Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

TIỂU LUẬN THANH TOÁN QUỐC TẾ (1).doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.38 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại ngày nay, chất lượng cuộc sống của con người đang ngày
một nâng cao. Cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia không chỉ xoay quanh phát
triển công nghiệp, nông nghiệp mà đang từng bước phát triển thêm các ngành dịch
vụ, đặc biệt là các dịch vụ tài chính và liên quan đến đầu tư. Khi mỗi nước đang dần
hội nhập hơn vào kinh tế toàn cầu, ngoại thương phát triển với tốc độ nhanh chóng
thì yêu cầu về các dịch vụ thanh toán quốc tế (TTQT) lại càng đa dạng hơn. Việt
Nam cũng không phải là ngoại lệ trong xu hướng phát triển chung của cả thế giới.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu năm 2007, hoạt động TTQT đã được chú
1
trọng phát triển hơn tại các ngân hàng thương mại. Kinh tế phát triển, đặc biệt là
ngoại thương, đã khiến hoạt động TTQT trở thành dịch vụ chủ đạo tại mỗi ngân
hàng, dịch vụ TTQT có phát triển mới khiến cho các hoạt động kinh tế được thuận
tiện và dễ dàng hơn.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam (Vietcombank) trong những năm qua luôn giữ vị trí là “ Ngân
hàng tốt nhất Việt Nam”. Hoạt động TTQT tại Vietcombank đã mang đến cho ngân
hàng những khoản lợi nhuận khổng lồ mỗi năm, đồng thời cũng góp phần vào sự
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, trong đó là sự phát triển buôn bán với các nước
bên ngoài. Bài tiểu luận với đề tài :
“ Thực trạng hoạt động TTQT tại ngân hàng Vietcombank trong giai đoạn 2008-
2010”
của chúng em sau đây hy vọng mang tới những đánh giá tổng quát nhất về sự phát
triển dịch vụ TTQT tại các ngân hàng thương mại của Việt Nam, mà tiêu biểu là
ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 phần :
Chương 1 : Cơ sở lý luận về TTQT
Chương 2 : Thực trạng hoạt động TTQT tại ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam – Vietcombank
Chương 3 : Các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động TTQT tại ngân


hàng.
2
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TTQT
I/ Những vấn đề cơ bản về TTQT của NHTM
1 .Khái niệm thanh toán quốc tế
Trong xu thế hội nhập hiện nay, bất cứ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát
triển đều phải tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới. Quan hệ quốc tế giữa
các nước bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá, khoa
học kỹ thuật, du lịch...trong đó quan hệ kinh tế (mà chủ yếu là ngoại thương) chiếm
3
vị trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quá trình
tiến hành các hoạt động quốc tế dẫn đến những nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các
chủ thể ở các nước khác nhau, từ đó hình thành và phát triển hoạt động TTQT,
trong đó ngân hàng là cầu nối trung gian giữa các bên.
Vậy, TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ
phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân
nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc
tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan.
Như vậy, TTQT phục vụ cho hai lĩnh vực hoạt động là kinh tế và phi kinh tế.
Tuy nhiên, trong thực tế, giữa hai lĩnh vực hoạt động này thường giao thoa với
nhau, không có một ranh giới rõ rệt. Hơn nữa, do hoạt động TTQT được hình thành
trên cơ sở hoạt động ngoại thương và phục vụ chủ yếu cho hoạt động ngoại thương,
chính vì vậy, trong các qui chế về thanh toán và thực tế tại các NHTM, người ta
thường phân hoạt động TTQT thành hai lĩnh vực rõ ràng là: Thanh toán trong ngoại
thương (thanh toán mậu dịch) và Thanh toán phi ngoại thương (thanh toán phi mậu
dịch).
Về cơ bản, TTQT phát sinh trên cơ sở hoạt động thương mại quốc tế, là khâu
cuối cùng của quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức và cá
nhân thuộc các quốc gia khác nhau.
Trong thương mại quốc tế, không phải lúc nào các nhà xuất nhập khẩu cũng có

