gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu, chưa bị phá
hoại, cần khai thác hợp lí.

Thomasius (1965) đưa ra bảng phân loại các kiểu lập quần vùng Quảng Ninh
dựa trên các điều kiện địa hình, đất đai, đá mẹ, khí hậu và các loài cây ưu thế.
Phan Nguyên Hồng (1970), phân chia thảm thực vật ven bờ biển miền Bắc
Việt Nam thành rừng ngập mặn, rừng gốc ven biển và thực vật bãi cát trống [26].
Trần Ngũ Phương (1970) đưa ra bảng phân loại rừng ở miền Bắc Việt Nam
và chia thành 3 đai lớn theo độ cao: đai rừng nhiệt đới mưa mùa, đai rừng á nhiệt đới
mưa mùa, đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao [44].
Thái Văn Trừng (1978) đã đưa ra 5 kiểu quần lạc lớn: quần lạc thân gỗ kín
tán, quần lạc thân gỗ thưa, quần lạc thân cỏ kín rậm, quần lạc thân cỏ thưa và những
kiểu hoang mạc [55].
Phan Kế Lộc (1985) dựa trên bảng phân loại của UNESCO (1973) đã xây
dựng thang phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam thành 5 lớp quần hệ, 15 dưới lớp,

32 nhóm quần hệ và 77 quần hệ khác nhau [34].
Nguyễn Hải Tuất (1991) nghiên cứu một số đặc trưng chủ yếu về sinh thái
của các quần thể thực vật tại vùng núi cao Ba Vì đã chia ra 3 kiểu rừng cơ bản: rừng
hỗn giao ẩm á nhiệt đới, rừng kín hỗn giao ẩm á nhiệt đới núi cao, rừng kín hỗn giao
cây hạt kín và hạt trần [54].
Vũ Tự Lập và cộng sự (1995) [33] cho rằng khí hậu ảnh hưởng đến sự hình
thành và phân bố các kiểu thực bì thông qua nhiệt độ và độ ẩm. Dựa vào mối quan
hệ giữa hình thái thực bì và khí hậu chia ra 15 kiểu thực bì khác nhau: kiểu rừng rậm
nhiệt đới gió mùa rụng lá; kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm thường xanh; kiểu rừng rậm
nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá; kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá kim; kiểu sa van nhiệt
đới khô; kiểu truông nhiệt đới khô; kiểu rừng nhiệt đới trên đất đá vôi; kiểu rừng
nhiệt đới trên đất mặn; kiểu rừng nhiệt đới trên đất phèn; kiểu rừng rậm á nhiệt đới

ẩm lá rộng thường xanh; kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm hỗn giao; kiểu rừng thưa á
7

nhiệt đới hơi ẩm; kiểu rừng rêu á nhiệt đới mưa mùa; kiểu rừng lùn đỉnh cao.
Thái Văn Trừng (1998) khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt Nam
đã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc điểm cấu trúc ngoại mạo
làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thảm thực vật dựa trên yếu tố hệ thực vật làm
tiêu chuẩn) để phân chia thảm thực vật Việt Nam thành 5 kiểu thảm với 14 kiểu
quần hệ [56]. Bảng phân loại này của ông từ bậc quần hệ trở lên gần phù hợp với hệ
thống phân loại của UNESCO (1973).
Nguyễn Thế Hưng (2003), khi nghiên cứu thảm cây bụi ở huyện Hoành Bồ,
thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh cũng dựa trên nguyên tắc phân loại theo UNESCO