thể thanh toán tiền hàng trực tiếp cho nhau, mà phải thông qua NHTM với mạng
lưới chi nhánh và hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp toàn cầu. Thay mặt khách
hàng thực hiện dịch vụ TTQT, các ngân hàng trở thành cầu nối trung gian thanh
toán giữa bên mua và bên bán. Ngày nay, hoạt động thương mại quốc tế luôn cần
đến sự tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật nghiệp vụ và tài chính của ngân hàng. Ngân
hàng cung cấp các phương án lựa chọn phương thức TTQT, tài trợ xuất nhập khẩu,
4
đảm bảo an toàn và quyền lợi của cả hai bên mua bán, thông qua đó thúc đẩy ngoại
thương phát triển và mở rộng các quan hệ với các quốc gia trên thế giới.
2. Đặc điểm của Thanh toán quốc tế
* Thanh toán liên quan tới đồng tiền, địa điểm, phương tiện, phương thức và
thời gian thanh toán
Khi tiến hành hoạt động TTQT, cần phải xác định năm vấn đề quan trọng, đó là:
Đồng tiền, địa điểm, phương tiện, phương thức và thời gian thanh toán. Lựa
chọn đồng tiền nào là một vấn đề quan trọng, vì không phải bất kỳ đồng tiền của
nước nào cũng có khả năng thực hiện TTQT, mà đồng tiền đó phải “mạnh”, được
các nước thừa nhận thực hiện trong hoạt động TTQT, tiếp đến lựa chọn đồng tiền
nào để phù hợp với nội dung cụ thể của hoạt động TTQT, nhằm mang lại hiệu quả
(thanh toán nhanh, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, đáp ứng được lợi ích của các
bên....). Do vây, khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng, hay các dịch vụ, các
bên đàm phán thường thống nhất về loại ngoại tệ được dùng trong giao dịch là
đồng tiền của nước nhập khẩu, nước xuất khẩu hay nước thứ ba.
* Thanh toán quốc tế phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế đối ngoại
TTQT phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế đối ngoại; trong đó phần lớn phục
vụ cho các giao dịch trong lĩnh vực ngoại thương. Thanh toán là khâu quan trọng
của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, cụ thể khi hoạt động thanh toán
diễn ra đồng nghĩa với việc đảm bảo chắc chắn kết thúc một phần hoặc toàn bộ giá
trị của một quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Nếu công tác TTQT được tổ chức
tốt thì giá trị của hàng hoá trao đổi và dịch vụ thực hiện giữa các chủ thể ở các quốc
gia khác nhau mới được thực hiện, góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển.

TTQT trở thành một nhân tố quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế đối
ngoại trong điều kiện quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng.
* Gặp nhiều rủi ro do có sự biến động về tiền tệ
5
Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gặp nhiều rủi ro do sự biến động của
tiền tệ, sự bất ổn chính trị của một quốc gia, do sự khác biệt về luật pháp, cơ chế
chính sách, do vị trí địa lý của các bên tham gia cách nhau làm hạn chế việc tìm
hiểu khả năng thanh toán của con nợ... Do vậy các nghiệp vụ đảm bảo, bảo lãnh của
ngân hàng, hoạt động tín dụng của các tổ chức tiền tệ, tài chính quốc tế ra đời như
là một yếu tố không thể thiếu để hỗ trợ cho hoạt động TTQT. Có thể khẳng định,
TTQT là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động thương mại liên hoàn của
một nền kinh tế mở và gắn kết chặt chẽ với các giao dịch thương mại quốc tế.
TTQT là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua chi trả lẫn nhau
trong nghiệp vụ TTQT, thông qua đó, toàn bộ hoặc một phần giá trị của hàng hoá và
dịch vụ trao đổi được thực hiện. TTQT đã góp phần chủ yếu để tạo nên sự liên tục
của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh quá trình giao thương hàng hoá quốc tế.
3. Vai trò của hoạt động TTQT với các ngân hàng thương mại (NHTM)
Ngày nay, hoạt động TTQT chiếm vị trí quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của ngân hàng, là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của
NHTM.
- TTQT là hoạt động trực tiếp tạo ra một khoản lợi nhuận không nhỏ đóng góp
vào lợi nhuận chung của ngân hàng. Thông qua cung cấp dịch vụ TTQT cho khách
hàng, các NHTM thu được phí dịch vụ chuyển tiền, phí thanh toán L/C, phí bảo
lãnh…. Thực tế cho thấy, đối với các NHTM hiện đại, thu nhập từ phí dịch vụ có xu
hướng ngày một tăng cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Đây cũng chính là mục tiêu mà các NHTM luôn vươn tới.
- TTQT không chỉ là một nghiệp vụ ngân hàng thuần tuý mà còn đóng vai trò là
khâu trung tâm không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh doanh, bổ sung và
hỗ trợ các mặt hoạt động nghiệp vụ khác của ngân hàng nên nó gián tiếp tạo ra lợi
nhuận từ các mặt hoạt động này.Với vai trò là trung gian thanh toán, TTQT góp

phần phát triển và đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tài trợ xuất nhập khẩu (XNK), kinh
doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của
6
khách hàng trong và ngoài nước, từ đó tăng qui mô hoạt động và mở rộng thị phần
của ngân hàng.
- TTQT tạo môi trường ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại trên thế
giới trong hoạt động ngân hàng. Thông qua việc tham gia nối mạng thông tin và ứng
dụng công nghệ cao trong xử lý thông tin giúp cho ngân hàng có thể theo kịp với sự
phát triển của thế giới, không bị lạc hậu và thua kém các ngân hàng nước ngoài.
- Phát triển TTQT tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng quan hệ với các ngân
hàng nước ngoài, nâng cao uy tín trên trường quốc tế cũng như uy tín đối với khách
hàng trong và ngoài nước, từ đó khai thác được các nguồn vốn tài trợ của các tổ
chức tài chính quốc tế cũng như các ngân hàng nước ngoài, đáp ứng nhu cầu về vốn
trong kinh doanh.
4. Các phương tiện TTQT
4.1 - Hối phiếu:
· Khái niệm: theo Pháp lệnh thương phiếu 1999 của Việt Nam thì “Hối phiếu là
chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không
điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng”.
Việc lưu thông hối phiếu được tiến hành dưới các hình thức sau :
- Chấp nhận hối phiếu: hối phiếu sau khi ký phát phải được xuất trình cho người
trả tiền để người này ký chấp nhận trả tiền, đối với những hối phiếu có kỳ hạn.
Thông thường hối phiếu được gửi tới người trả tiền để người này ký chấp nhận bất
cứ lúc nào trước ngày hết hạn xuất trình hối phiếu. Sự chấp nhận được ghi vào mặt
trước của tờ hối phiếu và được thực hiện bằng chữ “chấp nhận”, “xác nhận”, “đồng
ý”, “đồng ý trả tiền” viết kế bên chữ ký của người trả tiền. Ngày tháng ký chấp
nhận là một yêu cầu bắt buộc của công thức ký chấp nhận. Đối với hối phiếu có kỳ
hạn kể từ ngày ký phát hối phiếu thì không cần thiết phải ghi chú ngày tháng.
7