(1973) đã xây dựng được 4 trạng thái thảm cây bụi khác nhau: thảm cây bụi cao sau
khai thác, thảm cây bụi cao sau nương rẫy, thảm cây bụi thấp sau khai thác và thảm
cây bụi thấp sau nương rẫy. Ngoài ra còn một số kiểu thảm khác như: rừng phục hồi
sau khai thác, rừng thứ sinh, rừng non phục hồi sau nương rẫy [30].
Lê Ngọc Công (2004) cũng dựa theo khung phân loại của UNESCO (1973)
đã phân chia thảm thực vật của tỉnh Thái Nguyên thành 4 lớp quần hệ: rừng rậm,
rừng thưa, thảm cây bụi và trảng cỏ [15].
Ngô Tiến Dũng (2004) [21] dựa theo phương pháp phân loại thảm thực vật
của UNESCO (1973) đã phân chia thảm thực vật vườn Quốc gia Yok Don thành:
kiểu rừng kín thường xanh, kiểu rừng thưa nửa rụng lá và kiểu rừng thưa cây lá rộng
rụng lá gồm 6 quần xã khác nhau.
Ma Thị Ngọc Mai (2007), nghiên cứu quá trình diễn thế đi lên của thảm thực

vật ở trạm Đa dạng sinh học Mê Linh (Vĩnh Phúc) và vùng phụ cận đã kết luận: từ
độ cao 700m trở xuống, thảm thực vật bị suy thoái nghiêm trọng. Rừng nguyên sinh
đã bị phá hủy hoàn toàn, thay thế vào đó là thảm thực vật thứ sinh đang trong quá
trình diễn thế đi lên. Theo khung phân loại UNESCO (1973), thảm thực vật tại trạm
Đa dạng sinh học Mê Linh – Vĩnh Phúc và vùng phụ cận có 4 lớp quần hệ: lớp quần
hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thưa, lớp quần hệ cây bụi và lớp quần hệ cỏ. Thảm
thực vật tại đây đang trong quá trình diễn thế đi lên, quá trình diễn thế qua 4 giai
đoạn: thảm cỏ → thảm cây bụi → rừng thứ sinh → rừng thành thục [41].

8



1.3. Những nghiên cứu về hệ thực vật
1.3.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới
Hiện nay, số lượng những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới là rất lớn,
do chưa có sự nghiên cứu và điều tra đầy đủ nên các tác giả mới đưa ra những con số
dự đoán và số lượng các loài thực vật được dự đoán của các tác giả cũng có những
biến động. Năm 1962, G.N.Slucop đã đưa ra số lượng các loài thực vật hạt kín phân
bố ở các Châu lục như sau [63].
- Châu Á có khoảng 125.000 loài, trong đó: Đông Nam Á (80.000 loài); các
khu vực nhiệt đới Ấn Độ (26.000 loài); Tiểu Á (8.000 loài); Viễn Đông thuộc Liên
bang Nga, Triều Tiên, Đông Bắc Trung Quốc (6.000 loài); Xibêria thuộc Liên bang
Nga, Mông Cổ và Trung Á (5.000 loài).
- Châu Âu có khoảng 15.000 loài, trong đó: Trung và Bắc Âu (5.000 loài);

Nam Âu, vùng Ban căng và Capcasơ (10.000 loài).
- Châu Mỹ có khoảng 97.000 loài, trong đó: Hoa Kỳ và Canada (25.000 loài),
Mêhicô và Trung Mỹ (17.000 loài), Nam Mỹ (56.000 loài), Đất lửa và Nam Cực
(1.000 loài).
- Châu Phi có khoảng 40.500 loài, trong đó: các vùng nhiệt đới ẩm (15.500
loài); Madagasca (7000 loài); Nam Phi (6.500 loài); Bắc Phi, Angieri, Marốc và các
vùng phụ cận khác (4.500 loài); Abitxini (4.000 loài); Tuynidi và Aicập (2.000 loài);
Xomali và Eritrea (1.000 loài).
- Châu Úc có khoảng 21.000 loài, trong đó: Đông Bắc Úc (6.000 loài); Tây
Nam Úc (5.500 loài); Lục địa Úc (5.000 loài); Taxman và Tây Tây Lan (4.500 loài)
(dẫn theo Lê Trọng Cúc [19]). Lecointre và Guyader (2001) [28] đã đưa ra bảng
đánh giá số loài thực vật bậc cao được mô tả trên toàn thế giới như sau:


Bảng 1.1. Bảng đánh giá số loài thực vật được mô tả trên toàn thế giới
Bậc phân loại Tên thường gọi Số loài miêu
t


% số loài đã được mô tả

Fungi Nấm 100.800 5,80
Bryophyta Ngành Rêu 15.000 0.90
Lycopodiophyta Ngành Thông
Đ