-Ký hậu hối phiếu
Ký hậu là một thủ tục pháp lý dùng để chuyển nhượng hối phiếu. Người hưởng
lợi muốn chuyển nhượng hối phiếu cho người khác thì phải ký vào mặt sau của tờ
hối phiếu rồi chuyển hối phiếu cho người đó. Người ký hâu không cần phải nêu lý
do của sự chuyển nhượng và cũng không cần phải thông báo cho người trả tiền biết
về sự chuyển nhựợng đó. Người ký hậu không những đảm bảo rằng người trả tiền
hối phiếu có mắc nợ số tiền ghi trên hối phiếu mà còn đảm bảo rằng mình sẽ trả tiền
hối phiếu đó cho những người được chuyển nhượng, nếu như người trả tiền từ chối
thanh toán hối phiếu đó.
Các loại ký hậu : Ký hậu để trắng; ký hậu theo lệnh; ký hậu hạn chế và ký hậu
miễn truy đòi
- Bảo lãnh hối phiếu :
Bảo lãnh là sự cam kết của người thư ba trả tiền cho người hưởng lợi khi hối phiếu
đến kỳ hạn trả tiền. Hình thức văn tự thông thường của sự bảo lãnh được ghi bằng
chữ “bảo lãnh” và người bảo lãnh ký tên. Ngoài ra, một số nước còn dùng hình thức
bảo lãnh bằng một văn thư riêng biệt thường gọi là bảo lãnh mật để đảm bảo uy tín
của người trả tiền.
- Từ chối trả tiền – kháng nghị :
Khi đến hạn trả tiền mà người trả tiền từ chối thì người hưởng lợi phải chứng thực
sự từ chối đó bằng một văn bản kháng nghị lập ra trong thời hạn quy định theo luật
và phải báo cho người chuyển nhượng trực tiếp để đòi tiền hoặc có thể đòi tiền bất
cứ người nào trong giây chuyền đã ký hậu chuyển nhượng hối phiếu hoặc đòi người
ký phát hối phiếu.
4.2 Séc
Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân
hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo
8
lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt
hay bằng chuyển khoản.
Một lệnh trả tiền muốn được coi là séc thì trước tiên phải có tiêu đề SEC ghi trên

tờ lệnh đó. Vì séc là lệnh nên khi ngân hàng nhận được séc phải chấp hành lệnh này
vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản phát hành séc không có tiền hoặc tờ séc
không đủ tính chất pháp lý. Số tiền ghi trên séc phải rõ ràng, phải vừa ghi bằng số
và vừa ghi bằng chứ khớp đúng nhau, có ký hiệu tiền tệ. Trên séc phải ghi địa điểm
và ngày tháng lập séc, tên địa chỉ của người yêu cầu trích tài khoản, tài khoản được
trích trả, ngân hàng trả tiền, tên địa chỉ của người hưởng số tiền trên séc, chữ ký của
người phát hành séc. Nếu là tổ chức thì phải có chữ ký của chủ tài khoản, kế toán
trưởng và dấu của tổ chức đó.
Đặc điểm của séc là có tính chất thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc
thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết đối với séc thương mại. Thời hạn
hiệu lực của tờ séc được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn dó tuỳ thuộc vào phạm vi
không gian mà séc lưu hành và luật pháp các nước quy định.
4.3. Kỳ phiếu :
Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do con nợ viết ra để hứa cam kết trả tiền cho
người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán như trên, trong thanh toán quốc
tế, kỳ phiếu ít thông dụng hơn hối phiếu.
Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập kỳ phiếu
phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh của người
này trả cho người khác quy định trong kỳ phiếu đó.
Một số đặ thù của kỳ phiếu :
+ Kỳ hạn kỳ phiếu được quy định trên nó
+ Một kỳ phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát cam kết thanh toán cho một
hay nhiều người hưởng lợi
+ Kỳ phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính. Sự bảo lãnh
9
này đảm bảo khả năng thanh toán của kỳ phiếu
+ Khác với hối phiếu thường gồm hai bản, kỳ phiếu chỉ có một bản chính do con
nợ phát ra để chuyển cho người hưởng lợi kỳ phiếu đó.
4.4.Thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng là một công cụ tín dụng do tổ chức tài chính phát hành và cấp cho

khách hàng (gọi là chủ thẻ), trong đó dành quyền cho khác hàng có thể dùng nó
nhiều lần để rút tiền mặt cho chính mình hoặc ra lệnh rút một số hoặc tất cả số tiền
hiện có trên mặt tài khoản mở ở tổ chức phát hành thẻ để thanh toán tiền hàng
hóa ,dịch vụ cho các đơn vị chấp nhận thẻ (người cung ứng dịch vụ, hàng hóa )
Tổ chức phát hành thẻ thường bao gồm nhiều đơn vị như là các trung gian tài
chính , các trung tâm thanh toán bù trừ, các tập đoàn thương mại du lịch……Tuy
nhiên ngân hàng là tổ chức phát hành thẻ chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân , cho
nên, người ta thường gọi loại thẻ này là thẻ Ngân hàng.
Thẻ ngân hàng là một công cụ tín dụng thay thế cho tiền mặt chấp hành chức
năng phương tiện lưu thông , tạo cho khách hàng sự tiện lợi mà ít có công cụ thanh
toán nào có thể sánh được. Đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, thẻ ngân
hàng có thể dùng để thanh toán ở bất cứ nơi nào mà không cần đem theo tiền mặt
hay séc du lịch, không phụ thuộc vào quy mô số tiền họ cần thanh toán. Hơn nữa,
thẻ ngân hàng còn mang tính an toàn và nhanh chóng nhờ vào hệ thống các máy rút
tiền tự động.Nhờ vào hai tính ưu việt trên cho nên thẻ ngân hàng phát triển rất đa
dạng, nhiều chủng loại khác nhau thích hợp với mọi loại đối tượng trong xã hội
Có nhiều loại thẻ ngân hàng tùy thuộc vào tính chất thanh toán của thẻ, như thẻ
tín dụng, thẻ ghi nợ , thẻ rút tiền mặt, thẻ thanh toán…….
5. Các phương thức TTQT
Trong quan hệ ngoại thương có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như
chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ...Mỗi phương thức thanh toán đều
10
có ưu điểm và nhược điểm, phù hợp với những quan hệ XNK khác nhau. Vì vậy
việc lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp phải được hai bên bàn bạc thống
nhất, ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương.
Đến nay, các phương thức thanh toán cơ bản và phổ biền thường được các NHTM
sử dụng là:
5.1. Phương thức chuyển tiền:
Khi có một khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển
một số tiền nhất định cho một người khác ( người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất

định thì gọi là chuyển tiền của ngân hàng.
Để thực hiện việc chuyển tiền thì ngân hàng chuyển tiền phải thông qua đại lý
của mình ở nước người thụ hưởng.
Phương thức chuyển tiền có thể thực hiện bằng hai cách:
- Chuyển tiền bằng điện
- Chuyển tiền bằng thư
Tiền chuyển đi có thể là tiền của nước người thụ hưởng hoặc là tiền của nước
người trả hoặc là tiền của nước thứ ba. Nếu là tiền của nước người thụ hưởng và
tiền của nước thứ ba thì gọi là thanh toán bằng ngoại tệ. Trong trường hợp thanh
toán bằng ngoại tệ thì người chuyển tiền phải mua ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái của
nước đó.
Phương thức chuyển tiền ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế.
Nó được sử dụng chủ yếu trong thanh toán phi mậu dịch, cũng như các dịch vụ có
liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá như cước vận tải, bảo hiểm, bồi thường…
5.2. Phương thức nhờ thu:
Người xuất khẩu sau khi hoàn thành nhiệm vụ xuất chuyển hàng hoá cho người
nhập khẩu thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập
khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
11
Các thành phần chủ yếu tham gia phương thức thanh toán này như sau:
- Người xuất khẩu
- Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (đó là ngân hàng quốc
gia của người nhập khẩu)
- Người nhập khẩu
Phương thức nhờ thu được phân ra làm hai loại như sau:
- Nhờ thu phiếu trơn: Người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập các chứng
từ hàng hoá gửi trực tiếp cho người nhập khẩu (không qua ngân hàng), đồng thời uỷ
thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Phương thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế vì