ất

1.275 0,07
Polypodiophyta Ngành Dương
X


9.500 0,05
Pinophyta Ngành Thông 601 0,03
Magnoliophyta Ngành Ngọc Lan 233.885 13,40
9


1.3.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam
Ở nước ta, trong thực vật chí đại cương Đông Dương và các tập bổ sung tiếp
theo đã mô tả và ghi nhận có khoảng 240 họ với khoảng 7.000 loài thực vật bậc cao
có mạch [62]. Những năm gần đây, nhiều nhà thực vật dự đoán con số đó có thể lên
tới 10.000 đến 12.000 loài.
Trên cơ sở những thông tin mới nhất và những căn cứ chắc chắn, Nguyễn
Tiến Bân (1997) [4] đã giới thiệu khái quát những đặc điểm cơ bản của 265 họ và
khoảng 2.300 chi thuộc ngành hạt kín ở nước ta.
Phan Kế Lộc (1978) đã kiểm kê và ghi nhận đến nay trong hệ thực vật Việt
Nam đã biết được 9.653 loài thực vật bậc cao có mạch mọc tự nhiên, thuộc 2.011 chi
và 291 họ. Nếu kể cả khoảng 733 loài cây trồng đã được nhập nội thì tổng số loài
thực vật bậc cao có mạch biết

được ở Việt Nam đã lên tới 10.386 loài, thuộc 2.257
chi và 305 họ, chiếm khoảng 4% tổng số loài, 15%
tổng số chi và 57% tổng số họ
của toàn thế giới. Cũng do điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, đặc thù nên hệ
thực vật nước ta có thành phần loài khá phong phú mang cả yếu tố của thực vật nhiệt
đới ẩm Indonesia - Malaisia, yếu tố của thực vật nhiệt đới gió mùa, thực vật ôn đới
nam Trung Hoa và các yếu tố của thực vật Ấn Độ - Trung và Nam Tiểu Á [35].
Nhìn chung, những nghiên cứu về thảm thực vật của các tác giả hầu hết chỉ
tập trung nghiên cứu ở một vùng cụ thể và phần lớn các tác giả đều dựa vào khung
phân loại của UNESCO (1973) trong nghiên cứu của mình. Trong những nghiên cứu
về hệ thực vật trên thế giới và ở Việt Nam: hầu hết các tác giả đều mới chỉ đưa ra
con số dự đoán về hệ thực vật ở một châu lục, một quốc gia, hoặc một khu vực cụ

thể. Những số liệu này chưa được nghiên
cứu và điều tra đầy đủ. Vì vậy, số loài
thực vật hiện có chắc chắn còn dao

động và cao hơn nhiều.

1.4. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống
1.4.1. Những nghiên cứu về thành phần loài
Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nghiên cứu
được
tiến hành từ lâu trên thế giới. Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công tŕnh nghiên cứu của
Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933),

Creepva
(1978)…Nói chung, theo các tác giả thì mỗi vùng sinh thái sẽ hình thành thảm
10

thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác
biểu thị bởi thành
phần loài, dạng sống, cấu trúc và động thái của nó. Vì vậy, việc nghiên cứu thành
phần loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu quan trọng trong phân loại loại hình thảm
thực vật [43].
Ramakrishman (1981 - 1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở vùng
Tây bắc Ấn Độ đã khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài
ưu thế đạt cao

nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời
gian bỏ hoá.
Longchun và cộng sự (1993) nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh thái
nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: Khi nương rẫy
bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài. Bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi
và 167 loài [51].
Ở Việt Nam, Phan Kế Lộc (1978) [35] đã xác định hệ thực vật miền Bắc Việt
Nam có 5.609 loài 1.660 chi và 240 họ.
Nguyễn Đăng Khôi (1971) đã bổ sung thêm 26 loài không được F. Gagnepain ghi nhận
ở miền Bắc Việt Nam trong “Thực vật chí đại cương Đông Dương” [62].
Thái Văn Trừng (1978) [55] thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài thực
vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi, 289 họ.

Phan Kế Lộc (1978) [35] điều tra phát hiện 20 loài cây có tannin thuộc họ
Trinh nữ (Mimosaceae) và giới thiệu 4 loài khác mọc ở Việt Nam
có tannin .
Trong công trình tổng kết các kết quả nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt Nam,
Dương Hữu Thời (1981) đã công bố thành phần loài thuộc 5 vùng Bắc Việt Nam gồm
213 loài [38].
Hoàng Chung (1980) [16] khi nghiên cứu đồng cỏ vùng núi Bắc Việt
Nam
đã công bố thành phần loài thu được gồm 233 loài thuộc 54 họ và 44 bộ.
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1983) khi nghiên cứu hệ thực vật Tây Nguyên
đã thống kê được 3.210 loài chiếm gần 1/2 số loài đã biết của toàn Đông Dương [3].
Phan Nguyên Hồng (1991) [27] lập danh mục cùng với một số chỉ tiêu khác

(dạng sống, môi trường, khu phân bố) của 75 loài thuộc 2 nhóm loài cây ngập mặn
điển hình và cây gia nhập vào rừng ngập mặn.
Lê Mộng Chân (1994) [10] điều tra tổ thành vùng núi cao VQG Ba Vì đã phát
11

hiện được 483 loài thuộc 323 chi, 136 họ thực vật bậc cao có mạch trong đó gặp 7
loài được mô tả đầu tiên.
Trần Đình Đại (2001) [25] căn cứ vào kết quả điều tra thực địa, mẫu vật lưu
giữ tại các phòng tiêu bản đã thống kê danh lục các loài thực vật tại vùng Tây bắc bộ
(Lai Châu, Lào Cai, Sơn La) gồm 226 họ, 1.050 chi và 3.074 loài thuộc 6 ngành thực
vật bậc cao có mạch.
Đỗ Tất Lợi (1995) khi nghiên cứu các loài cây thuốc đã công bố 798 loài thuộc

164 họ có ở hầu hết các tỉnh nước ta [37].
Lê Ngọc Công và Hoàng Chung (1995) [13] nghiên cứu thành phần loài,
dạng sống của sa van bụi và đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được
123
loài thuộc 47 họ khác nhau.

Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995) [29] khi nghiên cứu một số đặc
điểm sinh thái, sinh vật học của sa van Quảng Ninh và các mô hình sử
dụng đã
phát hiện được 60 họ thực vật khác nhau với 131 loài.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [47] đã thống kê thành phần loài của Vườn quốc
gia Tam Đảo có khoảng 2.000 loài thực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc 478

chi, 213 họ thuộc 3 ngành: Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín. Các loài này được xếp
thành 8 nhóm có giá trị khác nhau. Năm 1998, khi nghiên cứu về họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae) ở Việt Nam, ông thu được 156 loài trong tổng số
425 loài của họ
Thầu dầu ở Việt Nam chia làm 7 nhóm theo cách sử dụng.

Lê Ngọc Công 1998 [14], khi nghiên cứu tác dụng cải tạo môi trường của
một số mô hình rừng trồng ở một số tỉnh miền núi đã công bố thành phần loài gồm
211 loài thuộc 64 họ.

Thái Văn Trừng (1998) [56] khi nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam đã có


nhận xét về tổ thành loài thực vật của tầng cây bụi như sau: trong các trạng thái
thảm thực vật khác nhau của rừng nhiệt đới Việt Nam, tổ thành loài của
tầng cây
bụi chủ yếu có sự đóng góp của các chi Psychotria, Prismatomeris, Pavetta (họ Cà
phê - Rubiaceae); chi Tabermontana (họ Trúc đào - Apocynaceae); chi Ardisia,
Maesa (họ Đơn nem - Myrsinaceae)
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) [48] khi tổng kết các công trình nghiên cứu về
12

khu hệ thực vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2.393 loài thực vật bậc thấp và
1.373
loài thực vật bậc cao thuộc 2.524 chi, 378 họ.