nó không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu.
- Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức trong đó người xuất khẩu uỷ thác cho ngân
hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu, không những chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn
căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá, gửi kèm theo với điều kiện là người nhập khẩu
trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn, thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ
hàng hoá để đi nhận hàng.
Theo phương thức này ngân hàng không chỉ là người thu hộ tiền mà còn là người
khống chế bộ chứng từ hàng hoá. Với cách khống chế này quyền lợi của người xuất
khẩu được đảm bảo hơn.
5.3. Phương thức tín dụng chứng từ:
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận mà trong đó một ngân hàng
theo yêu cầu của khách hàng sẽ trả một số tiền nhất định cho một người thứ 3 hoặc
chấp nhận hối phiếu do người thứ 3 ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người thứ
3 này xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư
tín dụng.
Như vậy, để tiến hành thanh toán bằng phương thức này, bắt buộc phải hình thành
một thư tín dụng. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng của phương thức thanh
toán này, vì nếu không có thư tín dụng thì xuất khẩu sẽ không giao hàng và như vậy
12
phương thức tín dụng chứng từ cũng sẽ không hình thành được.
Tín dụng thư là văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở tín dụng thư cam kết trả
tiền cho người xuất khẩu, nếu như họ xuất trình đầy đủ bộ chứng từ thanh toán phù
hợp với nội dung của thư tín dụng đã mở. Thư tín dụng được hình thành trên cơ sở
hợp đồng thương mại, tức là phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu của hợp đồng để
người nhập khẩu làm thủ tục yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng. Nhưng sau khi đã
được mở, thư tín dụng lại hoàn toàn độc lập với hoạt động thương mại đó. Điều đó
có nghĩa là khi thanh toán, ngân hàng chỉ căn cứ vào nội dung thư tín dụng mà thôi.
Các loại thư tín dụng chủ yếu là:
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang: Đây là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở
thì việc bổ sung sửa chữa hoặc huỷ bỏ có thể tiến hành một cách đơn phương.

- Thư tín dụng không thể huỷ ngang: Là loại thư tín dụng sau khi đã được mở thì
việc sữa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ chỉ được ngân hàng tiến hành theo thoã thuận của
tất cả các bên có liên quan. Trong thương mại quốc tế thư tín dụng này được sử
dụng phổ biến nhất.
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận: Là loại thư tín dụng không thể huỷ
bỏ, được một ngân hàng khác đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư
tín dụng.
- Thư tín dụng chuyển nhượng: Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó quy
định quyền của ngân hàng trả tiền được trả hoàn toàn hay trả một phần của thư tín
cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên.
5.4. Phương thức COD & CAD
CAD (Cash against documents ) hay COD ( Cash on delivery) là phương thức
thanh toán trong đó tổ chức nhập khẩu dựa trên cơ sở hợp đồng ngọai thương sẽ yêu
cầu ngân hàng bên xuất khẩu mở một tài khoản tín thác (Trust account) để thanh
toán tiền cho tổ chức xuất khẩu xuất trình đầy đủ chứng từ theo thỏa thuận.
* Ngân hàng kiểm tra chứng từ , đối chiếu với bản ghi nhớ ,nếu phù hợp thì thanh
toán cho nhà xuất khẩu.
13
* Ngân hàng chuyển bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và quyết toán tài khoản tín
thác.
II/ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động TTQT
- Chỉ tiêu doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền đã cho khách hàng vay trong
kỳ, tính cho ngày, tháng, năm, quý. Doanh số cho vay phản ánh kết quả về việc phát
triển, mở rộng hoạt động cho vay và tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng.
- Chỉ tiêu dư nợ cho vay: Phản ánh tổng dư nợ cho vay của ngân hàng tại một
thời điểm nhất định, thường là cuối kỳ kinh doanh. Tổng dư nợ cho vay bao gồm
tổng dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn.
- Tỷ lệ thu nợ (%) = (doanh số thu nợ/doanh số cho vay)*100
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của Ngân hàng. Nó
phản ánh trong một thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay nhất định thì Ngân hàng

sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn. Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
- Vòng quay vốn tín dụng (vòng) = doanh số thu nợ/dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng,thời gian
thu hồi nợ của Ngân hàng là nhanh hay chậm. Vòng quay vốn càng nhanh thì được
coi là tốt và việc đầu tư càng được an toàn
- Tỷ lệ nợ quá hạn=Dư nợ quá hạnx 100/ Tổng dư nợ cho vay
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện gia hạn nợ. Các khoản nợ quá
hạn bao gồm: Nợ cần chú ý, Nợ dưới tiêu chuẩn, Nợ nghi ngờ, Nợ có khả năng mất
vốn. Chỉ tiêu này cho biết việc khách hàng không thực hiện được việc trả nợ đúng
hạn theo cam kết. Tỷ lệ này cao phản ánh tình hình tín dụng của phòng giao dịch có
chất lượng thấp.
14

×