Lê Trọng Cúc, Phạm Hồng Ban (2000) nghiên cứu sự biến động thành
phần
loài thực vật sau nương rẫy ở huyện Con Cuông, Nghệ An nhận xét
rằng: do ảnh
hưởng của canh tác nương rẫy nên thành phần loài và số lượng cây gỗ trên một đơn
vị diện tích có xu hướng giảm dần, đơn giản hoá để tái ổn định [18].
Lê Đồng Tấn (2000) khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng tự nhiên sau
nương rẫy ở Sơn La đã kết luận: mật độ cây giảm khi độ dốc tăng, mật độ cây
giảm
từ chân lên đỉnh đồi, mức độ thoái hoá đất ảnh hưởng đến mật độ, số
lượng loài cây
và tổ thành loài cây. Kết quả cho thấy ở tuổi 4 có 41 loài; tuổi 10 có 56 loài; tuổi 14

có 53 loài [46].
Đặng Kim Vui (2002) nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau nương
rẫy làm cơ sở đề xuất giải pháp khoanh nuôi, làm giàu rừng ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên đã kết luận: giai đoạn phục hồi 1 - 2 tuổi,
thành phần loài thực vật là
72 loài thuộc 36 họ, trong đó họ Hoà thảo có số lượng
lớn nhất là 10 loài, tiếp đến
là họ Thầu dầu (6 loài)…; giai đoạn 3 - 5 tuổi có 65 loài thuộc 34 họ; giai đoạn 5 -
10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ; giai đoạn 11- 15 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ [58].
Nguyễn Thế Hưng (2003) đã thống kê trong các trạng thái thảm thực vật
nghiên cứu ở huyện Hoành Bồ, thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh) có 324 loài thuộc 251
chi và 93 họ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch [30].

Nguyễn Ngọc Thường (2003) khi nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh tự

nhiên sau nương rẫy ở Bắc Kạn kết luận: quá trình phục hồi sau nương rẫy
chịu tác
động tổng hợp của các nhóm nhân tố sinh thái như nguồn giống, địa hình, thoái hoá
đất, con người. Mật độ cây giảm dần theo thời gian phục hồi của thảm thực vật cây
gỗ, trên đất tốt nhiều nhất 11 - 25 loài, trên đất xấu 8- 12 loài [53].
Nguyễn Nghĩa Thìn (2004) khi tổng kết các công trình nghiên cứu về khu hệ
thực vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2.393 loài thực vật bậc thấp và 10.373 loài thực
vật bậc cao thuộc 2.524 chi, 378 họ [49].
Lê Ngọc Công (2004) nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã thống kê
các loài thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi,

654 loài
13

chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý như: Lim, Dẻ,
Trai, Nghiến…[15].
Vũ Thị Liên (2005) khi nghiên cứu một số kiểu thảm thực vật ở Sơn La đã
thu được 452 loài thuộc 326 chi, 153 họ [39].
Thái Văn Thụy, Nguyễn Phúc Nguyên (2005) nghiên cứu về thảm thực vật
Vườn quốc gia Ba Vì đã xác định ở đây có 11 kiểu quần xã thực vật khác
nhau.
Trong quần xã cây bụi thứ sinh thường xanh, lá rộng thành phần chủ
yếu là cây gỗ

dạng bụi cao từ 2 - 5m [52].
1.4.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống
Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực vật
thích nghi với điều kiện môi trường của nó, nên đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu từ rất sớm.
I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường xanh;
thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên mặt đất
trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có thời kỳ sinh
trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm G.
N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp nhiều năm và lớp cây
hàng năm [43].
Braun - Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính

liên tục
hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt;
mọc thành dải
nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn [ dẫn theo Giáp Thị Hồng Anh [1].
Raunkiaer (1934) để sắp xếp các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một
trong các
dạng sống đó. Cơ sở phân chia dạng sống của ông là sự khác nhau về khả
năng thích nghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các dấu
hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn một dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở đâu trên
mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm [65].
Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất

2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất
3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
14

4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm
Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác nhau
trên trái đất
(SB): SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo
tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên
những đặc

điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo,
phương thức sống
của thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường tạo nên.
Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của thực vật, đặc điểm qua đông,
sinh sản…
Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất sinh thái
học hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu hiệu hình thái
sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả nhiều lần hay một lần
trong cả đời của cá thể bao gồm: ngành, kiểu, lớp và lớp phụ. Bảng phân loại này
không bao gồm những cây thuỷ sinh. Trong bảng phân loại này ông còn chia ra các
đơn vị nhỏ hơn là nhóm, nhóm phụ, tổ và các dạng đặc thù.
Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên bởi Canon

(1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm phần dưới đất
đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu thị mức độ khắc
nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm của cây. Vì thế việc sử
dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng sống sẽ giúp cho ta đánh giá
đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc trưng của môi trường [17].
Một số công trình nghiên cứu về dạng sống ở Việt Nam như:
Hoàng Chung (1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng cỏ
Bắc Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại kiểu đồng cỏ
sa van, thảo nguyên [16].
Thái Văn Trừng (1978) cũng áp dụng nguyên tắc của Raunkiaer khi phân chia
dạng sống của hệ thực vật ở Việt Nam [55].
Lê Trần Chấn (1990) khi nghiên cứu hệ thực vật Lâm Sơn tỉnh Hoà Bình cũng

phân chia hệ thực vật thành 5 nhóm dạng sống chính theo phương pháp của
15

Raunkiaer. Tuy nhiên tác giả đã dùng thêm ký hiệu để chi tiết hoá một số dạng sống
(a. ký sinh; b. bì sinh; c. dây leo; d. cây chồi trên thân thảo). Tác giả không xếp
phương thức sống ký sinh, bì sinh vào dạng sống cơ bản mà chỉ coi đây là những
dạng phụ [11].
Hoàng Chung (2008) khi nghiên cứu thực vật trong đồng cỏ vùng núi
Bắc
Việt Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu cây bụi, kiểu
cây bụi thân bò, kiểu cây bụi nhỏ, kiểu cây bụi nhỏ bò, kiểu nửa bụi, kiểu thực vật có
khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ rễ cái sống lâu năm [17].

Phan Nguyên Hồng (1991) khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật rừng ngập
mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: cây gỗ (G), cây bụi (B), cây thân
thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây bụi (G/B), ký sinh (K), bì sinh (B).
[27].
Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Bá Thụ, Nguyễn Nghĩa Thìn (1996) đã xây dựng phổ
dạng sống của hệ thực vật Vườn Quốc gia Cúc Phương [32] là:
SB = 57,8Ph + 10,5Ch + 12,4He + 8,3Cr + 11,0Th
Phạm Hồng Ban (2000) [2] nghiên cứu tính đa dạng sinh học của thảm thực
vật tái sinh sau nương rẫy vùng Tây Nam Nghệ An, áp dụng khung phân loại của
Raunkiaer để phân chia dạng sống đã lập phổ dạng sống là:
SB = 67,40Ph + 7,33Ch + 12,62He + 8,53Cr + 4,09Th
Đặng Kim Vui (2002) nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau nương

rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã phân chia dạng sống thực vật dựa vào
hình thái cây: cây gỗ, cây bụi, cây leo và cây cỏ, đồng thời ông đã xác định được có
17 kiểu dạng sống, trong đó có 5 kiểu dạng cây bụi (cây bụi; cây bụi thân bò; cây bụi
nhỏ; cây bụi nhỏ thân bò; cây nửa bụi) [58].
Nguyễn Thế Hưng (2003) khi nghiên cứu dạng sống thực vật trong các
trạng
thái thảm thực vật tại Hoành Bồ (Quảng Ninh) đã kết luận: nhóm cây chồi trên đất
có 196 loài chiếm 60,49% tổng số loài của toàn hệ thực vật;
nhóm cây chồi sát đất
có 26 loài chiếm 8,02%; nhóm cây chồi nửa ẩn có 43 loài chiếm 13,27%; nhóm cây
chồi ẩn có 24 loài chiếm 7,47%; nhóm cây 1 năm có 35 loài chiếm 10,80% [30].
Vũ Thị Liên (2005) [39] phân chia dạng sống thực vật trong thảm thực vật sau

×